Giải Thích Đại Kinh Viên Tịch Niết Bàn
(Mahāparinibbānasuttavaṇṇanā)Xem Trường Bộ Kinh – Kinh Viên Tịch Niết Bàn
Lời Mở Đầu Bài Kinh
- Evaṃ me sutanti mahāparinibbānasuttaṃ. tatrāyamanupubbapadavaṇṇanā — Gijjhakūṭeti gijjhā tassa kūṭesu vasiṃsu, gijjhasadisaṃ vā tassa kūṭaṃ atthīti gijjhakūṭo, tasmiṃ gijjhakūṭe. Abhiyātukāmoti abhibhavanatthāya yātukāmo. Vajjīti vajjirājāno. Evaṃmahiddhiketi evaṃ mahatiyā rājiddhiyā samannāgate, etena nesaṃ samaggabhāvaṃ kathesi. Evaṃmahānubhāveti evaṃ mahantena ānubhāvena samannāgate, etena nesaṃ hatthisippādīsu katasikkhataṃ kathesi, yaṃ sandhāya vuttaṃ — “sikkhitā vatime licchavikumārakā, susikkhitā vatime licchavikumārakā, yatra hi nāma sukhumena tāḷacchiggalena asanaṃ atipātayissanti poṅkhānupoṅkhaṃ avirādhitan”ti[1]. Ucchecchāmīti ucchindissāmi. Vināsessāmīti nāsessāmi, adassanaṃ pāpessāmi. Anayabyasananti ettha na ayoti anayo, avaḍḍhiyā etaṃ nāmaṃ. Hitañca sukhañca viyassati[2] vikkhipatīti byasanaṃ, ñātipārijuññādīnaṃ etaṃ nāmaṃ. Āpādessāmīti pāpayissāmi.
- Đại Kinh Viên Tịch Niết Bàn bắt đầu như sau ‘Tôi đã nghe như vầy…’ Ở đây, bài Kinh này được giải thích theo tuần tự như sau – ở núi Gijjhakūṭa: ở trên ngọn núi Gijjhakūṭa, bởi có đàn kền kền sống ở trên đỉnh núi, hoặc có đỉnh ngọn núi gần như con kền kền. Đức vua có ý muốn chinh phục các người Vajjī: (đức vua) có ý định hành quân đánh chiếm xứ Vajjī. Vajjī: dân chúng xứ Vajjī. Dẫu cho họ có đại quyền lực như thế: hội đủ bởi đại quyền lực như vậy. Bằng kim khẩu này vua Ajātasattu nói đến bản chất người dân xứ Vajjī sống hòa hợp với nhau. Có đại oai lực như thế: hội đủ bởi đại oai lực như vậy. Vua Ajātasattu nói đến bản chất những người dân xứ Vajjī ấy, đã học tập nghề huấn luyện voi v.v, để đề cập đến điều đó ngài đã nói rằng: “Các vương tử Licchavī này, thật khéo được tập học! Các vương tử Licchavi này, thật khéo được tập học! (họ) có thế bắn mũi xuyên qua lỗ khóa then cửa nhỏ, từ lông đuôi mũi tên này tiếp lông đuôi mũi tên kia, không sai trượt mục tiêu”. Sẽ đánh tan: sẽ đánh tan. Sẽ tiêu diệt: sẽ tiêu diệt, sẽ làm cho đi đến tính chất không hiện hữu. Sẽ lâm vào sự bất hạnh và tổn hại: Ở đây không có sự tăng trưởng, do đó gọi là sự bất hạnh. Sự bất hạnh này là tên gọi của sự không tăng trưởng. Sự không tăng trưởng ấy làm mất đi sự lợi ích và sự an lạc, do đó gọi là sự tổn hại. Sự tổn hại này là tên gọi của sự mất mát có mất mát về thân quyến v.v. Āpādessāmi đồng nghĩa với pāpayissāmi (sẽ lâm vào…)
Iti kira so ṭhānanisajjādīsu imaṃ yuddhakathameva katheti, gamanasajjā hothāti evaṃ balakāyaṃ āṇāpeti. Kasmā? Gaṅgāyaṃ kira ekaṃ paṭṭanagāmaṃ nissāya aḍḍhayojanaṃ ajātasattuno āṇā, aḍḍhayojanaṃ licchavīnaṃ. Ettha pana āṇāpavattiṭṭhānaṃ hotīti attho. Tatrāpi ca pabbatapādato mahagghabhaṇḍaṃ otarati. taṃ sutvā — “ajja yāmi, sve yāmī”ti ajātasattuno saṃvidahantasseva licchavirājāno samaggā sammodamānā puretaraṃ gantvā sabbaṃ[3] gaṇhanti. Ajātasattu pacchā āgantvā taṃ pavattiṃ ñatvā kujjhitvā gacchati. Te punasaṃvaccharepi tatheva karonti. Atha so balavāghātajāto tadā evamakāsi.
Kể rằng vua Ajātasattu chỉ nói đến chuyện chiến trang như thế trong các oai nghi đứng và ngồi v.v, mới ra lệnh cho binh lính: Tất cả các khanh hãy chuẩn bị hành quân. Tại sao? Biết rằng ngôi làng Paṭṭana là một ngôi làng nằm ở dòng sông Gaṅgā. Vua Ajātasattu có quyền kiểm soát nửa do-tuần, các vị (thuộc tộc) Licchavī có quyền kiểm soát nửa do-tuần. Giải thích rằng: ở đây là khu vực thuộc quyền cai trị chung. Một điều nữa, ở nơi đó tài sản có giá trị lớn đều tuông ra từ dưới chân núi. Khi vua Ajātasattu biết được điều này đã trầm tư rằng: “Trẫm đi vào hôm nay, trẫm đi vào ngày mai” (vì thế) ngay lập tức đã chuẩn bị. Các vị vua Licchavī rất đoàn kết đã cùng nhau đi đến trước lấy hết toàn bộ những thứ có giá trị. Vua Ajātasattu đã đi theo sau, sau khi biết chuyện đó đã rất tức giận và bỏ đi. Các vị Licchavī cũng đã làm như thế cả những năm sau đó. Do đó, vua Ajātasattu đã sanh lòng thù hận càng mãnh liệt nên đã hành động như thế vào lúc đó.
Tato cintesi — “gaṇena saddhiṃ yuddhaṃ nāma bhāriyaṃ, ekopi moghappahāro nāma natthi, ekena kho[4] pana paṇḍitena saddhiṃ mantetvā karonto nipparādho hoti, paṇḍito ca satthārā sadiso natthi, satthā ca avidūre dhuravihāre vasati, handāhaṃ pesetvā pucchāmi. Sace me gatena koci attho bhavissati, satthā tuṇhī bhavissati, anatthe pana sati kiṃ rañño tattha gamanenāti vakkhatī”ti. So vassakārabrāhmaṇaṃ pesesi. brāhmaṇo gantvā bhagavato etamatthaṃ ārocesi. tena vuttaṃ — “atha kho rājā … pe … āpādessāmī”ti[5].
Từ đó khởi lên suy nghĩ – “Việc chiến đấu cùng với nhóm các vị (thuộc tộc) Licchavī là (vấn đề) nghiêm trọng, việc đánh nhau vô ích dầu chỉ một lần là không có, nhưng khi tham khảo ý kiến với một bậc sáng trí thời không sai phạm, và bậc sáng trí như bậc Đạo Sư không có, ngay cả khi bậc Đạo Sư cư ngụ ở trú xá không xa, thôi được rồi trẫm sẽ cử người đi đến hỏi. Nếu tự mình đi sẽ có lợi ích gì, bậc Đạo Sư cũng sẽ giữ im lặng, hơn nữa khi không có lợi ích thì bậc Đạo Sư sẽ nói rằng: đức vua đi đến nơi đó có lợi ích gì?” (Vì thế) đức vua mới phái Bà-la-môn Vassakāra đi. Sau khi Bà-la-môn đi cũng hỏi cũng đã nói điều ấy cùng đức Thế Tôn. Vì lý do ấy ngài mới nói rằng: “ Sau đó, đức vua … trẫm sẽ khiến cho các người Vajjī lâm vào sự bất hạnh và tổn hại.”
Giảng Giải Bảy Pháp Bất Thối Của Các Vị Vua Vajjī
- Bhagavantaṃ bījayamānoti thero vattasīse ṭhatvā bhagavantaṃ bījati[6], bhagavato pana sītaṃ vā uṇhaṃ vā natthi. Bhagavā brāhmaṇassa vacanaṃ sutvā tena saddhiṃ amantetvā therena saddhiṃ mantetukāmo kinti te, ānanda, sutantiādimāha. Abhiṇhaṃ sannipātāti divasassa tikkhattuṃ sannipatantāpi antarantarā sannipatantāpi abhiṇhaṃ sannipātāva. Sannipātabahulāti hiyyopi sannipatimhā, purimadivasampi sannipatimhā, puna ajja kimatthaṃ sannipatitā homāti vosānaṃ anāpajjantā sannipātabahulā nāma honti. Yāvakīvañcāti yattakaṃ kālaṃ. Vuddhiyeva, ānanda, vajjīnaṃ pāṭikaṅkhā, no parihānīti — abhiṇhaṃ asannipatantā hi disāvidisāsu āgataṃ sāsanaṃ na suṇanti, tato — “asukagāmasīmā vā nigamasīmā vā ākulā, asukaṭṭhāne corā vā pariyuṭṭhitā”ti na jānanti, corāpi “pamattā rājāno”ti ñatvā[7] gāmanigamādīni paharantā janapadaṃ nāsenti. Evaṃ rājūnaṃ parihāni hoti. Abhiṇhaṃ sannipatantā pana taṃ taṃ pavattiṃ suṇanti, tato balaṃ pesetvā amittamaddanaṃ karonti, corāpi — “appamattā rājāno, na sakkā amhehi vaggabandhehi vicaritun”ti bhijjitvā palāyanti. Evaṃ rājūnaṃ vuddhi hoti. Tena vuttaṃ — “vuddhiyeva, ānanda, vajjīnaṃ pāṭikaṅkhā no parihānī”ti. Tattha pāṭikaṅkhāti icchitabbā, avassaṃ bhavissatīti evaṃ daṭṭhabbāti attho.
- Đang quạt cho đức Thế Tôn: Trưởng lão đã đứng quạt cho đức Thế Tôn theo thường lệ, tuy nhiên đức Thế Tôn không lạnh hoặc nóng. Sau khi đức Thế Tôn nghe lời nói của Bà-la-môn đã không tham vấn với vị ấy (mà) có ý muốn tham vấn với trưởng lão nên mới nói rằng: “Này Ānanda, có phải ngươi đã nghe…” (Các người xứ Vajjī) có các cuộc tụ hội thường kỳ: Tụ hội mỗi ngày 3 lần, tụ hội định kỳ gòi là tụ hội thường kỳ. Có nhiều cuộc tụ hội: Khi không nghĩ ngơi: hôm qua đã tụ hội, ngày trước cũng tụ hội, hôm nay lại tiếp tục tụ hội gọi là có nhiều cuộc tụ hội. Yāvakīvañca: và cho đến chừng nào? Này Ānanda, chắc chắn sự cường thịnh cho các người Vajjī là điều được mong đợi, không phải sự suy thoái: Do không tụ hội thường kỳ, không lắng nghe thông tin đến từ mọi phía cũng không biết được những chuyện lộn xộn đang diễn ra từ ranh giới thôn làng hoặc ranh giới thị trấn kia, hoặc bọn cướp tụ tập ở chỗ kia. Ngay khi những tên cướp biết được các vị tộc Licchavī lơ đễnh mới cướp bóc thôn làng hoặc thị trấn v.v, làm cho quốc độ bị hủy hoại. Như vậy, các vị vua Licchavī bị tổn giảm. Hơn nữa, khi có các cuộc tụ hội thường kỳ, biết được những thông tin ấy, từ đó đưa binh đi chinh phục phe không phải bạn, cả những tên cướp biết được (rằng) “các vị vua Licchavī không lơ đễnh, chúng ta không thể họp thành nhóm để đi (cướp bóc) được” nên đã tan rã. Như vậy các vị vua Licchavī được cường thịnh. Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “này Ānanda, chắc chắn sự cường thịnh cho các người Vajjī là điều được mong đợi, không phải sự suy thoái.”Ở đó, có thể hi vọng: có thể ước muốn, giải thích rằng: có thể thấy như vậy, sự cường thịnh chắc chắn sẽ có.
Samaggātiādīsu sannipātabheriyā niggatāya — “ajja me kiccaṃ atthi, maṅgalaṃ atthī”ti vikkhepaṃ karontā na samaggā sannipatanti nāma. Bherisaddaṃ pana sutvāva bhuñjantāpi alaṅkariyamānāpi vatthāni nivāsentāpi aḍḍhabhuttā vā aḍḍhālaṅkatā vā vatthaṃ nivāsayamānā vā sannipatantā samaggā sannipatanti nāma. Sannipatitā[8] pana cintetvā mantetvā kattabbaṃ katvā ekatova avuṭṭhahantā na samaggā vuṭṭhahanti nāma. Evaṃ vuṭṭhitesu hi ye paṭhamaṃ gacchanti, tesaṃ evaṃ hoti — “amhehi bāhirakathāva sutā, idāni vinicchayakathā bhavissatī”ti. Ekato vuṭṭhahantā pana samaggā vuṭṭhahanti nāma. Apica — “asukaṭṭhānesu gāmasīmā vā nigamasīmā vā ākulā, corā pariyuṭṭhitā”ti sutvā — “ko gantvā imaṃ amittamaddanaṃ karissatī”ti vutte — “ahaṃ paṭhamaṃ, ahaṃ paṭhaman”ti vatvā gacchantāpi samaggā vuṭṭhahanti nāma. Ekassa pana kammante osīdamāne sesā rājāno puttabhātaro pesetvā tassa kammantaṃ upatthambhayamānāpi, āgantukarājānaṃ — “asukassa gehaṃ gacchatu, asukassa gehaṃ gacchatū”ti avatvā sabbe ekato saṅgaṇhantāpi, ekassa maṅgale vā roge vā aññasmiṃ vā pana tādise sukhadukkhe uppanne sabbe tattha sahāyabhāvaṃ gacchantāpi samaggā vajjikaraṇīyāni karonti nāma.
Sự hợp nhất v.v, khi tiếng trống triệu tập vang lên các vị Licchavī đã hành động lảng tránh rằng: “Hôm nay ta có phận sự, ngày hôm này cát tường” gọi là tụ hội không có sự hợp nhất. Còn khi nghe tiếng trống (thì) trong lúc đang ăn, hay đang trang điểm, hay đang mặc y phục, hay đang ăn giữa chừng, hay trang điểm giữa chừng, hoặc đang bận y phục cũng đi vào tụ hội (đây) gọi là tụ hội có sự hợp nhất. Còn khi đã vào tụ hội đã suy nghĩ, đã tham vấn, đã làm những việc nên làm, giải tán không có sự hợp nhất (đây) gọi là giải tán không có sự hợp nhất. Bởi vì, khi giải tán như vậy, những người đi trước có suy nghĩ như vầy – “Chúng ta đã nghe những câu chuyện ngoài lề, bây giờ sẽ chỉ nói đến những câu chuyện hợp tình hợp lý.” Nhưng khi giải tán cùng một lúc thì được gọi là giải tán có sự hợp nhất. Và hơn nữa – sau khi nghe rằng “sự hỗn loạn hoặc những tên cướp tụ tập với nhau từ ranh giới thôn làng hoặc ranh giới thị trấn ở chỗ kia” – khi hỏi han nhau “ai sẽ thực hiện trấn áp phía không phải bạn, ai cũng tranh nhau xung phong (và) nói rằng: “Tôi trước, tôi trước” rồi cùng nhau đi được gọi là giải tán có sự hợp nhất. Nhưng khi công việc của một vua phải trì hoãn thì các vị còn lại (sẽ) cử các con và anh em đến hỗ trợ công việc của vị ấy, cũng không nói với vị vua khách rằng – “Mời ngài hãy đến cung điện của vị vua kia, thực hiện đối đãi tử tế đồng nhất tất cả và khi có sự kiện kiết tường, bệnh tật, sự hạnh phúc, sự khổ đau, hoặc những điều khác khởi lên nơi vị ấy thì (những vị còn lại) đều đến giúp đỡ trong tất cả những vấn đề đó gọi là làm các việc mà dân chúng xứ Vajjī cần làm có sự hợp nhất.
Apaññattantiādīsu pubbe akataṃ suṅkaṃ vā baliṃ vā daṇḍaṃ vā āharāpentā apaññattaṃ paññapenti nāma. Porāṇapaveṇiyā āgatameva pana anāharāpentā paññattaṃ samucchindanti nāma. Coroti gahetvā dassite avicinitvāva chejjabhejjaṃ anusāsentā porāṇaṃ vajjidhammaṃ samādāya na vattanti nāma. Tesaṃ apaññattaṃ paññapentānaṃ abhinavasuṅkādīhi pīḷitā manussā — “atiupaddutamha, ko imesaṃ vijite vasissatī”ti paccantaṃ pavisitvā corā vā corasahāyā vā hutvā janapadaṃ paharanti. Paññattaṃ samucchindantānaṃ paveṇīāgatāni suṅkādīni agaṇhantānaṃ koso parihāyati. Tato hatthi-assabalakāya-orodhādayo yathānibaddhaṃ vaṭṭaṃ[9] alabhamānā thāmena balena parihāyanti. Te neva yuddhakkhamā honti, na pāricariyakkhamā. Porāṇaṃ vajjidhammaṃ samādāya avattantānaṃ vijite manussā — “amhākaṃ puttaṃ pitaraṃ bhātaraṃ acoraṃyeva coroti katvā chindiṃsu bhindiṃsū”ti kujjhitvā paccantaṃ pavisitvā corā vā corasahāyā vā hutvā janapadaṃ paharanti, evaṃ rājūnaṃ parihāni hoti, paññattaṃ paññapentānaṃ pana “paveṇīāgatameva rājāno karontī”ti manussā haṭṭhatuṭṭhā kasivāṇijjādike kammante sampādenti. paññattaṃ asamucchindantānaṃ paveṇīāgatāni suṅkādīni gaṇhantānaṃ koso vaḍḍhati, tato hatthiassabalakāyaorodhādayo yathānibaddhaṃ vaṭṭaṃ labhamānā thāmabalasampannā yuddhakkhamā ceva pāricariyakkhamā ca honti.
Điều chưa được quy định v.v, không áp đặt thuế má, hoặc hiến tế, hoặc hình phạt chưa từng thực hiện trước đó gọi là không quy định thêm điều chưa được quy định. Còn những điều lệ bắt nguồn từ truyền thống cổ xưa gọi là không giải tán điều đã được quy định. Khi người bị họ bắt đem đến trình diện (cho rằng) là tên cướp, không phân xử, ra lệnh trừng phạt nghiêm khắc gọi là không thọ trì và thực hành các luật pháp Vijjī cổ xưa. Khi các vị ấy không quy định điều chưa được quy định, những người bị áp bức bằng các loại thuế mới v.v, biết được rằng: ‘tôi bị áp bức, ai sẽ cư ngụ ở xứ sở của những vị vua này?’ đã đi đến vùng biên địa làm cướp, hoặc đồng minh của bọn cướp để cướp bóc ở nông thôn. Khi các vị vua bãi bỏ điều đã được quy định, không thu thuế v.v, bắt nguồn từ truyền thống, ngân khố cũng cạn kiệt, kể từ đó tượng binh, mã binh và binh lính trong lúc không nhận được đồ tiếp tế thường xuyên như người phụ trách ở hậu cung v.v, cũng sẽ sa sút về tinh thần và thể chất, không những không thể chiến đấu, mà cũng không thể duy trì. Khi không thọ trì và thực hành các luật pháp Vajjī cổ xưa người dân trong kinh thành sẽ tức giận (nói rằng) – “Các vị khiến cho cha con, anh em của chúng tôi, người không phải cướp cho là cướp quyết định trừng phạt mới đưa nhau trốn đến vùng biên địa trở thành cướp, hoặc đồng mình của bọn cướp rồi cướp bóc ở vùng nông thôn, các người Vajjī suy thoái như vậy. Nhưng khi các vị vua Vajjī quy định điều đã được quy định thì mọi người sẽ vui mừng hoan hỷ (nói rằng) – “Các vị vua đã thực hiện những điều bắt nguồn từ truyền thống” mọi người ai cũng làm việc như nghề canh nông, buôn bán v.v, làm sanh khởi kết quả toàn vẹn. Khi không bãi bỏ điều đã được quy định, thu thuế v.v, bắt nguồn từ truyền thống, ngân khố được dồi dào, từ đó, tượng binh, mã binh và binh lính trong lúc nhận được đồ tiếp tế thường xuyên như người phụ trách ở hậu cung v.v, hoàn hảo về tinh thần và thể chất, không những có thể chiến đấu, mà cũng có thể duy trì.
Porāṇaṃ vajjidhammanti ettha pubbe kira vajjirājāno “ayaṃ coro”ti ānetvā dassite “gaṇhatha naṃ coran”ti avatvā vinicchayamahāmattānaṃ denti. Te vinicchinitvā[10] sace acoro hoti, vissajjenti. Sace coro, attanā kiñci avatvā vohārikānaṃ denti. Tepi acoro ce, vissajjenti. Coro ce, suttadharānaṃ[11] denti. Tepi vinicchinitvā acoro ce, vissajjenti. coro ce, aṭṭhakulikānaṃ denti. Tepi tatheva katvā senāpatissa, senāpati uparājassa, uparājā rañño, rājā vinicchinitvā acoro ce, vissajjeti. Sace pana coro hoti, paveṇīpotthakaṃ vācāpeti. Tattha — “yena idaṃ nāma kataṃ, tassa ayaṃ nāma daṇḍo”ti likhitaṃ. Rājā tassa kiriyaṃ tena samānetvā tadanucchavikaṃ daṇḍaṃ karoti. Iti etaṃ porāṇaṃ vajjidhammaṃ samādāya vattantānaṃ manussā na ujjhāyanti, “rājāno porāṇapaveṇiyā kammaṃ karonti, etesaṃ doso natthi, amhākaṃyeva doso”ti appamattā kammante karonti. Evaṃ rājūnaṃ vuddhi hoti. Tena vuttaṃ — “Vuddhiyeva, ānanda, vajjīnaṃ pāṭikaṅkhā, no parihānī”ti.
Nên biết lý giải trong câu ‘các luật pháp Vajjī cổ xưa’ này như sau, được biết rằng: các vua Vajjī trước đây, không nói rằng: “Khi bản thân bị đưa đến trình diện (cho rằng) đây là cướp, các ngài nên bắt tên cướp ấy, rồi giao cho vị quan đại thần bên phía tra hỏi. Sau khi các vị ấy xét hỏi, nếu như không phải cướp thì thả ra, còn nếu là cướp thì không nói bất cứ gì bởi chính mình, (mà) bàn giao lại cho vị quan đại thần bên phía phán quyết. Sau khi các quan đại thần phán quyết, nếu không phải cướp thì thả ra, nếu là cướp thì bàn giao lại cho quan đại thần bên phía gọi là ban hội thẩm. Sau khi ban hội thẩm ấy đã suy cứu, nếu như không phải cướp thì thả ra, nếu là cướp thì bàn giao quan đại thần ở tám gia tộc. Quan đại thần ở tám gia tộc ấy cũng thi hành tương tự y như thế, rồi bàn giao lại cho vị tướng quân. Vị tướng quân cũng bàn giao lại cho vị phó vương, vị phó vương cũng bàn giao lại cho đức vua. Sau khi đức vua suy cứu, nếu như không phải cướp thì thả ra, còn nếu là cướp thì thông báo cho cận thần đọc ra bộ luật truyền thống. Trong bộ luật truyền thống ấy viết rằng: “Người nào vi phạm điều luật tên này, thì người ấy phải nhận lấy hình phạt tên này”. Đức vua đã đem hành vi của người ấy đến đối chiếu với bộ luật truyền thống đó, rồi (ban lệnh) trừng phạt thích đáng cho sai phạm ấy. Như thế khi các vị vua thọ trì và thực hành các luật pháp Vajjī cổ xưa, thì mọi người sẽ không quở trách. Các vị làm việc theo truyền thống cổ xưa, những vị ấy không có lỗi lầm, mà lỗi lầm ấy thuộc về chính bản thân tôi, (vì thế) họ mới không xao lãng làm việc. Như vậy là sự cường thịnh của các vị vua (xứ Vajjī). Vì lý do ấy, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Này Ānanda, chắc chắn sự cường thịnh cho các người Vajjī là điều được mong đợi, không phải sự suy thoái.”
Sakkarontīti yaṃkiñci tesaṃ sakkāraṃ karontā sundarameva karonti. Garuṃ karontīti garubhāvaṃ paccupaṭṭhapetvāva karonti. Mānentīti manena piyāyanti. Pūjentīti nipaccakāraṃ dassenti. Sotabbaṃ maññantīti divasassa dve tayo vāre upaṭṭhānaṃ gantvā tesaṃ kathaṃ sotabbaṃ saddhātabbaṃ maññanti. Tattha ye evaṃ mahallakānaṃ rājūnaṃ sakkārādīni na karonti, ovādatthāya ca nesaṃ upaṭṭhānaṃ na gacchanti, te tehi vissaṭṭhā anovadiyamānā kīḷāpasutā rajjato parihāyanti. Ye pana tathā paṭipajjanti, tesaṃ mahallakarājāno — “idaṃ kātabbaṃ, idaṃ na kātabban”ti porāṇaṃ paveṇiṃ ācikkhanti. Saṅgāmaṃ patvāpi — “evaṃ pavisitabbaṃ, evaṃ nikkhamitabban”ti upāyaṃ dassenti. Te tehi ovadiyamānā yathāovādaṃ paṭipajjantā sakkonti rājappaveṇiṃ sandhāretuṃ. tena vuttaṃ — “vuddhiyeva, ānanda, vajjīnaṃ pāṭikaṅkhā, no parihānī”ti.
Trọng vọng: trong khi thực hiện trọng vọng đối với một trong những vị Vajjī ấy, chỉ thực hiện những điều tốt đẹp. Cung kính: thực hiện việc tán dương bản thể vị đáng được cung kính. Sùng bái: yêu thương bằng tâm. Lễ bái: bày tỏ sự tôn kính. Suy nghĩ đến điều khuyên bảo: hầu cận mỗi ngày 2-3 lần, suy nghĩ lời nói của các vị vua Vajjī ấy đáng để được nghe (và) đáng để tin tưởng. Những người nào không trọng vọng các vị vua trưởng thượng như vậy, và không phục vụ những vị ấy nhằm mục đích lắng nghe giáo huấn, những người ấy bị các vua ấy từ bỏ không giáo huấn, chỉ để ý đến việc vui chơi, (dẫn đến) suy thoái từ bản thể vị vua. Còn những vị vua nào thực hành theo như thế, các vị trưởng thượng sẽ chỉ dạy truyền thống cổ xưa cho những vị ấy rằng: “Điều này nên làm, điều này không nên làm”. Kể cả vào thời kỳ chiến tranh cũng sẽ hướng dẫn đường lối: “Cần phải tiến đi vào như vậy, cần phải thoát ra như vậy”. Những vị ấy tiếp thu lời giáo huấn, thực hành theo lời giáo huấn thì có thể duy trì truyền thống của hoàng tộc. Vì lý do đó, đức Thế Tôn mới thuyết rằng: “Này Ānanda, chắc chắn sự cường thịnh cho các người Vajjī là điều được mong đợi, không phải sự suy thoái.”
Kulitthiyoti kulagharaṇiyo. Kulakumāriyoti anividdhā[12] tāsaṃ dhītaro. Okkassa pasayhāti ettha “okkassā”ti vā “pasayhā”ti vā pasayhākārassevetaṃ nāmaṃ. “ukkassā”tipi paṭhanti. Tattha okkassāti avakassitvā ākaḍḍhitvā. Pasayhāti abhibhavitvā ajjhottharitvāti ayaṃ vacanattho. evañhi karontānaṃ vijite manussā — “amhākaṃ gehe puttamātaropi, kheḷasiṅghāṇikādīni mukhena apanetvā saṃvaḍḍhitadhītaropi ime rājāno balakkārena gahetvā attano ghare vāsentī”ti kupitā paccantaṃ pavisitvā corā vā corasahāyā vā hutvā janapadaṃ paharanti. Evaṃ akarontānaṃ pana vijite manussā appossukkā sakāni kammāni karontā rājakosaṃ vaḍḍhenti. evamettha vuddhihāniyo veditabbā.
Các phụ nữ gia giáo: bao gồm người nữ giúp việc của gia đình. Các thiếu nữ gia giáo: bao gồm em gái của những người nữ giúp việc ấy, người vẫn chưa được tự do. Lôi kéo, cưỡng bức: ở đây từ ‘lôi kéo’ hoặc ‘cưỡng bức’ này đều là tên gọi của biểu hiện cưỡng hiếp. Người mộ đạo tụng là ‘ukkassa’ như thế cũng có. Trong câu đó, okkassa: lôi kéo. Pasayha: cưỡng bức. Bởi khi các vị vua ấy làm như vậy, mọi người ở xứ sở ấy sẽ nổi giận (cho rằng) – “Những vị vua này đã bắt con trai và mẹ trong nhà của tôi, bắt em gái mà tôi đã lấy miệng hút nước dãi nước mũi v.v, nuôi nấng cho đến khi khôn lớn bằng sức mạnh trong nhà của tôi,” nên mới bỏ trốn đến vùng biên địa làm cướp hoặc trở thành đồng mình của bọn cướp gây tổn hại xứ sở (ấy). Nhưng khi không thực hiện như vậy những người dân trong thành cũng ra sức nỗ lực làm việc của mình, khiến cho ngân khố được dồi dào. Nên biết sự cường thịnh và sự suy thoái trong trường hợp này như vậy.
Vajjīnaṃ vajjicetiyānīti vajjirājūnaṃ vajjiraṭṭhe cittīkataṭṭhena cetiyānīti laddhanāmāni yakkhaṭṭhānāni. Abbhantarānīti antonagare ṭhitāni. Bāhirānīti bahinagare ṭhitāni. Dinnapubbanti pubbe dinnaṃ. Katapubbanti pubbe kataṃ. No parihāpessantīti aparihāpetvā yathāpavattameva karissanti dhammikaṃ baliṃ parihāpentānañhi devatā ārakkhaṃ susaṃvihitaṃ na karonti, anuppannaṃ dukkhaṃ janetuṃ asakkontāpi uppannaṃ kāsasīsarogādiṃ vaḍḍhenti, saṅgāme patte sahāyā na honti. Aparihāpentānaṃ pana ārakkhaṃ susaṃvihitaṃ karonti, anuppannaṃ sukhaṃ uppādetuṃ asakkontāpi uppannaṃ kāsasīsarogādiṃ hananti, saṅgāmasīse sahāyā hontīti evamettha vuddhihāniyo veditabbā.
Bảo tháp Vajjī của các vị vua Vajjī: Khu vực Dạ-xoa có được gọi là bảo tháp với ý nghĩa rằng đã được tạo dựng một cách tuyệt mỹ ở trong kinh thành, là kinh thành của các vị vua Vajjī. Nội thành: được xây dựng ở bên trong thành. Ngoại thành: được xây dựng ở bên ngoài thành. Đã được dâng cúng trước đây: đã được dâng cúng trước đây. Đã được làm trước đây: đã từng làm trước đây. Sẽ không bỏ bê: sẽ không bỏ bê (việc tế lễ đúng pháp) được thực hiện như trước đó. Thật vậy, khi các vua Vajjī bỏ bê việc tế lễ đúng pháp, chúng chư Thiên không thực hiện việc hộ trì khéo được sắp xếp, kể cả không thể khiến đau khổ vẫn chưa sanh được sanh khởi, khiến bệnh ho, bệnh đau đầu v.v, đã sanh trở nên trầm trọng, khi xảy ra chiến tranh cũng không giúp đỡ. Hơn nữa, khi các vị vua Vajjī không bỏ bê việc tế lễ, chư Thiên thực hiện việc hộ trì khéo được sắp xếp dù không thể làm cho sự an lạc chưa sanh được sanh khởi, nhưng cũng xử lý bệnh ho, bệnh đau đầu v.v, đã sanh, và trợ giúp vào thời kỳ chiến tranh; Như vậy, ở đây nên biết sự cường thịnh và sự suy thoái như cách đã nói.
Dhammikā rakkhāvaraṇaguttīti ettha rakkhā eva yathā anicchitaṃ na gacchati, evaṃ āvaraṇato āvaraṇaṃ. yathā icchitaṃ na vinassati, evaṃ gopāyanato gutti. Tattha balakāyena parivāretvā rakkhaṇaṃ pabbajitānaṃ dhammikā rakkhāvaraṇagutti nāma na hoti. Yathā pana vihārassa upavane rukkhe na chindanti, vājikā[13] vajjhaṃ[14] na karonti, pokkharaṇīsu macche na gaṇhanti, evaṃ karaṇaṃ dhammikā rakkhāvaraṇagutti nāma. Kinti anāgatā cāti iminā pana nesaṃ evaṃ paccupaṭṭhitacittasantānoti cittappavattiṃ pucchati.
Những sự bảo vệ, che chở, trông nom đúng pháp: ở đây, che chở do che chở theo phương pháp không cho điều không đáng ước muốn đến, trông nom do trông nom theo phương pháp không cho điều đáng ước muốn biến mất, trong những việc thực hiện ấy việc bao vây bảo vệ cùng với đội quân binh (thì) không gọi là sự bảo vệ, che chở, trông nom đúng pháp vì mục đích xuất gia. Tuy nhiên những hành động không chặt cây trong khu rừng gần tịnh xá, không bắt thú rừng bằng bẫy mồi, không đánh bắt cả ở trong hồ, như vậy được gọi là sự bảo vệ, che chở, trông nom đúng pháp. Làm như thế nào các vị A-ra-hán chưa đến…: điều này ngài hỏi đến ý nghĩa trong tâm của các vị vua Vajjī ấy rằng: có tâm cơ tánh hiện bày như vậy.
Tattha ye anāgatānaṃ arahantānaṃ āgamanaṃ na icchanti, te assaddhā honti appasannā. Pabbajite ca sampatte paccuggamanaṃ na karonti, gantvā na passanti, paṭisanthāraṃ na karonti, pañhaṃ na pucchanti, dhammaṃ na suṇanti, dānaṃ na denti, anumodanaṃ na suṇanti, nivāsanaṭṭhānaṃ na saṃvidahanti. Atha nesaṃ avaṇṇo abbhuggacchati — “asuko nāma rājā assaddho appasanno, pabbajite sampatte paccuggamanaṃ na karoti … pe … nivāsanaṭṭhānaṃ na saṃvidahatī”ti. Taṃ sutvā pabbajitā tassa nagaradvārena na gacchanti, gacchantāpi nagaraṃ na pavisanti. Evaṃ anāgatānaṃ arahantānaṃ anāgamanameva hoti. Āgatānampi phāsuvihāre asati yepi ajānitvā āgatā, te — “vasissāmāti tāva cintetvā āgatamhā, imesaṃ pana rājūnaṃ iminā nīhārena ko vasissatī”ti nikkhamitvā gacchanti. Evaṃ anāgatesu anāgacchantesu, āgatesu dukkhaṃ viharantesu so deso pabbajitānaṃ anāvāso hoti. Tato devatārakkhā na hoti, devatārakkhāya asati amanussā okāsaṃ labhanti. Amanussā ussannā anuppannaṃ byādhiṃ uppādenti, sīlavantānaṃ dassanapañhāpucchanādivatthukassa puññassa anāgamo hoti. Vipariyāyena pana yathāvuttakaṇhapakkhaviparītassa sukkapakkhassa sambhavo hotīti evamettha vuddhihāniyo veditabbā.
Nên biết lý giải trong lời ấy như sau: những vị vua Vajjī nào không mong muốn việc đi đến của các bậc Thánh A-ra-hán vẫn chưa đi đến, các vị vua Vajjī ấy gọi là người không có đức tin, không có tịnh tín. Và khi các vị xuất gia đã đi đến cũng không ra tiếp đón, không đến thăm, không thực hiện việc chào hỏi, không hỏi câu hỏi, không lắng nghe Giáo Pháp, không bố thí vật thí, không lắng nghe lời tuỳ hỷ, không sắp xếp chỗ cư ngụ. Khi điều đó xảy ra thì sự khiển trách các vị Vajjī ấy cũng sẽ lan truyền rằng – “Vị vua tên đó không có đức tin, không tịnh tín, khi bậc xuất gia đến cũng không tiếp đón…không sắp xếp chỗ cư ngụ.” Sau khi các vị xuất gia lắng nghe điều đó dù đi ngang cổng thành của vị vua ấy, cũng không bước vào kinh thành. Như vậy, các bậc A-ra-hán chưa đến cũng không đến. Trong khi sống an lạc đối với vị A-ra-hán đã đến là không có, dẫu các vị A-ra-hán không biết đã đến, cũng nghĩ rằng: “Trước tiên, tôi nghĩ sẽ đến an trú, nhưng ai sẽ sống được bởi sự vô tâm của những vị vua này” nên đã rời khỏi. Như vậy, khi các vị A-ra-hán chưa đến cũng không đến, (mà) đã đến thì sống khó khăn, địa phương ấy không phải là nơi dành cho bậc xuất gia. Khi đó, không có sự hộ trì của các Thiên nhân, vậy thì nhóm phi nhân có được cơ hội. Nhóm phi nhân cũng chật ních khiến bệnh tật chưa sanh được sanh khởi. Phước báu có chỗ thiết lập như nhìn thấy, hỏi câu hỏi những vị có giới hạnh v.v, cũng không đến. Tuy nhiên, do bởi gián tiếp thay đổi phước báu thuộc phần trắng đối lập với ác thuộc phần đen theo như đã nói sẽ đồng sanh, như vậy ở đây nên biết sự cường thịnh và sự suy thoái như đã nói.
- Ekamidāhanti idaṃ bhagavā pubbe vajjīnaṃ imassa vajjisattakassa[15] desitabhāvappakāsanatthamāha. Tattha sārandade cetiyeti evaṃnāmake vihāre. Anuppanne kira buddhe tattha sārandadassa yakkhassa nivāsanaṭṭhānaṃ cetiyaṃ ahosi. Athettha bhagavato vihāraṃ kārāpesuṃ, so sārandade cetiye katattā sārandadacetiyantveva saṅkhyaṃ gato.
- Một lần nọ Như Lai: để tuyên bố thực tính của bài Kinh Vajjī này đã được thuyết giảng cùng các vị vua Vajjī trong thời gian trước đó. Trong các câu đó, nơi bảo tháp Sārandada: Ở tịnh xá có tên như vậy. Được biết rằng: Khi đức Phật chưa xuất hiện, nơi cư trú của Dạ-xoa Sārandada ở nơi đó đã trở thành bảo tháp. Khi đó, các vị vua Vajjī cho xây dựng tịnh xá cúng dường đến đức Thế Tôn ở nơi ấy. Tịnh xá đó cũng được xem là bảo tháp Sārandada bởi được dựng ở ngay chính bảo tháp Sārandada.
Akaraṇīyāti akātabbā, aggahetabbāti attho. Yadidanti nipātamattaṃ. Yuddhassāti karaṇatthe sāmivacanaṃ, abhimukhayuddhena gahetuṃ na sakkāti attho. Aññatra upalāpanāyāti ṭhapetvā upalāpanaṃ. Upalāpanā nāma — “Alaṃ vivādena, idāni samaggā homā”ti hatthiassarathahiraññasuvaṇṇādīni pesetvā saṅgahakaraṇaṃ. Evañhi saṅgahaṃ katvā kevalaṃ vissāsena sakkā gaṇhitunti attho. Aññatra mithubhedāyāti ṭhapetvā mithubhedaṃ. Iminā aññamaññabhedaṃ katvāpi sakkā ete gahetunti dasseti. Idaṃ brāhmaṇo bhagavato kathāya nayaṃ labhitvā āha.
Không nên làm: không nên thực hiện, có nghĩa là không nên bám víu. Yadidaṃ: chỉ là phân từ. Yuddhassa: là sở thuộc cách (cách thứ 6) được sử dụng với ý nghĩa sở dụng cách (cách thứ 3), có nghĩa là bất cứ ai cũng không thể đương đầu với trận chiến. Ngoại trừ bằng cách đàm phán: ngoại trừ bằng cách đàm phán. Giải thích rằng – việc giải thích phần cống phẩm có voi, ngựa, xe, tiền và vàng v.v, nhiếp hợp bằng lời nói rằng: “Vừa đủ đối với cuộc xung đột, chúng tôi hãy hợp nhất lại” được gọi là việc đàm phán. Thực hiện việc nhiếp hợp như vậy, cũng có thể bám lấy chỉ bằng sự mật thiết. Ngoại trừ bằng cách ly gián: ngoại trừ làm cho chia tách thành hai phe. Bằng lời này, ngài nói rằng: “Mặc dù đã thực hiện việc chia rẽ lẫn nhau, cũng có thể bắt các vị vua Vajjī ấy được. Sau khi Bà-la-môn đạt được luồng tư tưởng bằng lời nói của đức Thế Tôn nên mới nói lời này.
Kiṃ pana bhagavā brāhmaṇassa imāya kathāya nayalābhaṃ na jānātīti? Āma, jānāti. Jānanto kasmā kathesīti? Anukampāya. Evaṃ kirassa ahosi — “mayā akathitepi katipāhena gantvā sabbe gaṇhissati, kathite pana samagge bhindanto tīhi saṃvaccharehi gaṇhissati, ettakampi jīvitameva varaṃ, ettakañhi jīvantā attano patiṭṭhānabhūtaṃ puññaṃ karissantī”ti.
Hơn nữa, đức Thế Tôn biết được rằng: Bà-la-môn đạt được luồng tư tưởng của lời nói này hay không? – Vâng, biết được. Khi biết được, tại sao thuyết? Bởi vì lòng thương tưởng. Được biết rằng: Đức Thế Tôn ấy suy tư (như sau) – “Thậm chí khi ta không nói 2-3 ngày thì Bà-la-môn sẽ bắt lấy các vị Vajjī, nhưng khi ta nói Bà-la-môn sẽ làm phá vỡ sự đoàn kết cũng phái sử dụng thời gian đến 3 năm, sẽ có sự sống chừng này cũng đã cao quý rồi, bởi vì các vị vua Vajjī sẽ sống được chừng này, cũng sẽ tạo phước làm chỗ nương tựa của chính mình.
Abhinanditvāti cittena abhinanditvā. Anumoditvāti “yāva subhāsitañcidaṃ bhotā gotamenā”ti vācāya anumoditvā. Pakkāmīti rañño santikaṃ gato. Tato naṃ rājā — “kiṃ ācariya, bhagavā avacā”ti pucchi. So — “yathā bho samaṇassa gotamassa vacanaṃ na sakkā vajjī kenaci gahetuṃ, api ca upalāpanāya vā mithubhedena vā sakkā”ti āha. Tato naṃ rājā — “Upalāpanāya amhākaṃ hatthiassādayo nassissanti, bhedeneva te gahessāmi, kiṃ karomā”ti pucchi. Tena hi, mahārāja, tumhe vajjiṃ ārabbha parisati kathaṃ samuṭṭhāpetha. Tato ahaṃ — “Kiṃ te mahārāja tehi, attano santakehi kasivāṇijjādīni katvā jīvantu ete rājāno”ti vatvā pakkamissāmi. Tato tumhe — “Kinnu kho bho esa brāhmaṇo vajjiṃ ārabbha pavattaṃ kathaṃ paṭibāhatī”ti vadeyyātha, divasabhāge cāhaṃ tesaṃ paṇṇākāraṃ pesessāmi, tampi gāhāpetvā tumhepi mama dosaṃ āropetvā bandhanatālanādīni akatvāva kevalaṃ khuramuṇḍaṃ maṃ katvā nagarā nīharāpetha. Athāhaṃ — “mayā te nagare pākāro parikhā ca kāritā, ahaṃ kira dubbalaṭṭhānañca uttānagambhīraṭṭhānañca jānāmi, na cirasseva dāni ujuṃ karissāmī”ti vakkhāmi. Taṃ sutvā tumhe — “gacchatū”ti vadeyyāthāti. Rājā sabbaṃ akāsi.
Sau khi tán thành: đã thoả thích với tâm. Sau khi tuỳ hỷ: đã tuỳ hỷ bằng lời nói “Ngài Gotama, lời này là lời nói đã khéo được nói. Ra đi: đã đi đến chỗ ở của đức vua. Sau đó, đức vua (Ajātasattu) hỏi Bà-la-môn ấy rằng: “Thưa thầy, đức Thế Tôn đã nói điều gì?” Bà-la-môn tâu rằng: Lời nói của ngài Sa-môn Gotama chỉ ra – “Bất cứ ai cũng không thể bắt lấy các vị vua ấy, nhưng có thể nắm lấy bằng việc đàm phàn, hoặc bằng cách ly gián. Đức vua hỏi Bà-la-môn ấy rằng: Voi, ngựa v.v, của trẫm sẽ tiêu tan bằng việc đàm phán, trẫm sẽ bắt lấy các vị vua Vajjī bằng việc cách ly gián, trẫm sẽ làm như vậy.” – Bà-la-môn tâu rằng: “Tâu đại vương, nếu vậy xin ngài thông báo vấn đề liên quan sẽ tấn công xứ sở Vajjī, nêu ra vấn đề này trong cuộc họp.” Từ đó, thần sẽ tâu rằng – “Tâu đại vương, ngài mong muốn tài sản của các vị vua ấy làm gì, các vị ấy phải làm nghề canh nông và nghề buôn bán v.v, để nuôi mạng, rồi giả vờ đi khỏi.” Từ đó, ngài có thể nói rằng: Vì sao ngài Bà-la-môn này phản đối lời nói được vận hành có liên quan đến xứ Vajjī? Và trong khoảng thời gian ban ngày, thần sẽ gửi cống phẩm đến dâng lên các vị vua Vajjī ấy, sau khi ngài tịch thu cống phẩm xin hãy xá tội cho thần, chớ bắt bỏ tù và đánh đập v.v, chỉ cho cạo trọc đầu rồi trục xuất khỏi kinh thành. Từ đó, thần sẽ nói rằng – “Thần sẽ cho xây dựng tường thành và hào rãnh trong kinh thành của ngài, thần biết được ở chỗ nào mạnh và ở chỗ nào yếu, ở chỗ nào nông và ở chỗ nào sâu, bây giờ không bao lâu nữa thần sẽ làm kinh thành ấy ngay thẳng, sau khi ngài nghe điều đó – nên đã ra lệnh “hãy đi đi”. Đức vua cũng đã làm mọi điều.
Licchavī tassa nikkhamanaṃ sutvā — “saṭho brāhmaṇo, mā tassa gaṅgaṃ uttarituṃ adatthā”ti āhaṃsu. Tatra ekaccehi — “amhe ārabbha kathitattā kira so evaṃ kato”ti vutte “tena hi, bhaṇe, etū”ti bhaṇiṃsu. So gantvā licchavī disvā “kiṃ āgatatthā”ti pucchito taṃ pavattiṃ ārocesi, licchavino — “appamattakena nāma evaṃ garuṃ daṇḍaṃ kātuṃ na yuttan”ti vatvā — “kiṃ te tatra ṭhānantaran”ti pucchiṃsu. “vinicchayāmaccohamasmī”ti. Tadeva te ṭhānantaraṃ hotūti. so suṭṭhutaraṃ vinicchayaṃ karoti, rājakumārā tassa santike sippaṃ uggaṇhanti.
Sau khi nghe các vị vua Licchavī nghe việc trục xuất của vị Bà-la-môn ấy đã nói rằng – “Bà-la-môn dối trá, các ngài chớ để vị ấy vượt qua dòng sông Gaṅga. Trong số các vị Licchavī ấy, khi một số vị Licchavī nói rằng: – “Được biết rằng Bà-la-môn ấy bị đối xử như vậy bởi vì anh ta nói có liên quan đến chúng ta” – một số vị nói rằng – “Này các khanh, chớ để cho vị Bà-la-môn ấy bước vào”. Sau khi vị ấy đi đã gặp các vị vua Licchavī bị hỏi rằng: “Ngài đã làm sai điều gì mới thuật lại chuyện đó”, các vị Licchavī đã nói rằng: “Bà-la-môn đã sai phạm lỗi nhỏ nhặt không đáng nhận hình phạt nặng như vậy” – mới hỏi rằng: “Trong kinh thành ấy ngài có tước vị gì?” Bà-la-môn đáp rằng: “Tôi là quan cận thần xử án”. – Các vị Licchavī nói rằng: “Ngài hãy giữ chính tước vị ấy”. – Vị ấy làm nhiệm vụ xử án một cách tốt đẹp. Các vương tử cùng nhau học nghề ở chỗ cư ngụ của vị Bà-la-môn ấy
So patiṭṭhitaguṇo hutvā ekadivasaṃ ekaṃ licchaviṃ gahetvā ekamantaṃ gantvā — dārakā kasantīti pucchi. Āma, kasanti. Dve goṇe yojetvāti? āma, dve goṇe yojetvāti. ettakaṃ vatvā nivatto. Tato taṃ añño — “kiṃ ācariyo āhā”ti pucchitvā tena vuttaṃ asaddahanto “na me esa yathābhūtaṃ kathetī”ti tena saddhiṃ bhijji. Brāhmaṇo aññasmiṃ divase ekaṃ licchaviṃ ekamantaṃ netvā — “kena byañjanena bhuttosī”ti pucchitvā nivatto. Tampi añño pucchitvā asaddahanto tatheva bhijji. brāhmaṇo aparampi divasaṃ ekaṃ licchaviṃ ekamantaṃ netvā — “atiduggatosi kirā”ti pucchi. Ko evamāhāti pucchito asuko nāma licchavīti. Aparampi ekamantaṃ netvā — “tvaṃ kira bhīrukajātiko”ti pucchi. Ko evamāhāti? Asuko nāma licchavīti. Evaṃ aññena akathitameva aññassa kathento tīhi saṃvaccharehi te rājāno aññamaññaṃ bhinditvā yathā dve ekamaggena na gacchanti, tathā katvā sannipātabheriṃ carāpesi. Licchavino — “issarā sannipatantu, sūrā sannipatantū”ti vatvā na sannipatiṃsu.
Vị ấy đã thiết lập đức hạnh, một ngày nọ đã đưa một vị Licchavī đến một nơi hỏi rằng – Những đứa trẻ đang cày bừa? – Thưa vâng, họ đang cày bừa. – Đã buộc hai con bò vào ách? – Thưa vâng, đã buộc hai con bò vào ách. Bà-la-môn đã nói bấy nhiều rồi trở về. Khi đó, một vị Licchavī khác mới hỏi vị Licchavī ấy rằng: “Thầy đã nói gì?” không tin vào lời của vị Licchavī nói, nghĩ rằng: “Vị Licchavī ấy không nói cho ta đúng sự thật” gây chia rẽ với vị ấy. Vào ngày hôm khác Bà-la-môn cũng đưa một vị Licchavī đên một nơi đã hỏi rằng: “Ngài thọ dụng với cái gì” rồi trở về. Một vị khác không tin nên cũng chia rẽ như vậy tương tự. Thậm chí vào những ngày kế tiếp Bà-la-môn cũng đưa một vị Licchavī đến một nơi rồi hỏi rằng: “Họ nói rằng ngài rất nghèo?” Quay lại hỏi rằng: “Ai đã nói như vậy” – (Đáp) vị Licchavī tên đó. Bà-la-môn đã ý nghĩa mà một vị Licchavī đã không nói tiếp cùng một vị Licchavī khác với biểu hiện như vậy 3 năm (Bà-la-môn) đã khiến các Licchavī ấy chia rẽ thành hai phe không đi chung một con đường, nên đã đánh trống để tụ hội. Các vị Licchavī đã nói với nhau rằng: “Thưa các ngài hãy tụ hội, các vị anh hùng hãy tụ hội” rồi cũng không tụ hội.
Brāhmaṇo — “ayaṃ dāni kālo, sīghaṃ āgacchatū”ti rañño sāsanaṃ pesesi. Rājā sutvāva balabheriṃ carāpetvā nikkhami. Vesālikā sutvā — “rañño gaṅgaṃ uttarituṃ na dassāmā”ti bheriṃ carāpesuṃ. Tampi sutvā — “gacchantu sūrarājāno”ti[16]ādīni vatvā na sannipatiṃsu. “Nagarappavesanaṃ na dassāma, dvārāni pidahitvā ṭhassāmā”ti bheriṃ carāpesuṃ. ekopi na sannipati. yathāvivaṭeheva dvārehi pavisitvā sabbe anayabyasanaṃ pāpetvā gato.
Bà-la-môn mới gởi tin dâng lên đức vua: “Bây giờ đã đến thời, xin hãy nhanh chóng đến đây.” Sau khi đức vua nghe cũng cho nổi trống lên truyền binh lính rồi lên đường. Dân chúng thành Vesālī cũng nổi trống thông báo rằng – “Chúng tôi sẽ không cho đức vua vượt qua sông Gaṅga”. Sau khi nghe thông báo ấy đã nói rằng – “Các vị anh hùng hãy đi” v.v, rồi cũng không tụ hội. Dân chúng thành Vesālī đã nổi trống lên rằng: “Chúng tôi sẽ không cho đức vua vào thành, đã đóng cổng thành lại.” Không tụ hội dầu chỉ một người. Đức vua bước qua cánh cửa như đã được mở sẵn; khiến các người Vajjī, tất cả đi đến bất hạnh và suy thoái, rồi đi.
Giảng Giải Pháp Không Suy Thoái Của Vị Tỳ Khưu
- Atha kho bhagavā acirapakkantetiādimhi sannipātetvāti dūravihāresu iddhimante pesetvā santikavihāresu sayaṃ gantvā — “sannipatatha, āyasmanto; bhagavā vo sannipātaṃ icchatī”ti sannipātetvā. Aparihāniyeti aparihānikare, vuddhihetubhūteti attho. Dhamme desessāmīti candasahassaṃ sūriyasahassaṃ uṭṭhapento viya catukuṭṭake gehe anto teladīpasahassaṃ ujjālento viya pākaṭe katvā kathayissāmīti.
- Sau đó, Sau đó, khi Bà-la-môn Vassakāra, quan đại thần xứ Magadha, vừa mới ra đi không lâu, đức Thế Tôn v.v, hãy triệu tập: đại đức Ānanda đã cử vị có thần thông đi đến trú xá ở xa, tự ngài đi đến trú xá ở gần thỉnh mời các vị đến tụ hội trình bày rằng: “Hãy tụ hội, này chư hiền; đức Thế Tôn mong muốn hội họp các ngài”. Không suy thoái: Không tạo ra sự suy thoái, là nguyên nhân của sự cường thịnh. Sẽ thuyết giảng bảy pháp: Ta nói rõ rằng như thể nâng hàng ngàn mặt trăng, hàng ngàn mặt trời lên, như thế hàng ngàn ngọn đèn dầu ở bốn gốc nhà.
Tattha abhiṇhaṃ sannipātāti idaṃ vajjisattake[17] vuttasadisameva. Idhāpi ca abhiṇhaṃ asannipatitā disāsu āgatasāsanaṃ na suṇanti. Tato — “asukavihārasīmā ākulā, uposathapavāraṇā ṭhitā, asukasmiṃ ṭhāne bhikkhū vejjakammadūtakammādīni karonti, viññattibahulā pupphadānādīhi jīvikaṃ[18] kappentī”tiādīni na jānanti, pāpabhikkhūpi “pamatto bhikkhusaṅgho”ti ñatvā rāsibhūtā sāsanaṃ osakkāpenti. abhiṇhaṃ sannipatitā pana taṃ taṃ pavattiṃ suṇanti, tato bhikkhusaṅghaṃ pesetvā sīmaṃ ujuṃ karonti, uposathapavāraṇādayo pavattāpenti, micchājīvānaṃ ussannaṭṭhāne ariyavaṃsake pesetvā ariyavaṃsaṃ kathāpenti, pāpabhikkhūnaṃ vinayadharehi niggahaṃ kārāpenti, pāpabhikkhūpi “appamatto bhikkhusaṅgho, na sakkā amhehi vaggabandhena vicaritun”ti bhijjitvā palāyanti. Evamettha hānivuddhiyo veditabbā.
Ở đó, có các cuộc tụ hội thường kỳ: điều này cũng giống như đã được nói trong sự tụ hội của chính các người Vajjī. Và hơn nữa, do không tụ hội thường kỳ các vị tỳ khưu trong Pháp và Luật này không nghe đến tin tức ở các phương. Từ đó, ranh giới của tịnh xá kia cũng lộn xộn, lễ uposatha và lễ pavāraṇā đã thiết lập, chư tỳ khưu ở chỗ kia đã thực hiện hành động không chân chánh như làm thầy thuốc, làm sứ thần v.v, là người có nhiều sự yêu cầu, không biết phận sự v.v, rằng: “nuôi mạng bằng sự nuôi mạng bất chánh có việc cho bông hoa v.v,” ngay cả các vị ác tỳ khưu biết rằng: “Hội chúng tỳ khưu xao lãng” tập hợp thành nhóm, đã làm cho Giáo Pháp suy thoái, tuy nhiên do có các cuộc tụ hội thường kỳ các vị tỳ khưu được lắng nghe các vấn đề đó, khi đó, đã phái hội chúng tỳ khưu làm ranh giới ngay thẳng, thực hiện lễ uposatha và lễ pavāraṇā v.v, được vận hành, phái tỳ khưu thuộc dòng dõi Thánh nhân đến nơi những vị tỳ khưu tà mạng dày đặc, cho nói đến dòng dõi Thánh nhân, cho nhóm các vị tinh thông Giới Luật thực hiện khiển trách các vị ác tỳ khưu. Mặc dù các vị ác tỳ khưu biết được rằng: “Hội chúng tỳ khưu không xao lãng, chúng tôi không thể họp thành nhóm,” cũng chia rẽ (và) bỏ trốn. Nên biết sự suy thoái và sự cường thịnh trong câu này là như vậy.
Samaggātiādīsu cetiyapaṭijagganatthaṃ vā bodhigehauposathāgāracchādanatthaṃ vā katikavattaṃ vā ṭhapetukāmatāya ovādaṃ vā dātukāmatāya — “saṅgho sannipatatū”ti bheriyā vā ghaṇṭiyā[19] vā ākoṭitāya — “mayhaṃ cīvarakammaṃ atthi, mayhaṃ patto pacitabbo, mayhaṃ navakammaṃ atthī”ti vikkhepaṃ karontā na samaggā sannipatanti nāma. Sabbaṃ pana taṃ kammaṃ ṭhapetvā — “Ahaṃ purimataraṃ, ahaṃ purimataran”ti ekappahāreneva sannipatantā samaggā sannipatanti nāma. Sannipatitā pana cintetvā mantetvā kattabbaṃ katvā ekato avuṭṭhahantā samaggā na vuṭṭhahanti nāma. Evaṃ vuṭṭhitesu hi ye paṭhamaṃ gacchanti, tesaṃ evaṃ hoti — “amhehi bāhirakathāva sutā, idāni vinicchayakathā bhavissatī”ti. Ekappahāreneva vuṭṭhahantā pana samaggā vuṭṭhahanti nāma. Apica “asukaṭṭhāne vihārasīmā ākulā, uposathapavāraṇā ṭhitā, asukaṭṭhāne vejjakammādikārakā pāpabhikkhū ussannā”ti sutvā — “ko gantvā tesaṃ niggahaṃ karissatī”ti vutte — “ahaṃ paṭhamaṃ, ahaṃ paṭhaman”ti vatvā gacchantāpi samaggā vuṭṭhahanti nāma.
Sự hợp nhất v.v, khi nổi trống lên hoặc đánh chuông thông báo rằng: “hội chúng tỳ khưu hội họp” do mong muốn thông báo sự thỏa thuận, do mong muốn ban lời giáo huấn, do thực hành ở bảo điện, thực hành ở khuôn viên cội Bồ-đề, hoặc lợp mái nhà Uposatha, thực hiện việc tránh xa rằng – “Tôi có phận sự với y phục, tôi nung nấu bình bát, tôi có việc xây dựng” gọi là tụ hội không có sự hợp nhất. Còn các vị tỳ khưu kiêng tránh mọi phận sự đó hội hợp đồng loạt thốt lên một tiếng với sự quan tâm rằng “Tôi trước tiên, tôi trước tiên” được gọi là tụ hội có sự hợp nhất. Hơn nữa, sau khi tụ hội đã suy nghĩ trao đổi ý kiến làm phận sự cần làm không giải tán cùng lúc gọi là giải tán không có sự hợp nhất. Thật vậy, trong số các vị tỳ khưu đã giải tán như vậy, các vị tỳ khưu đi trước suy nghĩ như vầy rằng: “Chúng tôi chỉ lắng nghe chuyện ngoài lề, bây giờ sẽ chỉ nói đến những câu chuyện hợp tình hợp lý.” Tuy nhiên khi giải tán cùng lúc cũng gọi là giải tán có sự hợp nhất. Và hơn nữa, các vị tỳ khưu nghe rằng “ranh giới của tịnh xá ở chỗ tên kia lộn xộn, lễ uposatha và lễ pavāraṇā đã được thiết lập, các ác tỳ khưu sống tà mạng như làm thầy thuốc v.v, ở chỗ tên kia có đông đúc” – Khi các vị tỳ khưu ấy nói rằng “ai đi thực hiện việc khiển trách những vị tỳ khưu ấy” đã nói rằng: “Tôi trước, tôi trước” rồi đi, gọi là giải tán có sự hợp nhất.
Āgantukaṃ pana disvā — “imaṃ pariveṇaṃ yāhi, etaṃ pariveṇaṃ yāhi, ayaṃ ko”ti avatvā sabbe[20] vattaṃ karontāpi, jiṇṇapattacīvarakaṃ disvā tassa bhikkhācāravattena pattacīvaraṃ pariyesamānāpi, gilānassa gilānabhesajjaṃ pariyesamānāpi, gilānameva anāthaṃ — “asukapariveṇaṃ yāhi, asukapariveṇaṃ yāhī”ti avatvā attano attano pariveṇe paṭijaggantāpi, eko oliyamānako gantho hoti, paññavantaṃ bhikkhuṃ saṅgaṇhitvā tena taṃ ganthaṃ ukkhipāpentāpi samaggā saṅghaṃ karaṇīyāni karonti nāma.
Hơn nữa, các vị tỳ khưu khi gặp vị tỳ khưu khách đã không nói gì – “Hãy nghỉ ngơi ở gian phòng này, hãy nghỉ ngơi ở gian phòng ấy” tất cả trợ giúp nhau làm phận sự, hay khi nhìn thấy vị tỳ khưu có bình bát và y phục cũ kĩ tìm cầu bình bát và y phục nhờ phận sự khất thực đến dâng cho vị tỳ khưu ấy, tìm cầu thuốc men cho các vị tỳ khưu bệnh, không nói cùng vị tỳ khưu bệnh không có chỗ nương nhờ rằng – “Hãy đến gian phòng kia, hãy đến gian phòng kia”, trông nom (giữ vệ sinh) gian phòng của mỗi cá nhân, còn lại một quyền sách cũng trợ giúp vị tỳ khưu, vị có trí tuệ khiến vị tỳ khưu ấy đưa quyển sách ấy ra gọi là có sự hợp nhất thực hiện phận sự của chúng tỳ khưu có thể làm.
Apaññattantiādīsu navaṃ adhammikaṃ katikavattaṃ vā sikkhāpadaṃ vā bandhantā apaññattaṃ paññapenti nāma, purāṇasanthatavatthusmiṃ sāvatthiyaṃ bhikkhū viya. Uddhammaṃ ubbinayaṃ sāsanaṃ dīpentā paññattaṃ samucchindanti nāma, vassasataparinibbute bhagavati vesālikā vajjiputtakā viya. Khuddānukhuddakā pana āpattiyo sañcicca vītikkamantā yathāpaññattesu sikkhāpadesu samādāya na vattanti nāma, assajipunabbasukā viya. Navaṃ pana katikavattaṃ vā sikkhāpadaṃ vā abandhantā, dhammavinayato sāsanaṃ dīpentā, khuddānukhuddakāni sikkhāpadāni asamūhanantā apaññattaṃ na paññapenti, paññattaṃ na samucchindanti, yathāpaññattesu sikkhāpadesu samādāya vattanti nāma, āyasmā upaseno viya, āyasmā yaso kākaṇḍakaputto viya ca.
Điều chưa được quy định v.v, các vị tỳ khưu sắp đặt hoà ước, hoặc các học giới không đúng pháp mới gọi là không quy định thêm điều đã được quy định, cũng giống như các vị tỳ khưu thành Sāvatthī trong câu chuyện tấm trải cũ. Các vị tỳ khưu giảng dạy ngoài Pháp và ngoài Luật gọi là không bãi bỏ điều đã được quy định, giống như các vị tỳ khưu dòng dõi Vajjī trong thành Vesālī, khi đức Thế Tôn viên tịch Niết Bàn được một trăm năm. Còn các vị tỳ khưu có ý định vi phạm các lỗi nhỏ nhặt và ít quan trọng, gọi là không thọ trì và thực hành các điều học theo như đã được quy định, giống như tỳ khưu Assaji và tỳ khưu Punabbasukā. Còn các vị tỳ khưu không sắp đặt hoà ước, hoặc các điều học mới, giảng dạy từ Pháp và Luật, không bỏ đi các điều học nhỏ nhặt và ít quan trọng, gọi là không quy định thêm điều chưa quy định, không bãi bỏ điều đã được quy định, thọ trì và thực hành các điều học theo như đã được quy định, giống như tôn giả Upasena, và tôn giả Yasa con trai của Kākaṇḍaka,
“suṇātu, me āvuso saṅgho, santamhākaṃ sikkhāpadāni gihigatāni, gihinopi jānanti, ‘idaṃ vo samaṇānaṃ sakyaputtiyānaṃ kappati, idaṃ vo na kappatī’ti. Sace hi mayaṃ khuddānukhuddakāni sikkhāpadāni samūhanissāma, bhavissanti vattāro — ‘dhūmakālikaṃ samaṇena gotamena sāvakānaṃ sikkhāpadaṃ paññattaṃ, yāvimesaṃ satthā aṭṭhāsi, tāvime sikkhāpadesu sikkhiṃsu. yato imesaṃ satthā parinibbuto, na dānime sikkhāpadesu sikkhantī’ti. Yadi saṅghassa pattakallaṃ, saṅgho apaññattaṃ na paññapeyya, paññattaṃ na samucchindeyya, yathāpaññattesu sikkhāpadesu samādāya vatteyyā”ti[21] – imaṃ tantiṃ ṭhapayanto āyasmā mahākassapo viya ca. Vuddhiyevāti sīlādīhi guṇehi vuḍḍhiyeva, no parihāni.
Và giống như ngài Mahā Kassapa trong khi thiết lập truyền thống này rằng – “Này các hiền giả, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Có các điều học của chúng ta có liên quan đến hàng tại gia và hàng tại gia cũng biết rằng: ‘Điều này là được phép đối với các Sa-môn Thích tử, điều này là không được phép.’ Nếu chúng ta bỏ đi các điều học nhỏ nhặt và ít quan trọng, sẽ có những người nói rằng: ‘Các điều học đã được Sa-môn Gotama quy định cho các đệ tử đến lúc người được hỏa táng. Khi nào bậc Đạo Sư của họ còn tồn tại khi ấy họ còn học tập các điều học. Bởi vì bậc Đạo Sư của họ đã Vô Dư Niết Bàn nên giờ đây họ không còn học tập các điều học nữa.’ Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng không nên quy định thêm điều chưa được quy định, không nên bỏ đi điều đã được quy định, nên thọ trì và thực hành các điều học theo như đã được quy định.” Chắc chắn sự cường thịnh: sự cường thịnh bởi đức hạnh có giới v.v, không phải sự suy thoái.
Therāti thirabhāvappattā therakārakehi guṇehi samannāgatā. Bahū rattiyo jānantīti rattaññū. Ciraṃ pabbajitānaṃ etesanti cirapabbajitā. Saṅghassa pituṭṭhāne ṭhitāti saṅghapitaro. Pituṭṭhāne ṭhitattā saṅghaṃ parinenti pubbaṅgamā hutvā tīsu sikkhāsu pavattentīti saṅghapariṇāyakā.
Trưởng lão: vị đã đến bản thể chắc chắn, hội đủ bởi đức hạnh tạo thành sự vững chắc. Thâm niên: bởi vì biết được nhiều đêm. Xuất gia đã lâu: bởi vì xuất gia đã lâu. Những người cha của hội chúng: bởi vì đã được đặt vào địa vị là cha của hội chúng. những vị lãnh đạo của hội chúng: bởi vị lãnh đạo của hội chúng nguyên nhân được đặt vào địa vị là cha, là vị dẫn đầu chuyển vận trong ba điều học.
Ye tesaṃ sakkārādīni na karonti, ovādatthāya dve tayo vāre upaṭṭhānaṃ na gacchanti, tepi tesaṃ ovādaṃ na denti, paveṇīkathaṃ na kathenti, sārabhūtaṃ dhammapariyāyaṃ na sikkhāpenti. Ye tehi vissaṭṭhā sīlādīhi dhammakkhandhehi sattahi ca ariyadhanehīti evamādīhi guṇehi parihāyanti. Ye pana tesaṃ sakkārādīni karonti, upaṭṭhānaṃ gacchanti, tepi tesaṃ ovādaṃ denti. “Evaṃ te abhikkamitabbaṃ, evaṃ te paṭikkamitabbaṃ, evaṃ te ālokitabbaṃ, evaṃ te vilokitabbaṃ, evaṃ te samiñjitabbaṃ, evaṃ te pasāritabbaṃ, evaṃ te saṅghāṭipattacīvaraṃ dhāretabban”ti paveṇīkathaṃ kathenti, sārabhūtaṃ dhammapariyāyaṃ sikkhāpenti, terasahi dhutaṅgehi dasahi kathāvatthūhi anusāsanti. te tesaṃ ovāde ṭhatvā sīlādīhi guṇehi vaḍḍhamānā sāmaññatthaṃ anupāpuṇanti. evamettha hānivuddhiyo veditabbā.
Những vị tỳ khưu nào không thực hiện trọng vọng v.v, đối với những vị trưởng lão ấy, không đến phục vụ mỗi ngày 2-3 lần để tiếp nhận sự giáo huấn, những vị trưởng lão ấy không ban lời giáo huấn, không nói về truyền thống, không cho học tập về Giáo Pháp có cốt lõi đối với những vị tỳ khưu ấy. Các vị ấy bị các trưởng lão từ bỏ trở nên tha hoá từ các đức hạnh có khởi đầu như vậy là từ Pháp uẩn có giới uẩn v.v, và từ bảy loại tài sản của bậc Thánh. Còn những vị tỳ khưu thực hiện trọng vọng v.v, đến phục vụ các vị trưởng lão ấy, những vị trưởng lão ấy ban lời giáo huấn cho các vị tỳ khưu ấy rằng: “Ngươi nên bước tới như vậy, nên bước lui như vậy, nên nhìn tới như vậy, nên nhìn lui như vậy, nên co tay lại như vậy, nên duỗi tay như vậy, nên mang bát và mặc y như vậy,” dạy vấn đề truyền thống, cho học tập Giáo Pháp có cốt lõi, luôn dạy về 13 hạnh đầu đà, 10 đề tài nói chuyện (có lợi ích). Các vị tỳ khưu ấy sống trong lời giáo huấn của các vị trưởng lão ấy tăng trưởng đức hạnh có giới v.v, chứng đắc quả vị của Sa-môn theo tuần tự. Nên biết sư suy thoái và sự cường thịnh trong câu này như vậy.
Punabbhavadānaṃ punabbhavo, punabbhavo sīlamassāti ponobbhavikā, punabbhavadāyikāti[22] attho, tasmā ponobbhavikāya. Na vasaṃ gacchantīti ettha ye catunnaṃ paccayānaṃ kāraṇā upaṭṭhākānaṃ padānupadikā hutvā gāmato gāmaṃ vicaranti, te tassā taṇhāya vasaṃ gacchanti nāma, itare na gacchanti nāma. tattha hānivuddhiyo pākaṭāyeva.
Việc cho tái sanh khác gọi là kiếp sống mới, kiếp sống mới ấy là thường của tham tái, nghĩa là tham ái liên quan đến tái sanh, vì nguyên nhân đó tham ái ấy gọi là tác thành một đời sống mới khác. Không ở dưới tác động: những vị tỳ khưu nào đã thọ nhận vật thực của người hộ độ rồi từ một làng này đi đến làng kia vì nguyên nhân tứ vật dụng thì những vị ấy gọi là ở dưới tác động của tham ái. Còn những vị tỳ khưu không thực hành như thế thì gọi là không ở dưới tác động của tham ái. Sự suy thoái và sự cường thịnh trong câu đó đã hiển lộ rõ ràng.
Āraññakesūti pañcadhanusatikapacchimesu. Sāpekkhāti sataṇhā sālayā. Gāmantasenāsanesu hi jhānaṃ appetvāpi tato vuṭṭhitamattova itthipurisadārikādisaddaṃ suṇāti, yenassa adhigatavisesopi hāyatiyeva. araññe pana niddāyitvā paṭibuddhamatto sīhabyagghamorādīnaṃ saddaṃ suṇāti, yena āraññakaṃ pītiṃ labhitvā tameva sammasanto aggaphale patiṭṭhāti. iti bhagavā gāmantasenāsane jhānaṃ appetvā nisinnabhikkhuno araññe niddāyantameva pasaṃsati. Tasmā tameva atthavasaṃ paṭicca — “āraññakesu senāsanesu sāpekkhā bhavissantī”ti āha.
Ở trong rừng: ở trong rừng khoảng cách xa nhất là năm trăm mũi tên. Có sự mong muốn: có tham ái, có sự thèm muốn. Vị tỳ khưu dù vẫn chưa chứng đắc thiền ở chỗ trú ngụ gần làng, vừa xuất khỏi thiền ấy đã nghe âm thanh của nữ nhân, nam nhân và bé gái v.v, là nhân (dẫn đến) suy thoái đức hạnh đặc biệt mà vị tỳ khưu đã chứng đắc. Tuy nhiên ngươi ngủ ở trong rừng vừa mới tỉnh giấc đã nghe tiếng sư tử, cọp, và chim công v.v, như ngươi đã có được phỉ lạc trong rừng rồi quán sát chính phỉ lạc ấy vững trú trong quả tối thượng. Như thế đức Thế Tôn chỉ tán thán vị tỳ khưu ngủ trong rừng hơn vị tỳ khưu không chứng đắc thiền trong chỗ trú ngụ gần làng. Vì thế, đức Thế Tôn dựa vào chính tác động lợi ích ấy nên đã nói rằng: “có sự mong muốn các chỗ trú ngụ ở trong rừng.”
Paccattaññeva satiṃ upaṭṭhapessantīti attanāva attano abbhantare satiṃ upaṭṭhapessanti. Pesalāti piyasīlā. Idhāpi sabrahmacārīnaṃ āgamanaṃ anicchantā nevāsikā assaddhā honti appasannā. Sampattabhikkhūnaṃ paccuggamanapattacīvarappaṭiggahaṇāasanapaññāpanatālavaṇṭaggahaṇādīni na karonti, atha nesaṃ avaṇṇo uggacchati — “asukavihāravāsino bhikkhū assaddhā appasannā vihāraṃ paviṭṭhānaṃ vattapaṭivattaṃ na karontī”ti. Taṃ sutvā pabbajitā vihāradvārena gacchantāpi vihāraṃ na pavisanti. Evaṃ anāgatānaṃ anāgamanameva hoti. Āgatānaṃ pana phāsuvihāre asati yepi ajānitvā āgatā, te — “vasissāmāti tāva cintetvā āgatāmha, imesaṃ pana nevāsikānaṃ iminā nīhārena ko vasissatī”ti nikkhamitvā gacchanti. Evaṃ so vihāro aññesaṃ bhikkhūnaṃ anāvāsova hoti. Tato nevāsikā sīlavantānaṃ dassanaṃ alabhantā kaṅkhāvinodanaṃ vā ācārasikkhāpakaṃ vā madhuradhammassavanaṃ vā na labhanti, tesaṃ neva aggahitadhammaggahaṇaṃ, na gahitasajjhāyakaraṇaṃ hoti. Iti nesaṃ hāniyeva hoti, na vuddhi.
Còn tự mình thiết lập niệm cho chính bản thân: Còn tự mình thiết lập niệm cho chính bản thân. Pessā: người có giới dễ mến. Những vị tỳ khưu thường trú không mong muốn bạn đồng Phạm hạnh ở đây, là vị không có đức tin, không tịnh tịn, không thực hiện hành động thích hợp, có đi tiếp đón, nhận bình bát và y, trải tọa cụ, quạt bằng quạt lá cọ v.v, đối với các vị tỳ khưu, vị đã đi đến. Khi đó, tiếng chỉ trích những vị tỳ khưu ấy cũng lan truyền rằng – “Nhưng vị tỳ khưu ấy sống ở tịnh xá kia không có đức tin, không tịnh tín, không thực hành phận sự và công việc đối với những vị tỳ khưu vào tịnh xá. Sau khi lắng nghe vấn đề đó các vị xuất gia đã đi qua cổng tịnh xá, không đồng ý vào tịnh xá. Như vậy, các vị tỳ khưu chưa đến vẫn không đến. Còn đối với các vị tỳ khưu đã đến không có cuộc sống thoải mái, còn những vị tỳ khưu khi không biết đã đến – “cũng đã suy nghĩ trước ‘sẽ trú lại’ nhưng cũng phải rời đi bởi thấy rằng: ‘chúng tôi đã đến’ nhưng do sự không đoái hoài của những vị tỳ khưu thường trú này thì ai sẽ sống được?” Như vậy, tịnh xá ấy không có vị tỳ khưu nào khác đến cư trú. Khi ấy các vị tỳ khưu thường trú không gặp những vị tỳ khưu có giới, cũng không được vị tỳ khưu giúp xua tan điều nghi hoặc, người cho học tập Giáo Pháp, hoặc lắng nghe Pháp du dương, những vị tỳ khưu thường trú ấy cũng không tiếp thu Giáo Pháp vẫn chưa được tiếp thu, không trì tụng điều đã tiếp thu. Như thế các tỳ khưu thường trú ấy chắc chắn chỉ có sự suy thoái, không có sự cường thịnh.
Ye pana sabrahmacārīnaṃ āgamanaṃ icchanti, te saddhā honti pasannā, āgatānaṃ sabrahmacārīnaṃ paccuggamanādīni katvā senāsanaṃ paññapetvā denti, te gahetvā bhikkhācāraṃ pavisanti, kaṅkhaṃ vinodenti, madhuradhammassavanaṃ labhanti. Atha nesaṃ kittisaddo uggacchati – ‘‘asukavihārabhikkhū evaṃ saddhā pasannā vattasampannā saṅgāhakā’’ti. Taṃ sutvā bhikkhū dūratopi enti, tesaṃ nevāsikā vattaṃ karonti, samīpaṃ āgantvā vuḍḍhataraṃ āgantukaṃ vanditvā nisīdanti, navakatarassa santike āsanaṃ gahetvā nisīdanti. Nisīditvā – ‘‘imasmiṃ vihāre vasissatha gamissathā’’ti pucchanti. ‘Gamissāmī’ti vutte – ‘‘Sappāyaṃ senāsanaṃ, sulabhā bhikkhā’’tiādīni vatvā gantuṃ na denti. Vinayadharo ce hoti, tassa santike vinayaṃ sajjhāyanti. Suttantādidharo ce, tassa santike taṃ taṃ dhammaṃ sajjhāyanti. Āgantukānaṃ therānaṃ ovāde ṭhatvā saha paṭisambhidāhi arahattaṃ pāpuṇanti. Āgantukā ‘‘ekaṃ dve divasāni vasissāmāti āgatāmha, imesaṃ pana sukhasaṃvāsatāya dasadvādasavassāni vasissāmā’’ti vattāro honti. Evamettha hānivuddhiyo veditabbā.
Hơn nữa, vị nào mong muốn cho bạn đồng Phạm hạnh đến, vị ấy có đức tin, có sự tịnh tín, thực hiện tiếp đón v.v, đối với bạn đồng Phạm hạnh đã đến, sắp xếp chỗ ở cho, đưa đi khất thực, xua tan điều nghi hoặc, lắng nghe Giáo Pháp du dương. Khi ấy, tiếng đồn (tốt đẹp) của những vị tỳ khưu ấy đã được lan rộng ra – “Những vị tỳ khưu ở tịnh xá kia có đức tin, có sự tịnh tín, có đầy đủ các pháp thực hành, lòng thương tưởng như vậy”. Sau khi nghe vấn đề ấy dẫu xa cũng đưa nhau đi, các vị tỳ khưu thường trú thực hiện phận sự, đối với các vị tỳ khưu khách ấy, sau khi đến gần đã đảnh lễ vị tỳ khưu khách (lớn hạ hơn) rồi ngồi xuống, cầm lấy tọa cụ ngồi gần vị tỳ khưu khách nhỏ hạ hơn. Sau khi ngồi xuống đã hỏi – “Các ngài sẽ cư ngụ trong tịnh xá này hay sẽ đi?” Khi vị tỳ khưu khách đáp “sẽ đi” – Đã nói rằng “chỗ ở thích hợp, vị tỳ khưu dễ dàng nhận được” không chấp thuận cho đi. Nếu (vị tỳ khưu khách) là bậc thông thuộc Giới Luật ở gần trú xứ của vị ấy. Nếu vị tỳ khưu khách thông thuộc Kinh v.v, đọc thuộc Pháp ấy trong trú xứ của vị ấy. Đã vững trú trong lời giáo huấn của vị tỳ khưu khách là trưởng lão, đạt được quả vị A-ra-hán cùng với tuệ phân tích. Các vị tỳ khưu khách nói rằng: “chúng tôi đã đến (và) sẽ sống chừng 1 ngày, 2 ngày; chúng tôi sẽ sống 10-12 ngày do những vị tỳ khưu này cộng trú một cách thoải mái”. Như vậy, ở đây nên biết sự cường thịnh và sự suy thoái.
- Dutiyasattake kammaṃ ārāmo etesanti kammārāmāti. Kamme ratāti kammaratā. Kammārāmatamanuyuttāti yuttā payuttā anuyuttā. Tattha kammanti itikātabbakammaṃ vuccati. seyyathidaṃ — cīvaravicāraṇaṃ, cīvarakaraṇaṃ, upatthambhanaṃ, sūcigharaṃ, pattatthavikaṃ, asaṃbaddhakaṃ, kāyabandhanaṃ, dhamakaraṇaṃ, ādhārakaṃ, pādakathalikaṃ, sammajjanīādīnaṃ karaṇanti. Ekacco hi etāni karonto sakaladivasaṃ etāneva karoti. Taṃ sandhāyesa paṭikkhepo. Yo pana etesaṃ karaṇavelāyameva etāni karoti, uddesavelāyaṃ uddesaṃ gaṇhāti, sajjhāyavelāyaṃ sajjhāyati, cetiyaṅgaṇavattavelāyaṃ cetiyaṅgaṇavattaṃ karoti, manasikāravelāyaṃ manasikāraṃ karoti, na so kammārāmo nāma.
- Nên biết lý giải Dutiyasattaka (bảy pháp bất thoái thứ hai) như sau, ưa thích trong công việc bởi có sự ưa thích trong công việc. Vui thích trong công việc bởi vui thích trong công việc. Gắn bó với niềm vui trong công việc: bị gắn bó, bị gắn vào, bị gắn chặt. Ở đó, công việc có thể thực hiện gọi là hành động, là điều gì? Tức là – đo vẽ y phục, may y phục, trợ giúp làm các vật dụng có ống đựng kim, quai đeo bình bát, túi đựng bình bát, dây thắt lưng, đế để bình bát, đôi hài bằng gỗ, và chổi v.v, Thật vậy, một số vị tỳ khưu khi làm những công việc này, đều cùng nhau thực hiện cả ngày. Ngài muốn đề cập đến điều đó mới ngăn cấm. Còn vị nào làm những việc làm đó vào thời gian chỉ làm những phận sự ấy, vào thời gian giảng giải cũng gọi là giảng giải, vào thời gian tụng đọc cũng tụng đọc, vào thời gian quét dọn bảo tháp cũng làm bổn phận (quét dọn) bảo tháp, vào thời gian tác ý đúng đường đối cũng thực hiện tác ý (đúng đường lối), vị ấy gọi là không có sự vui thích trong công việc.
Na bhassārāmāti ettha yo itthivaṇṇapurisavaṇṇādivasena ālāpasallāpaṃ karontoyeva divasañca rattiñca vītināmeti, evarūpe bhasse pariyantakārī na hoti, ayaṃ bhassārāmo nāma. Yo pana rattindivaṃ dhammaṃ katheti, pañhaṃ vissajjeti, ayaṃ appabhassova bhasse pariyantakārīyeva. Kasmā? “sannipatitānaṃ vo, bhikkhave, dvayaṃ karaṇīyaṃ — dhammī vā kathā, ariyo vā tuṇhībhāvo”ti[23] vuttattā.
Không có sự vui thích trong việc nói chuyện phiếm: ở đây vị nào khi thực hiện việc đàm luận với câu chuyện về phụ nữ, đàn ông v.v, hết thời gian ban ngày và ban đêm, nói chuyện như thế không kết thúc, vị này gọi là có sự vui thích trong việc nói chuyện phiếm. Vị nào khi thực hiện việc đàm luận. Còn vị nào nói Pháp cả ngày lẫn đêm, giải đáp vấn đề, đây là không có sự vui thích trong việc nói vô ích, vị này gọi là nói ích nói kết thúc cùng lúc. Tại sao? Bởi vì đức Thế Tôn thuyết rằng: “Này các tỳ khưu, khi các người hội họp với nhau, có hai việc cần phải làm: luận bàn đạo pháp hay giữ sự im lặng của bậc Thánh.”
Na niddārāmāti ettha yo gacchantopi nisinnopi nipannopi thinamiddhābhibhūto niddāyatiyeva, ayaṃ niddārāmo nāma. Yassa pana karajakāyagelaññena cittaṃ bhavaṅge otarati, nāyaṃ niddārāmo. tenevāha — “abhijānāmahaṃ aggivessana, gimhānaṃ pacchime māse pacchābhattaṃ piṇḍapātappaṭikkanto catugguṇaṃ saṅghāṭiṃ paññapetvā dakkhiṇena passena sato sampajāno niddaṃ okkamitā”ti[24].
Không có sự vui thích trong việc ngủ nghê: ở đây, vị nào dầu đi, ngồi, nằm bị hôn trầm thuỵ miên chi phối đều rơi vào giấc ngủ, đầy gọi là vui thích việc ngủ nghê. Còn vị nào chìm vào dòng chảy tâm hữu phần do sự đau ốm của thân thể. Vì lý do đó đức Thế Tôn đã thuyết rằng – “Này Aggivessana, ta có cho phép, vào cuối tháng hạ, sau khi khất thực về, sau khi xếp Thượng y thành bốn, có niệm, có sự nhận biết rõ, ta nằm xuống ngủ, nằm phía tay mặt.”
Na saṅgaṇikārāmāti ettha yo ekassa dutiyo dvinnaṃ tatiyo tiṇṇaṃ catutthoti evaṃ saṃsaṭṭhova viharati, ekako assādaṃ na labhati, ayaṃ saṅgaṇikārāmo. Yo pana catūsu iriyāpathesu ekako assādaṃ labhati, nāyaṃ saṅgaṇikārāmoti veditabbo.
Không có sự vui thích trong việc tụ tập: Ở đây, vị nào có 1 người bạn, 2 người bạn, 3 người bạn, 4 người bạn giao du như vậy, không có được sự vui thích một mình, vị này gọi là có sự vui thích trong việc tụ tập. Còn vị nào một mình đạt được sự vui thích trong cả bốn oai nghi, vị này nên biết rằng: không có sự vui thích trong sự tụ tập.
Na pāpicchāti ettha asantasambhāvanāya icchāya samannāgatā dussīlā pāpicchā nāma.
Ở đây, các vị tỳ khưu gắn bó với mong muốn bằng sự tán thán đức hạnh không tồn tại, là vị ác giới ước muốn tội lỗi trong câu “không có các ước muốn xấu xa”.
Na pāpamittādīsu pāpā mittā etesanti pāpamittā. Catūsu iriyāpathesu saha ayanato pāpā sahāyā etesanti pāpasahāyā. tanninnatappoṇatappabbhāratāya pāpesu sampavaṅkāti pāpasampavaṅkā.
Không có bạn bè xấu xa v.v, ‘bạn bè xấu xa’ bởi có bạn bè xấu xa. Gọi là có các đồng đạo xấu xa: do có đồng đạo xấu, liên quan với bốn oai nghi. Gọi là có các thân hữu xấu xa: Bởi là thân hữu trong nhóm tỳ khưu xấu, xuôi theo vị tỳ khưu xấu xa ấy.
Oramattakenāti avaramattakena appamattakena. Antarāti arahattaṃ apatvāva etthantare. Vosānanti pariniṭṭhitabhāvaṃ — “alamettāvatā”ti osakkanaṃ ṭhitakiccataṃ. Idaṃ vuttaṃ hoti — “yāva sīlapārisuddhimattena vā vipassanāmattena vā jhānamattena vā sotāpannabhāvamattena vā sakadāgāmibhāvamattena vā anāgāmibhāvamattena vā vosānaṃ na āpajjissanti, tāva vuddhiyeva bhikkhūnaṃ pāṭikaṅkhā, no parihānī”ti.
Vị thế thấp thỏi: có ước lượng thấp thỏi, có ước lượng nhỏ nhặt. Ở khoảng giữa: ở khoảng giữa vẫn chưa chứng đắc phẩm vị A-ra-hán ấy. Sự dừng lại: bãi bỏ sự tinh tấn, nản lòng “vừa đủ để từ bỏ chỉ chừng ấy” bao gồm ngừng lại phận sự. Ngài giải thích điều này rằng: “Cho đến chừng nào các vị tỳ khưu sẽ không dừng lại với kết quả chỉ có giới thanh tịnh, chỉ có minh sát, chỉ có thiền, chỉ là quả vị Nhập Lưu, chỉ là quả vị Nhất Lai, hoặc chỉ là phẩm vị Bất Lai, cho đến chừng ấy chắc chắn sự cường thịnh cho các vị tỳ khưu là điều được mong đợi, không phải sự suy thoái.”
- Tatiyasattake saddhāti saddhāsampannā. Tattha āgamanīyasaddhā, adhigamasaddhā, pasādasaddhā, okappanasaddhāti catubbidhā saddhā. tattha āgamanīyasaddhā sabbaññubodhisattānaṃ hoti. Adhigamasaddhā ariyapuggalānaṃ. Buddho dhammo saṅghoti vutte pana pasādo pasādasaddhā. Okappetvā pakappetvā pana saddahanaṃ okappanasaddhā. Sā duvidhāpi idhādhippetā. Tāya hi saddhāya samannāgato saddhāvimutto, vakkalittherasadiso hoti. Tassa hi cetiyaṅgaṇavattaṃ vā, bodhiyaṅgaṇavattaṃ vā katameva hoti. Upajjhāyavattāacariyavattādīni sabbavattāni pūreti. Hirimanāti pāpajigucchanalakkhaṇāya hiriyā yuttacittā. Ottappīti pāpato bhāyanalakkhaṇena ottappena samannāgatā.
- Nên biết lý giải trong Tatiya-sattaka (bảy pháp bất thoái thứ ba) như sau: có đức tin: có đầy đủ đức tin. Ở đó, đức tin có bốn là āgamanīyasaddhā, adhigamasaddhā, pasādasaddhā, okappanasaddhā. Trong bốn loại đức tin ấy thì āgamanīyasaddhā có nơi đức Bồ-tát Toàn giác. Adhigamasaddhā có nơi các bậc Thánh Thinh văn. Hơn nữa khi nói: Phật Pháp Tăng cũng khởi tâm tịnh tín thì gọi là pasādasaddhā. Còn tin chắc gọi là okappanasaddhā. Cả hai loại đức tin ấy ngài muốn đề cập ở đây. Thật vậy, vị tỳ khưu có sự liên kết bởi đức tin ấy, là vị thiên về đức tin tương tự với trưởng lão Vakkali. Sự thật trưởng lão Vakkali đã làm các phận sự ở sân bảo điện hoặc phận sự ở sân cội Bồ-đề. Làm tròn mọi phận sự có bổn phận của vi thầy tế độ đối với trò và bổn phận của trò đối với thầy v.v. Có hổ thẹn tội lỗi: vị có tâm gắn bó với sự hổ thẹn, có trạng thái ghê tởm điều ác. Có ghê sợ tội lỗi: vị gắn liền với sự ghê sợ, có trạng thái sợ hãi điều ác.
Bahussutāti ettha pana pariyattibahussuto, paṭivedhabahussutoti dve bahussutā. Pariyattīti tīṇi piṭakāni. paṭivedhoti saccappaṭivedho. Imasmiṃ pana ṭhāne pariyatti adhippetā. Sā yena bahu sutā[25], so bahussuto. So panesa nissayamuccanako, parisupaṭṭhāko, bhikkhunovādako, sabbatthakabahussutoti catubbidho hoti. Tattha tayo bahussutā samantapāsādikāya vinayaṭṭhakathāya ovādavagge[26] vuttanayena gahetabbā. Sabbatthakabahussutā pana ānandattherasadisā honti. Te idha adhippetā.
Đa văn: ở đây, đa văn có hai là vị đa văn về Pháp học, (và) vị đa văn về Pháp thành. Tam Tạng gọi là Pháp học. Thấu triệt Chân Lý gọi là Pháp thành. Hơn nữa, trong trường hợp này ngài muốn đề cập Pháp học. Vị tỳ khưu nghe nhiều gọi là bậc đa văn. Vị tỳ khưu đa văn này đây có bốn là nissayamuccanaka, parisupaṭṭhāka, bhikkhunovādaka, sabbatthakabahussuta. Trong bốn nhóm ấy, thì ba bậc đa văn nên có thể nắm lấy theo phương thức đã nói trong Ovādavagga, trong Chú-giải Luật là Samantapāsādikā. Còn nhóm sabbatthakabahussuta gần giống với trưởng lão Ānanda ấy, nhóm đó ngài muốn đề cập trong trường hợp này.
Āraddhavīriyāti yesaṃ kāyikañca cetasikañca vīriyaṃ āraddhaṃ hoti. Tattha ye kāyasaṅgaṇikaṃ vinodetvā catūsu iriyāpathesu aṭṭhāarabbhavatthuvasena ekakā honti, tesaṃ kāyikavīriyaṃ āraddhaṃ nāma hoti. Ye cittasaṅgāṇikaṃ vinodetvā aṭṭhasamāpattivasena ekakā honti, gamane uppannakilesassa ṭhānaṃ pāpuṇituṃ na denti, ṭhāne uppannakilesassa nisajjaṃ, nisajjāya uppannakilesassa sayanaṃ pāpuṇituṃ na denti, uppannuppannaṭṭhāneyeva kilese niggaṇhanti, tesaṃ cetasikavīriyaṃ āraddhaṃ nāma hoti.
Nỗ lực tinh tấn: Những vị tỳ khưu nỗ lực tinh tấn thuộc về thân và thuộc về tâm. Trong số những vị tỳ khưu ấy, vị nào sau khi giảm bớt sự tụ tập thành nhóm, sống độc cư trong bốn oai y nhờ tác động tám nền móng tinh tấn những vị tỳ khưu ấy gọi là có nỗ lực tinh tấn thuộc về thân. Những vị nào sau khi giảm bớt sự giao du thuộc về tâm, sống độc cư nhờ tác động bởi tám thiền chứng, không chấp nhận đứng khi phiền não sanh khởi trong lúc đang đi, không chấp nhận ngồi khi phiền não sanh khởi trong lúc đang đứng, không chấp nhận nằm khi phiền não sanh khởi trong lúc đang ngồi, chế ngự phiền não đã sanh khởi lại sanh khởi nữa, những vị ấy gọi là nỗ lực tinh tấn thuộc về tâm.
Upaṭṭhitassatīti cirakatādīnaṃ saritā anussaritā mahāgatimbayābhayatthera- dīghabhāṇābhayatthera- tipiṭakacūḷābhayattherā viya. Mahāgatimbaya-abhayatthero[27] kira jātapañcamadivase maṅgalapāyāse tuṇḍaṃ pasārentaṃ vāyasaṃ disvā huṃ hunti saddamakāsi. Atha so therakāle — “kadā paṭṭhāya, bhante, sarathā”ti bhikkhūhi pucchito “jātapañcamadivase katasaddato paṭṭhāya āvuso”ti āha.
Có niệm được thiết lập: là vị nhớ đến, vị nhớ lại việc làm thậm chí đã lâu v.v, giống như trưởng lão Mahāgatimbayābhaya, trưởng lão Dīghabhāṇābhaya, và trưởng lão Tipiṭakacūḷābhaya. Kể rằng trưởng lão Mahāgatimbayābhaya nhìn thấy một con quạ vươn mỏ đến chỗ món cơm sữa cát tường vào ngày thứ năm kể từ khi ngài ra đời và ngài đã khóc thành tiếng ‘hu hu’. Kế đó, khi trở thành vị trưởng lão bị nhóm tỳ khưu hỏi rằng: “Thưa ngài, ngài nhớ lại được từ khi nào?” – Mới đáp rằng: “Này hiền giả, kể từ khi cất tiếng khóc vào ngày thứ năm kể từ khi ra đời”.
Dīghabhāṇakābhayattherassa jātanavamadivase mātā cumbissāmīti onatā tassā moḷi muccittha. Tato tumbamattāni sumanapupphāni dārakassa ure patitvā dukkhaṃ janayiṃsu. So therakāle — “kadā paṭṭhāya, bhante, sarathā”ti pucchito — “jātanavamadivasato paṭṭhāyā”ti āha.
Mẹ của trưởng lão Dīghabhāṇakābhaya cúi xuống định hôn (con) bắt đầu từ ngày thứ chín kể từ lúc trưởng lão sanh ra, búi tóc của bà được xõa ra. Khi đó, hoa nhài khoảng chừng một đấu đã rơi xuống ngực của đứa bé gây khổ đau. Khi trở thành vị trưởng lão bị nhóm tỳ khưu hỏi rằng: “Thưa ngài, ngài nhớ lại được từ khi nào?” – Mới đáp rằng: “Bắt đầu từ ngày thứ chín kể từ lúc sanh ra.”
Tipiṭakacūḷābhayatthero — “Anurādhapure tīṇi dvārāni pidahāpetvā manussānaṃ ekena dvārena nikkhamanaṃ katvā — ‘tvaṃ kinnāmo, tvaṃ kinnāmo’ti pucchitvā sāyaṃ puna apucchitvāva tesaṃ nāmāni sampaṭicchāpetuṃ[28] — “sakkā āvuso”ti āha. evarūpe bhikkhū sandhāya — “upaṭṭhitassatī”ti vuttaṃ.
Trưởng lão Tipiṭakacūḷābhaya kể rằng – “Chúng tôi đóng cảnh 3 cánh cửa phía bên trong Anurādhapurī, cho mọi người cùng bước ra cùng một cửa và hỏi rằng: “Ngài tên gì? vào buổi chiều không hỏi lại có thể chỉ đích danh của những người ấy được.” Ngài muốn đề cập đến những vị tỳ khưu có hình thức như vậy mới nói rằng: “có niệm được thiết lập”.
Paññavantoti pañcannaṃ khandhānaṃ udayabbayapariggāhikāya paññāya samannāgatā. Api ca dvīhipi etehi padehi vipassakānaṃ bhikkhūnaṃ vipassanāsambhārabhūtā sammāsati ceva vipassanāpaññā ca kathitā.
Có tuệ: Gắn liền với tuệ, xác định sự sanh và sự diệt của năm uẩn làm đối tượng. Và hơn nữa, với hai câu này ngài đã nói đến chánh kiến và tuệ minh sát làm nhân hỗ trợ minh sát của những vị tỳ khưu thực hành minh sát.
- Catutthasattake satiyeva sambojjhaṅgo satisambojjhaṅgoti. Esa nayo sabbattha. Tattha upaṭṭhānalakkhaṇo satisambojjhaṅgo, pavicayalakkhaṇo dhammavicayasambojjhaṅgo, paggahalakkhaṇo vīriyasambojjhaṅgo, pharaṇalakkhaṇo pītisambojjhaṅgo, upasamalakkhaṇo passaddhisambojjhaṅgo, avikkhepalakkhaṇo samādhisambojjhaṅgo, paṭisaṅkhānalakkhaṇo upekkhāsambojjhaṅgo. Bhāvessantīti satisambojjhaṅgaṃ catūhi kāraṇehi samuṭṭhāpentā, chahi kāraṇehi dhammavicayasambojjhaṅgaṃ samuṭṭhāpentā, navahi kāraṇehi vīriyasambojjhaṅgaṃ samuṭṭhāpentā, dasahi kāraṇehi pītisambojjhaṅgaṃ samuṭṭhāpentā, sattahi kāraṇehi passaddhisambojjhaṅgaṃ samuṭṭhāpentā, dasahi kāraṇehi samādhisambojjhaṅgaṃ samuṭṭhāpentā, pañcahi kāraṇehi upekkhāsambojjhaṅgaṃ samuṭṭhāpentā vaḍḍhessantīti attho. Iminā vipassanāmaggaphalasampayutte lokiyalokuttaramissake sambojjhaṅge kathesi.
- Nên biết lý giải trong Catuttha-sattaka (bảy pháp bất thoái thứ tư) như sau: Các giác chi là niệm giác chi. Cách thức này áp dụng cho các đoạn kế tiếp. Trong các giác chi thì niệm giác chi có sự thiết lập là trạng thái; Trạch pháp giác có sự suy xét là trạng thái; Tinh tấn giác chi có sự ra sức là trạng thái; Hỷ giác chi có sự lan toả là trạng thái; An tịnh giác chi có sự tĩnh lặng là trạng thái; Định giác chi có sự không phóng dật là trạng thái; Xả giác chi có sự phân biệt rõ là trạng thái. Còn tu tập: các vị tỳ khưu đặt niệm giác chi với 4 nguyên nhân, đặt trạch pháp giác chi với 6 nguyên nhân, đặt tinh tấn giác chi với 9 nguyên nhân, đặt hỷ giác chi với 10 nguyên nhân, đặt xả giác chi với 5 nguyên nhân sẽ làm cho tăng trưởng. Ngài nói mỗi giác chi cả Hiệp Thế lẫn Siêu Thế phối hợp với minh sát và Đạo Quả với câu này.
- Pañcamasattake aniccasaññāti aniccānupassanāya saddhiṃ uppannasaññā. Anattasaññādīsupi eseva nayo. Imā satta lokiyavipassanāpi honti. “Etaṃ santaṃ, etaṃ paṇītaṃ, yadidaṃ sabbasaṅkhārasamatho virāgo nirodho”ti[29] āgatavasenettha dve lokuttarāpi hontīti veditabbā.
- Nên biết lý giải trong Pañcama-sattaka (bảy pháp bất thoái thứ năm) như sau: Tưởng sanh khởi cùng với sự quán xét về vô thường gọi là tưởng về vô thường. Luôn cả tưởng về vô ngã cũng có cách thức này. Nên biết bảy loại tưởng này là minh sát thuộc Hiệp Thế cũng có. 2 loại tưởng trong trường hợp này là minh sát thuộc Siêu Thế cũng có, theo nguồn gốc Pāḷī như sau: “Ðây là an tịnh, đây là thù thắng, tức là sự yên lặng của tất cả các pháp tạo tác, sự lìa khỏi luyến ái, sự diệt tận’.
- Chakke mettaṃ kāyakammanti mettacittena kattabbaṃ kāyakammaṃ. vacīkammamanokammesupi eseva nayo. Imāni pana bhikkhūnaṃ vasena āgatāni gihīsupi labbhanti. Bhikkhūnañhi mettacittena ābhisamācārikadhammapūraṇaṃ mettaṃ kāyakammaṃ nāma. Gihīnaṃ cetiyavandanatthāya bodhivandanatthāya saṅghanimantanatthāya gamanaṃ, gāmaṃ piṇḍāya paviṭṭhaṃ bhikkhuṃ disvā paccuggamanaṃ, pattappaṭiggahaṇaṃ, āsanapaññāpanaṃ, anugamananti evamādikaṃ mettaṃ kāyakammaṃ nāma.
- Nên biết lý giải trong pháp bất thoái thứ sáu như sau: tâm từ thông qua thân nghiệp: Thân nghiệp có thể thực hiện bởi tâm từ. Luôn cả khẩu nghiệp và ý nghiệp cũng có phương cách này. Cả 3 nghiệp này đều thuộc về chư Tăng, luôn cả cư sĩ cũng sử dụng được. Thật vậy, đối với các vị tỳ khưu việc làm cho đầy đủ các Pháp là tăng thượng hành (ābhisamācārika) bằng tâm từ gọi là tâm từ thông qua thân nghiệp. Đối với cư sĩ các phận sự như vầy là việc đi đến đảnh lễ bảo điện, đảnh lễ cội Bồ-đề, cung thỉnh chư Tăng, việc gặp các vị tỳ khưu vào làng khất thực rồi tiếp đón, nhận lấy bình bát, trải tọa cụ, đi theo, thoa dầu gọi là tâm từ thông qua thân nghiệp.
Bhikkhūnaṃ mettacittena ācārapaññattisikkhāpadapaññāpanaṃ, kammaṭṭhānakathanaṃ, dhammadesanā, tepiṭakampi buddhavacanaṃ mettaṃ vacīkammaṃ nāma. Gihīnaṃ cetiyavandanatthāya gacchāma, bodhivandanatthāya gacchāma, dhammassavanaṃ karissāma, dīpamālapupphapūjaṃ karissāma, tīṇi sucaritāni samādāya vattissāma, salākabhattādīni dassāma, vassavāsikaṃ dassāma, ajja saṅghassa cattāro paccaye dassāma, saṅghaṃ nimantetvā khādanīyādīni saṃvidahatha, āsanāni paññāpetha, pānīyaṃ upaṭṭhapetha, saṅghaṃ paccuggantvā ānetha, paññattāsane nisīdāpetha, chandajātā ussāhajātā veyyāvaccaṃ karothātiādikathanakāle mettaṃ vacīkammaṃ nāma.
Các tỳ khưu giảng dạy sự quy định về tánh hạnh, chế định các điều học, và nghiệp xứ, thuyết giảng Giáo Pháp, cả Tam Tạng Phật ngôn với tâm từ gọi là tâm từ thông qua thân nghiệp. Đối với cư sĩ vào lúc nói rằng: chúng tôi đi đảnh lễ bảo điện, đi đảnh lễ cội Bồ-đề, thực hiện lắng nghe Giáo Pháp, cho thực hiện lễ bái bằng tràng hoa, nhan đèn, thọ trì và thực hành ba thiện hạnh, dâng bữa ăn (phân phối) theo thẻ, cúng dường y tắm mưa, hôm nay cúng dường bốn món vật dụng đến hội chúng tỳ khưu, thỉnh mời chư Tăng, sắp xếp cúng dường vật thực mềm, trải tọa cụ, đặt nước uống, tiếp đón chư Tăng dẫn đến ngồi trên tọa cụ đã được trải sẵn, khởi lên sự mong muốn, khởi lên sự siêng năng, thực hiện việc tìm tòi gọi là tâm từ thông qua khẩu nghiệp.
Bhikkhūnaṃ pātova uṭṭhāya sarīrappaṭijagganaṃ, cetiyaṅgaṇavattādīni ca katvā vivittāsane nisīditvā imasmiṃ vihāre bhikkhū sukhī hontu averā abyāpajjāti cintanaṃ mettaṃ manokammaṃ nāma. Gihīnaṃ ‘ayyā sukhī hontu, averā abyāpajjā’ti cintanaṃ mettaṃ manokammaṃ nāma.
Đối với vị tỳ khưu dậy từ sáng sớm, vệ sinh thân thể và làm các phận sự (quét dọn) bảo tháp v.v, đã ngồi trên tọa cụ trong sự tĩnh lặng (và) nghĩ rằng: “Cầu mong các vị tỳ khưu trong tịnh xá này hãy có sự an lạc, không có thù hận, không làm hại lẫn nhau v.v, gọi là tâm từ thông qua ý nghiệp. Đối với cư sĩ nghĩ rằng: “Cầu mong các ngài hãy có sự an lạc, không có thù hận, không làm hại lẫn nhau” gọi là tâm từ thông qua ý nghiệp.
Āvi ceva raho cāti sammukhā ca parammukhā ca. Tattha navakānaṃ cīvarakammādīsu sahāyabhāvagamanaṃ sammukhā mettaṃ kāyakammaṃ nāma. Therānaṃ pana pādadhovanavandanabījanadānādibhedaṃ sabbaṃ sāmīcikammaṃ sammukhā mettaṃ kāyakammaṃ nāma. Ubhayehipi dunnikkhittānaṃ dārubhaṇḍādīnaṃ tesu avamaññaṃ akatvā attanā dunnikkhittānaṃ viya paṭisāmanaṃ parammukhā mettaṃ kāyakammaṃ nāma.
Một cách công khai và luôn cả kín đáo: ở trước mặt và cả sau lưng. Trong câu đó, việc tụ tập trong công việc may y v.v, đối với các vị tỳ khưu gọi là tâm từ thông qua thân nghiệp ở trước mặt. Còn các hành động thích hợp chẳng hạn như việc rửa chân, tôn kính, quạt, bố thí v.v, đến vị trưởng lão được gọi là tâm từ thông qua thân nghiệp ở trước mặt. Việc không dửng dưng trong những vật dụng bằng gỗ v.v, mà tỳ khưu cả hai phía cất giữ không cẩn thận, giống như đồ dùng mà bản thân cất giữ không tốt, rồi mang đi cất giữ đây gọi là tâm từ thông qua thân nghiệp ở sau lưng.
Devatthero tissattheroti evaṃ paggayha vacanaṃ sammukhā mettaṃ vacīkammaṃ nāma. Vihāre asantaṃ pana paṭipucchantassa kuhiṃ amhākaṃ devatthero, kuhiṃ amhākaṃ tissatthero, kadā nu kho āgamissatīti evaṃ mamāyanavacanaṃ parammukhā mettaṃ vacīkammaṃ nāma.
Việc nói lời tán thán như vầy rằng: “Trưởng lão Deva, trưởng lão Tissa” gọi là tâm từ thông qua khẩu nghiệp ở trước mặt. Đối với người hỏi đến vị tỳ khưu không sống trong tịnh xá, việc sử dụng lời nói dễ mến như vầy rằng “Trưởng lão Deva của chúng tôi đi đâu? Ngài sẽ trở về vào lúc nào? Trưởng lão Tissa của chúng tôi đi đâu? Ngài sẽ trở về vào lúc nào vậy?” như vậy gọi là tâm từ thông qua khẩu nghiệp ở sau lưng.
Mettāsinehasiniddhāni pana nayanāni ummīletvā pasannena mukhena olokanaṃ sammukhā mettaṃ manokammaṃ nāma. Devatthero tissatthero arogo hotu, appābādhoti samannāharaṇaṃ parammukhā mettaṃ manokammaṃ nāma.
Lại nữa, việc mở đôi mắt trong sáng với ước muốn tốt đẹp và với sự thương mến ngắm nhìn với gương mặt tươi sáng gọi là tâm từ thông qua ý nghiệp ở trước mặt. Việc chú tâm rằng: “Cầu mong trưởng lão Deva, trưởng lão Tissa lìa xa ai luyến, ít bệnh tật” đây gọi là tâm từ thông qua ý nghiệp ở sau lưng.
Lābhāti cīvarādayo laddhapaccayā. Dhammikāti kuhanādibhedaṃ micchājīvaṃ vajjetvā dhammena samena bhikkhācāravattena uppannā. Antamaso pattapariyāpannamattampīti pacchimakoṭiyā patte pariyāpannaṃ pattassa antogataṃ dvitikaṭacchubhikkhāmattampi. Appaṭivibhattabhogīti ettha dve paṭivibhattā nāma — āmisappaṭivibhattañca, puggalappaṭivibhattañca. Tattha — “ettakaṃ dassāmi, ettakaṃ na dassāmī”ti evaṃ cittena vibhajanaṃ āmisappaṭivibhattaṃ nāma. “asukassa dassāmi, asukassa na dassāmī”ti evaṃ cittena vibhajanaṃ pana puggalappaṭivibhattaṃ nāma. tadubhayampi akatvā yo appaṭivibhattaṃ bhuñjati, ayaṃ appaṭivibhattabhogī nāma.
Lợi đắc: các món vật dụng nhận được có y phục v.v. Phát sanh đúng Pháp: các món vật dụng phát sanh do việc đi khất thực chân chính đúng Pháp, loại trừ việc nuôi mạng phi Pháp bằng việc nói dối chẳng hạn v.v. Ngay cả vật được đặt vào trong bình bát: dầu vật thực nhận chỉ được 2-3 vá được gom chung trong bình bát, đặt ở bên trong bình bát. Có sự thọ hưởng đồng đều: Ở đây gọi là người có vật thực được san sẻ có 2 – là chia theo tài vật và chia theo cá nhân. Trong hai loại ấy việc san sẻ với tâm như vậy rằng – “ta sẽ cho chừng này, sẽ không cho chừng này” đây gọi là chia theo tài vật. Việc san sẻ với tâm suy nghĩ như vậy rằng – “Ta sẽ cho người kia, không cho người kia” gọi là chia theo cá nhân. Vị tỳ khưu không thực hiện cả 2 điều thọ hưởng vật dụng không được phân chia gọi là người thường thọ dụng vật thực không được san sẻ.
Sīlavantehi sabrahmacārīhi sādhāraṇabhogīti ettha sādhāraṇabhogino idaṃ lakkhaṇaṃ, yaṃ yaṃ paṇītaṃ labbhati, taṃ taṃ neva lābhena lābhaṃ nijigīsanatāmukhena gihīnaṃ deti, na attanā bhuñjati, paṭiggaṇhanto ca — “saṅghena sādhāraṇaṃ hotū”ti gahetvā ghaṇṭiṃ paharitvā paribhuñjitabbaṃ saṅghasantakaṃ viya passati.
Người thường thọ dụng vật thực chung với bạn đồng Phạm hạnh, vị có giới hạnh: Ở đây, trạng thái này của vị Tỳ khưu thường thọ dụng vật thực chung, vị ấy nhận được lợi lộc nào thượng hạng, không cho lợi lộc đó đến các cư sĩ vì mục đích thèm muốn lợi lộc bằng lợi lộc, không tự mình thọ dụng. Khi thọ nhận đã thọ nhận (với suy nghĩ) rằng: “Hãy là vật dụng chung của Tăng chúng” thấy được lợi đắc đã đánh chuông (ra dấu) nên thọ dụng giống như vật dụng của Tăng chúng.
Imaṃ pana sāraṇīyadhammaṃ ko pūreti, ko na pūretīti? Dussīlo tāva na pūreti. Na hi tassa santakaṃ sīlavantā gaṇhanti. Parisuddhasīlo pana vattaṃ akhaṇḍento pūreti. Tatridaṃ vattaṃ — Yo hi odissakaṃ katvā mātu vā pitu vā ācariyupajjhāyādīnaṃ vā deti, so dātabbaṃ deti, sāraṇīyadhammo panassa na hoti, palibodhajagganaṃ nāma hoti. Sāraṇīyadhammo hi muttapalibodhasseva vaṭṭati. Tena pana odissakaṃ dentena gilānagilānupaṭṭhākāagantukagamikānañceva navapabbajitassa ca saṅghāṭipattaggahaṇaṃ ajānantassa dātabbaṃ. Etesaṃ datvā avasesaṃ therāsanato paṭṭhāya thokaṃ adatvā yo yattakaṃ gaṇhāti, tassa tattakaṃ dātabbaṃ. avasiṭṭhe asati puna piṇḍāya caritvā therāsanato paṭṭhāya yaṃ yaṃ paṇītaṃ, taṃ datvā sesaṃ paribhuñjitabbaṃ. “Sīlavantehī”ti vacanato dussīlassa adātumpi vaṭṭati.
Hơn nữa, ai làm tròn đủ, ai không làm tròn đủ các Pháp hòa kính này? Trước hết kẻ ác giới không làm tròn đủ bởi vì vị có giới không thọ nhận đồ vật của kẻ ấy. Còn vị có giới thanh tịnh, trong khi làm tròn đủ các bổn phận không bị đứt đoạn. Phận sự trong câu đó có minh họa như sau – bởi vì vị nào chỉ định cho mẹ cha hoặc thầy dạy học và thầy tế độ v.v, vị ấy cho những thứ nên cho, không có Pháp hòa kính, gọi là thực hành với điều ràng buộc (palibodha-jaggana). Bởi vì Pháp hòa kính thích hợp đối với hạng người đã thoát khỏi sự ràng buộc. Hơn nữa, khi bố thí có sự chỉ định nên cúng dường đến vị tỳ khưu bệnh, vị chăm sóc tỳ khưu bệnh, vị khách tăng, người chuẩn bị đi xa, và vị mới xuất gia vẫn chưa biết đắp y tăng-già-lê và mang bình bát. Sau khi dâng đến những vị tỳ khưu ấy, phần còn lại không dâng chút ít bắt từ chỗ ngồi vị trưởng lão nên dâng bằng chừng này mà một vị tỳ khưu nhận được. Khi phần vật thực không còn thì cần phải đi khất thực tiếp, dâng đồ thượng hạng đó bắt đầu từ chỗ ngồi của trưởng lão rồi thọ dụng phần còn lại. Không nên dâng đến vị ác giới bởi Pāḷī ‘…có giới đức’.
Ayaṃ pana sāraṇīyadhammo susikkhitāya parisāya supūro hoti, no asikkhitāya parisāya. Susikkhitāya hi parisāya yo aññato labhati, so na gaṇhāti. Aññato alabhantopi pamāṇayuttameva gaṇhāti, nātirekaṃ. Ayaṃ pana sāraṇīyadhammo evaṃ punappunaṃ piṇḍāya caritvā laddhaṃ laddhaṃ dentassāpi dvādasahi vassehi pūrati, na tato oraṃ. Sace hi dvādasame vasse sāraṇīyadhammapūrako piṇḍapātapūraṃ pattaṃ āsanasālāyaṃ ṭhapetvā nahāyituṃ gacchati saṅghatthero ca kasseso pattoti, “sāraṇīyadhammapūrakassā”ti vutte “āharatha nan”ti sabbaṃ piṇḍapātaṃ vicāretvā bhuñjitvā ca rittaṃ pattaṃ ṭhapeti. Atha so bhikkhu rittaṃ pattaṃ disvā “mayhaṃ anavasesetvāva paribhuñjiṃsū”ti domanassaṃ uppādeti, sāraṇīyadhammo bhijjati, puna dvādasavassāni pūretabbo hoti. Titthiyaparivāsasadiso hesa, sakiṃ khaṇḍe jāte puna pūretabbova. Yo pana — “lābhā vata me, suladdhaṃ vata me, yassa me pattagataṃ anāpucchāva sabrahmacārī paribhuñjantī”ti somanassaṃ janeti, tassa puṇṇo nāma hoti.
Lại nữa, Pháp hòa kính này khó thực hành đối với hội chúng không được học tập, không khó làm tròn đủ với hội chúng khéo được học tập. Bởi vì hội chúng khéo được học tập, vị nào nhận được vật thực bằng cách khác, vị ấy không giữ lấy. Ngay cả khi không nhận được bằng cách khác cũng lấy đủ chừng ấy, không lấy hơn. Hơn nữa, Pháp hòa kính này 12 năm mới có thể làm tròn đủ, đối với vị tỳ khưu đi khất thực lần này lần khác, rồi dâng vật thực đã nhận được bằng cách như vậy, không ít hơn thế. Thật vậy nếu như vị tỳ khưu làm tròn đủ Pháp hòa kinh vào năm thứ 12 đặt bình bát đầy vật thực khất thực ở nhà ăn rồi đi tắm gội. Vị tỳ khưu trưởng lão hỏi rằng “đây là bình bát của ai?” khi một vị khác đáp rằng: “đây là bình bát của vị tỳ khưu làm tròn đủ Pháp hòa kính” mới nói rằng “mang lại đây,” sau khi phân chia hết vật thực trong bình bát đã thọ dụng và đặt bình bát không ở nơi đó. Khi đó, sau khi thấy bình bát rỗng không vị ấy khởi lên sự buồn rầu “các vị tỳ khưu đã thọ dụng hết không còn phần cho ta.” Pháp hòa kính sẽ bị đứt vị ấy cần phải thực hành lại 12 năm. Pháp hòa kính này tương tự như việc hành biệt trú (titthiyaparivāsa) khi bị đứt cũng cần phải hành lại từ đầu. Còn vị nào khởi lên sự hoan hỷ rằng: “Quả thật điều lợi ích đã có cho ta! Quả thật ta đã đạt được điều tốt! Ta không cần nói đến những thứ ở trong bình bát các bạn đồng Phạm hạnh đã cùng nhau thọ dụng”, Pháp hòa kính ấy được gọi là tròn đủ.
Evaṃ pūritasāraṇīyadhammassa pana neva issā, na macchariyaṃ hoti. so manussānaṃ piyo hoti, sulabhapaccayo ca, pattagatamassa diyyamānampi na khīyati, bhājanīyabhaṇḍaṭṭhāne aggabhaṇḍaṃ labhati, bhaye vā chātake vā sampatte devatā ussukkaṃ āpajjanti.
Hơn nữa, vị tỳ khưu có Pháp hòa kính tròn đủ như vậy hẳn không những không có sự ganh tị mà còn không có sự bỏn xẻn. Vị ấy là vị được yêu mến của mọi người, và dễ dàng đạt được các vật dụng, vật dụng trong bình bát được vị ấy dâng đến các tỳ khưu sẽ không cạn kiệt, được nhận vật dụng tối thượng ở chỗ phân phát, khi cảm nghiệm sự sợ hãi hoặc cảm nghiệm sự đói khát thì chúng chư Thiên cũng sẽ đến giúp đỡ.
Tatrimāni vatthūni — senagirivāsī tissatthero kira mahāgirigāmaṃ upanissāya viharati. Paññāsa mahātherā nāgadīpaṃ cetiyavandanatthāya gacchantā girigāme piṇḍāya caritvā kiñci aladdhā nikkhamiṃsu. Thero pana pavisanto te disvā pucchi — “laddhaṃ, bhante”ti? vicarimha āvusoti. So tesaṃ aladdhabhāvaṃ ñatvā āha — “bhante yāvāhaṃ āgacchāmi, tāva idheva hothā”ti. mayaṃ, āvuso, paññāsa janā pattatemanamattampi na labhimhāti. bhante, nevāsikā nāma paṭibalā honti, alabhantāpi bhikkhācāramaggasabhāgaṃ jānantīti. Therā āgamesuṃ. thero gāmaṃ pāvisi.
Trong vấn đề đó có câu chuyện như sau – kể rằng trưởng lão Tissa ở tịnh xá Seṇagirī sống nương tựa ở khu rừng Mahāgirī. Khi 50 vị đại trưởng lão đi đến hòn đảo Nāga mong muốn đảnh lễ bảo tháp, đi khất thực ở làng Giri không được bất cứ thứ gì đã rời khỏi. Hơn nữa, khi trưởng lão đến gặp đại trưởng lão đó hỏi rằng – “Thưa ngài, ngài đã nhận được gì không?” Này hiền giả, chúng tôi đã đi du hành. Vị trưởng lão đó biết được vị đại trưởng lão ấy không nhận được gì nên đã nói rằng – “Xin các ngài hãy đợi ở đây cho đến khi tôi quay trở lại.” – Này hiền giả, chúng tôi có tới 50 vị, vẫn chưa nhận được vật thực dù chỉ để làm ướt bình bát. – Thưa Ngài, thông thường vị sống thường trực ở đây sẽ có khả năng, dầu không nhận được cũng biết được con đường để đi khất thực. Nhóm vị đại trưởng lão đã chờ đợi ở đó. Vị trưởng lão đi vào làng.
Dhurageheyeva mahāupāsikā khīrabhattaṃ sajjetvā theraṃ olokayamānā ṭhitā. atha therassa dvāraṃ sampattasseva pattaṃ pūretvā adāsi, so taṃ ādāya therānaṃ santikaṃ gantvā gaṇhatha, bhanteti, saṅghattheraṃ āha. Thero — “Amhehi ettakehi kiñci na laddhaṃ, ayaṃ sīghameva gahetvā āgato, kiṃ nu kho”ti sesānaṃ mukhaṃ olokesi. Thero olokanākāreneva ñatvā “bhante, dhammena samena laddhapiṇḍapāto, nikkukkuccā gaṇhathā”tiādito paṭṭhāya sabbesaṃ yāvadatthaṃ datvā attanāpi yāvadatthaṃ bhuñji.
Đại tín nữ ở ngôi làng gần đó đã chuẩn bị sữa và thức ăn chờ đợi trưởng lão, khi trưởng lão vừa đến trước cổng đã cúng dường đầy bình bát. Trưởng lão ôm bình bát đến gặp nhóm vị đại trưởng lão rồi nói với vị trưởng lão tăng rằng: “Kinh bạch Ngài, xin ngài hãy nhận lãnh”. Trưởng lão nhìn các vị trưởng lão còn lại nghĩ rằng “Chúng ta chừng này không được bất cứ thứ gì, nhưng vị tỳ khưu này đi chốc lát trở về đã nhận được vật thực, chuyện gì xảy ra vậy?” Trưởng lão Tissa đã biết được thông qua biểu hiện chỉ bằng cái nhìn mới nói rằng: “Thưa ngài, các ngài chớ ngần ngại, hãy thọ nhận đồ ăn khất thực đến một cách chân chánh, đúng pháp” rồi cúng dường vật thực đủ theo nhu cầu đến các vị trưởng lão từ đầu, luôn cả bản thân cũng thọ dụng theo như nhu cầu.
Atha naṃ bhattakiccāvasāne therā pucchiṃsu — “Kadā, āvuso, lokuttaradhammaṃ paṭivijjhī”ti? Natthi me, bhante, lokuttaradhammoti. Jhānalābhīsi, āvusoti? Etampi me, bhante, natthīti. Nanu, āvuso, pāṭihāriyanti? sāraṇīyadhammo me, bhante, pūrito, tassa me dhammassa pūritakālato paṭṭhāya sacepi bhikkhusatasahassaṃ hoti, pattagataṃ na khīyatīti. te sutvā — “sādhu sādhu sappurisa, anucchavikamidaṃ tuyhan”ti āhaṃsu. Idaṃ tāva — “pattagataṃ na khīyatī”ti ettha vatthu.
Tiếp đó, sau khi thọ dụng xong các trưởng lão mới hỏi trưởng lão Tissa rằng “Này hiền giả, ngài đã thấu triệt Pháp Siêu Thể khi nào?” – (trưởng lão Tissa) thưa ngài, tôi vẫn chưa chứng đắc Pháp Siêu thế. – Hiền giả chứng đắc thiền chăng? – Ngày cả điều đó cũng không. – Hiền gia, phải chăng là phép kỳ diệu? – Thưa ngài, tôi làm tròn đủ Pháp hòa kính, kể từ khi thực hành Pháp hòa kính, dầu có cả nghìn tỳ khưu thì vật thực trong bình bát cũng không hết. “Tốt lành thay! Tốt lành thay! Bậc Đại nhân, điều này thật xứng đáng.” “Vật thực trong bình bát của Ngài cũng không cạn kiệt” ở đây câu chuyện chừng này trước.
Ayameva pana thero cetiyapabbate giribhaṇḍamahāpūjāya dānaṭṭhānaṃ gantvā imasmiṃ ṭhāne kiṃ varabhaṇḍanti pucchi. Dve sāṭakā, bhanteti. Ete mayhaṃ pāpuṇissantīti. Taṃ sutvā amacco rañño ārocesi — “Eko daharo evaṃ vadatī”ti. Daharassa evaṃ cittaṃ, mahātherānaṃ pana sukhumasāṭakā vaṭṭantīti vatvā mahātherānaṃ dassāmīti ṭhapeti. Tassa bhikkhusaṅghe paṭipāṭiyā ṭhite dentassa matthake ṭhapitāpi te sāṭakā[30] hatthaṃ nārohanti. Aññe ārohanti. Daharassa dānakāle pana hatthaṃ āruḷhā. So tassa hatthe pātetvā amaccassa mukhaṃ oloketvā daharaṃ nisīdāpetvā dānaṃ datvā saṅghaṃ vissajjetvā daharassa santike nisīditvā — “bhante, imaṃ dhammaṃ kadā paṭivijjhitthā”ti āha. So pariyāyenāpi asantaṃ avadanto — “natthi mayhaṃ mahārāja lokuttaradhammo”ti āha. Nanu, bhante, pubbe avacutthāti. Āma, mahārāja, sāraṇīyadhammapūrako ahaṃ, tassa me dhammassa pūritakālato paṭṭhāya bhājanīyabhaṇḍaṭṭhāne aggabhaṇḍaṃ pāpuṇātīti. “Sādhu sādhu, bhante, anucchavikamidaṃ tuyhan”ti vanditvā pakkāmi. Idaṃ — “Bhājanīyabhaṇḍaṭṭhāne aggabhaṇḍaṃ pāpuṇātī”ti ettha vatthu.
Lại nữa, chính vị trưởng lão này đã đi đến chỗ cúng dường ở nơi tôn thờ lớn của tịnh xá Giribhaṇḍa tại Cetiyapabbata hỏi rằng: “Trong cuộc bố thí này cái gì là thượng hạng”. – “Thưa ngài hai tấm áo choàng”. “Hai tấm áo choàng đó sẽ thành tựu nơi ta”. Sau khi nghe điều đó quan đại thần đã thuật lại cho đức vua rằng: “Thưa bệ hạ, vị tỳ khưu trẻ đã nói như vậy.” – Đức vua nói rằng: “Vị tỳ khưu trẻ có tâm suy nghĩ như vậy, tuy nhiên tấm áo choàng mịn màng này phù hợp với các đại trưởng lão nên đã đặt xuống với mục đích cúng dường các trưởng lão.” Đức vua khi cúng dường trong lúc chúng tỳ khưu đã đứng theo thứ tự, nhưng 2 tấm áo choàng được đặt gần nhau cũng không tới tay ngài, chỉ có những tấm y khác mà thôi, nhưng đến lúc cúng dường cho vị tỳ khưu trẻ thì cả 2 tấm áo choàng lại đến tay ngài. Đức vua đặt lên tay của vị ấy, đã nhìn sang vị quan cận thần, mời vị tỳ khưu trẻ ngồi xuống rồi bố thí vật thí, sau khi rời khỏi chư tăng đã ngồi gần vị tỳ khưu trẻ rồi nói rằng: “Thưa ngài, Pháp này ngài đã thấu triệt khi nào?” Vị ấy khi không nói đến đức hạnh không tồn tại dầu gián tiếp, đã nói rằng: “Thưa đại vương, bần tăng không có (chứng đạt) Pháp Siêu Thế.” – Thưa ngài, ngài đã nói trước đó rồi không phải sao? – Phải, thưa đại vương, bần tăng thực hành Pháp hòa kính kể từ khi bần tăng thực hiện Pháp đó tới bây giờ cũng luôn nhận được vật dụng thượng hạng ở nơi phân phát. – Tốt lành thay! tốt lành thay! Thưa ngài, vật thí này xứng đáng cho ngài, sau khi đảnh lễ rồi quay trở về. ‘Nhận được vật thí thượng hạng ở nơi phân phát’ này có câu chuyện như đã trình bày.
Brāhmaṇatissabhaye pana bhātaragāmavāsino nāgattheriyā anārocetvāva palāyiṃsu. Therī paccūsasamaye — “Ativiya appanigghoso gāmo, upadhāretha tāvā”ti daharabhikkhuniyo āha. Tā gantvā sabbesaṃ gatabhāvaṃ ñatvā āgamma theriyā ārocesuṃ. Sā sutvā “mā tumhe tesaṃ gatabhāvaṃ cintayittha, attano uddesaparipucchāyonisomanasikāresuyeva yogaṃ karothā”ti vatvā bhikkhācāravelāyaṃ pārupitvā attadvādasamā gāmadvāre nigrodhamūle aṭṭhāsi. Rukkhe adhivatthādevatā dvādasannampi bhikkhunīnaṃ piṇḍapātaṃ datvā “ayye, mā aññattha gacchatha, niccaṃ idheva ethā”ti āha. Theriyā pana kaniṭṭhabhātā nāgatthero nāma atthi, so — “mahantaṃ bhayaṃ, na sakkā idha yāpetuṃ, paratīraṃ gamissāmī”ti attadvādasamova attano vasanaṭṭhānā nikkhanto theriṃ disvā gamissāmīti bhātaragāmaṃ āgato. Therī — “Therā āgatā”ti sutvā tesaṃ santikaṃ gantvā kiṃ ayyāti pucchi. So taṃ pavattiṃ ācikkhi. sā — “ajja ekadivasaṃ vihāreyeva vasitvā sve gamissathā”ti āha. Therā vihāraṃ agamaṃsu.
Lại nữa, dân làng Bhātara trong thành Brāhmaṇatissabhaya không nói lời từ giã với vị trưởng lão Ni Nāgā đã bỏ đi. Vào lúc rạng sáng trưởng lão Ni cùng với các tỳ khưu ni trẻ rằng: “Ngôi làng vô cùng yên tĩnh, các ngài hãy nhìn xem.” Họ đi xem xét (và) biết được dân làng đã đi hết, trở về báo lại cho trưởng lão Ni. Sau khi nghe vị ấy đã nói rằng: “Các vị chớ suy nghĩ đến việc ra đi của dân làng nữa, hãy thực hành sự tinh tấn trong việc học tập (Pāḷī, Chú Giải) và tác ý đúng đường lối của chính mình” đến thời đi khất thực đắp y, đứng ở gốc cây đa ở gần cổng làng trở thành vị thứ 12 luôn cả bản thân. Vị Thiên nhân ngụ trên cây đã cúng dường vật thực đến 12 vị tỳ khưu Ni, nên mới nói rằng: “Thưa các ngài, xin đừng đi nơi khác, hãy thường xuyên đến đây.” Trưởng lão Ni có một người em trai là trưởng lão Nāga, vị ấy nghĩ rằng “Có sự sợ hãi lớn lao, ta không thể sống ở đây, sẽ đi đến bờ bên kia”, có 12 vị luôn cả bản thân rời khỏi nơi ở của mình đến làng Bhātara với ý định sẽ gặp trưởng lão Ni rồi sẽ đi. Trưởng lão Ni “ta sẽ cười vị Trưởng lão Ni rồi sẽ đi.” Trưởng lão Ni, sau khi nghe – “Các trưởng lão đã đến” mới đi đến gần các trưởng lão ấy, hỏi rằng: “Chuyện gì vậy, thưa các ngài”. Ngài đã nói đến sự diễn biến đó. Trưởng lão Ni nói rằng: “Hôm nay các ngài hãy nghỉ ngơi tại tịnh xá này một đêm, ngày mai hãy đi.” Các vị trưởng lão đã cùng nhau đi đến tịnh xá.
Therī punadivase rukkhamūle piṇḍāya caritvā theraṃ upasaṅkamitvā “imaṃ piṇḍapātaṃ paribhuñjathā”ti āha. Thero — “vaṭṭissati therī”ti vatvā tuṇhī aṭṭhāsi. Dhammiko tāta piṇḍapāto, kukkuccaṃ akatvā paribhuñjathāti. “Vaṭṭissati therī”ti. Sā pattaṃ gahetvā ākāse khipi. Patto ākāse aṭṭhāsi. Thero — “Sattatālamatte ṭhitampi bhikkhunibhattameva therī”ti vatvā — “bhayaṃ nāma sabbakālaṃ na hoti, bhaye vūpasante ariyavaṃsaṃ kathayamāno, ‘bho piṇḍapātika, bhikkhunibhattaṃ bhuñjitvā vītināmayitthā’ti cittena anuvadiyamāno santhambhetuṃ na sakkhissāmi, appamattā hotha theriyo”ti maggaṃ āruhi.
Vào ngày kế tiếp, sau khi vị trưởng lão Ni đi khất thực ở góc cây ấy, đã đến tìm gặp vị trưởng lão mới nói rằng: “Xin quý ngài hãy thọ dụng vật thực khất thức này.” Trương lão nói rằng: “Sẽ thích hợp chăng, trưởng lão ni?” nên đã đứng im lặng. – Trưởng lão ni đáp: “Thưa quý ngài, vật thực khất thực này đúng Pháp, quý ngài chớ đừng ghét bỏ mà hãy thọ dụng”. – “Sẽ thích hợp chăng, trưởng lão ni?” Bà cầm lấy bình bát ném lên trên hư không, bình bát cũng lơ lửng trên hư không. – Trưởng lão nói rằng: “Trưởng lão ni, vật thực dầu an trú ước chừng khoảng 7 cây tāla, cũng chính là vật thực dành cho trưởng lão ni” – rồi nói thêm: “Sự sợ hãi là không có ở mọi thời, khi sự sợ hãi được vắng lặng, ta cũng nói về dòng dõi bậc Thánh, bị ngài nhắc nhở với tâm rằng: ‘Thưa ngài, vị thực hành hạnh khất thực, quý ngài hãy thọ dụng vật thực của tỳ khưu ni có hình thức như vậy,” tôi không thể hỗ trợ cho các vị trưởng lão ni, xin các vị chớ sống phóng dật” rồi lên đường.
Rukkhadevatāpi — “Sace thero theriyā hatthato piṇḍapātaṃ paribhuñjissati, na naṃ nivattessāmi. Sace na paribhuñjissati, nivattessāmī”ti cintayamānā ṭhatvā therassa gamanaṃ disvā rukkhā oruyha pattaṃ, bhante, dethāti pattaṃ gahetvā theraṃ rukkhamūlaṃyeva ānetvā āsanaṃ paññapetvā piṇḍapātaṃ datvā katabhattakiccaṃ paṭiññaṃ kāretvā dvādasa bhikkhuniyo dvādasa bhikkhū ca sattavassāni upaṭṭhahi. Idaṃ — “devatā ussukkaṃ āpajjantī”ti ettha vatthu. Tatra hi therī sāraṇīyadhammapūrikā ahosi.
Luôn cả vị Thiên nhân ngụ trên cây cũng nghĩ rằng: “Nếu trưởng lão thọ dụng vật thực khất thực từ tay của vị trưởng lão ni, ta sẽ không đưa trưởng lão trở lại. Nếu trưởng lão không thọ dụng cũng sẽ đưa (trưởng lão) trở về” đã đứng nhìn thấy trưởng lão đi, bước xuống từ thân cây nói rằng: “kính thưa ngài, hãy cho bình bát” rồi tiếp nhận bình bát, dẫn trưởng lão đến gốc cây đó, đã trải tọa cụ rồi cúng dường đồ ăn khất thực cho trưởng lão, sau khi hoàn tất việc thọ dụng vật thực đã thực hiện lời hứa rồi nuôi dưỡng 12 vị tỳ khưu ni, 12 vị tỳ khưu tăng suốt 7 năm. Ở đây, “chư Thiên ra sức nỗ lực giúp đỡ” câu chuyện như đã đề cập. Thật vậy, trong câu đó trưởng lão Ni là vị thực hành Pháp hòa kính.
Akhaṇḍānītiādīsu yassa sattasu āpattikkhandhesu ādimhi vā ante vā sikkhāpadaṃ bhinnaṃ hoti, tassa sīlaṃ pariyante chinnasāṭako viya khaṇḍaṃ nāma. Yassa pana vemajjhe bhinnaṃ, tassa majjhe chiddasāṭako viya chiddaṃ nāma hoti. Yassa pana paṭipāṭiyā dve tīṇi bhinnāni, tassa piṭṭhiyaṃ vā kucchiyaṃ vā uṭṭhitena visabhāgavaṇṇena kāḷarattādīnaṃ aññataravaṇṇā gāvī viya sabalaṃ nāma hoti. Yassa pana antarantarā visabhāgabinducitrā gāvī viya kammāsaṃ nāma hoti. Yassa pana sabbenasabbaṃ abhinnāni, tassa tāni sīlāni akhaṇḍāni acchiddāni asabalāni akammāsāni nāma honti. Tāni panetāni taṇhādāsabyato mocetvā bhujissabhāvakaraṇato bhujissāni. Buddhādīhi viññūhi pasatthattā viññupasatthāni, taṇhādiṭṭhīhi aparāmaṭṭhattā — “Idaṃ nāma tvaṃ āpannapubbo”ti kenaci parāmaṭṭhuṃ asakkuṇeyyattā ca aparāmaṭṭhāni, upacārasamādhiṃ vā appanāsamādhiṃ vā saṃvattayantīti samādhisaṃvattanikānīti vuccanti.
Có giới không bị bể vỡ v.v, vị nào có học giới bị phá vỡ (hư hoại) ở chặng đầu hoặc chặng cuối trong nhóm 7 āpatti thì vị đó có giới bị bễ vỡ giống như tấm vải bị đứt xung quanh viền. Lại nữa, vị nào có các học giới bị bể vỡ ở chặng giữa thì vị đó gọi là có giới bị lủng tựa như tấm vải bị thủng ở chặng giữa. Vị nào làm hư hoại 2-3 giới học theo tuần tự thì vị đó gọi là có giới bị lấm nhơ giống như bất kỳ một con bò nào có màu đen hoặc màu hồng v.v, với các màu khác ở trên lưng hoặc dưới bụng. Vị nào có các học giới bị hư hoại thành từng đoạn từng đoạn thì vị đó gọi là có giới bị khuyết điểm tựa như con bò có đốm đốm khắp thân mình. Vị tỳ khưu nào có các học giới không hư hoại theo tất cả mọi cách thì vị tỳ khưu đó có giới không bị bể vỡ, không bị lủng, không bị lấm nhơ, không bị khuyết điểm. Cũng giới này đây gọi là tạo ra sự tự do bởi vì làm cho thoát khỏi cảnh nô lệ của tham ái trở nên được tự do. Được các bậc trí tán thán: bởi các bậc trí có đức Phật v.v, ngợi khen. Không bị chấp thủ: không bị bám chặt vào bởi tham ái và tà kiến, và bất cứ ai cũng không thể hiểu lầm – “Ngài đã từng sai phạm điều học này?” Vận hành đưa đến cận định hoặc an chỉ định, vì thế ngài gọi là vận hành để đưa đến định.
Sīlasāmaññagatā viharissantīti tesu tesu disābhāgesu viharantehi bhikkhūhi saddhiṃ samānabhāvūpagatasīlā viharissanti. Sotāpannādīnañhi sīlaṃ samuddantarepi devalokepi vasantānaṃ aññesaṃ sotāpannādīnaṃ sīlena samānameva hoti, natthi maggasīle nānattaṃ. Taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ.
Được đầy đủ giới sẽ sống…: Các vị có giới hạnh đồng đẳng sẽ sống cùng với các vị tỳ khưu sống ở các phương. Thật vậy, giới hạnh của vị Thánh Nhập Lưu v.v, đồng đẳng với các vị Thánh Nhập Lưu khác, người sống ở giữa biển, hay ở thế giới chư Thiên thì không có sự khác biệt về giới trong chi Đạo. Ngài muốn đề cập đến điều đó mới thuyết lời này.
Yāyaṃ diṭṭhīti maggasampayuttā sammādiṭṭhi. Ariyāti niddosā. Niyyātīti niyyānikā. Takkarassāti yo tathākārī hoti. Sabbadukkhakkhayāyāti sabbadukkhakkhayatthaṃ. Diṭṭhisāmaññagatāti samānadiṭṭhibhāvaṃ upagatā hutvā viharissanti. Vuddhiyevāti evaṃ viharantānaṃ vuddhiyeva bhikkhūnaṃ pāṭikaṅkhā, no parihānīti.
Đối với (chánh) kiến: Chánh kiến tương ưng với Đạo. Thuộc bậc Thánh: không có lỗi lầm. Đưa đến: đưa đến (giải thoát). Người thực hành theo điều ấy: người nào là người thực hành theo như thế. Đưa đến sự hoàn toàn diệt tận khổ đau: Vì sự chấm dứt toàn bộ khổ đau. Được đầy đủ (chánh) kiến: Là vị đã đạt đến đạt đến bản thể chánh kiến đồng đẳng, đã an trú. Chắc chắn có sự cường thịnh: Chắc chắn sự cường thịnh cho các tỳ khưu sống như vậy là điều được mong đợi, không phải sự suy thoái.
- Etadeva bahulanti āsannaparinibbānattā bhikkhu ovadanto punappunaṃ etaṃyeva dhammiṃ kathaṃ karoti. Iti sīlanti evaṃ sīlaṃ, ettakaṃ sīlaṃ. Ettha catupārisuddhisīlaṃ sīlaṃ cittekaggatā samādhi, vipassanāpaññā paññāti veditabbā. Sīlaparibhāvitoti ādīsu yasmiṃ sīle ṭhatvāva maggasamādhiṃ phalasamādhiṃ nibbattenti. Eso tena sīlena paribhāvito mahapphalo hoti, mahānisaṃso. Yamhi samādhimhi ṭhatvā maggapaññaṃ phalapaññaṃ nibbattenti, sā tena samādhinā paribhāvitā mahapphalā hoti, mahānisaṃsā. Yāya paññāya ṭhatvā maggacittaṃ phalacittaṃ nibbattenti, taṃ tāya paribhāvitaṃ sammadeva āsavehi vimuccati.
- Chính Pháp thoại này: đức Thế Tôn trong khi giáo huấn các tỳ khưu, thường xuyên thực hiện chính Pháp thoại này bởi vì sắp viên tịch Niết Bàn. Như thế là giới: giới như vậy, giới chỉ chừng ấy. Trong câu đó, nên biết rằng: Tứ thanh tịnh giới gọi là giới, trạng thái chuyên nhất của tâm gọi là định, tuệ minh sát gọi là tuệ. Được phát triển trọn vẹn với giới: các tỳ khưu đã vững trú trong giới làm sanh khởi định tương ưng với Đạo, định tương ưng với Quả. Định ấy được phát triển trọn vẹn với giới, thì có quả báo lớn, có lợi ích lớn; Các tỳ khưu đã vững trú trong định nào làm sanh khởi tuệ tương ưng với Đạo, tuệ tương ưng với Quả, tuệ ấy được phát triển trọn vẹn với định, thì có quả báo lớn, có lợi ích lớn. Khi nào các tỳ khưu đã vững trú trong tuệ nào làm sanh khởi tâm Đạo, tâm Quả, khi ấy tâm đó được phát triển trọn vẹn với tuệ, thì được giải thoát hoàn toàn khỏi các lậu hoặc.
Yathābhirantanti buddhānaṃ anabhiratiparitassitaṃ nāma natthi, yathāruci yathāajjhāsayanti pana vuttaṃ hoti. Āyāmāti ehi yāma. “ayāmā”tipi pāṭho, gacchāmāti attho. Ānandāti bhagavā santikāvacarattā theraṃ ālapati. Thero pana — “gaṇhathāvuso pattacīvarāni, bhagavā asukaṭṭhānaṃ gantukāmo”ti bhikkhūnaṃ āroceti.
Theo như ý thích: sự không hài lòng, sự sợ hãi của đức Phật v.v, là không có, nhưng ngài giải thích rằng: tùy theo như sự ưa thích, theo như ý định. Āyāma: hãy ra đi. Từ ‘ayāmā’ cũng có, nghĩa là chúng ta hãy ra đi. Đức Thế Tôn bảo trưởng lão Ānanda tháp tùng ‘Này Ānanda’. Còn trưởng lão thông báo đến các tỳ khưu rằng: “này các hiền giả hãy chuẩn bị thọ nhận bình bát và y phục, đức Thế Tôn có ý muốn đi đến nơi đó.”
- Ambalaṭṭhikāgamanaṃ uttānameva. Atha kho āyasmā sāriputtotiādi[31] sampasādanīye vitthāritaṃ.
Câu chuyện ngài đi đến vườn Ambalaṭṭhika đều đơn giản. Khi ấy, đại đức Sāriputta đã đi đến gặp đức Thế Tôn: ngài đã nói chi tiết trong bài Kinh Tự Hoan Hỷ.
Giảng Về Điều Bất Lợi Của Kẻ Có Giới Tồi
- Pāṭaligamane āvasathāgāranti āgantukānaṃ āvasathagehaṃ. Pāṭaligāme kira niccakālaṃ dvinnaṃ rājūnaṃ sahāyakā āgantvā kulāni gehato nīharitvā māsampi aḍḍhamāsampi vasanti. Te manussā niccupaddutā — “Etesaṃ āgatakāle vasanaṭṭhānaṃ bhavissatī”ti nagaramajjhe mahatiṃ sālaṃ karitvā tassā ekasmiṃ padese bhaṇḍapaṭisāmanaṭṭhānaṃ, ekasmiṃ padese nivāsaṭṭhānaṃ akaṃsu. Te — “bhagavā āgato”ti sutvāva — “amhehi gantvāpi bhagavā ānetabbo siyā, so sayameva amhākaṃ vasanaṭṭhānaṃ sampatto, ajja bhagavantaṃ āvasathe maṅgalaṃ vadāpessāmā”ti etadatthameva upasaṅkamantā. Tasmā evamāhaṃsu. Yena āvasathāgāranti te kira — “Buddhā nāma araññajjhāsayā araññārāmā antogāme vasituṃ iccheyyuṃ vā no vā”ti bhagavato manaṃ ajānantā āvasathāgāraṃ appaṭijaggitvāva āgamaṃsu. Idāni bhagavato manaṃ ñatvā puretaraṃ gantvā paṭijaggissāmāti yenāvasathāgāraṃ, tenupasaṅkamiṃsu. Sabbasantharinti yathā sabbaṃ santhataṃ hoti, evaṃ santhariṃ[32].
- (Trú tại) nhà nghỉ trọ ở Pāṭaligāma: nhà nghỉ trọ dành cho khách vãng lai. Được biết rằng ở Pāṭaligāma, bạn của hai vị vua thường đến đây, dẫn gia đình rời khỏi nhà đến nghỉ ngơi một tháng, hay nửa tháng. Mọi người thường xuyên bị phiền nhiễu, nghĩ rằng: “Thời gian mọi người đi đến sẽ có chỗ trú ngụ” rồi cho xây dựng một gian nhà lớn ở giữa thành phố, một phần xây dựng chỗ cất giữ đồ vật, một phần xây dựng chỗ ở của gian nhà ấy. Những người ấy biết rằng: “Đức Thế Tôn đã đến,” thấy được lợi ích đó (đã nói): “Ngay cả chúng ta cũng nên đi để đưa đức Thế Tôn đến, ngài đã đích thân đến chỗ trú ngụ của chúng ta, hôm nay chúng ta sẽ thỉnh cầu đức Thế Tôn ban cho phước lành ở chỗ nghỉ”. Vì thế đã nói như vậy. Đi đến nhà nghỉ trọ: Được biết rằng những người ấy không hiểu được ý của đức Thế Tôn rằng: “Thường chư Phật có khuynh hướng ưa thích khu rừng, hoan hỷ khu rừng, có ý muốn hay không có ý muốn an trú bên trong ngôi nhà?” mới không sắp xếp nhà nghỉ trọ nghĩ rằng: bây giờ, chúng ta đã hiểu được ý định của đức Thế Tôn trước, sẽ đi sắp xếp nên mới cùng nhau đi đến nhà nghỉ trọ. Toàn bộ với thảm trải: giống như là toàn bộ tấm thảm đã được trải như vậy.
- Dussīloti asīlo nissīlo. Sīlavipannoti vipannasīlo bhinnasaṃvaro. Pamādādhikaraṇanti pamādakāraṇā.
- Người có giới tồi: người không có giới. Bị hư hỏng về giới: Có giới bị hư hỏng, có sự thu thúc bị phá vỡ. Do nguyên nhân xao lãng: do nguyên nhân xao lãng.
Idañca suttaṃ gahaṭṭhānaṃ vasena āgataṃ pabbajitānampi pana labbhateva. Gahaṭṭho hi yena yena sippaṭṭhānena jīvitaṃ kappeti — yadi kasiyā, yadi vaṇijjāya, pāṇātipātādivasena pamatto taṃ taṃ yathākālaṃ sampādetuṃ na sakkoti, athassa mūlampi vinassati. Māghātakāle pāṇātipātaṃ pana adinnādānādīni ca karonto daṇḍavasena mahatiṃ bhogajāniṃ nigacchati. Pabbajito dussīlo ca pamādakāraṇā sīlato buddhavacanato jhānato sattāriyadhanato ca jāniṃ nigacchati.
Và trong bài kinh này dành cho người gia chủ (và) cả các vị xuất gia cũng sử dụng được. Thật vậy, người gia chủ duy trì mạng sống bằng ngành nghề nào: giả dụ bằng nghề nông, hoặc bằng nghề đi buôn, xao lãng bằng việc sát sanh v.v, không thể làm cho các ngành nghề đó được hoàn thành đúng thời gian, lúc bấy giờ nền tảng của vị ấy sẽ bị phá hủy. Hơn nữa, trong lúc buồn rầu, thực hiện việc sát sanh và trộm cắp phải gánh chịu sự mất mát lớn về tài sản do mãnh lực của lỗi lầm. Còn đối với bậc xuất gia có giới tồi phải gánh chịu sự mất mát về giới hành, từ Phật ngôn, từ thiền, và từ bảy loại tài sản của bậc Thánh do nguyên nhân xao lãng.
Gahaṭṭhassa — “asuko nāma asukakule jāto dussīlo pāpadhammo pariccatta-idhalokaparaloko[33] salākabhattamattampi na detī”ti catuparisamajjhe pāpako kittisaddo abbhuggacchati. Pabbajitassa vā — “asuko nāma nāsakkhi sīlaṃ rakkhituṃ, na buddhavacanaṃ uggahetuṃ, vejjakammādīhi jīvati, chahi agāravehi samannāgato”ti evaṃ abbhuggacchati.
Đối với người gia chủ ấy tiếng đồn xấu xa gây xôn xao ở giữa bốn hội chúng rằng – “Người kia sanh ra trong gia đình đó là kẻ giới tồi, có bản tánh xấu xa, từ bỏ cả đời này lẫn đời sau, không bố thí dầu chỉ một bữa ăn (phân phối) theo thẻ. Còn đối với vị xuất gia tiếng đồn xấu xa cũng được lan truyền như vậy rằng: – “Vị tỳ khưu tên đó không thể thọ trì giới hạnh, không thể học tập lời dạy của đức Phật, nuôi mạng bất chánh như làm nghề thầy thuốc v.v, hội đủ với 6 sự bất kính.”
Avisāradoti gahaṭṭho tāva — “avassaṃ bahūnaṃ sannipātaṭṭhāne keci mama kammaṃ jānissanti, atha maṃ niggaṇhissantī”ti vā, “rājakulassa vā dassantī”ti sabhayo upasaṅkamati, maṅkubhūto pattakkhandho adhomukho aṅgulikena bhūmiṃ kasanto nisīdati, visārado hutvā kathetuṃ na sakkoti. Pabbajitopi — “Bahū bhikkhū sannipatitā, avassaṃ koci mama kammaṃ jānissati, atha me uposathampi pavāraṇampi ṭhapetvā sāmaññato cāvetvā nikkaḍḍhissantī”ti sabhayo upasaṅkamati, visārado hutvā kathetuṃ na sakkoti. Ekacco pana dussīlopi dappito viya[34] vicarati, sopi ajjhāsayena maṅku hotiyeva.
Là vị (đi vào) thiều sự tự tin: Đối với người gia chủ đi vào (hội họp) có sự sợ hãi rằng: “một số người sẽ biết được hành động của ta, vậy thì sẽ hù dọa ta, hoặc trình diện tới giữa hoàng tộc, ở nơi có đông đảo người hội họp”, trở nên bối rối, hổ thẹn, thụt vai, mặt cúi gầm xuống, ngồi cào xới mặt đất với ngón tay, dầu là người có sự tự tin cũng không có thể nói. Còn đối với một vị tỳ khưu đi vào (hội họp) có sự sợ hãi rằng: “Nhiều vị tỳ khưu đã tụ hội, một số vị sẽ biết được hành động của ta, vậy thì (họ) sẽ đuổi ta ra khỏi lễ Uposatha, hay lễ Pavāraṇa, sẽ khiến ta thay đổi tướng mạo Sa-môn”, dầu là người có sự tự tin cũng không thể thuyết giảng. Còn đối với một số vị tỳ khưu có giới tồi đi du hành như thể không có giới, vị tỳ khưu ấy cũng trở nên hổ thẹn với chính tấm tánh (của mình).
Sammūḷho kālaṅkarotīti tassa hi maraṇamañce nipannassa dussīlakamme samādāya pavattitaṭṭhānaṃ āpāthamāgacchati, so ummīletvā idhalokaṃ passati, nimīletvā paralokaṃ passati, tassa cattāro apāyā upaṭṭhahanti, sattisatena sīse pahariyamāno viya hoti. so — “vāretha, vārethā”ti viravanto marati. Tena vuttaṃ — “sammūḷho kālaṃ karotī”ti. Pañcamapadaṃ uttānameva.
Bị mê muội khi mệnh chung: Thật vậy đối vị vị tỳ khưu có giới tồi khi nằm trên chiếc giường tử biệt ở nơi đi tái sanh từ việc thọ lãnh các hành động xấu xa sẽ đến hiện khởi, vị ấy mở mắt ra cũng thấy thế giới này, nhắm mắt lại cũng thấy thế giới khác, bốn khổ cảnh cũng hiện hữu cùng vị ấy. Vị tỳ khưu có giới tồi giống như là bị một trăm ngọn giáo đâm vào đầu, vị ấy (sẽ) la hét ‘đừng, đừng’ rồi chết. Vì lý do đó đức Thế Tôn mới nói rằng: “Bị mê muội khi mệnh chung”. Câu thứ năm đơn giản
- Ānisaṃsakathā vuttavipariyāyena veditabbā.
- Lời nói về lợi ích: Nên biết giảng giải đối nghịch với điều đã được nói.
- Bahudeva rattiṃ dhammiyā kathāyāti aññāya pāḷimuttakāya dhammikathāya ceva āvasathānumodanāya ca ākāsagaṅgaṃ otārento viya yojanappamāṇaṃ mahāmadhuṃ pīḷetvā madhupānaṃ pāyento viya bahudeva rattiṃ sandassetvā sampahaṃsetvā uyyojesi. Abhikkantāti atikkantā khīṇā khayavayaṃ upetā[35]. Suññāgāranti pāṭiyekkaṃ suññāgāraṃ nāma natthi, tattheva pana ekapasse sāṇipākārena parikkhipitvā — “Idha satthā vissamissatī”ti mañcakaṃ paññapesuṃ. Bhagavā — “catūhipi iriyāpathehi paribhuttaṃ etesaṃ mahapphalaṃ bhavissatī”ti tattha sīhaseyyaṃ kappesi. Taṃ sandhāya vuttaṃ — “suññāgāraṃ pāvisī”ti.
- Bằng bài Pháp thoại đến tận đêm khuya: (Đức Thế Tôn) khi đã chỉ dạy, (đã động viên, đã khuyến khích) đã tạo niềm phấn khởi, đạt đến sự chấm dứt và sự hoại diệt đến tận đêm khuya, rồi gửi đến bằng bài Pháp thoại đề cập đến một bài giảng khác không có trong văn bản Pāḷī và bởi lời nói về sự tùy hỷ cúng dường nhà nghỉ trọ y như thể băng qua hư không Gaṅga, như thể vắt tổ ong lớn kích thước một do-tuần rồi cho đại chúng uống mật ngọt ấy. Đã trôi qua: đã trôi qua, đã cạn kiệt, đã tan rã, đã hoại diệt. Ngôi nhà trống vắng: ngôi nhà trống vắng riêng biệt (từng vị) là không có, nhưng chính trong trường hợp này dân chúng ở tại Pāṭaligāma bao quanh bởi bức tường, tức là bức màn đặt một bên rồi sắp đặt chiếc giường với mong muốn rằng: “bậc Đạo Sư sẽ nghỉ ngơi ở nơi này.” Đức Thế Tôn Tôn đã áp dụng thế nằm của sư tử trên chiếc giường ấy (với ý muốn rằng) – “Ngôi nhà nghỉ này Như Lai sử dụng thành thạo với cả bốn oai nghi, những phước thiện ấy sẽ có kết quả to lớn cho dân chúng Pāṭaligāma.” Ngài muốn đề cập đến ngôi nhà nghỉ trọ ấy mới nói rằng: “đức Thế Tôn đã đi vào ngôi nhà trống vắng.”
Giảng Giải Việc Xây Dựng Thành Pāṭaliputta
- Sunidhavassakārāti sunidho ca vassakāro ca dve brāhmaṇā. Magadhamahāmattāti magadharañño mahāmattā mahāamaccā, magadharaṭṭhe vā mahāmattā mahatiyā issariyamattāya samannāgatāti magadhamahāmattā. Pāṭaligāme nagaranti pāṭaligāmaṃ nagaraṃ katvā māpenti. Vajjīnaṃ paṭibāhāyāti vajjirājakulānaṃ āyamukhapacchindanatthaṃ. Sahassevāti[36] ekekavaggavasena sahassaṃ sahassaṃ hutvā. Vatthūnīti gharavatthūni. Cittāni namanti nivesanāni māpetunti raññañca rājamahāmattānañca nivesanāni māpetuṃ vatthuvijjāpāṭhakānaṃ cittāni namanti. Te kira attano sippānubhāvena heṭṭhā pathaviyaṃ tiṃsahatthamatte ṭhāne — “idha nāgaggāho, idha yakkhaggāho, idha bhūtaggāho, pāsāṇo vā khāṇuko vā atthī”ti passanti. Te tadā sippaṃ jappitvā devatāhi saddhiṃ mantayamānā viya māpenti. Athavā nesaṃ sarīre devatā adhimuccitvā tattha tattha nivesanāni māpetuṃ cittaṃ nāmenti. Tā catūsu koṇesu khāṇuke koṭṭetvā vatthumhi gahitamatte paṭivigacchanti. Saddhānaṃ kulānaṃ saddhā devatā tathā karonti, assaddhānaṃ kulānaṃ assaddhā devatāva. Kiṃ kāraṇā? Saddhānañhi evaṃ hoti — “idha manussā nivesanaṃ māpetvā paṭhamaṃ bhikkhusaṅghaṃ nisīdāpetvā maṅgalaṃ vaḍḍhāpessanti[37]. Atha mayaṃ sīlavantānaṃ dassanaṃ, dhammakathaṃ, pañhāvissajjanaṃ, anumodanañca sotuṃ labhissāma, manussā dānaṃ datvā amhākaṃ pattiṃ dassantī”ti.
- Sunīdha và Vassakāra: cả hai vị Bà-la-môn là Sunīdha và Vassakāra. Quan đại thần xứ Magadha: quan đại thần là quan cận thần của đức vua thành Magadha, hoặc gọi là quan đại thần trong thành Magadha bởi quan cận thận trong xứ Magadha do hội đủ quyền lực to lớn. Xây dựng thành trì ở Pāṭaligāma: xây dựng (ngôi làng) Pāṭaligāma trở thành thành trì. Để ngăn cản các người Vajjī: để cắt đứt sự bành trướng của triều đại xứ Vajjī. Hàng ngàn vị: mỗi nhóm được tính đến hàng ngàn vị. Vatthūni: nơi xây cất nhà. Tâm cũng hướng đến để xây dựng các nhà ở: tâm của quan đại thần vị xem coi địa lý hướng đến để xây dựng gian nhà lớn dâng cho đức vua và quan đại thần của đức vua. Được biết rằng: các quan đại thần ấy nhờ oai lực thuộc ngành nghề của mình, nhìn thấy bên dưới mặt đất khoảng sáu mươi cánh tay rằng: Ở đây Long vương chiếm giữ, ở đây Dạ-xoa chiếm giữ, ở đây loài hữu tình chiếm giữ, có đất đá hoặc gốc cây”. Khi đó, các quan đại thần đã đọc niệm ngành nghề xây dựng giống như tham khảo ý kiến với các Thiên nhân. Khi ấy, Thiên nhân ngự ở thân các quan đại thần ấy, hướng tâm đến để xây dựng gian nhà lớn ở tại nơi ấy, khi vị ấy vừa đóng cọc vào bốn gốc các vị Thiên nhân ấy mới năng lui tới khu vực đó. Thiên nhân có đức tin được làm như thế đối với gia đình có đức tin, vị Thiên nhân không có đức tin cũng làm như thế đối với gia đình không có đức tin. Vì lý do gì? Bởi vì người có đức tin có suy nghĩ như vậy rằng – “Mọi người ở đời này, khi xây dựng nhà cửa, đầu tiên thỉnh mời vị tỳ khưu an tọa sẽ làm tăng trưởng phước lành. Khi ấy chúng ta cũng sẽ được nhìn thấy người có giới, lắng nghe Pháp thoại, giải đáp vấn đề và tùy hỷ, những người bố thí vật thí sẽ cho phần phước báu đến ta.”
Tāvatiṃsehīti yathā hi ekasmiṃ kule ekaṃ paṇḍitamanussaṃ, ekasmiṃ vā vihāre ekaṃ bahussutabhikkhuṃ upādāya — “asukakule manussā paṇḍitā, asukavihāre bhikkhū bahussutā”ti saddo abbhuggacchati, evameva sakkaṃ devarājānaṃ vissakammañca[38] devaputtaṃ upādāya — “tāvatiṃsā paṇḍitā”ti saddo abbhuggato. Tenāha — “tāvatiṃsehī”ti. Tāvatiṃsehi saddhiṃ mantetvāpi viya māpentīti attho.
Cõi Đao Lợi: Tiếng tăm vang dội rằng: mọi người trong gia đình kia, y cứ một người thuộc bậc sáng trí trong một gia đình (sẽ) trở thành bậc sáng trí; hoặc một vị tỳ khưu trong tịnh xá kia, y cứ vị tỳ khưu là một bậc đa văn trong một tịnh xá (sẽ) trở thành một bậc đa văn trong một tịnh xá như thế nào; tiếng tăm vang dội chư Thiên cõi Đao Lợi nương nhờ vua trời Sakka và Thiên tử Vissakamma trở thành bậc trí cũng tương tự y như thế ấy. Vì thế, đức Thế Tôn mới nói rằng: “…cõi Đao Lợi.” Giải thích rằng: Sau khi xây dựng giống như là đã thỉnh ý với chư Thiên cõi trời Đao Lợi.
Yāvatā ariyaṃ āyatananti yattakaṃ ariyakamanussānaṃ osaraṇaṭṭhānaṃ nāma atthi. Yāvatā vaṇippathoti yattakaṃ vāṇijānaṃ ābhatabhaṇḍassa rāsivaseneva kayavikkayaṭṭhānaṃ nāma, vāṇijānaṃ vasanaṭṭhānaṃ vā atthi. Idaṃ agganagaranti tesaṃ ariyāyatanavaṇippathānaṃ idaṃ agganagaraṃ jeṭṭhakaṃ pāmokkhaṃ bhavissatīti. Puṭabhedananti bhaṇḍapuṭabhedanaṭṭhānaṃ, bhaṇḍabhaṇḍikānaṃ[39] mocanaṭṭhānanti vuttaṃ hoti. Sakalajambudīpe aladdhabhaṇḍampi hi idheva labhissanti, aññattha vikkayena agacchantampi ca idheva gamissati[40]. Tasmā idheva puṭaṃ bhindissantīti attho. Catūsu hi dvāresu cattāri sabhāyaṃ[41] ekanti evaṃ divase divase pañcasatasahassāni uṭṭhahissantīti dasseti.
Chừng nào còn là nơi gặp gỡ của những người Ariya: Gọi là nơi gặp gỡ của loài người Ariyaka có chừng ấy. Chừng nào còn là nơi mua bán của các thương buôn: gọi là nơi mua bán với hàng đống vật phẩm do các thương lái mang đến, hoặc làm chỗ ở của thương gia có chừng nào. Pāṭaliputta này sẽ là thành phố hàng đầu: Thành phố hành đầu này sẽ trở thành kinh thành cường thịnh, là thành phố lớn đối với các Ariyaka và các thương buôn ấy. Nơi bốc dỡ hàng hóa: Nơi bốc dỡ hàng hóa, ngài giải thích rằng: là nơi phân phát hàng hóa của chủ hàng hóa khác nhau. Bởi vì mọi người không nhận được hàng hóa ở toàn cõi Jambudīpa cũng sẽ nhận được ở chính nơi đây, luôn cả người không đi buôn bán ơ nơi khác cũng sẽ đi được ở nơi này. Vi thế, họ sẽ chỉ bốc dỡ hàng hóa ở nơi này. Ngài thuyết rằng: thật vậy, mỗi ngày giá trị hàng hóa sẽ tăng thêm năm trăm ngàn, như vầy cả bốn cổng thành ở bốn phía là bốn trăm ngàn, ở giữa thành là một trăm ngàn.
Aggito vātiādīsu cakārattho vā-saddo. Agginā ca udakena ca mithubhedena ca nassissatīti attho. Ekakoṭṭhāso agginā nassissati, nibbāpetuṃ na sakkhissanti. Ekaṃ gaṅgā gahetvā gamissati. Eko — “iminā akathitaṃ amussa, amunā akathitaṃ imassā”ti vadantānaṃ pisuṇavācānaṃ vasena bhinnānaṃ manussānaṃ aññamaññabhedeneva nassissatīti attho. Iti vatvā bhagavā paccūsakāle gaṅgāya tīraṃ gantvā katamukhadhovano bhikkhācāravelaṃ āgamayamāno nisīdi.
Từ ‘vā’ trong cụm từ ‘aggito vā’ đồng nghĩa với ‘ca’ nghĩa là sẽ tiêu tan do lửa, hoặc do nước, hoặc do sự chia rẽ nội bộ. Một phận bị tiêu tan do lửa, không thể dập tắt; Một phần do sông Gaṅgā thổi đi. Một phần sẽ tiêu tan do sự chia rẽ lẫn nhau của nhóm người chia rẽ do tác động lời nói đâm thọc được nói rằng: “Người này không nói chuyện với người kia, người kia không nói chuyện với người này.” Đức Thế Tôn đã nói như vậy: Thời gian gần sáng ngài đi đến mé sông Gaṅgā, rửa sạch gương mặt, ngồi chờ đợi chư tỳ khưu đi khất thực.
- Sunidhavassakārāpi — “amhākaṃ rājā samaṇassa gotamassa upaṭṭhāko, so amhe pucchissati, ‘satthā kira pāṭaligāmaṃ agamāsi, tassa santikaṃ upasaṅkamittha, na upasaṅkamitthā’ti. Upasaṅkamimhāti ca vutte — ‘nimantayittha, na nimantayitthā’ti ca pucchissati. Na nimantayimhāti ca vutte amhākaṃ dosaṃ āropetvā niggaṇhissati. Idaṃ cāpi mayaṃ āgataṭṭhāne nagaraṃ māpema, samaṇassa kho pana gotamassa gatagataṭṭhāne kāḷakaṇṇisattā paṭikkamanti, taṃ mayaṃ nagaramaṅgalaṃ vadāpessāmā”ti cintetvā satthāraṃ upasaṅkamitvā nimantayiṃsu. Tasmā — “atha kho sunidhavassakārā”tiādi vuttaṃ.
- Còn phía quan đại thần xứ Magadha tên là Sunidha và Vassakāra – “Đức vua của chúng tôi là người hầu cận của Sa-môn Gotama,’ ngài sẽ hỏi chúng tôi ‘được biết bậc Đạo Sư đã đến Pāṭaligāma, các ngài đến yết kiến bậc Đạo Sư, hay chưa đến yết kiến?’ Và khi đáp rằng: chúng tôi đã đến yết kiến – Và sẽ hỏi rằng: “Các ngài đã được thỉnh mời, hay chưa thỉnh mời”. Và đã đáp rằng: “vẫn chưa được thỉnh mời, sẽ tha thứ lỗi lầm của chúng tôi, chúng tôi sẽ xây dựng kinh thành ở chỗ chưa xây dựng, ở chỗ Sa-môn Gotama đã đi nhóm chúng sanh kāḷakaṇṇī sẽ rời khỏi, đã nghĩ rằng: “Chúng tôi sẽ nói những điều phước lành đến kinh thành,” sau khi đến yết kiến bậc Đạo Sư đã thỉnh cầu. Vì thế ngài mới nói rằng – “Sau đó, Sunīdha và Vassakāra…”
Pubbaṇhasamayanti pubbaṇhakāle. Nivāsetvāti gāmappavesananīhārena nivāsanaṃ nivāsetvā kāyabandhanaṃ bandhitvā. Pattacīvaramādāyāti pattañca cīvarañca ādiyitvā kāyappaṭibaddhaṃ katvā.
Vào buổi sáng: vào buổi sáng. Đã quấn y (nội): đã quấn y nội, đã buộc dây thắt lưng theo truyền thống bước vào làng. Đã cầm lấy bình bát và y: Đã cầm lấy bình bát và y phục kèm theo bên ngài.
Sīlavantetthāti sīlavante ettha. Saññateti kāyavācāmanehi saññate.
Sīlavantettha tách từ thành sīlavante ettha (tại nơi đây, vị có giới). Vị thu thúc: Vị thu thúc thân, khẩu và ý.
Tāsaṃ dakkhiṇamādiyeti saṅghassa dinne cattāro paccaye tāsaṃ gharadevatānaṃ ādiseyya, pattiṃ dadeyya. Pūjitā pūjayantīti — “ime manussā amhākaṃ ñātakāpi na honti, evampi no pattiṃ dentī”ti ārakkhaṃ susaṃvihitaṃ karothāti suṭṭhu ārakkhaṃ karonti. Mānitā mānayantīti kālānukālaṃ balikammakaraṇena mānitā “ete manussā amhākaṃ ñātakāpi na honti, catumāsachamāsantare no balikammaṃ karontī”ti mānenti, mānentiyo uppannaṃ parissayaṃ haranti[42].
Cúng dường đến các Thiên nhân đã ngụ tại nơi ấy: Nên hồi hướng bốn món vật dụng được cúng dường đến chư Tăng, là nên hồi hướng phần phước báu đến chư Thiên thường trú ngụ ở những ngôi nhà ấy. Được tôn vinh sẽ tôn vinh người ấy: Thiên nhân bảo vệ một cách tốt đẹp, ra lệnh rằng: “những người này dầu không phải thân quyến của ta, cũng cho phần phước báu đến chúng ta như vậy”. Vì vậy chúng ta hãy sắp xếp bảo vệ tốt (đến họ). Được kính trọng sẽ kính trọng người ấy: Chư Thiên được mọi người kính trọng bằng việc hiến tặng vào thời điểm thích hợp sẽ kính trọng, tức là loại bỏ những nguy hiểm nảy sinh bởi thấy rằng “những người này dù không phải là thân quyến của chúng ta cũng đã hiến tặng cho chúng tôi trong giai đoạn bốn tháng và sáu tháng.
Tato nanti tato naṃ paṇḍitajātikaṃ manussaṃ. Orasanti ure ṭhapetvā saṃvaḍḍhitaṃ, yathā mātā orasaṃ puttaṃ anukampati, uppannaparissayaharaṇatthameva tassa vāyamati, evaṃ anukampantīti attho. Bhadrāni passatīti sundarāni passati.
Do đó: từ đó vị Thiên nhân thương mến người sáng trí ấy. Đứa con trai ruột thịt: Đã đặt ở ngực cho phát triển trọn vẹn. Giải thích rằng: thương mến như vậy giống như người mẹ thương yêu đứa con trai được sanh ra từ ngực, ra sức loại bỏ mối nguy hiểm sanh ra từ đó. Gặp được các điều tốt lành: nhìn thấy các điều tốt lành.
- Uḷumpanti pāragamanatthāya āṇiyo koṭṭetvā kataṃ. Kullanti valliādīhi bandhitvā kataṃ.
- Xuồng: phương tiện được vị ấy đóng nêm chế tạo để sang bờ bên kia (xuồng). Bè: phương tiện được vị ấy sử dụng dây leo v.v, kết lại (bè).
“Ye taranti aṇṇavan”ti gāthāya aṇṇavanti sabbantimena paricchedena yojanamattaṃ gambhīrassa ca puthulassa ca udakaṭṭhānassetaṃ adhivacanaṃ. Saranti idha nadī adhippetā. Idaṃ vuttaṃ hoti, ye gambhīravitthataṃ taṇhāsaraṃ taranti, te ariyamaggasaṅkhātaṃ setuṃ katvāna. Visajja pallalāni anāmasitvā udakabharitāni ninnaṭṭhānāni. ayaṃ pana idaṃ appamattakaṃ taritukāmopi kullañhi jano pabandhati. buddhā ca buddhasāvakā ca vināyeva kullena tiṇṇā medhāvino janāti.
‘Aṇṇavaṃ’ trong kệ ngôn “Ye taranti aṇṇavaṃ – Những người băng qua biển cả, hồ nước” đây là sự định danh ở khu vực nước sâu và rộng theo sự xác định tối thiểu khoảng một do-tuần. Biển cả: ngài muốn đề cập đến dòng nước. Có lời giải thích rằng: Người băng qua biển cả tham ái vừa sâu vừa rộng, đã xây dựng một cây cầu được xem là Thánh Đạo. Băng qua vũng bùn, tức là không chạm hồ nước đầy bởi nước, vượt qua. Về phần người này, dù muốn băng qua sông dù chỉ có một chút ít nước cũng cần phải buộc chiếc bè. Còn vị có trí tuệ là đức Phật và các đệ tử của đức Phật không cần phải sử dụng chiếc bè cũng (có thể) vượt qua.
Giảng Giải Tụng Phẩm Thứ Nhất được kết thúc
Giảng về sự thấu triệt bốn chân lý cao thượng
- Koṭigāmoti mahāpanādassa pāsādakoṭiyaṃ katagāmo. Ariyasaccānanti ariyabhāvakarānaṃ saccānaṃ. Ananubodhāti abujjhanena ajānanena. Appaṭivedhāti appaṭivijjhanena. Sandhāvitanti bhavato bhavaṃ gamanavasena sandhāvitaṃ. Saṃsaritanti punappunaṃ gamanāgamanavasena saṃsaritaṃ. Mamañceva tumhākañcāti mayā ca tumhehi ca. Atha vā sandhāvitaṃ saṃsaritanti sandhāvanaṃ saṃsaraṇaṃ mamañceva tumhākañca ahosīti emamettha attho veditabbo. Bhavanetti samūhatāti bhavato bhavaṃ nayanasamatthā taṇhārajju suṭṭhu hatā chinnā appavattikatā.
- Làng Koṭigāma: Ngôi làng được xây dựng ở cuối cung điện của vua Mahāpanāda. Chân lý cao thượng: Chân lý được thực hiện để trở thành cao thượng. Do không giác ngộ: Do không giác ngộ, tức là không hiểu biết. Do không thấu triệt: do không thấu triệt. Đã trải qua: Đã trải qua do tác động từ kiếp sống này sang kiếp sống khác. Đã luân hồi: Đã luân hồi qua việc đi đi lại lại lần này lần khác. Mà chính Ta và các ngươi: Ta và các ngươi. Hơn nữa, nên biết ý nghĩa trong câu này như vầy ‘đã trải qua, đã luân hồi: đã trải qua, đã luân hồi đã có nơi ta và các ngươi. Lối dẫn đến hữu đã được bứng lên: Sợi dây tham ái có thể dẫn dắt chúng sanh từ kiếp sống này đi đến kiếp sống khác mà Ta và các ngươi đã bứng gốc, đã cắt đứt, đã làm không vận hành một cách tốt đẹp.
Giảng về làng Nātikāgāma
- Nātikāti ekaṃ taḷākaṃ nissāya dvinnaṃ cūḷapitumahāpituputtānaṃ dve gāmā. Nātiketi ekasmiṃ ñātigāmake. Giñjakāvasatheti iṭṭhakāmaye āvasathe.
- Làng Nātika: Hai ngôi làng của con của hai chú và bác nằm gần một hồ nước. Ở làng Nātike: ngôi làng thân quyến là một làng. Ngôi nhà gạch: nơi nghỉ ngơi được làm bằng gạch.
- Orambhāgiyānanti heṭṭhābhāgiyānaṃ, kāmabhaveyeva paṭisandhiggāhāpakānanti attho. Oranti laddhanāmehi vā tīhi maggehi pahātabbānītipi orambhāgiyāni. Tattha kāmacchando, byāpādoti imāni dve samāpattiyā vā avikkhambhitāni, maggena vā asamucchinnāni nibbattavasena uddhaṃ bhāgaṃ rūpabhavañca arūpabhavañca gantuṃ na denti. Sakkāyadiṭṭhiādīni tīṇi tattha nibbattampi ānetvā puna idheva nibbattāpentīti sabbānipi orambhāgiyāneva. Anāvattidhammāti paṭisandhivasena anāgamanasabhāvā.
- Năm sự ràng buộc thuộc hạ phần: thuộc hạ phần, giải thích rằng: làm cho tái tục trong chính cõi Dục giới. Hơn nữa, sự ràng buộc thuộc hạ phần có thể dứt bỏ bằng cả ba Đạo gọi là hà phần. Trong các sự ràng buộc ấy, hai sự ràng buộc này là sự mong muốn về dục, sự thù oán không thể chế ngự bằng thiền chứng hoặc không thể cắt đứt bằng Đạo, không dẫn đến Sắc giới và Vô sắc giới bậc cao. Ba sự ràng buộc có sự nhận thức sai lầm về thân v.v, dẫn dắt chúng sanh dẫu được sanh ra vào kiếp đó lại tiếp tục được sanh vào chính kiếp này nữa. Vì thế, cả ba sự trói buộc mới gọi là sự trói buộc thuộc hạ phần. Có pháp không còn quay trở lại: Bản thể pháp không quay trở lại do tác động sự tục sanh.
Rāgadosamohānaṃ tanuttāti ettha kadāci karahaci uppattiyā ca, pariyuṭṭhānamandatāya cāti dvedhāpi tanubhāvo veditabbo. Sakadāgāmissa hi puthujjanānaṃ viya abhiṇhaṃ rāgādayo nuppajjanti, kadāci karahaci uppajjanti. uppajjamānā ca puthujjanānaṃ viya bahalabahalā nuppajjanti, makkhikāpattaṃ viya tanukatanukā uppajjanti. Dīghabhāṇakatipiṭakamahāsīvatthero panāha — “Yasmā sakadāgāmissa puttadhītaro honti, orodhā ca honti, tasmā bahalā kilesā. Idaṃ pana bhavatanukavasena kathitan”ti. Taṃ aṭṭhakathāyaṃ — “Sotāpannassa sattabhave ṭhapetvā aṭṭhame bhave bhavatanukaṃ natthi. Sakadāgāmissa dve bhave ṭhapetvā pañcasu bhavesu bhavatanukaṃ natthi. Anāgāmissa rūpārūpabhave ṭhapetvā kāmabhave bhavatanukaṃ natthi. khīṇāsavassa kismiñci bhave bhavatanukaṃ natthī”ti vuttattā paṭikkhittaṃ hoti.
Có sự giảm thiểu của luyến ái, sân hận, và si mê: ở đây, nên biết bản thể giảm thiểu bởi hai biểu hiện là ít khi, hiếm khi với sự sanh khởi và có sự tiềm ẩn. Thật vậy, ái luyến v.v, không thường sanh khởi đối bậc Thánh Bất Lai giống như hạng phàm nhân, (nhưng) ít khi hiếm khi sanh khởi. Tuy nhiên, khi sanh khởi không sanh khởi quá nhiều giống như hạng phàm nhân sanh khởi mỏng manh, giống như chậu đựng cá. Hơn nữa, trưởng lão Mahāsīva, vị biên soạn bộ Dīghabhāṇakatipiṭaka đã nói rằng: “Do bậc Thánh Bất Lai vẫn còn có vợ con và vẫn còn có người gần gũi, vì thế còn có phiền não dày đặc. Nhưng lời này ngài nói đến (phiền não) do tác động kiếp sống giảm thiểu.” Khi đó, trong Chú-giải ngài phản đối – do ngài đã nói rằng: “Đối với bậc Thánh Nhập Lưu ngoại trừ kiếp sống thứ 7, không có phiền não giảm thiểu trong kiếp thứ 8. Đối với bậc Thánh Nhất Lai ngoại trừ kiếp sống thứ 2, không có phiền não giảm thiểu trong cả 5 kiếp sống. Đối với bậc Thánh Bất Lai ngoại trừ Sắc giới và Vô sắc giới, không có phiền não giảm thiểu ở Dục giới. Bậc Lậu Tận không có phiền não giảm thiểu trong bất kỳ kiếp sống nào khác nữa.”
Imaṃ lokanti imaṃ kāmāvacaralokaṃ sandhāya vuttaṃ. Ayañcettha adhippāyo, sace hi manussesu sakadāgāmiphalaṃ patto devesu nibbattitvā arahattaṃ sacchikaroti, iccetaṃ kusalaṃ. Asakkonto pana avassaṃ manussalokaṃ āgantvā sacchikaroti. Devesu sakadāgāmiphalaṃ pattopi sace manussesu nibbattitvā arahattaṃ sacchikaroti, iccetaṃ kusalaṃ. Asakkonto pana avassaṃ devalokaṃ gantvā sacchikarotīti.
Thế giới này: ở dây ngài đề cập đến cõi Dục giới. Và ở đây, điều này giải thích như sau, nếu như bậc Thánh nhân chứng đắc bậc Thánh Quả Nhất Lai ở thế giới nhân loại, rồi hóa sanh vào Thiên giới tác chứng phẩm vị A-ra-hán, điều này là tốt đẹp. Nhưng khi không thể trở lại cõi người thì chắc chắn tác chứng phẩm vị A-ra-hán. Còn bậc Thánh nhân vị chứng đắc Thánh Quả Nhất Lai ở Thiên giới, nếu sanh vào nhân giới (sẽ) tác chứng phẩm vị A-ra-hán, điều này là tốt đẹp. Còn không thể đến Thiên giới thì chắc chắn chứng đắc phẩm vị A-ra-hán.
Avinipātadhammoti ettha vinipatanaṃ vinipāto, nāssa vinipāto dhammoti avinipātadhammo. Catūsu apāyesu avinipātadhammo catūsu apāyesu avinipātasabhāvoti attho. Niyatoti dhammaniyāmena niyato. Sambodhiparāyaṇoti uparimaggattayasaṅkhātā sambodhi paraṃ ayanaṃ assa gati paṭisaraṇaṃ avassaṃ pattabbāti sambodhiparāyaṇo.
Có Pháp không bị thối đọa: Ở đây, bị thối đọa gọi là đọa xứ, ‘có Pháp không bị thoái đọa’ này (của vị Nhập Lưu ấy) là có bản chất không thối đọa, vì thế vị Nhập Lưu ấy gọi là có Pháp không bị thối đọa trong bốn đọa xứ, có thực tính không bị thối đọa. Là vị chắc chắn: đã được chắc chắn bởi quy luật vận hành của Pháp. Có sự giác ngộ là đích đến: Sự giác ngộ được xem là ba Đạo cao, là đường đi, là nơi diễn tiến, là nơi nương nhờ, cần phải đạt được chắc chắn, (vì thế) gọi là ‘có sự giác ngộ là đích đến’.
Bài giảng Pháp tên Gương Pháp
- Vihesāti tesaṃ tesaṃ ñāṇagatiṃ ñāṇūpapattiṃ ñāṇābhisamparāyaṃ olokentassa kāyakilamathova esa, ānanda, tathāgatassāti dīpeti, cittavihesā pana buddhānaṃ natthi. Dhammādāsanti dhammamayaṃ ādāsaṃ. Yenāti yena dhammādāsena samannāgato. Khīṇāpāyaduggativinipātoti idaṃ nirayādīnaṃyeva vevacanavasena vuttaṃ. Nirayādayo hi vaḍḍhisaṅkhātato ayato apetattā apāyā. dukkhassa gati paṭisaraṇanti duggati. Ye dukkaṭakārino, te ettha vivasā nipatantīti vinipātā.
- Điều ấy sẽ đem lại sự phiền toái: Thuyết giảng rằng: Này Ānanda điều ấy sẽ đem lại sự mệt nhọc về thân của Như Lai, vị quan sát ñāṇagati (sự đi của trí) ñāṇūpapatti (sự sanh khởi của trí) ñāṇābhisamparāya (sự sẽ tái sanh của trí) của những chúng sanh ấy, nhưng sự mệt nhọc về tâm thì không có ở nơi chư Phật. Gương Pháp: Gương là Pháp. Từ ‘yena’ là vị hội đủ bởi gương Pháp nào đó. Đã cạn kiệt về đọa xứ, khổ cảnh, nơi trừng phạt: điều này ngài nói về phương diện từ đồng nghĩa với chính địa ngục v.v. Thật vậy, địa ngục v.v, (gọi là) đọa xứ bởi thoát khỏi sự tăng trưởng, khổ cảnh bởi đi qua cảnh giới khác làm nơi y cứ của khổ. Nơi trừng phạt: bởi là nơi rơi vào không dư sót của những người làm điều xấu ác.
Aveccappasādenāti buddhaguṇānaṃ yathābhūtato ñātattā acalena accutena pasādena. Upari padadvayepi eseva nayo. Itipi so bhagavātiādīnaṃ pana vitthāro visuddhimagge vutto.
Niềm tịnh tín bất động: với niềm tịnh tín không lung lay bởi biết đến ân đức Phật đúng theo thực thể. Luôn cả hai câu trên cũng có phương cách tương tự. Còn phần giảng giải ‘Đức Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán…’ được nói chi tiết trong bộ Thanh Tịnh Đạo.
Ariyakantehīti ariyānaṃ kantehi piyehi manāpehi. Pañca sīlāni hi ariyasāvakānaṃ kantāni honti, bhavantarepi avijahitabbato. Tāni sandhāyetaṃ vuttaṃ. sabbopi panettha saṃvaro labbhatiyeva.
Được yêu quý bởi các bậc Thánh: được yêu quý, được yêu mến, được ưa thích bởi các bậc Thánh. Năm giới: được yêu quý bởi bậc Thánh, do ngài không từ bỏ luôn cả trong kiếp sống khác. Ngài đề cập năm giới ấy mới nói điều này. Nhưng trong trường hợp này bao gồm tất cả sự thu thúc.
Sotāpannohamasmīti idaṃ desanāsīsameva. sakadāgāmiādayopi pana sakadāgāmīhamasmītiādinā nayena byākaronti yevāti. sabbesampi hi sikkhāpadāvirodhena yuttaṭṭhāne byākaraṇaṃ anuññātameva hoti.
Tôi là vị Nhập Lưu: đây chỉ là tiêu đề của Pháp thoại. Tuy nhiên, luôn cả vị Nhất Lai v.v, được tuyên bố theo phương cách bắt đầu là ‘tôi là vị Nhất Lai’. Việc tuyên bố của các vị Thánh Thinh văn đệ tử ở vị trí phù hợp không vi phạm điều học, chiến là điều mà đức Thế Tôn đã cho phép.
Giảng về câu chuyện tại khu vườn của Ambapālī
- Vesāliyaṃ viharatīti ettha tena kho pana samayena vesālī iddhā ceva hoti phītācātiādinā khandhake[43] vuttanayena vesāliyā sampannabhāvo veditabbo. Ambapālivaneti ambapāliyā gaṇikāya uyyānabhūte ambavane. Sato bhikkhaveti bhagavā ambapālidassane satipaccupaṭṭhānatthaṃ visesato idha satipaṭṭhānadesanaṃ ārabhi. tattha saratīti sato. Sampajānātīti sampajāno. Satiyā ca sampajaññena ca samannāgato hutvā vihareyyāti attho. Kāye kāyānupassītiādīsu yaṃ vattabbaṃ, taṃ mahāsatipaṭṭhāne vakkhāma.
- Trú tại Vesālī: nên biết thành phố Vesalī là một thành phố hoàn hảo, theo phương cách được nói đến trong Khandhaka-vinaya: “Vào lúc bấy giờ thành Vesālī là thành phố phồn thịnh, giàu có v.v. Tại khu vườn Ambapālī: ở tại khu vườn xoài của nàng Ambapālī Gaṇikā. Này chư tỳ khưu, vị tỳ khưu có niệm: Đức Thế Tôn bắt đầu chỉ bảo về sự thiết lập niệm ở đây chi tiết để cho sự thiết lập niệm hiện khởi trong việc thuyết giảng ở tại khu vườn của Ambapālī. Trong câu đó ‘sato’ do có niệm; ‘sampajāno’ do có sự nhận biết rõ. Giải thích rằng: nên trở thành vị gắn liền với niệm và sự nhận biết rõ. Tôi sẽ nói lời cần nói trong câu ‘có sự quan sát thân ở thân’ trong bài Kinh Đại Kinh Thiết Lập Niệm.
Nīlāti idaṃ sabbasaṅgāhakaṃ. Nīlavaṇṇātiādi tasseva vibhāgadassanaṃ. tattha na tesaṃ pakativaṇṇo nīlo, nīlavilepanavilittattā panetaṃ vuttaṃ. Nīlavatthāti paṭadukūlakoseyyādīnipi tesaṃ nīlāneva honti. Nīlālaṅkārāti nīlamaṇīhi nīlapupphehi alaṅkatā, rathāpi tesaṃ nīlamaṇikhacitā nīlavatthaparikkhittā nīladdhajā nīlavammikehi nīlābharaṇehi nīlāssehi yuttā, patodalaṭṭhiyopi nīlā yevāti. Iminā nayena sabbapadesu attho veditabbo. Parivaṭṭesīti pahari[44]. Kiṃ je ambapālīti jeti ālapanavacanaṃ, bhoti ambapāli, kiṃ kāraṇāti vuttaṃ hoti. “kiñcā”tipi pāṭho, ayamevettha attho. Sāhāranti sajanapadaṃ. aṅguliṃ phoṭesunti aṅguliṃ cālesuṃ. ambakāyāti itthikāya.
Màu xanh v.v, nói chung tất cả màu sắc. Có vẻ bên ngoài màu xanh: là sự phân loại của chính màu sắc đó. Trong từ đó, ngài đã nói lời này rằng: Bởi có những màu sắc đó, không phải màu xanh bình thường, nếu như trộn lẫn với màu xanh. Y phục màu xanh: y phục thông thường, y phục vỏ cây và y phục mới v.v, gọi là màu xanh đối với những y phục ấy. Luôn cả những cổ xe của những vị Licchavī ấy cũng được trang trí với ngọc ma-ni xanh, trang trí bằng y phục xanh, có cờ xanh, kết hợp với người lính mặc áo giáp màu xanh, đồ trang sức màu xanh ngựa xanh lồng vào với con ngựa màu xanh, luôn cả cây roi cũng có màu xanh. Ý nghĩa của các đoạn kế tiếp cũng nên hiểu theo phương thức này. Đã đối đầu: đã đụng nhau. ‘Je’ trong câu ‘kiṃ je ambapālī – Này nàng Ambapālī’ là từ dùng để gọi, giải thích rằng: Này nàng Ambapālī, nguyên nhân gì? Từ ‘kiñca’ cũng có, ở đây ý nghĩa cũng như thế tương tự. (Cho dù các cậu) nhường lại (thành Vesālī luôn cả dân cư cho tôi): luôn cả dân chúng. Đã búng ngón tay: gồm rung lắc ngón tay. Nàng Ambapālī: người phụ nữ.
Yesanti karaṇatthe sāmivacanaṃ, yehi adiṭṭhāti vuttaṃ hoti. Olokethāti passatha. Avalokethāti punappunaṃ passatha. Upasaṃharathāti upanetha. Imaṃ licchaviparisaṃ tumhākaṃ cittena tāvatiṃsasadisaṃ upasaṃharatha upanetha allīyāpetha. yatheva tāvatiṃsā abhirūpā pāsādikā nīlādinānāvaṇṇā, evamime licchavirājānopīti tāvatiṃsehi samake katvā passathāti attho.
Yesaṃ: là Sở hữu cách (cách thứ 6) dừng trong ý nghĩa Sở dụng cách (cách thứ 3), giải thích rằng: các tỳ khưu nào chưa nhìn thấy. Hãy quan sát: hãy nhìn. Hãy quan sát kỹ: hãy nhìn thường xuyên. Có vẻ giống: dẫn đến. Giải thích rằng: Các ngươi hãy đem lại so sánh tập thể các vị Licchavī này tương tự chư Thiên cõi Đao Lợi với tâm của các ngươi, hãy xem có vẻ giống chư Thiên cõi Đao Lợi rằng: Ngay cả các vị vua Licchavī này cũng giống như chư Thiên cõi Đao Lợi xinh đẹp đáng tịnh tín, có vẻ ngoài khác biệt, có vẻ bên ngoài màu xanh v.v.
Kasmā pana bhagavā anekasatehi suttehi cakkhādīnaṃ rūpādīsu nimittaggāhaṃ paṭisedhetvā idha mahantena ussāhena nimittaggāhe uyyojetīti? Hitakāmatāya. Tatra kira ekacce bhikkhū osannavīriyā, tesaṃ sampattiyā palobhento — “appamādena samaṇadhammaṃ karontānaṃ evarūpā issariyasampatti sulabhā”ti samaṇadhamme ussāhajananatthaṃ āha. Aniccalakkhaṇavibhāvanatthañcāpi evamāha. Nacirasseva hi sabbepime ajātasattussa vasena vināsaṃ pāpuṇissanti. Atha nesaṃ rajjasirisampattiṃ disvā ṭhitabhikkhū — “tathārūpāyapi nāma sirisampattiyā vināso paññāyissatī”ti aniccalakkhaṇaṃ bhāvetvā saha paṭisambhidāhi arahattaṃ pāpuṇissantīti aniccalakkhaṇavibhāvanatthaṃ āha.
Vì sao, đức Thế Tôn đã ngăn cấm nội xứ có nhãn xứ v.v, để nắm lấy hiện tướng ở ngọai xứ có sắc xứ v.v, với hàng trăm bài Kinh, ở bài Kinh này ngài khuyên các tỳ khưu nắm lấy hiện tướng bằng sự nỗ lực lớn lao? Vì mong muốn sự lợi ích. Được biết một số vị tỳ khưu trong thành Vesālī ấy có sự tinh tấn yếu ớt. Đức Thế Tôn khi sử dụng sự thành tựu của chư Thiên cõi Đao Lợi an ủi mới nói để cho các tỳ khưu ấy khởi lên sự nỗ lực (thực hành) Sa-môn Pháp – “Khi vị tỳ khưu thực hành Sa-môn Pháp với sự không xao lãng cũng dễ dàng đạt được sự thành tựu uy quyền có hình thức như vậy.” Đức Thế Tôn thuyết như vậy nhằm mục đích làm sáng tỏ tướng trạng vô thường (cũng được). Thật vậy, không bao lâu tất cả các vua Licchavī này cũng sẽ đi đến sự suy vong do quyền lực của vua Ajātasattu. Khi ấy, (đức Thế Tôn) đã nói để làm sáng tỏ tướng vô thường (với mong muốn): Sau khi thấy các tỳ khưu đứng nhìn sự thành tựu vương quyền của các vua Licchavī ấy, đã tu tập vô thường tướng rằng: “Sự sụp đổ của vương quyền có hình thức như thế sẽ xuất hiện,” rồi sẽ chứng đắc phẩm vị A-ra-hán cùng với tứ tuệ phân tích.
Adhivāsetūti ambapāliyā nimantitabhāvaṃ ñatvāpi kasmā nimantentīti? asaddahanatāya ceva vattasīsena ca. Sā hi dhuttā itthī animantetvāpi nimantemīti vadeyyāti tesaṃ cittaṃ ahosi, dhammaṃ sutvā gamanakāle ca nimantetvā gamanaṃ nāma manussānaṃ vattameva.
Xin hãy nhận lời: Vì sao, các vị Licchavī dầu biết được rằng đức Thế Tôn đã nhận lời thỉnh mời của nàng Ambapālī rời mới thỉnh mời. Bởi vì không tin và bởi truyền thống. Bởi các vị Licchavī ấy nghĩ rằng: kỹ nữ ấy không thỉnh mời (mà) nói thỉnh mời. Cũng tin rằng việc đến thỉnh mời vào lúc đi nghe Pháp chính là truyền thống nhân loại.
Giảng về việc đi đến làng Veḷuvagāma
- Veḷuvagāmakoti vesāliyā samīpe veḷuvagāmo. Yathāmittantiādīsu mittā mittāva. Sandiṭṭhāti tattha tattha saṅgamma diṭṭhamattā nātidaḷhamittā. Sambhattāti suṭṭhu bhattā sinehavanto daḷhamittā. Yesaṃ yesaṃ yattha yattha evarūpā bhikkhū atthi, te te tattha tattha vassaṃ upethāti attho. Kasmā evamāha? Tesaṃ phāsuvihāratthāya. tesañhi veḷuvagāmake senāsanaṃ nappahoti, bhikkhāpi mandā. Samantā vesāliyā pana bahūni senāsanāni, bhikkhāpi sulabhā, tasmā evamāha. Atha kasmā — “yathāsukhaṃ gacchathā”ti na vissajjesi? Tesaṃ anukampāya. Evaṃ kirassa ahosi — “ahaṃ dasamāsamattaṃ ṭhatvā parinibbāyissāmi, sace ime dūraṃ gacchissanti, mama parinibbānakāle daṭṭhuṃ na sakkhissanti. Atha nesaṃ — “satthā parinibbāyanto amhākaṃ satimattampi na adāsi, sace jāneyyāma, evaṃ na dūre vaseyyāmā”ti vippaṭisāro bhaveyya. Vesāliyā samantā pana vasantā māsassa aṭṭha vāre āgantvā dhammaṃ suṇissanti, sugatovādaṃ labhissantī”ti na vissajjesi.
- Đi đến làng Veḷuva: làng Veḷuva gần thành Vesālī. Bạn cũng là bạn bè trong cụm tử ‘Yathāmittaṃ – nơi nào có bạn bè’ v.v. Có người quen biết: Người bạn chỉ gặp nhau ở nơi này nơi kia được gọi là một người bạn từng gặp chứ không phải là một người bạn lâu dài. Có người thân thiết: Người bạn gần gũi nhau một cách tốt đẹp, là bạn bền vững. Giải thích rằng: Các ngươi hãy vào (an cư) mùa mưa ở nơi có các tỳ khưu có hình thức như vậy. Tại sao đức Thế Tôn nói như vậy? Bởi Đức Phật mong muốn cho các vị tỳ khưu ấy sống thoải mái. Sự thật, chỗ cư ngụ ở làng Veḷuva không đủ cho các vị tỳ khưu ấy, ngay cả các vị tỳ khưu có ít. Còn xung quanh thành Vesālī chỗ cư ngụ có nhiều, các vị tỳ khưu dễ tìm kiếm, vì thế ngài mới nói như vậy. Vậy thì vì sao không trả lời ‘Các ngươi hãy đi một cách thoải mái?’ Vì lòng thương tưởng các vị tỳ khưu ấy. Được biết ngài đã suy nghĩ rằng: – “Ta chỉ sống thêm mười tháng cũng sẽ viên tịch Niết Bàn, nếu như các vị tỳ khưu này sẽ đi xa, sẽ không thể nhìn thấy ta vào thời gian viên tịch Niết Bàn, như thế các vị ấy sẽ khởi sự ân hận rằng – “Bậc Đạo Sư khi viên tịch Niết Bàn không ban cho chúng ta dầu chỉ có niệm, nếu như chúng ta biết, chúng ta sẽ không ở xa như vậy.” Không trả lời rằng: “Các vị tỳ khưu ở xung quanh thành Vesālī sẽ đến nghe Pháp mỗi tháng tám lần, sẽ nhận được lời giáo huấn của đức Thiện Thệ.”
- Kharoti pharuso. Ābādhoti visabhāgarogo. Bāḷhāti balavatiyo. Māraṇantikāti maraṇantaṃ maraṇasantikaṃ pāpanasamatthā. Sato sampajāno adhivāsesīti satiṃ sūpaṭṭhitaṃ katvā ñāṇena paricchinditvā adhivāsesi. Avihaññamānoti vedanānuvattanavasena aparāparaṃ parivattanaṃ akaronto apīḷiyamāno adukkhiyamānova adhivāsesi . Anāmantetvāti ajānāpetvā. Anapaloketvāti na apaloketvā ovādānusāsaniṃ adatvāti vuttaṃ hoti. Vīriyenāti pubbabhāgavīriyena ceva phalasamāpattivīriyena ca. Paṭipaṇāmetvāti vikkhambhetvā. Jīvitasaṅkhāranti ettha jīvitampi jīvitasaṅkhāro. Yena jīvitaṃ saṅkhariyati chijjamānaṃ ghaṭetvā ṭhapiyati, so phalasamāpattidhammopi jīvitasaṅkhāro. So idha adhippeto. Adhiṭṭhāyāti adhiṭṭhahitvā pavattetvā, jīvitaṭṭhapanasamatthaṃ phalasamāpattiṃ samāpajjeyyanti ayamettha saṅkhepattho.
- Dữ dội: dữ dội. Có cơn bệnh: bệnh tật là kẻ thù. Khốc liệt: khốc liệt. Gần như chết: có thể đi đến gần như chết, gần đến sự chết. trú niệm, có sự nhận biết rõ, chịu đựng: đã thiết lập niệm vững chắc, đã xác định bởi trí, chịu đựng. Không bị suy sụp: Không tạo ra các biểu hiện bồn chồn chiều theo cảm thọ, không bị cảm thọ chi phối, không khổ đau, chấp nhận được (cảm thọ ấy). Không báo cho các thị giả: không báo cho các thị giả biết. Không nhắn nhủ hội chúng tỳ khưu: không nhắn nhủ hội chúng tỳ khưu, ngài giải thích rằng: không ban lời giáo huấn chỉ dạy. Bằng sự tinh tấn: bằng sự tinh tấn ban đầu và bằng sự tinh tấn tương ưng với sự thể nhập thánh quả. Đã áp chế: đã chế ngự. Luôn cả mạng sống cũng gọi là duy trì mạng sống trong cụm từ duy trì mạng sống này. Mạng sống thuộc pháp nào tạo tác dẫn đến cắt đứt cũng tiếp tục vững trú, luôn cả Pháp thuộc sự thể nhập thánh quả ấy cũng gọi là duy trì mạng sống – Jīvitasaṅkhāro. Pháp là sự thể nhập thánh quả ấy ngài muốn đề cập ở đây. Đã quyết định: Đã phát nguyện, đã vận hành. Ý nghĩa vắn tắt trong câu này như vầy: ta nên thể nhập thánh quả để có thể duy trì mạng sống.
Kiṃ pana bhagavā ito pubbe phalasamāpattiṃ na samāpajjatīti? samāpajjati. sā pana khaṇikasamāpatti. Khaṇikasamāpatti ca antosamāpattiyaṃyeva vedanaṃ vikkhambheti, samāpattito vuṭṭhitamattassa kaṭṭhapātena vā kaṭhalapātena vā chinnasevālo viya udakaṃ puna sarīraṃ vedanā ajjhottharati. Yā pana rūpasattakaṃ arūpasattakañca niggumbaṃ nijjaṭaṃ katvā mahāvipassanāvasena samāpannā samāpatti, sā suṭṭhu vikkhambheti. Yathā nāma purisena pokkharaṇiṃ ogāhetvā hatthehi ca pādehi ca suṭṭhu apabyūḷho sevālo cirena udakaṃ ottharati; evameva tato vuṭṭhitassa cirena vedanā uppajjati. Iti bhagavā taṃ divasaṃ mahābodhipallaṅke abhinavavipassanaṃ paṭṭhapento viya rūpasattakaṃ arūpasattakaṃ niggumbaṃ nijjaṭaṃ katvā cuddasahākārehi sannetvā mahāvipassanāya vedanaṃ vikkhambhetvā — “dasamāse mā uppajjitthā”ti samāpattiṃ samāpajji. samāpattivikkhambhitā vedanā dasamāse na uppajji yeva.
Vì lẽ gì Đức Thế Tôn không thể nhập sự thể nhập thánh quả trước đó? (Ngài) thể nhập (sự thể nhập thánh quả). Tuy nhiên, sự thể nhập thánh quả ấy là tạm thời định (khaṇikasamāpatti). Thật vậy, khaṇikasamāpatti áp chế cảm thọ bên trong sự thể nhập tuyệt đối, vừa mới xuất khỏi sự thể nhập cảm thọ (ấy) tiếp tục chi phối cơ thể giống như rong biển bị rách do một thanh gỗ hoặc miếng ngói rơi xuống, phủ nước trở lại như ban đầu. Hơn nữa, sự thể nhập của hành giả thực hành nhóm bảy của Sắc và nhóm bảy của Vô sắc được gỡ rối, được rõ ràng đã đạt đến do tác động của (thiền) đại minh sát gọi là áp chế một cách tốt đẹp. Giống như rong biển được người đàn ông xuống nước rồi dùng tay và chân rẽ (nước) khéo léo, sẽ mất nhiều thời gian để để ngập nước như thế nào, vị xuất khỏi sự thể nhập thánh quả thì thời gian dài cảm thọ mới sanh khởi tương tự như thế ấy. Như thế, đức Thế Tôn như thiết lập minh sát mới ở tại cội đại thọ Bồ-đề vào ngày hôm ấy, chìm xuống với mười bốn biểu hiện thực hiện nhóm bảy của Sắc, nhóm bảy của Vô sắc được tháo gỡ, được rõ ràng, sau khi áp chế cảm thọ nhờ đại minh sát đã thể nhập bằng sự thể nhập thánh quả với mong muốn rằng: “Mong cảm thọ đừng sanh trong suốt mười tháng”. Cảm thọ được áp chế bằng sự thể nhập đã không sanh khởi trong suốt mười tháng.
Gilānā vuṭṭhitoti[45] gilāno hutvā puna vuṭṭhito. Madhurakajāto viyāti sañjātagarubhāvo sañjātathaddhabhāvo sūle uttāsitapuriso viya. Na pakkhāyantīti nappakāsanti, nānākārato na upaṭṭhahanti. Dhammāpi maṃ na paṭibhantīti satipaṭṭhānādidhammā mayhaṃ pākaṭā na hontīti dīpeti. Tantidhammā pana therassa supaguṇā. Na udāharatīti pacchimaṃ ovādaṃ na deti. Taṃ sandhāya vadati.
Khi đã qua khỏi cơn bệnh: Bệnh tật đã qua khỏ. (Thân thể như là) bị sững sờ: Giống như người đàn ông nằm ngửa trên ngọn giáo, gây ra tính chất rắn chắc và cứng đờ. Không được nhận ra: không rõ ràng, không hiện hữu với các biểu hiện khác nhau. Luôn cả các Pháp cũng không sáng tỏ với con: ngài chỉ ra rằng luôn cả Pháp là sự thiết lập niệm không hiện khởi cùng con, nhưng Pháp là Chánh Tạng thì trưởng lão hiểu biết rành rẽ. Chưa nói ra: Chưa ban lời giáo huấn cuối cùng. Ngài Ānanda đề cập đến ‘lời giáo huấn cuối cùng’.
- Anantaraṃ abāhiranti dhammavasena vā puggalavasena vā ubhayaṃ akatvā. “Ettakaṃ dhammaṃ parassa na desessāmī”ti hi cintento dhammaṃ abbhantaraṃ karoti nāma. “Ettakaṃ parassa desessāmī”ti cintento dhammaṃ bāhiraṃ karoti nāma. “imassa puggalassa desessāmī”ti cintento pana puggalaṃ abbhantaraṃ karoti nāma. “Imassa na desessāmī”ti cintento puggalaṃ bāhiraṃ karoti nāma. Evaṃ akatvā desitoti attho. Ācariyamuṭṭhīti yathā bāhirakānaṃ ācariyamuṭṭhi nāma hoti. daharakāle kassaci akathetvā pacchimakāle maraṇamañce nipannā piyamanāpassa antevāsikassa kathenti, evaṃ tathāgatassa — “idaṃ mahallakakāle pacchimaṭṭhāne kathessāmī”ti muṭṭhiṃ katvā “pariharissāmī”ti ṭhapitaṃ kiñci natthīti dasseti.
- Không có bên trong, không có bên ngoài: Ta (đức Thế Tôn) không thực hiện cả hai về phương diện Pháp và về phương diện Hạng người. Khi suy nghĩ rằng: “Ta sẽ không thuyết giảng Pháp chừng này cho hạng người khác” gọi là thực hiện Pháp ở bên trong. Khi suy nghĩ rằng: “Ta sẽ thuyết giảng Pháp chừng này cho hạng người khác” gọi là thực hiện Pháp ở bên ngoài. Hơn nữa, khi suy nghĩ rằng: “Ta sẽ thuyết giảng cho người này” gọi là thực hiện hạng người ở bên trong. Khi suy nghĩ rằng: “Ta sẽ không thuyết giảng cho người này” gọi là thực hiện hạng người ở bên ngoài. Nghĩa là không thực hiện như vầy khi thuyết giảng. Nắm tay của vị thầy: gọi là nắm tay của vị thầy có cùng vị đạo sư ở ngoài Phật Giáo. Những bậc đạo sư bên ngoài không nói cho bất cứ ai vào lúc còn trẻ, khi nằm trên chiếc giường tử biệt vào lúc cuối đời mới nói với các đệ tử được quý mến, được yêu quý theo phương thức nào, nghề nghiệp gì ‘ta sẽ cai quản’, được thiết lập, làm thành nắm tay rằng: “sẽ nói vấn đề này khi về già vào lúc cuối đời” không có nơi đức Như Lai theo phương thức ấy.
Ahaṃ bhikkhusaṅghanti ahameva bhikkhusaṅghaṃ pariharissāmīti vā mamuddesikoti ahaṃ uddisitabbaṭṭhena uddeso assāti mamuddesiko. Maṃyeva uddisitvā mama paccāsīsamāno bhikkhusaṅgho hotu, mama accayena vā mā ahesuṃ, yaṃ vā taṃ vā hotūti iti vā yassa assāti attho. Na evaṃ hotīti bodhipallaṅkeyeva issāmacchariyānaṃ vihatattā evaṃ na hoti. Sa kinti so kiṃ. Āsītikoti asītisaṃvacchariko. Idaṃ pacchimavayānuppattabhāvadīpanatthaṃ vuttaṃ. Veṭhamissakenāti[46] bāhabandhacakkabandhādinā paṭisaṅkharaṇena veṭhamissakena. Maññeti jiṇṇasakaṭaṃ viya veṭhamissakena maññe yāpeti. Arahattaphalaveṭhanena catuiriyāpathakappanaṃ tathāgatassa hotīti dasseti.
Ta (sẽ cai quản) hội chúng tỳ khưu: Chỉ có ta sẽ cai quản hội chúng tỳ khưu, hoặc ‘hội chúng tỳ khưu tán thán ta,’ Ta làm nơi cư trú của hội chúng tỳ khưu ấy với ý nghĩa hội chúng tỳ khưu có thể mượn danh ta, do đó hội chúng tỳ khưu ấy gọi là có ta làm nơi cư trú, giải thích rằng hội chúng tỳ khưu hãy ca ngợi ta, mong muốn riêng ta, khi ta viên tịch hoặc khi không có nhóm tỳ khưu, hoặc có sự diễn biến, hoặc hội chúng tỳ khưu nào có suy nghĩ như đã trình bày. Ý nghĩ như vầy là không có (đối với Như Lai): Điều đó (ý nghĩ) là không phải như vậy bởi vì ganh tỵ và bỏn xẻn ta đã phá tan ở ngay tại cội Bồ-đề. Sakiṃ tách thành ‘so kiṃ’. Tuổi thọ của Ta là tám mươi: Tuổi thọ của Ta là tám mươi. Điều này nói đến bản chất đã đạt đến giai đoạn cuối của tuổi già theo tuần tự. Sự gắn kết của các dây chằng: (gồm) nhờ vào các dây chằng để sửa chữa như buộc vào chống, buộc vào bánh v.v. Tương tự: (Như Lai) nghĩ rằng thân thể của Như Lai chuyển động được (nhờ vào sự gắn kết của các pháp nâng đỡ) tương tự y như cỗ xe cũ kỹ chuyển động được nhờ vào các dây chằng, ngài thuyết rằng: Như Lai thành tựu bốn oai nghi với sự gắn kết là Thánh Quả A-ra-hán.
Idāni tamatthaṃ pakāsento yasmiṃ, ānanda, samayetiādimāha. Tattha sabbanimittānanti rūpanimittādīnaṃ. Ekaccānaṃ vedanānanti lokiyānaṃ vedanānaṃ. Tasmātihānandāti yasmā iminā phalasamāpattivihārena phāsu hoti, tasmā tumhepi tadatthāya evaṃ viharathāti dasseti. Attadīpāti mahāsamuddagatadīpaṃ viya attānaṃ dīpaṃ patiṭṭhaṃ katvā viharatha. Attasaraṇāti attagatikāva hotha, mā aññagatikā. dhammadīpa-dhammasaraṇapadesupi eseva nayo. Tamataggeti tamāgge. Majjhe takāro padasandhivasena vutto. Idaṃ vuttaṃ hoti — “Ime aggatamāti tamataggā”ti. Evaṃ sabbaṃ tamayogaṃ[47] chinditvā ativiya agge uttamabhāve ete, ānanda, mama bhikkhū bhavissanti. tesaṃ atiagge bhavissanti, ye keci sikkhākāmā, sabbepi te[48] catusatipaṭṭhānagocarāva bhikkhū agge bhavissantīti arahattanikūṭena desanaṃ saṅgaṇhāti.
Bây giờ, khi thuyết giảng ý nghĩa câu đó nên mới nói rằng: “Này Ānanda, khi nào Như Lai v.v.” Trong câu đó ‘tất cả các hiện tướng’: Sắc tướng v.v. Với sự diệt tận của một số cảm thọ: Những cảm thọ thuộc Hiệp Thế. Vì thế, ở đây, này Ānanda: Thuyết rằng: nguyên nhân có sự thoải mái, có được bởi sự an trú trong sự thể nhập thánh quả, vì thế các ngươi cũng hãy sống như vậy vì lợi ích cho sự thoải mái. Có bản thân là hòn đảo: Các ngươi hãy sống làm cho bản thân có được sự nâng đỡ tựa như hòn đảo ở giữa đại dương. Có bản thân là nơi nương tựa: Hãy trở về (nương nhờ) chính mình, chứ không đi đến (nương nhờ) kẻ khác. Luôn cả trong câu ‘có Giáo Pháp là hòn đảo, có Giáo Pháp là nơi nương tựa’ cũng có phương thức tương tự. Tối thắng hạng nhất: có Pháp ấy là tối thắng. Mẫu từ ‘ta’ ở giữa, ngài nói về phương diện từ liên kết. Điều này đã được nói – Này Ānanda, những vị tỳ khưu ấy sau khi cắt đứt sự ràng buộc với tất cả sự tối thắng như vầy rằng “những vị tỳ khưu ấy này cũng tối thắng hạng nhất, những vị này cũng tối thắng hạng nhất” sẽ sống trong Pháp vô cùng tối thắng, trong bản thể tối thượng, sẽ có Pháp vô cùng tối thắng đối với những vị ấy, đối với vị nào có sự mong muốn học tập, tất cả những vị ấy có bốn sự thiết lập niệm làm đối tượng sẽ có pháp tối thượng, tóm lại Pháp thoại với đỉnh cảo là quả vị A-ra-hán.
Tụng Phẩm Thứ Hai được kết thúc
Giảng Về Sự Viên Tịch của Vị Đệ Tử Hàng Đầu
- Vesāliṃ piṇḍāya pāvisīti kadā pāvisi? Ukkacelato[49] nikkhamitvā vesāliṃ gatakāle. Bhagavā kira vuṭṭhavasso veḷuvagāmakā nikkhamitvā sāvatthiṃ gamissāmīti āgatamaggeneva paṭinivattanto anupubbena sāvatthiṃ patvā jetavanaṃ pāvisi. Dhammasenāpati bhagavato vattaṃ dassetvā divāṭṭhānaṃ gato. So tattha antevāsikesu vattaṃ dassetvā paṭikkantesu divāṭṭhānaṃ sammajjitvā cammakkhaṇḍaṃ paññapetvā pāde pakkhāletvā pallaṅkaṃ ābhujitvā phalasamāpattiṃ pāvisi. Athassa yathāparicchedena tato vuṭṭhitassa ayaṃ parivitakko udapādi — “buddhā nu kho paṭhamaṃ parinibbāyanti, agasāvakā nu kho”ti? Tato — “aggasāvakā paṭhaman”ti ñatvā attano āyusaṅkhāraṃ olokesi. So — “sattāhameva me āyusaṅkhāro pavattatī”ti ñatvā — “kattha parinibbāyissāmī”ti cintesi. Tato — “rāhulo tāvatiṃsesu[50] parinibbuto, aññāsikoṇḍaññatthero chaddantadahe, ahaṃ kattha parinibbāyissāmī”ti puna cintento mātaraṃ ārabbha satiṃ uppādesi — “mayhaṃ mātā sattannaṃ arahantānaṃ mātā hutvāpi buddhadhammasaṅghesu appasannā, atthi nu kho tassā upanissayo, natthi nu kho”ti āvajjetvā sotāpattimaggassa upanissayaṃ disvā — “kassa desanāya abhisamayo bhavissatī”ti olokento — “mameva dhammadesanāya bhavissati, na aññassa. Sace kho panāhaṃ appossukko bhaveyyaṃ, bhavissanti me vattāro — ‘sāriputtatthero avasesajanānampi avassayo hoti. Tathā hissa samacittasuttadesanādivase[51] koṭisatasahassadevatā arahattaṃ pattā . tayo magge paṭividdhadevatānaṃ gaṇanā natthi. Aññesu ca ṭhānesu anekā abhisamayā dissanti. Thereva cittaṃ pasādetvā sagge nibbattāneva asītikulasahassāni. So dāni sakamātumicchādassanamattampi harituṃ nāsakkhī’ti. Tasmā mātaraṃ micchādassanā mocetvā jātovarakeyeva parinibbāyissāmī”ti sanniṭṭhānaṃ katvā — “ajjeva bhagavantaṃ anujānāpetvā nikkhamissāmī”ti cundattheraṃ āmantesi. “āvuso, cunda, amhākaṃ pañcasatāya bhikkhuparisāya saññaṃ dehi — ‘gaṇhathāvuso pattacīvarāni, dhammasenāpati nāḷakagāmaṃ gantukāmo’ti”. Thero tathā akāsi. Bhikkhū senāsanaṃ saṃsāmetvā pattacīvaramādāya therassa santikaṃ āgamaṃsu. Thero senāsanaṃ saṃsāmetvā divāṭṭhānaṃ sammajjitvā divāṭṭhānadvāre ṭhatvā divāṭṭhānaṃ olokento — “idaṃ dāni pacchimadassanaṃ, puna āgamanaṃ natthī”ti pañcasatabhikkhuparivuto bhagavantaṃ upasaṅkamitvā vanditvā etadavoca —
- Đi vào thành Vesālī để khất thực: ngài đi vào (thành) khi nào? Vào lúc ngài rời khỏi làng Ukkacela đã đi đến thành Vesālī. Được biết rằng đức Thế Tôn đã trải qua mùa an cư, sau khi rời khỏi Veḷuvagāma sẽ đi đến thành Sāvatthī rồi quay trở lại bằng chính con đường đã đến (với ý nghĩ) khi đến thành Sāvatthī theo tuần tự rồi đi vào tịnh xá Jetavana. Tướng quân Chánh pháp đã thực hành phận sự đối với đức Thế Tôn rồi đi vào nghỉ ban ngày. Khi các đệ tử thực hành phận sự ở Jetavana ấy trở về, ngài cũng quét dọn ở chỗ nghỉ ban ngày, trải ra tấm da, rửa chân, xếp chân thế kiết già, nhập vào sự thể nhập thánh quả. Khi ngài xuất khỏi sự thể nhập thánh quả theo sự xác định có ý nghĩ suy tầm như vầy đã khởi lên – “Phải chăng chư Phật viên tịch Niết Bàn trước, (hay) vị Thinh Văn đệ nhất?” Khi biết được – “Vị Thinh Văn đệ nhất (sẽ viên tịch Niết Bàn) trước” đã xem xét thọ hành của mình. Vị ấy biết được rằng – “Thọ hành của mình chỉ duy trì được bảy ngày” – nghĩ rằng “sẽ viên tịch Niết Bàn như thế nào?” Lúc ấy, khi suy nghĩ rằng – “Rāhula viên tịch Niết Bàn ở cung trời Đao Lợi, trưởng lão Aññāsikoṇḍañña ở hồ Chaddanta, ta sẽ viên tịch Niết Bàn ở đâu?” Mẫu thân của ta dầu là mẹ của bảy vị A-ra-hán vẫn không tịnh tín nơi đức Phật, Giáo Pháp và Chư Tăng, có chăng mẫu thân có đủ nhân duyên, (hay) không đủ nhân duyên (giác ngộ)? Sau khi hướng tâm đã thấy được nhân duyên của Nhập Lưu Đạo, trong khi xem xét – “Mẫu thân sẽ chứng đắc bằng Pháp thoại của ai?” (biết được) “Sẽ chứng đắc bằng sự thuyết giảng Giáo Pháp của ta, không phải của người khác. Nhưng nếu ta có thể trở thành người không năng động, mọi người sẽ nói ta rằng – “Trưởng lão Sāriputta chỉ làm nơi nương tựa cho những người khác.” Thật vậy vào ngày thuyết giảng bài Kinh Samacitta của ngài có hàng trăm ngàn Koṭi Thiên nhân đều chứng đắc phẩm vị A-ra-hán, những Thiên nhân chứng đắc 3 quả thấp tính không xuể. Và ở chỗ khác xuất hiện sự lãnh hội rất nhiều. Do tâm đã được tịnh tín nơi trưởng lão (mà) có đến tám mươi ngàn gia đình đã sanh vào cõi trời. Bây giờ, trưởng lão không thể loại trừ tà kiến của mẹ mình được.’ Vì thế, nên đã quyết định rằng: “Sau khi giải thoát mẫu thân thoát khỏi tà kiến ta sẽ viên tịch Niết Bàn ở căn phòng nhỏ nơi (ta) được sinh ra” – (nghĩ tiếp) “Sau khi được đức Thế Tôn cho phép ta sẽ rời khỏi vào ngay ngày hôm nay” nên đã gọi trưởng lão Cunda đến. (Nói rằng) “Này sư đệ, Cunda, sư đệ hãy nói với hội chúng tỳ khưu năm trăm vị của ta – hiền giả hãy cầm lấy bình bát và y phục, vị Tướng quân Chánh pháp mong muốn đi đến làng Nāḷakagāma”. Trưởng lão đã làm như thế. Các vị tỳ khưu thu xếp chỗ trú ngụ, cầm lấy y phục và mang bình bát đến gần trú xứ trưởng lão. Trưởng lão cũng thu xếp chỗ trú ngụ, quét dọn chỗ nghỉ ban ngày, đứng ở ngưỡng cửa nhìn ngắm chỗ nghỉ ban ngày (nhủ rằng) – “Đây là lần cuối ta nhìn cảnh vật này, sẽ không còn trở lại nữa,” cùng với năm trăm vị tỳ khưu tùy tùng, sau khi đi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi nói điều này –
“Chinno dāni bhavissāmi, lokanātha mahāmuni.
Gamanāgamanaṃ natthi, pacchimā vandanā ayaṃ.
jīvitaṃ appakaṃ mayhaṃ, ito sattāhamaccaye.
Nikkhipeyyāmahaṃ dehaṃ, bhāravoropanaṃ yathā.
Anujānātu me bhante, bhagavā, anujānātu sugato.
Parinibbānakālo me, ossaṭṭho āyusaṅkhāro”ti.
Buddhā pana yasmā “parinibbāhī”ti vutte maraṇasaṃvaṇṇanaṃ saṃvaṇṇenti nāma, “mā parinibbāhī”ti vutte vaṭṭassa guṇaṃ kathentīti micchādiṭṭhikā dosaṃ āropessanti[52], tasmā tadubhayampi na vadanti. Tena naṃ bhagavā āha — “kattha parinibbāyissasi sāriputtā”ti? “Atthi, bhante, magadhesu nāḷakagāme jātovarako, tatthāhaṃ parinibbāyissāmī”ti vutte “yassa dāni tvaṃ, sāriputta, kālaṃ maññasi, idāni pana te jeṭṭhakaniṭṭhabhātikānaṃ tādisassa bhikkhuno dassanaṃ dullabhaṃ bhavissatīti desehi tesaṃ dhamman”ti āha.
Thưa bậc đại Ẩn sĩ, đấng bảo hộ thế gian, bây giờ con sẽ cắt hết.
Không còn việc đi và đến, đây là lần đảnh lễ cuối cùng.
Mạng sống của con ít ỏi, kể từ đây trải qua bảy ngày.
Con sẽ vứt bỏ thân xác tựa như đặt gánh nặng xuống
Bạch ngài, mong đức Thế tôn hãy cho phép, mong Thiện Thệ hãy cho phép con
Giờ đây là thời điểm viên tịch Niết Bàn, con đã từ bỏ việc duy trì tuổi thọ.
Hơn nữa khi đức Thế Tôn trả lời: “Hãy nhập diệt Niết Bàn,” những kẻ tà kiến thích bắt lỗi (có thể) nói rằng: Ngài tán thán về sự chết. Còn nếu ngài trả lời: “Đừng nhập Niết Bàn,” họ lại cho rằng: Ngài tán thán về vòng luân sanh tử. Do đó, chư Phật không nói cả hai lời nói ấy. Vì thế đức Thế Tôn mới nói cùng trưởng lão – “Này Sāriputta, ngươi sẽ viên tịch Niết Bàn ở đâu?” – Trưởng lão đáp – “Thưa ngài, căn phòng nhỏ ở xứ Magadha, con sẽ viên tịch Niết Bàn ở chỗ ấy” – (Đức Thế Tôn) đã nói – “Này Sārīputta, bây giờ ngươi hãy làm những gì ngươi nghĩ là hợp thời, thời điểm này việc nhìn thấy vị tỳ khưu như ngươi đối với các huynh đệ của ngươi sẽ trở nên khó khăn, cho nên ngươi hãy thuyết giảng Giáo Pháp cho các vị ấy.
Thero — “satthā mayhaṃ iddhivikubbanapubbaṅgamaṃ dhammadesanaṃ paccāsīsatī”ti ñatvā bhagavantaṃ vanditvā tālappamāṇaṃ abbhuggantvā puna oruyha bhagavantaṃ vanditvā sattatālappamāṇe[53] antalikkhe ṭhito iddhivikubbanaṃ dassetvā dhammaṃ desesi. Sakalanagaraṃ sannipati. Thero oruyha bhagavantaṃ vanditvā “gamanakālo me, bhante”ti āha. Bhagavā “dhammasenāpatiṃ paṭipādessāmī”ti dhammāsanā uṭṭhāya gandhakuṭiabhimukho gantvā maṇiphalake aṭṭhāsi. Thero tikkhattuṃ padakkhiṇaṃ katvā catūsu ṭhānesu vanditvā — “bhagavā ito kappasatasahassādhikassa asaṅkhyeyyassa upari anomadassisammāsambuddhassa pādamūle nipatitvā tumhākaṃ dassanaṃ patthesiṃ. sā me patthanā samiddhā, diṭṭhā tumhe, taṃ paṭhamadassanaṃ, idaṃ pacchimadassanaṃ. puna tumhākaṃ dassanaṃ natthī”ti — vatvā dasanakha-samodhāna-samujjalaṃ añjaliṃ paggayha yāva dassanavisayo, tāva abhimukhova paṭikkamitvā “ito paṭṭhāya cutipaṭisandhivasena kismiñci ṭhāne gamanāgamanaṃ nāma natthī”ti vanditvā pakkāmi. Udakapariyantaṃ katvā mahābhūmicālo ahosi. Bhagavā parivāretvā ṭhite bhikkhū āha — “anugacchatha, bhikkhave, tumhākaṃ jeṭṭhabhātikan”ti. bhikkhū yāva dvārakoṭṭhakā agamaṃsu. Thero — “Tiṭṭhatha, tumhe āvuso, appamattā hothā”ti nivattāpetvā attano parisāyeva saddhiṃ pakkāmi. Manussā — “pubbe ayyo paccāgamanacārikaṃ carati, idaṃ dāni gamanaṃ na puna paccāgamanāyā”ti paridevantā anubandhiṃsu. tepi “appamattā hotha āvuso, evaṃbhāvino nāma saṅkhārā”ti nivattāpesi.
Trưởng lão biết rằng – “ Bậc Đạo Sư có ý muốn để ta thể hiện các loại thần thông khác nhau trước thuyết giảng Giáo Pháp”, sau khi đảnh lễ đức Thế Tôn đã bay lên cao khoảng bảy thân cây ta-la rồi bước xuống đảnh lễ đức Thế Tôn, đứng vững giữa hư không khoảng bảy thân cây ta-la thể hiện các loại thần thông, rồi thuyết giảng Giáo Pháp. Toàn bộ người dân thành phố tụ hội. Trưởng lão đã bước xuống đảnh lễ đức Thế Tôn, nói rằng: “Thưa ngài, đã đến lúc phải đi của con.” – Đức Thế Tôn ngồi trên Pháp tọa nghĩ rằng: Cho Sārīpatta thể hiện thần thông mới từ Pháp tọa đứng dậy đã đi hướng về phía Hương Thất, đứng trên bảo tọa ngọc ma-ni. Trưởng lão đã hướng vai phải nhiễu quanh ba lần, (và) đảnh lễ ở bốn phía (Hương Thất). – nói rằng “Trong thời gian hơn một a-tăng-kỳ và một trăm ngàn kiếp con đã phủ phục dưới đôi chân của bậc Chánh đẳng Chánh giác Anomadassī ước muốn gặp được ngài, sự ước muốn ấy của con đã thành tựu, con đã nhìn thấy ngài đó là lần gặp gỡ đầu tiên, còn đây là lần gặp mặt cuối cùng, sẽ không còn lần gặp mặt nào nữa.” – (ngài) chắp tay lên chói sáng với mười ngón tay gom chung lại, quay mặt đi cho đến khi khuất tầm nhìn, kể từ đây trở đi việc đi việc đến ở bất cứ chỗ nào do mãnh lực của sự tử và sự tái tục là không có” rồi ngài cúi đầu bái biệt. Đã có sự lay động của đại địa cầu, đã được bao quanh bởi nước. Đức Thế Tôn đã nói cùng các tỳ khưu đang đứng vây quanh rằng: “Này các tỳ khưu, hãy theo tiễn đưa vị huynh trưởng của các ngươi”, các vị tỳ khưu đưa tiễn đến cổng mái vòm. Trưởng lão đáp: – “Hãy dừng lại, này các sư đệ, các đệ hãy là người không xao lãng” rồi cho các vị ấy quay trở lại, tự mình đi cùng với hội chúng. Mọi người (dân chúng trong thành) đi theo than khóc rằng: “Trước đây, ngài đại đức đi rồi trở về. Còn lần ra đi này ngài sẽ không bao giờ trở lại nữa.” – Trưởng lão nói rằng: “Này chư vị, các vị chớ (sống) xao lãng, các hành chính là có bản chất như vậy,” rồi bảo họ quay trở về.
Atha kho āyasmā sāriputto antarāmagge sattāhaṃ manussānaṃ anuggahaṃ karonto sāyaṃ nāḷakagāmaṃ patvā gāmadvāre nigrodharukkhamūle aṭṭhāsi. atha uparevato nāma therassa bhāgineyyo bahigāmaṃ gacchanto theraṃ disvā upasaṅkamitvā vanditvā aṭṭhāsi. Thero taṃ āha — “atthi gehe te ayyikā”ti? āma, bhanteti. Gaccha amhākaṃ idhāgatabhāvaṃ ārocehi. “Kasmā āgato”ti ca vutte “ajja kira ekadivasaṃ antogāme bhavissati, jātovarakaṃ paṭijaggatha, pañcannaṃ bhikkhusatānaṃ nivāsanaṭṭhānaṃ jānāthā”ti. So gantvā “ayyike, mayhaṃ mātulo āgato”ti āha. idāni kuhinti? gāmadvāreti. ekakova, aññopi koci atthīti ? Atthi pañcasatā bhikkhūti. Kiṃ kāraṇā āgatoti? So taṃ pavattiṃ[54] ārocesi. Brāhmaṇī — “kiṃ nu kho ettakānaṃ vasanaṭṭhānaṃ paṭijaggāpeti, daharakāle pabbajitvā mahallakakāle gihī hotukāmo”ti cintentī jātovarakaṃ paṭijaggāpetvā pañcasatānaṃ bhikkhūnaṃ vasanaṭṭhānaṃ kāretvā daṇḍadīpikāyo jāletvā therassa pāhesi.
Khi ấy, ngài Sārīputta đã trợ giúp mọi người suốt bảy ngày trên đường đi, đến làng Nālakagāma vào buổi chiều, ngừng lại nghỉ ngơi ở dưới gốc cây đa gần cổng làng. Lúc đó, cháu trai của ngài tên Uparevata đi ra ngoài làng nhìn thấy trưởng lão, sau khi đến đã đảnh lễ rồi đứng một bên. Trưởng lão nói cùng cháu trai – “Bà ngoại của con có ở trong nhà không?” – Dạ có, thưa ngài. – Con hãy đi nói rằng: “ta đã đến chỗ này.” và khi bà ngoại hỏi rằng: “Vì sao đi đến?” – Hãy nói rằng: “Được biết ngài sẽ nghỉ ngơi một ngày trong nhà này, hãy sắp xếp căn phòng nhỏ nơi ta được sinh ra, và hãy sắp xếp chỗ ở dành cho năm trăm vị tỳ khưu.” – Người cháu đã đi và nói rằng: “Bà ơi, sư bác của con đã trở về.” – Bà ngoại hỏi “Bây giờ, đang ở đâu?” – Dạ ở gần cổng làng. – Đi một mình, hay có các vị tỳ khưu khác nữa. – Dạ cùng với năm trăm vị tỳ khưu. – Đến vì lý do gì? – Người cháu đã thuật lại chuyện ấy. Nữ Bà-la-môn nghĩ rằng: “Tại sao phải ra lệnh sắp xếp chỗ ở dành cho vị tỳ khưu chừng ấy, ông đã xuất gia khi còn trẻ lại muốn trở thành cư sĩ khi về già,” nên cho sắp xếp căn phòng nơi (vị ấy) sanh ra, cho làm chỗ ở dành cho năm trăm vị tỳ khưu.
Thero bhikkhūhi saddhiṃ pāsādaṃ abhiruhi, abhiruhitvā ca jātovarakaṃ pavisitvā nisīdi. Nisajjeva — “Tumhākaṃ vasanaṭṭhānaṃ gacchathā”ti bhikkhū uyyojesi. tesu gatamattesuyeva therassa kharo ābādho uppajji, lohitapakkhandikā māraṇantikā vedanā vattanti, ekaṃ bhājanaṃ pavisati, ekaṃ nikkhamati. Brāhmaṇī — “mama puttassa pavatti mayhaṃ na ruccatī”ti attano vasanagabbhadvāraṃ nissāya aṭṭhāsi. cattāro mahārājāno “dhammasenāpati kuhiṃ viharatī”ti olokentā “nāḷakagāme jātovarake parinibbānamañce nipanno, pacchimadassanaṃ gamissāmā”ti āgamma vanditvā aṭṭhaṃsu. Thero — Ke tumheti? Mahārājāno, bhanteti. Kasmā āgatatthāti? gilānupaṭṭhākā bhavissāmāti. Hotu, atthi gilānupaṭṭhāko, gacchatha tumheti uyyojesi. Tesaṃ gatāvasāne teneva nayena sakko devānamindo, tasmiṃ gate suyāmādayo mahābrahmā ca āgamiṃsu. Tepi tatheva thero uyyojesi.
Trưởng lão cùng với các vị tỳ khưu bước lên tòa lâu đài, sau khi bước vào căn phòng mà (ngài) được sanh ra rồi ngồi xuống. Sau đó ngài gửi các vị tỳ khưu đi và nói: “Hãy đi đến chỗ nghỉ của các sư đệ”. Khi các vị tỳ khưu vừa đi khỏi thì căn bệnh dư dội đã khởi lên nơi trưởng lão, bệnh kiết lỵ ra máu gây ra những cảm thọ (khốc liệt) gần như chết. Một thùng chứa được đem vào, một thùng chứa được mang ra. Nữ Bà-la-môn nghĩ rằng: “Việc đi của con trai ta không phải tìm sự ưa thích, đứng dựa vào cửa phòng của mình. Tứ Đại Thiên Vương quan sát rằng: “Vị Tướng quân Chánh pháp đang an trú ở đâu?” biết rằng: “(Ngài) nằm trên để viên tịch Niết Bàn trong căn phòng nơi (ngài) được sinh ra ở làng Nāḷaka, chúng ta sẽ đi viếng thăm ngài lần cuối.” – Trưởng lão hỏi: “Các vị là ai?” – Thưa ngài, chúng tôi là Tứ Đại Thiên Vương. – Các vị đến làm gì? – Chúng tôi sẽ chăm sóc bệnh. Trưởng lão gạt bỏ, được rồi, ta có người chăm sóc bệnh rồi, các vị hãy đi đi. Khi Tứ Đại Thiên Vương rời khỏi thì Thiên chủ Sakka cũng đến theo chính cách thức đó tương tự, khi Thiên chủ Sakka đi khỏi thì vị Thiên chúa cõi Dạ-ma v.v, và Đại Phạm Thiên cũng đến. Trưởng lão giải tán chư Thiên và Phạm Thiên ấy cũng như thế.
Brāhmaṇī devatānaṃ āgamanañca gamanañca disvā — “ke nu kho ete mama puttaṃ vanditvā gacchantī”ti therassa gabbhadvāraṃ gantvā — “tāta, cunda, kā pavattī”ti pucchi. So taṃ pavattiṃ ācikkhitvā — “mahāupāsikā, bhante āgatā”ti āha. Thero kasmā avelāya āgatatthāti pucchi. Sā tuyhaṃ tāta dassanatthāyāti vatvā “tāta ke paṭhamaṃ āgatā”ti pucchi. Cattāro mahārājāno, upāsiketi. Tāta, tvaṃ catūhi mahārājehi mahantataroti? Ārāmikasadisā ete upāsike, amhākaṃ satthu paṭisandhiggahaṇato paṭṭhāya khaggahatthā hutvā ārakkhaṃ akaṃsūti. Tesaṃ tāta, gatāvasāne ko āgatoti? sakko devānamindoti. Devarājatopi tvaṃ tāta, mahantataroti? Bhaṇḍagāhakasāmaṇerasadiso esa upāsike, amhākaṃ satthu tāvatiṃsato otaraṇakāle pattacīvaraṃ gahetvā otiṇṇoti. Tassa tāta gatāvasāne jotamāno viya ko āgatoti? Upāsike tuyhaṃ bhagavā ca satthā ca mahābrahmā nāma esoti. Mayhaṃ bhagavato mahābrahmatopi tvaṃ tāta mahantataroti? Āma upāsike, ete nāma kira amhākaṃ satthu jātadivase cattāro mahābrahmāno mahāpurisaṃ suvaṇṇajālena paṭiggaṇhiṃsūti.
Sau khi nữ Bà-la-môn nhìn thấy các vị Thiên đến và đi, nghĩ rằng “Những vị ấy là ai mà đến đảnh lễ con trai ta rồi rời đi?” bà đã đi đến của phòng của trưởng lão – hỏi rằng: “Này con thương Cunda, chuyện thế nào?” Trưởng lão đã kể lại chuyện ấy rồi nói rằng: “Thưa ngài, bà đại tín nữ đã đến.” – Trưởng lão hỏi: “Tại sao (bà) lại đến không phải thời?” – Bà đã nói: “Ta đến để thăm con” rồi hỏi “Này con thương, những người đã đến đầu tiên là ai?” – Thưa bà tín nữ là Tứ Đại Thiên Vương. – Này con thương, con vĩ đại hơn cả Tứ Đại Thiên Vương?” Thưa bà tín nữ, họ chỉ là những vị hộ pháp, cầm đao kiếm bảo vệ kể từ khi bậc Đạo Sư của chúng tôi đản sanh. – “Khi các vị ấy rời khỏi, vị kế tiếp đến thăm con là ai?” – “Thiên chủ Sakka.” – Này con thương, con vĩ đại hơn cả Thiên chủ Sakka? – “Thưa bà tín nữ, Thiên chủ Sakka như vị Sa-di giữ đồ vật, khi bậc Đạo Sư của chúng tôi trở về từ cung trời Đao thì vị ấy đã cầm lấy bình bát và y phục xuống”. – “Và khi Thiên chủ Sakka rời khỏi, ai đã đến thăm con mà hào quang tỏa sáng cả căn phòng?” – “Thưa bà tín nữ, đó là Đại Phạm Thiên cõi Tịnh Cư, vừa là vị có phước đức và cũng là bậc Đạo Sư của mẫu thân.” – Vậy thì con còn vĩ đại hơn Đại Phạm thiên? – Vâng, thưa bà tín nữ, ngày bậc Đạo Sư của chúng tôi đản sanh, cả bốn vị Đại Phạm Thiên đã sử dụng tấm lưới vàng để tiếp đỡ bậc Đại Nhân.”
Atha brāhmaṇiyā — “puttassa tāva me ayaṃ ānubhāvo, kīdiso vata mayhaṃ puttassa bhagavato satthu ānubhāvo bhavissatī”ti cintayantiyā sahasā pañcavaṇṇā pīti uppajjitvā sakalasarīre phari. Thero — “uppannaṃ me mātu pītisomanassaṃ, ayaṃ dāni kālo dhammadesanāyā”ti cintetvā — “Kiṃ cintesi mahāupāsike”ti āha. Sā — “puttassa tāva me ayaṃ guṇo, satthu panassa kīdiso guṇo bhavissatīti idaṃ, tāta, cintemī”ti āha. Mahāupāsike, mayhaṃ satthu jātakkhaṇe, mahābhinikkhamane, sambodhiyaṃ, dhammacakkappavattane ca dasasahassilokadhātu kampittha, sīlena samādhinā paññāya vimuttiyā vimuttiñāṇadassanena samo nāma natthi, itipi so bhagavāti vitthāretvā buddhaguṇappaṭisaṃyuttaṃ dhammadesanaṃ kathesi.
Khi ấy, nữ Bà-la-môn nghĩ rằng – “Con trai của ta có oai lực thế này, thì đức Tôn Sư bậc Đạo Sư của con trai ta sẽ có oai lực như thế nào nữa?” Ngay tức khắc năm loại phỉ lạc sanh khởi dâng tràn khắp châu thân bà. – Trưởng lão nghĩ rằng – “Mẫu thân của ta đã khởi lên tâm phỉ lạc, lúc này là thời điểm thích hợp để thuyết giảng Pháp thoại” – mới nói rằng: “Bà đại tín nữ, suy nghĩ làm gì?” Bà nói rằng: “Con trai của ta có đức hạnh thế này, thì đức Tôn Sư bậc Đạo Sư của con trai ta sẽ có đức hạnh như thế nào nữa? Này con thương, mẹ nghĩ như thế” – Này bà đại tín nữ, vào lức bậc Đạo Sư của chung tôi đản sanh, khi (thực hiện) cuộc ra đi vĩ đại, khi giác ngộ và tuyên bố chuyển vận bánh xe Pháp thì mười ngàn thế giới cũng rúng động, vị đồng đẳng về giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến (trí tuệ và nhận thức về sự giải thoát) là không có, đã thuyết giảng Pháp thoại gắn liền với ân đức Phật một cách chi tiết: ‘Đức Thế Tôn, vị ấy ấy là (Đức Thế Tôn ấy là bậc A-ra-hán)’.
Brāhmaṇī piyaputtassa dhammadesanāpariyosāne sotāpattiphale patiṭṭhāya puttaṃ āha — “tāta, upatissa, kasmā evamakāsi, evarūpaṃ nāma amataṃ mayhaṃ ettakaṃ kālaṃ na adāsī”ti. Thero — “dinnaṃ dāni me mātu rūpasāriyā brāhmaṇiyā posāvanikamūlaṃ, ettakena vaṭṭissatī”ti cintetvā “gaccha mahāupāsike”ti brāhmaṇiṃ uyyojetvā “cunda kā velā”ti āha. Balavapaccūsakālo, bhanteti. Tena hi bhikkhusaṅghaṃ sannipātehīti. Sannipatito, bhante, saṅghoti. Maṃ ukkhipitvā nisīdāpehi cundāti ukkhipitvā nisīdāpesi. Thero bhikkhū āmantesi — “āvuso catucattālīsaṃ vo vassāni mayā saddhiṃ vicarantānaṃ yaṃ me kāyikaṃ vā vācasikaṃ vā na rocetha, khamatha taṃ āvusoti. Ettakaṃ, bhante, amhākaṃ chāyā viya tumhe amuñcitvā vicarantānaṃ aruccanakaṃ nāma natthi, tumhe pana amhākaṃ khamathāti. Atha thero aruṇasikhāya paññāyamānāya mahāpathaviṃ unnādayanto anupādisesāya nibbānadhātuyā parinibbāyi. Bahū devamanussā therassa parinibbāne[55] sakkāraṃ kariṃsu.
Đến khi chấm dứt Pháp thoại của đứa con yêu quý thì nữ Bà-la-môn đã an trú vào Thánh Quả Nhập Lưu, rồi nói với con trai rằng: “Này con thương Upatissa, tại sao con hành động như vậy? Con không ban Pháp Bất Tử này cho mẫu thân trong suốt khoảng thời gian chừng ấy. Trưởng lão nghĩ rằng – “Bây giờ, công ơn dưỡng dục mà nữ Bà-la-môn mẫu thân đã giành cho ta cũng đã được đền đáp chỉ với ngần ấy,” nên mới mời nữ Bà-la-môn đi (và) nói: “bà đại tín nữ hãy ra ngoài.” rồi hỏi rằng: “Này Cunda trời gần sáng chưa?” – Trời gần sáng rồi thưa ngài. Vậy thì hãy tụ hội hội chúng tỳ khưu. Hội chúng tỳ khưu đã tụ hội rồi thưa ngài. – Hãy đỡ ta ngồi dậy, Cunda đã đỡ (trưởng lão) ngồi dậy. Trưởng lão đã bảo các tỳ khưu rằng: “Này các sư đệ, các đệ đã sống cùng với ta đến bốn mươi bốn năm (nếu như) không hài lòng về thân nghiệp nào hoặc ý nghiệp nào của ta, thì mong các sư đệ hãy tha thứ cho ta. (Chư tỳ khưu đáp) thưa ngài, mặc dù chúng đệ luôn đi không rời ngài như hình với bóng, những hành động không hài lòng dù chỉ một lần hay một mảy may không có nơi chúng đệ. Nhưng mong ngài tha thứ lỗi lầm cho chúng đệ.” Khi bình minh ló dạng trưởng lão khiến đại địa cầu lay động rồi viên tịch Niết Bàn ở cảnh giới Niết Bàn không còn dư sót. Đa số chư Thiên và nhân loại đã bày tỏ sự tôn kính ở nơi viên tịch Niết Bàn.
Āyasmā cundo therassa pattacīvarañca dhātuparissāvanañca gahetvā jetavanaṃ gantvā ānandattheraṃ gahetvā bhagavantaṃ upasaṅkami. Bhagavā dhātuparissāvanaṃ gahetvā pañcahi gāthāsatehi therassa guṇaṃ kathetvā dhātucetiyaṃ kārāpetvā rājagahagamanatthāya ānandattherassa saññaṃ adāsi. Thero bhikkhūnaṃ ārocesi. Bhagavā mahābhikkhusaṅghaparivuto rājagahaṃ agamāsi. Tattha gatakāle mahāmoggallānatthero parinibbāyi. Bhagavā tassa dhātuyo gahetvā cetiyaṃ kārāpetvā rājagahato nikkhamitvā anupubbena gaṅgābhimukho gantvā ukkacelaṃ agamāsi. Tattha gaṅgātīre bhikkhusaṅghaparivuto nisīditvā tattha sāriputtamoggallānānaṃ parinibbānappaṭisaṃyuttaṃ suttaṃ[56] desetvā ukkacelato nikkhamitvā vesāliṃ agamāsi. Evaṃ gate[57] atha kho bhagavā pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya vesāliṃ piṇḍāya pāvisīti ayamettha anupubbī kathā.
Đại đức Cunda đã cầm lấy bình bát và y phục, và tấm vải bao bọc xá-lợi đi đến Jetavana, đưa trưởng lão Ānanda yết kiến đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn đã cầm lấy vải lọc nước bao bọc xá-lợi, đã nói lên đức hạnh của trưởng lão với năm trăm kệ ngôn, thông báo cho xây dựng bảo điện thờ xá lợi, đã ra dấu cho trưởng lão Ānanda nhằm mục đích đi đến thành Rājagaha. Trưởng lão cũng đã báo tin cho các vị tỳ khưu. Còn đức Thế Tôn có hội tỳ khưu tháp tùng đã đi đến thành Rājagaha. Vào lúc đi đến thành Rājagaha ấy trưởng lão Mahāmoggallāna cũng viên tịch Niết Bàn. Sau khi đức Thế Tôn lấy xá-lợi của trưởng lão đã thông báo cho xây dựng bảo điện thờ xá lợi rồi ra khỏi thành Rājagaha, hướng về phía sông Gaṅgā, ngài đã đến làng Ukkacela theo tuần tự. Ở bờ sông Gaṅgā trong làng Ukkacela ấy có hội chúng tùy tùng đã ngồi tại nơi đó thuyết giảng Kinh liên quan đến việc tịch diệt Niết Bàn của trưởng lão Sāriputta và trưởng lão Moggallāna, sau khi rời khỏi làng Ukkacelata ngài đã đi đến thành Vesālī. Trong khi đi như vậy, lúc ấy đức Thế Tôn vào buổi sáng đã mặc y cầm y bát đi vào thành Vesālī để khất thực, kệ ngôn này thuyết giảng theo thứ tự như đã trình bày.
Nisīdananti ettha cammakkhaṇḍaṃ adhippetaṃ. Udenacetiyanti udenayakkhassa cetiyaṭṭhāne katavihāro vuccati. Gotamakādīsupi eseva nayo. Bhāvitāti vaḍḍhitā. Bahulīkatāti punappunaṃ katā. Yānīkatāti yuttayānaṃ viya katā. Vatthukatāti patiṭṭhānaṭṭhena vatthu viya katā. Anuṭṭhitāti adhiṭṭhitā. Paricitāti samantato citā suvaḍḍhitā. Susamāraddhāti suṭṭhu samāraddhā.
Tấm trải ngồi: điều này có ý muốn đề cập đến tâm thảm da. Bảo điện Udena: Ngài nói đến tịnh xá đã được xây dựng ở bảo điện dạ xoa Udena. Luôn cả bảo điện Gotamaka v.v, cũng áp dụng cách thức này. Đã được tu tập: đã được phát triển. Được thực hành thường xuyên: được làm thường xuyên. Được tạo thành phương tiện: được tạo thành như cỗ xe được lòng ách. Được tạo thành nền tảng: được tạo thành giống như cở sở với ý nghĩa nâng đỡ. Được thiết lập: đã được thiết lập. Được tích lũy: được thiết lập ở xung quanh, được phát triển tốt đẹp. Được khởi đầu tốt đẹp: đã được khởi đầu tốt đẹp.
Iti aniyamena kathetvā puna niyametvā dassento tathāgatassa khotiādimāha. Ettha ca kappanti āyukappaṃ. Tasmiṃ tasmiṃ kāle yaṃ manussānaṃ āyuppamāṇaṃ hoti, taṃ paripuṇṇaṃ karonto tiṭṭheyya. Kappāvasesaṃ vāti — “appaṃ vā bhiyyo”ti[58] vuttavassasatato atirekaṃ vā. Mahāsīvatthero panāha — “buddhānaṃ aṭṭhāne gajjitaṃ nāma natthi. Yatheva hi veḷuvagāmake uppannaṃ māraṇantikaṃ vedanaṃ dasa māse vikkhambheti, evaṃ punappunaṃ taṃ samāpattiṃ samāpajjitvā dasa dasa māse vikkhambhento imaṃ bhaddakappameva tiṭṭheyya, kasmā pana na ṭhitoti? Upādinnakasarīraṃ nāma khaṇḍiccādīhi abhibhuyyati, buddhā ca khaṇḍiccādibhāvaṃ apatvā pañcame āyukoṭṭhāse bahujanassa piyamanāpakāleyeva parinibbāyanti. Buddhānubuddhesu ca mahāsāvakesu parinibbutesu ekakeneva khāṇukena viya ṭhātabbaṃ hoti, daharasāmaṇeraparivāritena vā. Tato[59] — ‘aho buddhānaṃ parisā’ti hīḷetabbataṃ āpajjeyya. Tasmā na ṭhito”ti. Evaṃ vuttepi so na ruccati, “āyukappo”ti idameva aṭṭhakathāyaṃ niyamitaṃ.
Sau khi nói về sự không hạn định như thế, khi thuyết về sự hạn định lần nữa mới nói rằng: “Đối với Như Lai…” Và ở đây ‘kiếp’: khoảng thời gian của tuổi thọ. Như Lai khi thực hiện ước lượng tuổi thọ của nhân loại vào thời gian ấy cho được đầy đủ có thể tồn tại. Hoặc hơn một kiếp: hơn một trăm tuổi, được nói rằng: “Ít hơn một trăm năm hoặc nhiều hơn thế.” Còn trưởng lão Mahāsīva nói – “Việc gầm lên (tiếng gầm sư tử) ở địa vị không thích hợp của chư Phật là không có. Thât vậy, ngài đã chế ngự các cảm thọ (dữ dội) đã khởi lên gần như chết ở làng Veḷuva trong mười tháng như thế nào, đã thể nhập sự thể nhập (thánh quả) liên tục để áp chế các cảm thọ trong mười tháng, có thể tồn tại suốt kiếp Bhadda như thế ấy. Vậy tại sao ngài không duy trì sự sống? Bởi vì sắc thân có tâm chiếm hữu bị chế ngự bởi các yếu tố như răng rụng v.v. và chư Phật không đi đến trạng thái như răng rụng, ngài viên tịch Niết Bàn vào thời điểm được yêu quý, được thương mến của nhiều người. Và khi bậc Đại Thánh Thinh Văn đã được giác ngộ theo sau chư Phật viên tịch Niết Bàn cũng có thể tồn tại giống như mỗi gốc cây, còn ngài đi với vị tỳ khưu trẻ và vị sa-di tùy tùng, cũng có thể bị họ khinh thường rằng: “Ôi trời! Hội chúng của chư Phật.” Vì thế ngài mới không duy trì sự sống.” Dẫu cho bị nói như vậy cũng sẽ ưa thích, ‘khoảng thời gian của tuổi thọ’ chính điều này ngài đã hạn định trong Chú Giải.
- Yathā taṃ mārena pariyuṭṭhitacittoti ettha tanti nipātamattaṃ. Yathā mārena pariyuṭṭhitacitto ajjhotthaṭacitto aññopi koci puthujjano paṭivijjhituṃ na sakkuṇeyya, evameva nāsakkhi paṭivijjhitunti attho. Kiṃ kāraṇā? Māro hi yassa sabbena sabbaṃ dvādasa vipallāsā appahīnā, tassa cittaṃ pariyuṭṭhāti. Therassa cattāro vipallāsā appahīnā, tenassa māro cittaṃ pariyuṭṭhāti. So pana cittapariyuṭṭhānaṃ karonto kiṃ karotīti? Bheravaṃ rūpārammaṇaṃ vā dasseti, saddārammaṇaṃ vā sāveti, tato sattā taṃ disvā vā sutvā vā satiṃ vissajjetvā vivaṭamukhā honti. Tesaṃ mukhena hatthaṃ pavesetvā hadayaṃ maddati. Tato visaññāva[60] hutvā tiṭṭhanti. Therassa panesa mukhena hatthaṃ pavesetuṃ kiṃ sakkhissati ? Bheravārammaṇaṃ pana dasseti. Taṃ disvā thero nimittobhāsaṃ na paṭivijjhi. Bhagavā jānantoyeva — “kimatthaṃ yāvatatiyaṃ āmantesī”ti? Parato “tiṭṭhatu, bhante, bhagavā”ti yācite “tuyhevetaṃ dukkaṭaṃ, tuyhevetaṃ aparaddhan”ti dosāropanena sokatanukaraṇatthaṃ.
- Như là có tâm đã bị Ma Vương xâm nhập: ở đây từ ‘taṃ’ là một phân từ. Giải thích rằng: hạng phạm nhân nào khác có tâm bị xâm nhâm, có tâm bị chế ngự không thể biết rõ, thấu triệt như thế nào, ngài Ānanda cũng không thể biết rõ, thấu triệt như thế đó. Vì lý do gì? Bởi vì Ma Vương xâm nhập tâm của người vẫn chưa trừ diệt tất cả mười hai sự lầm lạc tất cả trong mọi trường hợp. Trưởng lão vẫn chưa diệt trừ bốn sự lầm lạc, vì thế Ma Vương mới xâm nhập tâm của ngài. Vậy Ma Vương ấy khi xâm nhập tâm thì thực hiện như thế nào? Ma Vương thị hiện đối tượng là hình tướng hoặc cho nghe đối tượng là âm thanh rùng rợn, khi ấy các chúng sanh sau khi nhìn thấy (hình tướng) hoặc sau khi nghe (âm thanh) đó đã xuất khỏi niệm, há miệng. Ma Vương thọc tay vào cửa miệng của những chúng sanh ấy rồi dẫm đạp quả tim. Từ đó, họ rơi vào trạng thái mất đi ý thức. Nhưng đối với trưởng lão thì Ma Vương không thể nào thọc tay vào cửa miệng của trưởng lão, chỉ có thể hiện ra đối tượng kinh hãi. Trưởng lão sau khi nhìn thấy đối tượng ấy thì không thấu hiểu được ánh sáng là hiện tướng. Đức Thế Tôn khi biết “đã nhắc lại đến ba lần nhằm mục đích gì?” – Để xoa dịu sự buồn rầu bằng việc nêu ra sự thiết sót trước: Khi Ta bị ngươi cầu xin – “Bạch Ngài, xin đức Thế Tôn hãy duy trì sự sống.” – (Vì thế, ở đây, này Ānanda) “điều ấy là sự sai trái của ngươi, điều ấy là lỗi lầm của ngươi”.
Giảng Về Ma Vương Cầu Xin
- Māro pāpimāti ettha māroti satte anatthe niyojento māretīti mār . Pāpimāti tasseva vevacanaṃ. So hi pāpadhammasamannāgatattā “pāpimā”ti vuccati. Kaṇho, antako, namuci, pamattabandhūtipi tasseva nāmāni. Bhāsitā kho panesāti ayañhi bhagavato sambodhipattiyā aṭṭhame sattāhe bodhimaṇḍeyeva āgantvā — “bhagavā yadatthaṃ tumhehi pāramiyo pūritā, so vo attho anuppatto, paṭividdhaṃ sabbaññutaññāṇaṃ, kiṃ te lokavicāraṇenā”ti vatvā, yathā ajja, evameva “parinibbātu dāni, bhante, bhagavā”ti yāci. Bhagavā cassa — “na tāvāhan”tiādīni vatvā paṭikkhipi. taṃ sandhāya “bhāsitā kho panesā bhante”tiādimāha.
- Ma Vương ác độc: Ở đây, gọi là Ma Vương vì giết hại chúng sinh bằng cách thúc giục (chúng sanh) làm những điều bất lợi. Kẻ ác độc: Từ đồng nghĩa chính từ đó (Ma Vương ác độc). Thật vậy, Ma Vương ấy ngài gọi là Māra bởi có tính chất hội đủ với ác Pháp. Luôn cả ‘hắc ám, thần chết, Namuci, thân quyến của xao lãng’ đều là tên gọi của Ma Vương. Hơn nữa, bạch Ngài, lời nói này đã được đức Thế Tôn nói: Thật vậy, Ma Vương này đã theo sát ở tại cội Bồ-đề vào tuần lễ thứ tám, kể từ khi đức Thế Tôn chứng đạt quả vị Toàn Giác đã nói rằng – “Đức Thế Tôn đã chứng đắc lợi ích của ngài mà ngài đã thực hiện đầy đủ (ba mươi) Pháp ba-la-mật theo tuần tự, đã thấu triệt Trí Toàn Tri, ngài quan sát thế gian để làm gì?” như trong ngày hôm nay, tương tự y như vậy, mới cầu xin: “Bây giờ, bạch ngài, xin đức Thế Tôn hãy viên tịch Niết Bàn”. Đức Thế Tôn đã bác bỏ Ma Vương ấy rằng: “Ta sẽ không viên tịch Niết Bàn v.v.” Ma Vương muốn đề cập đến điều đó nên mới nói rằng: “Hơn nữa, bạch Ngài, lời nói này đã được đức Thế Tôn nói”.
Tattha viyattāti maggavasena viyattā. Tatheva vinītā tathā visāradā. Bahussutāti tepiṭakavasena bahu sutametesanti[61] bahussutā. Tameva dhammaṃ dhārentīti dhammadharā. Athavā pariyattibahussutā ceva paṭivedhabahussutā ca, pariyattipaṭivedhadhammānaṃyeva dhāraṇato dhammadharāti evamettha attho daṭṭhabbo. Dhammānudhammapaṭipannāti ariyadhammassa anudhammabhūtaṃ vipassanādhammaṃ paṭipannā. Sāmīcippaṭipannāti anucchavikapaṭipadaṃ paṭipannā. Anudhammacārinoti anudhammacaraṇasīlā. Sakaṃ ācariyakanti attano ācariyavādaṃ. Ācikkhissantītiādīni sabbāni aññamaññassa vevacanāni. Sahadhammenāti sahetukena sakāraṇena vacanena. Sappāṭihāriyanti yāva na niyyānikaṃ katvā dhammaṃ desessanti.
Trong số những từ ấy ‘Là vị có kinh nghiệm’: có kinh nghiệm về phương diện Đạo. Các vị tỳ khưu được huấn luyện như thế, tự tin cũng như thế. Là vị ghe nhiều: gọi là bahussutā bởi vì nghe nhiều về phương diện Tam Tạng. Là vị có sự ghi nhớ về Giáo Pháp: chính là có sự ghi nhớ về Giáo Pháp. Hơn nữa, nên biết ý nghĩa trong câu đó như vầy: nghe nhiều về Pháp học và nghe nhiều về Pháp thành; Có sự ghi nhớ về Giáo Pháp bởi có sự ghi nhớ về Giáo Pháp chính là Pháp học và Pháp thành. Là vị đã thực hành đúng pháp và thuận pháp: Đã thực hành Pháp Quán phù hợp với Giáo Pháp của bậc Thánh. Đã thực hành đúng đắn: Đã thực hành bằng sự thực hành thích hợp. Có sự hành xử theo pháp: Có cách cư xử theo pháp. Thầy của mình: Học thuyết thầy của mình. Sẽ thuật lại v.v, là những từ đồng nghĩa với nhau. Đúng theo Pháp: bằng những lời nói có nguyên nhân, có lý do. Có sự kỳ diệu: sẽ thuyết giảng Pháp cho đến khi có sự dẫn dắt ra khỏi (tất cả khổ đau).
Brahmacariyanti sikkhattayasaṅgahitaṃ sakalaṃ sāsanabrahmacariyaṃ. Iddhanti samiddhaṃ jhānassādavasena[62]. Phītanti vuddhippattaṃ sabbaphāliphullaṃ viya abhiññāya sampattivasena. Vitthārikanti vitthataṃ tasmiṃ tasmiṃ disābhāge patiṭṭhitavasena. Bāhujaññanti bahujanehi ñātaṃ paṭividdhaṃ mahājanābhisamayavasena. Puthubhūtanti sabbākāravasena puthulabhāvappattaṃ. Kathaṃ? Yāva devamanussehi suppakāsitanti yattakā viññujātikā devā ceva manussā ca atthi sabbehi suṭṭhu pakāsitanti attho.
Phạm Hạnh: toàn bộ lời dạy về Phạm Hạnh được tổng hợp với ba học giới. Thành tựu: thành tựu do tác động Thiền v.v. Phổ biến: đạt đến sự phát triển do sự thành tựu bởi thắng trí giống như những bông hoa ở toàn thân đã nở rộ v.v. Phổ thông: được lan tỏa do đã được thiết lập ở các phương đó đó. Nhiều người biết: Nhiều người biết, thấu triệt do tác động sự lãnh hội của đại chúng. Trở nên thống nhất: Đạt đến sự chắc chắn với tất cả mọi biểu hiện. Chắc chắn như thế nào? Chắc chắn cho đến khi được khéo thuyết giảng bởi chư Thiên và loài người, giải thích rằng: Chư Thiên và loài người là những bậc trí tồn tại chỉ chừng ấy, (tức là) được tuyên thuyết tốt đẹp bởi tất cả chư Thiền và loài người.
Appossukkoti nirālayo. Tvañhi pāpima, aṭṭhamasattāhato paṭṭhāya — “parinibbātu dāni, bhante, bhagavā parinibbātu, sugato”ti viravanto āhiṇḍittha. ajja dāni paṭṭhāya vigatussāho hohi; mā mayhaṃ parinibbānatthaṃ vāyāmaṃ karohīti vadati.
Ngươi hãy bớt nôn nóng: không luyến tiếc. Đức Thế Tôn nói rằng: Này kẻ ác độc, kể từ tuần lễ thứ tám ngươi đã đi quanh quẩn để cầu xin (ta) rằng: “Bạch Ngài, xin đức Thế Tôn hãy viên tịch Niết Bàn, xin đấng Thiện Thệ hãy viên tịch Niết Bàn.” Bây giờ, kể từ ngày hôm nay ngươi hãy từ bỏ sự nỗ lực, chớ cố gắng cho ta viên tịch Niết Bàn nữa.
Giảng Về Sự Buông Bỏ Thọ Hành
- Sato sampajāno āyusaṅkhāraṃ ossajīti[63] satiṃ sūpaṭṭhitaṃ katvā ñāṇena paricchinditvā āyusaṅkhāraṃ vissajji, pajahi. Tattha na bhagavā hatthena leḍḍuṃ viya āyusaṅkhāraṃ ossaji, temāsamattameva pana samāpattiṃ samāpajjitvā tato paraṃ na samāpajjissāmīti cittaṃ uppādesi. taṃ sandhāya vuttaṃ — “ossajī”ti. “ussajjī”ti pi pāṭho. Mahābhūmicāloti mahanto pathavīkampo. Tadā kira dasasahassī lokadhātu kampittha. Bhiṃsanakoti bhayajanako. Devadundubhiyo ca phaliṃsūti devabheriyo phaliṃsu, devo sukkhagajjitaṃ gajji, akālavijjulatā nicchariṃsu, khaṇikavassaṃ vassīti vuttaṃ hoti.
- Trú niệm, có sự nhận biết rõ, đã buông bỏ việc duy trì tuổi thọ: Đức Thế Tôn đã khéo thiết lập niệm, đã được xác định bởi trí, đã buông bỏ việc duy trì tuổi thọ ở tại nơi đó (bảo điện Cāpāla). Đức Thế Tôn không buông bỏ việc duy trì tuổi thọ giống như ném cục đất bằng tay, đã khởi tâm nghĩ rằng: Sau khi đã nhập vào sự thể nhập thánh quả không đứt quãng trong ba tháng, sau đó sẽ không thể nhập nữa.” Ngài muốn đề cập đến điều đó mới nói rằng: “ossajī – đã buông bỏ”, từ ‘ussajjī” như vầy cũng có. Có sự động đất dữ dội: Đại địa cầu rúng động, nghe rằng khi ấy mười ngàn thế giới cũng rúng động. Làm kinh sợ: Gây ra sự sợ hãi. Các tiếng trống Trời đã bùng nổ: Những tiếng trống Trời cũng vang lên, những đám mây đã nổi lên rền vang như mùa khô, những tia chớp không đúng mùa tiết đã lóe lên, mưa rào đã rơi xuống.
Udānaṃ udānesīti kasmā udānesi? koci nāma vadeyya — “bhagavā pacchato pacchato anubandhitvā — ‘parinibbāyatha, bhante, parinibbāyatha, bhante’ti upadduto bhayena āyusaṅkhāraṃ vissajjesī”ti. “Tassokāso mā hotu, bhītassa udānaṃ nāma natthī”ti etassa dīpanatthaṃ pītivegavissaṭṭhaṃ udānaṃ udānesi.
Đã thốt lên lời cảm hứng: Đã thốt lên (lời cảm hứng) do nhân gì? (Bởi vì nghe rằng) ai ai cũng có thể nói rằng: “Đức Thế Tôn đã bị Ma Vương đi theo sát ở phía sau – cầu xin gây phiền nhiễu ‘Bạch Ngài, xin ngài hãy viên tịch Niết Bàn, xin ngài hãy viên tịch Niết Bàn.’ (Ngài) đã buông bỏ việc duy trì tuổi thọ do sự sợ hãi”. Nên đã thốt lên lời cảm hứng được thốt ra do năng lực phỉ lạc để thuyết giảng ý nghĩ này “Lời cảm hứng không có nơi hạng người sợ hãi, hãy mong cho Ma Vương chớ có cơ hội”.
Tattha sabbesaṃ soṇasiṅgālādīnampi paccakkhabhāvato tulitaṃ paricchinnanti tulaṃ. Kiṃ taṃ? Kāmāvacarakammaṃ. Na tulaṃ, na vā tulaṃ sadisamassa aññaṃ lokiyaṃ kammaṃ atthīti atulaṃ. Kiṃ taṃ? Mahaggatakammaṃ. Athavā kāmāvacararūpāvacaraṃ tulaṃ, arūpāvacaraṃ atulaṃ. Appavipākaṃ vā tulaṃ, bahuvipākaṃ atulaṃ. Sambhavanti sambhavassa hetubhūtaṃ, piṇḍakārakaṃ rāsikārakanti attho. Bhavasaṅkhāranti punabbhavasaṅkhāraṇakaṃ. Avassajīti vissajjesi. Munīti buddhamuni. Ajjhattaratoti niyakajjhattarato. Samāhitoti upacārappanāsamādhivasena samāhito. Abhindi kavacamivāti kavacaṃ viya abhindi. Attasambhavanti attani sañjātaṃ kilesaṃ. Idaṃ vuttaṃ hoti — “savipākaṭṭhena sambhavaṃ, bhavābhisaṅkhāraṇaṭṭhena bhavasaṅkhāranti ca laddhanāmaṃ tulātulasaṅkhātaṃ lokiyakammañca ossaji. saṅgāmasīse mahāyodho kavacaṃ viya attasambhavaṃ kilesañca ajjhattarato samāhito hutvā abhindī”ti.
Trong lời cảm hứng ấy ‘đo lường được’ do cân nhắc được (tức là) được xác định với bản chất biết rõ toàn bộ rằng: chó nhà, chó sói v.v. Nghiệp đo lường được ấy ra sao? Nghiệp Dục giới. Không thể đo lường bởi không thể đo lường, hoặc nghiệp Hiệp Thế khác tương tự với nghiệp Dục giới ấy không có. Nghiệp không thể đo lường ấy như thế nào? Hành động thuộc Đáo đại. Hoặc là, Dục giới và Sắc giới là đo lường được, Vô sắc là không thể đo lường. Hoặc, nghiệp có ít kết quả là đo lường được, có nhiều kết quả là không thể đo lường. Nhân sanh khởi: Nghiệp được tạo thành nhóm, nghĩa là tạo thành khối làm nhân sanh khởi. Sự tạo tác dẫn đến hữu: nghiệp tạo tác đưa đến kiếp sống mới. Đã buông bỏ: đã trút bỏ. Bậc hiền trí: bậc hiền trí là đức Phật. Thỏa thích ở nội tâm: chắc chắn thích thú ở nội tâm. Được định tĩnh: được định tinh do tác động cận định và an chỉ định. Ngài đã phá vỡ phiền não (sanh khởi ở bản ngã), tựa như phá vỡ tấm áo giáp: Đã phá vỡ phiền não tựa như (phá vỡ) tấm áo giáp. (Phiền não) sanh khởi ở bản ngã: Phiền não đã sanh khởi ở bản ngã. Điều này ngài đã nói rằng: “Bậc hiền trí đã buông bỏ nghiệp Hiệp Thế được xem là nghiệp đo lường được và nghiệp không đo lường được, được gọi là nhân sanh khởi với ý nghĩa có quả dị thục, sự tạo tác dẫn đến hữu bởi ý nghĩa tạo tác đưa đến các hữu và thỏa thích ở nội tâm, được định tĩnh, đã phá vỡ phiền não sanh khởi ở bản ngã giống như một đại dũng sĩ ở chiến trường đa phá vỡ tấm áo giáp.”
Atha vā tulanti tulento tīrento. Atulañca sambhavanti nibbānañceva sambhavañca. Bhavasaṅkhāranti bhavagāmikammaṃ. Avassaji munīti “pañcakkhandhā aniccā, pañcannaṃ khandhānaṃ nirodho nibbānaṃ niccan”tiādinā[64] nayena tulayanto buddhamuni bhave ādīnavaṃ, nibbāne ca ānisaṃsaṃ disvā taṃ khandhānaṃ mūlabhūtaṃ bhavasaṅkhārakammaṃ — “kammakkhayāya saṃvattatī”ti[65] evaṃ vuttena kammakkhayakarena ariyamaggena avassaji. Kathaṃ? Ajjhattarato samāhito abhindi kavacamiva attani sambhavaṃ. So hi vipassanāvasena ajjhattarato samathavasena samāhitoti evaṃ pubbabhāgato paṭṭhāya samathavipassanābalena kavacamiva attabhāvaṃ pariyonandhitvā ṭhitaṃ, attani sambhavattā “attasambhavan”ti laddhanāmaṃ sabbakilesajālaṃ abhindi. Kilesābhāvena ca katakammaṃ appaṭisandhikattā avassaṭṭhaṃ nāma hotīti evaṃ kilesappahānena kammaṃ pajahi, pahīnakilesassa ca bhayaṃ nāma natthi, tasmā abhītova āyusaṅkhāraṃ ossaji, abhītabhāvañāpanatthañca udānaṃ udānesīti veditabbo.
Hoặc là, (nghiệp) đo lường được: cân nhắc, suy xét. Nghiệp không thể đo lường (và) nguồn sanh khởi của hữu: Niết Bàn (nghiệp không thể đo lường được) và Hữu. Sự tạo tác đưa đến các hữu: nghiệp đưa đến các hữu. Bậc hiền trí đã buông bỏ: Bậc hiền trí là đức Phật suy xét theo phương thức bắt đầu rằng: “Năm uẩn là vô thường, sự diệt tận của năm uẩn, (là) Niết Bàn là thường còn,” sau khi nhìn thấy tại hại trong các hữu và lợi ích ở Niết Bàn đã buông bỏ (việc duy trì tuổi thọ) bằng Thánh Đạo, được thực hiện với sự cạn kiệt của nghiệp đã được ngài nói như vầy: “Nghiệp tạo tác đưa đến hữu là bản thể gốc rễ của các uẩn ấy, vận hành đưa đến sự cạn kiệt nghiệp.” Ngài thích thú ở nội tâm, được định tĩnh, ngài đã phá vỡ nguồn sanh khởi bản ngã, tựa như phá vỡ tấm áo giáp như thế nào? Thật vậy, bậc hiền trí thích thú ở nội tâm do tác động Minh Sát, được định tĩnh do tác động Chỉ Tịnh, nói tóm lại: Ngài đã phá vỡ mạng lưới là tất cả phiền não đã đặt xiết chặt vào bản ngã tựa như tấm áo giáp được gọi là ‘nguồn sanh khởi bản ngã’ do sanh khởi trong bản ngã nhờ lực Chỉ Tịnh và Minh Sát kể từ lúc đầu và đã dứt bỏ nghiệp bằng việc dứt trừ phiền não như vầy: Nghiệp đã tạo do không có phiền não gọi là vẫn còn tồn tại bởi vì không còn sự tái tục. Nên biết rằng: sự sợ hãi của vị đã dứt trừ phiền não là không có, vì thế bậc hiền trí không sợ hãi nên đã buông bỏ việc duy trì tuổi thọ, cho nên đã thốt lên lời cảm hứng này để biết rằng: ‘ngài không sợ hãi’.
Giảng Về Động Đất
- Yaṃ mahāvātāti yena samayena yasmiṃ vā samaye mahāvātā vāyanti, mahāvātā vāyantāpi ukkhepakavātā nāma uṭṭhahanti, te vāyantā saṭṭhisahassādhikanavayojanasatasahassabahalaṃ udakasandhārakaṃ vātaṃ upacchindanti, tato ākāse udakaṃ bhassati, tasmiṃ bhassante pathavī bhassati. puna vāto attano balena antodhamakaraṇe viya udakaṃ ābandhitvā gaṇhāti, tato udakaṃ uggacchati, tasmiṃ uggacchante pathavī uggacchati. Evaṃ udakaṃ kampitaṃ pathaviṃ kampeti. Etañca[66] kampanaṃ yāva ajjakālāpi hotiyeva, bahalabhāvena[67] pana na ogacchanuggacchanaṃ paññāyati.
- Cơn gió lớn: Vào lúc nào hoặc khi nào có các cơn gió lớn thổi, các cơn gió lớn trong lúc thổi: Các cơn gió ukkhepaka khi nổi lên cũng thổi cắt đứt hoàn toàn cơn gió đang ôm lấy dòng nước dày chín triệu sáu trăm ngàn do-tuần, khi đó nước rơi vào không trung, khi nước đang rơi xuống đất cũng rơi xuống, gió lại cuốn nước đi bằng chính sức mạnh của nó, giống như nước bên trong đồ lọc nước. Từ đó, nước dâng lên, trong khi nước dâng lên đất cũng dâng lên. Nước rung chuyển cũng làm cho đất rung chuyển như vậy. Và sự rung chuyển của nước và mặt đất vẫn tiếp tục cho đến tận ngày nay bằng cách như thế, còn sự phun lên và phun xuống không xuất hiện bởi tính chất dày.
Mahiddhiko mahānubhāvoti ijjhanassa mahantatāya mahiddhiko, anubhavitabbassa mahantatāya mahānubhāvo. Parittāti dubbalā. Appamāṇāti balavā. So imaṃ pathaviṃ kampetīti so iddhiṃ nibbattetvā saṃvejento[68] mahāmoggallāno viya, vīmaṃsanto vā mahānāgattherassa bhāgineyyo saṅgharakkhitasāmaṇero viya pathaviṃ kampeti. So kirāyasmā khuraggeyeva arahattaṃ patvā cintesi — “atthi nu kho koci bhikkhu, yena pabbajitadivaseyeva arahattaṃ patvā vejayanto pāsādo kampitapubbo”ti? Tato — “natthi kocī”ti ñatvā — “ahaṃ kampessāmī”ti abhiññābalena vejayantamatthake ṭhatvā pādena paharitvā kampetuṃ nāsakkhi. Atha naṃ sakkassa nāṭakitthiyo āhaṃsu — “putta saṅgharakkhita, tvaṃ pūtigandheneva sīsena vejayantaṃ kampetuṃ icchasi, suppatiṭṭhito tāta pāsādo, kathaṃ kampetuṃ sakkhissasī”ti?
Có đại thần lực, có đại oai lực: Sa-môn hoặc Bà-la-môn có đại thần lực do có sự thành tựu lớn, có đại oai lực bởi những thứ được nhận nhiều. Ít ỏi: yếu ớt. Vô lượng: có sức mạnh. Vị ấy làm rúng động địa cầu này: Vị ấy sau khi làm phát sanh thần thông đã làm sanh khởi sự rúng động giống như trưởng lão Mahāmoggallāna, hoặc khi thử nghiệm làm cho địa cầu rúng động giống như Sa-di Saṅgharakkhita cháu của trưởng lão Mahānāga. Kể rằng vị Sa-di ấy ngay lúc cạo đạo đã chứng đắc quả vị A-ra-hán, nghĩ rằng – “Phải chăng có một vị tỳ khưu nào đã từng chứng đắc quả vị A-ra-hán vào đúng ngày xuất gia, rồi làm cho lâu đài Vejayanta rung chuyển?” Lúc đó biết rằng “Không có ai” – mới nghĩ rằng: “Ta sẽ làm cho (lâu đài) rung chuyển” nên đã đứng trên đỉnh của lâu đài Vejayanta rồi dùng đôi chân giẫm mạnh (nhưng) cũng không thể khiến cho nó rung chuyển với sức mạnh của thắng trí. Khi đó, các nữ vũ công của vua trời Sakka đã nói với vị ấy rằng – “Này con trai Saṅgharakkhita, con muốn làm cho lâu đài Vejayanta rung chuyển chỉ bằng cái đầu có mùi hôi thối ư, lâu đài được thiết lập vững chắc, con sẽ làm rung chuyển nó như thế nào?
Sāmaṇero — “Imā devatā mayā saddhiṃ keḷiṃ karonti, ahaṃ kho pana ācariyaṃ nālatthaṃ, kahaṃ nu kho me ācariyo sāmuddikamahānāgatthero”ti āvajjento mahāsamudde udakaleṇaṃ māpetvā divāvihāraṃ nisinnoti ñatvā tattha gantvā theraṃ vanditvā aṭṭhāsi. Tato naṃ thero — “kiṃ, tāta saṅgharakkhita, asikkhitvāva yuddhaṃ paviṭṭhosī”ti vatvā “nāsakkhi, tāta, vejayantaṃ kampetun”ti pucchi. ācariyaṃ, bhante, nālatthanti. Atha naṃ thero — “tāta tumhādise akampente ko añño kampessati. diṭṭhapubbaṃ te, tāta, udakapiṭṭhe gomayakhaṇḍaṃ pilavantaṃ[69], tāta, kapallakapūvaṃ pacantā antantena paricchindanti, iminā opammena jānāhī”ti āha. So — “vaṭṭissati, bhante, ettakenā”ti vatvā pāsādena patiṭṭhitokāsaṃ udakaṃ hotūti adhiṭṭhāya vejayantābhimukho agamāsi.
Vị Sa-di đã ngẫm nghĩ: “Các Thiên nhân này chế nhạo đối với ta, nhưng ta vẫn chưa có được vị thầy, trưởng lão Mahānāga vị thường trú ở vùng biển, thầy của ta đang sống ở đâu?” sau khi biết được rằng: thầy đã dựng một nơi trú ẩn dưới nước ở trong đại dương, đang ngồi nghỉ ngơi ban ngày, đã đi đến nơi đó, đã đảnh lễ rồi đứng (một bên). Lúc đó, trưởng lão đã nói với Sa-di ấy rằng: “Này con Saṅgharakkhita, con vẫn chưa được học tập mà đã đi vào chiến đấu sao?” – rồi hỏi “Này con, con không thể làm cho lâu đài Vejayanta rung chuyển?” – Thưa ngài, còn vẫn chưa có được vị thầy. Khi đó, trưởng lão đã nói cùng vị ấy – “Này con, người như con không thể làm rung chuyển được, người nào khác sẽ làm cho rung chuyển được? Trước đây con đã từng nhìn thấy cục phân bò trôi trên mặt nước không? Này con, những người làm bánh kapallaka, họ sẽ không cắt phần ngọn đâu, con hãy biết với ví dụ so sánh này.” Vị Sa-di nói rằng: “Thưa ngài, lâu đài ấy sẽ xoay chuyển, chỉ với chừng ấy,” rồi phát nguyện: xin nước hãy có hết không trung nơi lâu đài đã được thiết lập, xoay mặt về phía lâu đài Vejayanta.”
Devadhītaro taṃ disvā — “ekavāraṃ lajjitvā gato, punapi sāmaṇero eti, punapi etī”ti vadiṃsu. sakko devarājā — “mā mayhaṃ puttena saddhiṃ kathayittha, idāni tena ācariyo laddho, khaṇena pāsādaṃ kampessatī”ti āha. Sāmaṇeropi pādaṅguṭṭhena pāsādathūpikaṃ pahari. Pāsādo catūhi disāhi oṇamati. Devatā — “patiṭṭhātuṃ dehi, tāta, pāsādassa patiṭṭhātuṃ dehi, tāta, pāsādassā”ti viraviṃsu. Sāmaṇero pāsādaṃ yathāṭhāne ṭhapetvā pāsādamatthake ṭhatvā udānaṃ udānesi —
Sau khi các Thiên nữ thấy vị ấy đã nói rằng – “Vị Sa-di hổ thẹn đã đi một lần rồi, giờ quay trở lại nữa”. Vua trời Sakka nói rằng – “Các người chớ nói với con trai của ta, bây giờ vị ấy đã có được thầy, trong phút chốc vị ấy sẽ làm cho tòa lâu đài này rung chuyển”. Vị Sa-di sử dụng ngón chân móc vào đỉnh tòa lâu đài. Tòa lâu đài bị chao đảo theo bốn hướng. Các Thiên nhân đã la hét “Này con ơi, hãy cho tòa lâu đài được trụ vững, con ơi! Hãy để tòa lâu đài được trụ vững.” Vị Sa-đi đã đặt tòa lâu đài về vị trí cũ, đứng trên đỉnh tòa lâu đài thốt lên lời cảm hứng sau –
“Ajjevāhaṃ pabbajito, ajja pattāsavakkhayaṃ.
Ajja kampemi pāsādaṃ, aho buddhassuḷāratā.
Ajjevāhaṃ pabbajito … pe … aho dhammassuḷāratā.
Ajjevāhaṃ pabbajito … pe … aho saṅghassuḷāratāti.
Ito paresu chasu pathavīkampesu yaṃ vattabbaṃ, taṃ mahāpadāne vuttameva.
Ta đã xuất gia ngay ngày hôm nay, cũng đã chứng đắc (quả vị A-ra-hán) cạn kiệt tất cả lậu. Ngày hôm nay ta đã làm cho tòa lâu đài rung chuyển, ôi tính chất cao thượng của đức Phật! Ta đã xuất gia ngay ngày hôm nay…ôi tính chất cao thượng của đức Pháp! Ta đã xuất gia ngay ngày hôm nay…ôi tính chất cao thượng của đức Tăng!
Những lời cần nói trong chuyện động đất trong sáu cách khác ngoài cách này ngài đã nói trong bài Kinh Mahāpadāna.
Iti imesu aṭṭhasu pathavīkampesu paṭhamo dhātukopena[70], dutiyo iddhānubhāvena, tatiyacatutthā puññatejena, pañcamo ñāṇatejena, chaṭṭho sādhukāradānavasena, sattamo kāruññabhāvena, aṭṭhamo ārodanena. Mātukucchiṃ okkamante ca tato nikkhamante ca mahāsatte tassa puññatejena pathavī akampittha. Abhisambodhiyaṃ ñāṇatejena abhihatā hutvā akampittha. Dhammacakkappavattane sādhukārabhāvasaṇṭhitā sādhukāraṃ dadamānā akampittha. Āyusaṅkhārossajjane kāruññasabhāvasaṇṭhitā cittasaṅkhobhaṃ asahamānā akampittha. Parinibbāne ārodanavegatunnā hutvā akampittha. Ayaṃ panattho pathavīdevatāya vasena veditabbo, mahābhūtapathaviyā panetaṃ natthi acetanattāti.
Tám nhân sanh động đất như đã đề cập thì lần thứ nhất là rúng động bởi các nguyên tố tăng thêm, lần thứ hai là rúng động do uy lực thần thông, lần thứ ba và lần thứ tư là rúng động do quyền lực của phước, lần thứ năm là rúng động do tác động của trí, lần thứ sáu là rúng động do tác động nói lời tùy hỷ, lần thứ bảy là do tác động của tâm từ, lần thứ tám là rúng động do sự khóc lóc. Khi bậc Đại Nhân nhập thai vào bụng mẹ và bước ra khỏi bụng mẹ quả địa cầu rúng động do năng lực phước báu của ngài. Khi chứng đắc quả vị Toàn Giác tối thượng thì địa cầu rúng động do tác động của trí. Khi chuyển vận bánh xe pháp thì quả địa cầu rúng động (như) đang bày tỏ sự tán thưởng do đã thiết lập sự tán thưởng. Khi buông bỏ việc duy trì tuổi thọ thì quả địa cầu hiên ngang bởi lòng từ mẩn không chịu đựng được sự phiến động của tâm cũng đã rúng động. Khi viên tịch Niết Bàn thì quả địa cầu bị thôi thúc bởi sức mạnh của tiếng khóc cũng đã rúng động. Thêm nữa, ý nghĩa này nên hiểu do tác động của các Thiên nhân thường trú ở quả địa cầu. Tuy nhiên câu này không có ở Địa đại thuộc Sắc đại hiển bởi không có ý định-cetana.
Ime kho, ānanda, aṭṭha hetūti ettha imeti niddiṭṭhanidassanaṃ. Ettāvatā ca panāyasmā ānando — “addhā ajja bhagavatā āyusaṅkhāro ossaṭṭho”ti sallakkhesi. bhagavā pana sallakkhitabhāvaṃ jānantopi okāsaṃ adatvāva aññānipi aṭṭhakāni sampiṇḍento — “aṭṭha kho imā”tiādimāha.
Từ ‘ime’ trong cụm từ ‘Ime kho, ānanda, aṭṭha hetu – này Ānanda, đây là tám nhân, tám duyên’ đây là việc chỉ ra những điều đã xảy ra. Và chỉ chừng này đại đức Ānanda đã xem xét rằng: “Chắc chắn vào ngày hôm này đức Thế Tôn đã buông bỏ việc duy trì tuổi thọ.” Còn đức Thế Tôn dẫu biết đại đức Ānanda đã xem xét được cũng không ban cho cơ hội, đã kết hợp luôn cả tám nhân khác vào – nên đã nói rằng “này Ānanda, đây là…”
Giảng Về Tám Hội Chúng
- Tattha anekasataṃ khattiyaparisanti bimbisārasamāgama- ñātisamāgama- licchavīsamāgamādisadisaṃ, sā pana aññesu cakkavāḷesupi labbhateyeva. Sallapitapubbanti ālāpasallāpo katapubbo. Sākacchāti dhammasākacchāpi samāpajjitapubbā. Yādisako tesaṃ vaṇṇoti te odātāpi honti kāḷāpi maṅguracchavīpi, satthā suvaṇṇavaṇṇova. Idaṃ pana saṇṭhānaṃ paṭicca kathitaṃ. Saṇṭhānampi ca kevalaṃ tesaṃ paññāyatiyeva[71], na pana bhagavā milakkhusadiso[72] hoti, nāpi āmuttamaṇikuṇḍalo, buddhaveseneva nisīdati. Te pana attano samānasaṇṭhānameva passanti. Yādisako tesaṃ saroti te chinnassarāpi honti gaggarassarāpi kākassarāpi, satthā brahmassarova. Idaṃ pana bhāsantaraṃ sandhāya kathitaṃ. Sacepi hi satthā rājāsane nisinno katheti, “ajja rājā madhurena sarena kathetī”ti tesaṃ hoti. Kathetvā pakkante pana bhagavati puna rājānaṃ āgataṃ disvā — “ko nu kho ayan”ti vīmaṃsā uppajjati. Tattha ko nu kho ayanti imasmiṃ ṭhāne idāneva māgadhabhāsāya sīhaḷabhāsāya madhurenākārena kathento ko nu kho ayaṃ antarahito, kiṃ devo, udāhu manussoti evaṃ vīmaṃsantāpi na jānantīti attho. Kimatthaṃ panevaṃ ajānantānaṃ dhammaṃ desetīti? Vāsanatthāya. Evaṃ sutopi hi dhammo anāgate paccayo hoti yevāti anāgataṃ paṭicca deseti. Anekasataṃ brāhmaṇaparisantiādīnampi soṇadaṇḍakūṭadaṇḍasamāgamādivasena ceva aññacakkavāḷavasena ca sambhavo veditabbo.
- Trong câu đó ‘…hàng trăm hội chúng Sát-đế-lỵ’: Hội chúng như sự hội họp vua Bimbisāra, sự hội họp của thân quyến, sự hội họp của vị Licchavī v.v. lời này sử dụng luôn cả những hội nghị khác. Đã chuyện trò trước đây: trước đây đã từng thực hiện cuộc trò chuyện trao đổi. Cuộc bàn luận: đã tham gia các cuộc bàn luận trước đây cả việc bàn luận Pháp. Màu da của các vị ấy như thế nào: những Sa-môn và Bà-la-môn ấy màu trắng, màu đen, hay màu da hai màu, (còn) bậc Đạo Sư có màu da tựa như màu hoàng kim. Hơn nữa, lời này ngài đã nói dựa theo hình dáng. Ngay cả hình dáng của những Sa-môn và Bà-la-môn ấy chỉ hiển lộ như thế. Còn đức Thế Tôn không giống tộc mọi rợ, hay không đeo các bông tai bằng ngọc trai và ngọc ma-ni, ngài ngồi trong chính hình tướng của vị Phật, nhưng những Sa-môn Bà-la-môn ấy thấy đức Phật có hình dáng giống như họ. Giọng nói của các vị ấy như thế nào: những Sa-môn Bà-la-môn ấy (một số) có âm giọng đứt quãng, (một số) có âm giọng ồn ào, (một số) có giọng nói như quạ, (còn) bậc Đạo Sư có âm giọng như Phạm Thiện. Tuy nhiên lời này ngài đề cập đến ngôn ngữ khác. Sự thật, nếu như trong hội chúng ấy bậc Đạo Sư ngồi thuyết giảng trên ngai vàng, những Sa-môn Bà-la-môn ấy hiểu rằng: “Ngày hôm nay đức vua thuyết giảng với âm giọng ngọt ngào”. Nhưng khi đức Thế Tôn nói xong rồi ra đi, sau khi nhìn thấy những vị ấy đã quay trở lại khởi lên thẩm xét rằng: “Người này là ai?” Trong những lời ấy ‘Người này là ai?’những Sa-môn Bà-la-môn ấy dầu thẩm xét như vậy cũng không biết rằng: Người này là ai nói bằng ngôn ngữ Magadha, ngôn ngữ Sīhaḷa với biểu hiện êm dịu ở nơi này ở thời điểm hiện tại cũng biến mắt trong nháy mắt, là Trời hay người? Đức Thế Tôn thuyết giảng Giáo Pháp cho những người không biết như thế vì lợi ích gì? Nhằm mục đích huấn luyện. Quả thực, khi gặp trường hợp này Pháp dầu đã được nghe cũng chính là duyên lành trong thời vị lai, hướng đến thời vị lai nên mới thuyết giảng. Nên biết nhân sanh của các hội chúng có hàng trăm hộ chúng Bà-la-môn v.v. do tác động của hội chúng Soṇadaṇḍa và hội chúng Kūṭadaṇḍa v.v, và do tác động của những hội nghị khác.
Imā pana aṭṭha parisā bhagavā kimatthaṃ āhari? Abhītabhāvadassanatthameva. imā kira āharitvā evamāha — “ānanda, imāpi aṭṭha parisā upasaṅkamitvā dhammaṃ desentassa tathāgatassa bhayaṃ vā sārajjaṃ vā natthi, māraṃ pana ekakaṃ disvā tathāgato bhāyeyyāti ko evaṃ saññaṃ uppādetumarahati. Abhīto, ānanda, tathāgato acchambhī, sato sampajāno āyusaṅkhāraṃ ossajī”ti.
Hơn nữa, đức Thế Tôn đưa tám hội chúng này đến vì mục đích gì? Để thuyết giảng sự không sợ hãi. Nghe rằng ngài đưa những hội chúng này đến nói như vầy – “Này Ānanda, sự sợ hãi hoặc run sợ không có nơi Như Lai, sau khi đi vào tám hội chúng này đã thuyết giảng Giáo Pháp, nhưng ai sẽ là người khơi dậy sự hiểu biết này, đức Như Lai nhìn thấy từng Ma Vương có thể sợ hãi. Này Ānanda, Như Lai không sợ hãi, không kinh hãi, có niệm, có sự nhận biết rõ và đã buông bỏ việc duy trì tuổi thọ.”
Giảng Về Tám Lãnh Vực Chế Ngự
- Abhibhāyatanānīti abhibhavanakāraṇāni. kiṃ abhibhavanti? Paccanīkadhammepi ārammaṇānipi. Tāni hi paṭipakkhabhāvena paccanīkadhamme abhibhavanti, puggalassa ñāṇuttariyatāya ārammaṇāni.
- Lãnh vực chế ngự: lý do chế ngự. Chế ngự điều gì? Chế ngự các Pháp đối nghịch, hoặc (chế ngự) các đối tượng. Thật vậy, những lý do ấy chế ngự các Pháp đối nghịch bởi tính chất đối nghịch, chế ngự đối tượng nhờ tính chất người có trí tuệ cao thượng.
Ajjhattaṃ rūpasaññītiādīsu pana ajjhattarūpe parikammavasena ajjhattaṃ rūpasaññī nāma hoti. Ajjhattañhi nīlaparikammaṃ karonto kese vā pitte vā akkhitārakāya vā karoti. Pītaparikammaṃ karonto mede vā chaviyā vā hatthapādapiṭṭhesu vā akkhīnaṃ pītakaṭṭhāne vā karoti. Lohitaparikammaṃ karonto maṃse vā lohite vā jivhāya vā akkhīnaṃ rattaṭṭhāne vā karoti. Odātaparikammaṃ karonto aṭṭhimhi vā dante vā nakhe vā akkhīnaṃ setaṭṭhāne vā karoti. Taṃ pana sunīlaṃ supītaṃ sulohitakaṃ suodātakaṃ na hoti, avisuddhameva hoti.
Có sự nhận biết về sắc thuộc nội phần: hành giả gọi là có sự nhận biết sắc thuộc nội phần do tác động cho việc chuẩn bị (biến xứ kasiṇa) thuộc sắc nội phần. Thật vậy, hành giả trong khi thực hành cho việc chuẩn bị đề mục màu xanh thuộc sắc nội phần, được làm ở tóc, hay ở túi mật, hoặc ở tròng mắt. Trong khi thực hiện cho việc chuẩn bị đề mục kasiṇa màu vàng được thực hiện ở mỡ đặc, lớp da ở mu bàn tay, ở mu bàn chân, hoặc màu vàng của con mắt. Trong khi thực hiện cho việc chuẩn bị đề mục kasiṇa màu đỏ được thực hiện ở thịt, ở máu, ở lưỡi, hoặc ở chỗ có màu đỏ của con mắt. Trong khi thực hiện cho việc chuẩn bị biến xứ kasiṇa màu trắng được thực hiện ở xương, ở răng, ở móng (tay chân), hoặc ở vị trí màu trắng của con mắt. Tuy nhiên, việc chuẩn bị đề mục ấy màu xanh tuyền, màu vàng tuyền, màu đỏ nhạt, màu trắng nhạt là không hiện hữu, toàn bộ (đề mục) không hoàn toàn thanh tịnh.
Eko bahiddhā rūpāni passatīti yassevaṃ[73] parikammaṃ ajjhattaṃ uppannaṃ hoti, nimittaṃ pana bahiddhā, so evaṃ ajjhattaṃ parikammassa bahiddhā ca appanāya vasena — “ajjhattaṃ rūpasaññī eko bahiddhā rūpāni passatī”ti vuccati. Parittānīti avaḍḍhitāni. suvaṇṇadubbaṇṇānīti suvaṇṇāni vā honti, dubbaṇṇāni vā. Parittavaseneva idaṃ abhibhāyatanaṃ vuttanti veditabbaṃ. Tāni abhibhuyyāti yathā nāma sampannagahaṇiko kaṭacchumattaṃ bhattaṃ labhitvā — “kiṃ ettha bhuñjitabbaṃ atthī”ti saṅkaḍḍhitvā ekakabaḷameva karoti, evameva ñāṇuttariko puggalo visadañāṇo — “kiṃ ettha parittake ārammaṇe samāpajjitabbaṃ atthi, nāyaṃ mama bhāro”ti tāni rūpāni abhibhavitvā samāpajjati, saha nimittuppādenevettha appanaṃ pāpetīti attho. Jānāmi passāmīti iminā panassa ābhogo kathito. So ca kho samāpattito vuṭṭhitassa, na antosamāpattiyaṃ. Evaṃsaññī hotīti ābhogasaññāyapi jhānasaññāyapi evaṃsaññī hoti. abhibhavanasaññā hissa antosamāpattiyampi atthi, ābhogasaññā pana samāpattito vuṭṭhitasseva.
Một vị nhìn thấy các sắc thuộc ngoại phần: Việc chuẩn bị (đề mục kasiṇa) của hành giả nào được sanh khởi ở bên trong, nhưng hiện tướng được sanh lên ở bên ngoài, vị ấy do tác động của việc chuẩn bị (đề mục kasiṇa) ở bên trong và sự chuyên chú ở bên ngoài như vậy – (vị ấy) được gọi là “Một vị, có sự nhận biết về sắc thuộc nội phần, nhìn thấy các sắc thuộc ngoại phần”. Ít ỏi: không phát triển. Đẹp và xấu: có màu da đẹp hoặc màu da xấu xí. Lãnh vực chế ngự này nên biết rằng ngài nói do tác động cảnh nhỏ. Sau khi chế ngự những sắc đó: giống như một người có dịch tiêu hóa vật thực tốt nhận được một muỗng thức ăn, nghĩ rằng – “có nên thọ dụng món ăn này chăng?” nên đã gom lại nặng thành một vắt như thế nào, tương tự y như thế ấy hạng người thượng trí có trí tuệ sắc bén nghĩ rằng “có nên thể nhập vào cảnh nhỏ nhoi này (sẽ) đủ chăng? đây không phải là phận sự của ta” sự chứng đạt đã chế ngự các sắc đó. Giải thích rằng đạt đến sự chuyên chú trong lãnh vực chế ngự này cùng với việc làm cho hiện tướng sanh khởi. Tôi biết, tôi thấy: Ngài nói đến tư tưởng của hạng người ấy. Vị ấy sau khi xuất khỏi thiền chứng, tư tưởng ấy cũng không có bên trong sự thể nhập. Có sự nhận biết như vậy: có sự nhận biết như vậy bởi sự nhận biết trong tư tưởng, hoặc bởi sự nhận biết trong thiền. Thật vậy, sự nhận biết là sự chế ngự có cùng hạng người ấy, ngay cả bên trong sự thể nhập, còn sự nhận biết trong tư tưởng chỉ có khi xuất khỏi sự thể nhập.
Appamāṇānīti vaḍḍhitappamāṇāni, mahantānīti attho. Abhibhuyyāti ettha pana yathā mahagghaso puriso ekaṃ bhattavaḍḍhitakaṃ labhitvā — “aññampi hotu, kiṃ etaṃ mayhaṃ karissatī”ti taṃ na mahantato passati, evameva ñāṇuttaro puggalo visadañāṇo “kiṃ ettha samāpajjitabbaṃ, nayidaṃ appamāṇaṃ, na mayhaṃ cittekaggatākaraṇe bhāro atthī”ti tāni abhibhavitvā samāpajjati, saha nimittuppādenevettha appanaṃ pāpetīti attho.
Vô lượng: có sự ước lượng tăng trưởng, tức là to lớn. Chế ngự: ở đây giống như một người khỏe ăn khi nhận được bát cơm đầy vun khởi lên suy nghĩ rằng “hãy có cả món ăn khác, bát cơm này sẽ đủ cho ta sao?” không thấy bát cơm ấy nhiều như thế nào, hạng người thượng trí có trí tuệ sắc bén như thế ấy, nghĩ rằng: “Nhập thiền vào đối tượng này được chăng? Đối tượng này không vô lượng, trong việc thực hành phận sự đưa đến sự định tâm không phải gánh nặng cho ta,” đã chế ngự những đối tượng ấy rồi nhập thiền. Giải thích rằng: đưa đến sự chuyên chú nơi đối tượng ấy cùng với hiện tướng sanh khởi.
Ajjhattaṃ arūpasaññīti alābhitāya vā anatthikatāya vā ajjhattarūpe parikammasaññāvirahito. Eko bahiddhā rūpāni passatīti yassa parikammampi nimittampi bahiddhāva uppannaṃ, so evaṃ bahiddhā parikammassa ceva appanāya ca vasena — “ajjhattaṃ arūpasaññī eko bahiddhā rūpāni passatī”ti vuccati. Sesamettha catutthābhibhāyatane vuttanayameva. Imesu pana catūsu parittaṃ vitakkacaritavasena āgataṃ, appamāṇaṃ mohacaritavasena, suvaṇṇaṃ dosacaritavasena, dubbaṇṇaṃ rāgacaritavasena. Etesañhi etāni sappāyāni. Sā ca nesaṃ sappāyatā vitthārato visuddhimagge caritaniddese vuttā.
Có sự nhận biết không có sắc thuộc nội phần: loại bỏ việc chuẩn bị sự nhận biết ở sắc thuộc nội phần do không đạt được hoặc do không có lợi ích. Một vị nhìn thấy các sắc ngoại phần: sự chuẩn bị (đề mục kasiṇa), (và) cả hiện tướng của người nào sanh khởi ở bên ngoài, người ấy do tác động việc chuẩn bị và sự chuyên chú ở bên ngoài như vậy – được gọi là “một vị không có sự nhận biết sắc thuộc nội phần, nhìn thấy các sắc ngoại phần”, từ còn lại trong câu này có cách thức như đã trình bày trong phần bốn lãnh vực chế ngự. Trong lãnh vực chế ngự thứ tư này, (lãnh vực chế ngự) ít ỏi đã đến do tác động của tánh suy tầm. (Lãnh vực chế ngự) vô lượng (đã đến) do tác động của tánh si mê. Sắc tốt do tác động của tánh sân. Sắc xấu do tác động của tánh ai luyến. Các sắc này phù hợp đối với những hạng người ấy. Hơn nữa, bản thể sắc phù hợp đối với những hạng người ấy, ngài đã nói trong phần diễn giải chi tiết về ‘Cơ Tánh – carita’ ở bộ Thanh Tịnh Đạo.
Pañcamābhibhāyatanādīsu nīlānīti sabbasaṅgāhakavasena[74] vuttaṃ. Nīlavaṇṇānīti vaṇṇavasena. Nīlanidassanānīti nidassanavasena, apaññāya mānavivarāni asambhinnavaṇṇāni ekanīlāneva hutvā dissantīti vuttaṃ hoti. Nīlanibhāsānīti idaṃ pana obhāsavasena vuttaṃ, nīlobhāsāni nīlappabhāyuttānīti attho. Etena nesaṃ visuddhataṃ dasseti. Visuddhavaṇṇavaseneva hi imāni cattāri abhibhāyatanāni vuttāni. Umāpupphanti etañhi pupphaṃ siniddhaṃ mudu, dissamānampi nīlameva hoti. Girikaṇṇikapupphādīni pana dissamānāni setadhātukāneva honti. Tasmā idameva gahitaṃ, na tāni. Bārāṇaseyyakanti bārāṇasisambhavaṃ. Tattha kira kappāsopi mudu, suttakantikāyopi tantavāyāpi chekā, udakampi suci siniddhaṃ. tasmā taṃ vatthaṃ ubhatobhāgavimaṭṭhaṃ hoti; Dvīsupi passesu maṭṭhaṃ mudu siniddhaṃ khāyati.
Lãnh vực chế ngự thứ năm v.v, màu xanh ngài nói gộp chung tất cả màu. Có sắc xanh: do ảnh hưởng của màu da. Có dáng xanh: ngài nói bằng ví dụ, được giải thích (như sau) màu sắc không bị pha trộn, không có khoảng trống hiển lộ, chỉ hiển lộ có màu xanh thuần túy. Có ánh sáng xanh: hơn nữa điều này ngài nói do tác động của ánh sáng, giải thích rằng có ánh sáng xanh, phối hợp với ánh sáng xanh. Với câu này ngài chỉ ra tính chất trong sạch các sắc đó . Thật vậy, ngài nói đến bốn lãnh vực chế ngự này do tác động của các sắc trong sạch. Cây lục bình: bởi vì hoa này dầu có vẻ ngoài mềm yếu (nhưng) hoàn toàn xanh. Nhưng hoa kaṇṇika v.v, có vẻ bề ngoài là giống hoa màu trắng. Vì thế ngài chỉ lấy hoa lục bình này, không lấy hoa kaṇṇika v.v. Tấm vải được sản xuất từ thành Bārāṇāsī: được sản xuất ở thành Bārāṇāsī. Được biết rằng trong thành Bārāṇāsī ấy cả vải sợi bông cũng mềm mại, luôn cả người dệt vải cũng khéo léo, kể cả dòng nước cũng sạch sẽ hoàn toàn mát lạnh, vì thế vải trở nên mịn màn, mềm mại cả hai mặt, ở hai mặt đều có về ngoài hoàn toàn mịn màn, mềm mại.
Pītānītiādīsupi imināva nayena attho veditabbo. “Nīlakasiṇaṃ uggaṇhanto nīlasmiṃ nimittaṃ gaṇhāti pupphasmiṃ vā vatthasmiṃ vā vaṇṇadhātuyā vā”tiādikaṃ panettha kasiṇakaraṇañca parikammañca appanāvidhānañca sabbaṃ visuddhimagge vitthārato vuttameva.
Có màu vàng v.v, nên biết ý nghĩa theo chính cách thức này. “Trong khi học tập biến xứ kasiṇa xanh (vị ấy) nắm lấy hiện tướng màu xanh, là trong bông hoa, trong y phục, hoặc phẩm chất về sắc đẹp” v.v. Hơn nữa ở đây việc thực hiện đề mục kasiṇa, việc chuẩn bị, hoặc lộ trình an chỉ, toàn bộ được giảng giải chi tiết trong bộ Thanh Tịnh Đạo.
Imānipi aṭṭha abhibhāyatanāni abhītabhāvadassanatthameva ānītāni. Imāni kira vatvā evamāha — “ānanda, evarūpāpi samāpattiyo samāpajjantassa ca vuṭṭhahantassa ca tathāgatassa bhayaṃ vā sārajjaṃ vā natthi, māraṃ pana ekakaṃ disvā tathāgato bhāyeyyāti ko evaṃ saññaṃ uppādetumarahati. Abhīto, ānanda, tathāgato acchambhī, sato sampajāno āyusaṅkhāraṃ ossajī”ti.
Tám lãnh vực chế ngự này, ngài mang lại để thuyết giảng sự không sợ hãi. Được biết đức Thế Tôn khi thuyết tám lãnh vực chế ngự ấy đã nói như vầy – “Này Ānanda, sự sợ hãi hoặc run sợ không có nơi Như Lai, vị đang thể nhập thiền diệt ấy và đang xuất khỏi (thiền diệt), nhưng ai sẽ là người khơi dậy sự hiểu biết này, đức Như Lai nhìn thấy từng Ma Vương có thể sợ hãi. Này Ānanda, Như Lai không sợ hãi, không kinh hãi, có niệm, có sự nhận biết rõ và đã buông bỏ việc duy trì tuổi thọ.”
Giảng Về Tám Giải Thoát
- Vimokkhakathā uttānatthāyeva. Imepi aṭṭha vimokkhā abhītabhāvadassanatthameva ānītā. Imepi kira vatvā evamāha — “ānanda, etāpi samāpattiyo samāpajjantassa ca vuṭṭhahantassa ca tathāgatassa bhayaṃ vā sārajjaṃ vā natthi … pe … ossajī”ti.
- Giảng về giải thoát đều có ý nghĩa đơn giản. Tám giải thoát này ngài đem lại để thuyết sự sợ hãi tương tự. Được biết đức Thế Tôn khi thuyết tám giải thoát ấy đã nói như vầy – “Này Ānanda, sự sợ hãi hoặc run sợ không có nơi Như Lai, vị đang thể nhập thiền diệt ấy và đang xuất khỏi (thiền diệt) … đã buông bỏ việc duy trì tuổi thọ.”
- Idānipi bhagavā ānandassa okāsaṃ adatvāva ekamidāhantiādinā nayena aparampi desanaṃ ārabhi. Tattha paṭhamābhisambuddhoti abhisambuddho hutvā paṭhamameva aṭṭhame sattāhe.
- Ngay bây giờ, khi đức Thế Tôn tạo cơ hội cho đại đức Ānanda đã bắt đầu thuyết giảng Pháp Thoại khác nữa theo cách thức sau: “một lần nọ…” Trong câu đó, vừa mới thành tựu quả vị Chánh đẳng Chánh giác: vị đã giác ngộ lần đầu tiên, là ở tuần lễ thứ tám.
- Ossaṭṭhoti vissajjito paricchinno[75], evaṃ kira vatvā — “tenāyaṃ dasasahassī lokadhātu kampitthā”ti āha.
Đã buông bỏ: đã buông bỏ, đã quyết định, được biết khi thuyết như thế đã nói rằng – “Vì lý do ấy mười ngàn thế giới rung động.”
Giảng Về Việc Đại Đức Ānanda Cầu Xin Thế Tôn
- Alanti paṭikkhepavacanametaṃ. Bodhinti catumaggañāṇapaṭiveghaṃ. Saddahasi tvanti evaṃ vuttabhāvaṃ tathāgatassa saddahasīti vadati. Tasmātihānandāti yasmā idaṃ vacanaṃ saddahasi, tasmā tuyhevetaṃ dukkaṭanti dasseti.
- Thôi đi: Đây là lời từ chối. Sự giác ngộ: thấu triệt bốn trí về Đạo. Ngươi có tin vào…: Ngươi tin rằng Như Lai đã nói như vậy chăng? Vì thế, ở đây, này Ānanda: Đức Thế Tôn thuyết rằng: Vì ngươi tin vào lời này, do đó điều ấy là sự sai trái của ngươi.
- Ekamidāhanti idaṃ bhagavā — “Na kevalaṃ ahaṃ idheva taṃ āmantesiṃ, aññadāpi āmantetvā oḷārikaṃ nimittaṃ akāsiṃ, tampi tayā na paṭividdhaṃ, tavevāyaṃ aparādho”ti evaṃ sokavinodanatthāya nānappakārato therasseva dosāropanatthaṃ ārabhi.
- Đức Thế Tôn bắt đầu rằng ‘một lần nọ v.v,’ để tha thứ lỗi lầm của riêng trưởng lão theo nhiều cách khác nhau, để xoa dịu sự đau buồn như vầy rằng: “Không phải chỉ một lần Ta không gọi ngươi đến nơi đây, luôn cả những lần khác ta cũng đã ra dấu rất rõ ràng, ngươi đã không nhận thức thấu đáo, vì thế ở đây là lỗi lầm của ngươi”.
- Piyehi manāpehīti mātāpitābhātābhaginiādikehi jātiyā nānābhāvo, maraṇena vinābhāvo, bhavena aññathābhāvo. Taṃ kutettha labbhāti tanti tasmā, yasmā sabbeheva piyehi manāpehi nānābhāvo, tasmā dasa pāramiyo pūretvāpi, sambodhiṃ patvāpi, dhammacakkaṃ pavattetvāpi, yamakapāṭihāriyaṃ dassetvāpi, devorohaṇaṃ katvāpi, yaṃ taṃ jātaṃ bhūtaṃ saṅkhataṃ palokadhammaṃ, taṃ vata tathāgatassāpi sarīraṃ mā palujjīti netaṃ ṭhānaṃ vijjati, rodantenāpi kandantenāpi na sakkā taṃ kāraṇaṃ laddhunti. Puna paccāvamissatīti yaṃ cattaṃ vantaṃ, taṃ vata puna paṭikhādissatīti[76] attho.
- Các vật đáng yêu, đáng mến: Có bản chất khác biệt dòng dõi, có bản chất không thật do sự chết, có bản chất thay đổi (chia lìa) từ mẹ, cha, anh trai, chị gái v.v. Taṃ trong câu ‘Taṃ kutettha labbhā – tại sao điều ấy có thể xảy ra ở đây’: vì lý do đó, nghĩa là: Do tất cả các vật đáng yêu đáng mến đều có bản chất đa dạng, vì thế (Như Lai) đã làm tròn đủ mười pháp ba-la-mật, đã đạt đến quả vị Toàn Giác, đã chuyển vận bánh xe Pháp Bảo, đã thị hiện song thông, (hay) từ Thiên giới trở về trần gian, đối với vật được sanh ra, được hình thành, bị tạo tác, có pháp biến hoại, (mà lại nghĩ rằng): ‘Ôi, mong sao thân xác của đức Như Lai chớ bị biến hoại’? Sự việc ấy không xảy ra, dầu đã than khóc, hay kêu than cũng không có thể đạt được địa vị ấy. (Không vì nguyên nhân mạng sống mà Như Lai) sẽ nuốt lại lời ấy!: Những thứ mà Như Lai đã vứt bỏ, đã nhả ra, những thứ ấy Như Lai sẽ không nuốt lại nữa.
- Yathayidaṃ brahmacariyanti yathā idaṃ sikkhāttayasaṅgahaṃ sāsanabrahmacariyaṃ. Addhaniyanti addhānakkhamaṃ. Ciraṭṭhitikanti cirappavattivasena ciraṭṭhitikaṃ. Cattāro satipaṭṭhānātiādi sabbaṃ lokiyalokuttaravaseneva kathitaṃ. Etesaṃ pana bodhipakkhiyānaṃ dhammānaṃ vinicchayo sabbākārena visuddhimagge paṭipadāñāṇadassanavisuddhiniddese vutto. Sesamettha uttānamevāti.
- Nhờ thế Phạm Hạnh này: Lời dạy về Phạm Hạnh được nhiếp hợp bởi ba học giới. Có thể được lưu truyền: Tồn tại lâu dài. Được tồn tại lâu dài: Tồn tại lâu dài về phương diện vận hành dài lâu. Bốn sự thiết lập niệm v.v, tất cả đều được thuyết do tác động Hiệp Thế và Siêu Thế. Còn việc lý giải về Pháp Trợ Giác Ngộ này đã được nói ở phần diễn giải Đạo Tri Kiến Tịnh [Paṭipadāñāṇadassanavisuddhi] trong Thanh Tịnh Đạo với tất cả mọi biểu hiện. Những từ còn lại đều đơn giản.
Giảng Giải Tụng Phẩm Thứ Ba được kết thúc.
Giảng Về Cái Nhìn Của Loài Voi
- Nāgāpalokitanti yathā hi mahājanassa aṭṭhīni koṭiyā koṭiṃ āhacca ṭhitāni, paccekabuddhānaṃ aṅkusakalaggāni viya, na evaṃ buddhānaṃ. Buddhānaṃ pana saṅkhalikāni viya ekābaddhāni hutvā ṭhitāni, tasmā pacchato apalokanakāle na sakkā hoti gīvaṃ parivattetuṃ. Yathā pana hatthināgo pacchābhāgaṃ apaloketukāmo sakalasarīreneva parivattati, evaṃ parivattitabbaṃ hoti. Bhagavato pana nagaradvāre ṭhatvā — “Vesāliṃ apalokessāmī”ti citte uppannamatte — “Bhagavā anekāni kappakoṭisahassāni pāramiyo pūrentehi tumhehi na gīvaṃ parivattetvā apalokanakammaṃ katan”ti ayaṃ pathavī kulālacakkaṃ viya parivattetvā bhagavantaṃ vesālinagarābhimukhaṃ akāsi. Taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ.
- Với cái nhìn của loài voi: Thật vậy, như phần xương của đa số mọi người có phần khớp xương được xếp chồng lên nhau hình thành, của chư Phật-độc-giác dính liền như cái móc của người quản tượng, còn của chư Phật không như thế. Còn của chư Phật thì liên kết thành một như miếng vàng, vì thế lúc nhìn về phía sau, (ngài) không thể xoay tròn cổ. Cũng giống như loài voi khi muốn nhìn về phía sau thì phải quay toàn bộ thân hình (như thế nào), (mà) đức Thế Tôn phải quay toàn bộ tấm thân (như thế ấy). Tuy nhiên đức Thế Tôn đứng ở cổng thành, khởi lên suy nghĩ rằng: “Ta sẽ ngắm nhìn thành Vesālī” – Quả địa cầu này dường như nói rằng: “Bạch đức Thế Tôn, ngài đã làm tròn đủ pháp ba-la-mật hàng trăm ngàn koṭi kiếp, đã không thực hiện (điều đó) tức là xoay tròn cổ để nhìn” nên mới so sánh giống như bánh xe người làm đồ gốm, hướng về thành Vesālī. Ngài muốn đề cập đến điều đó mới nói rằng: “Với cái nhìn của loài voi.”
Nanu ca na kevalaṃ vesāliyāva, sāvatthi- rājagaha- nāḷanda- pāṭaligāma- koṭigāmanātikagāmakesupi tato tato nikkhantakāle taṃ taṃ sabbaṃ pacchimadassanameva, tattha tattha kasmā nāgāpalokitaṃ nāpalokesīti? Anacchariyattā. Tattha tattha hi nivattetvā apalokentassetaṃ na acchariyaṃ hoti, tasmā nāpalokesi. Api ca vesālirājāno āsannavināsā, tiṇṇaṃ vassānaṃ upari vinassissanti. Te taṃ nagaradvāre nāgāpalokitaṃ nāma cetiyaṃ katvā gandhamālādīhi pūjessanti, taṃ nesaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissatīti tesaṃ anukampāya apalokesi.
Không chỉ riêng thành Vesāḷī, luôn cả thành Sāvatthi, thành Rājagaha, thành Nāḷandā, làng Pāṭaligāma, làng Koṭigāma, làng Nātikagāmaka, thời gian ngài rời khỏi những nơi ấy tất cả đều là lần nhìn thấy cuối cùng phải chăng? Nguyên nhân gì những nơi ấy không phải việc nhìn của loài voi (là cái nhìn cái cùng). Bởi không kỳ diệu. Thật vậy, đức Thế Tôn trở lại ngoái nhìn nơi ấy, là không kỳ diệu, vì thế không quay tấm thân để nhìn. Vả lại, các vị Licchavī thành Vesālī gần suy vong, sẽ suy vong vào ba năm tới. Vì thế, các Licchavī ấy đã kiến tạo bảo điện tên là Nāgāpalokita gần cổng thành sẽ lễ bái bảo điện ấy bằng hương thơm và tràng hoa v.v, điều ấy sẽ đưa đến sự lợi ích, sự an lạc lâu dài (vì thế) mới (xoay cả tấm thân) nhìn vì lòng thương tưởng các Licchavī ấy.
Dukkhassantakaroti vaṭṭadukkhassa antakaro. Cakkhumāti pañcahi cakkhūhi cakkhumā. Parinibbutoti kilesaparinibbānena parinibbuto.
Vị đoạn tận khổ: vị đoạn tận toàn bộ mọi đau khổ của sự luân hồi. Bậc Hữu Nhãn: Vị có mắt sáng với năm loại mắt. An tịnh Niết Bàn: Viên tịch Niết Bàn thông qua việc diệt tận hoàn toàn các ô nhiễm.
Bốn Đại Giáo Pháp -Mahāpadesa
- Mahāpadeseti mahāokāse, mahāapadese vā, buddhādayo mahante mahante apadisitvā vuttāni mahākāraṇānīti attho.
- Y cứ chính: cơ hội lớn, hoặc dẫn chứng lớn. Nghĩa là, nguyên nhân lớn lao được ngài dẫn chứng đến bậc trưởng thượng như đức Phật v.v.
- Neva abhinanditabbanti haṭṭhatuṭṭhehi sādhukāraṃ datvā pubbeva na sotabbaṃ, evaṃ kate hi pacchā “idaṃ na sametī”ti vuccamāno — “kiṃ pubbeva ayaṃ dhammo, idāni na dhammo”ti vatvā laddhiṃ na vissajjeti. Nappaṭikkositabbanti — “kiṃ esa bālo vadatī”ti evaṃ pubbeva na vattabbaṃ, evaṃ vutte hi vattuṃ yuttampi na vakkhati. tenāha — “anabhinanditvā appaṭikkositvā”ti. Padabyañjanānīti padasaṅkhātāni byañjanāni. Sādhukaṃ uggahetvāti imasmiṃ ṭhāne pāḷi vuttā, imasmiṃ ṭhāne attho vutto, imasmiṃ ṭhāne anusandhi kathito, imasmiṃ ṭhāne pubbāparaṃ kathitanti suṭṭhu gahetvā. Sutte osāretabbānīti sutte otāretabbāni. Vinaye sandassetabbānīti vinaye saṃsandetabbāni.
- Không nên được tán thành: không nên do vui mừng, thích thú đã ban lời khen ngợi (mà) nên lắng nghe trước. Bởi vì, khi làm như vậy, cho dù sau này bị hỏi rằng: “Điều này không phù hợp” – cũng đáp lại được rằng: “Trước đây chính điều này là pháp, còn bây giờ không phải pháp sao?” được gọi là không từ bỏ học thuyết. Không nên bị phản đối: Không nên nói trước như vầy “Kẻ ngu này nói gì?” thật sự như vậy “sẽ không nói ngay cả những lời nên nói”. Vì thế, đức Thế Tôn mới nói rằng: “không nên được tán thành, không nên bị phản đối”. Các câu và các chữ: các byañjana được xem là câu. (Các pháp) nên được học tập kỹ lưỡng: đã nắm lấy một cách tốt đẹp (rằng) ngài đã nói Pāḷī ở chỗ này, đã nói ý nghĩa ở chỗ này, đã nói phần đầu ở chỗ này, và đã nói phần cuối ở chỗ này. Nên được so sánh ở Kinh: Nên được so sánh ở Kinh. Nên được xem xét ở Luật: nên được đối chiếu ở Luật.
Ettha ca suttanti vinayo. yathāha — “kattha paṭikkhittaṃ? sāvatthiyaṃ suttavibhaṅge”ti[77]. Vinayoti khandhako. Yathāha — “vinayātisāre”ti[78]. Evaṃ vinayapiṭakampi na pariyādiyati. Ubhatovibhaṅgā pana suttaṃ, khandhakaparivārā vinayoti evaṃ vinayapiṭakaṃ pariyādiyati. Athavā suttantapiṭakaṃ suttaṃ, vinayapiṭakaṃ vinayoti evaṃ dveyeva piṭakāni pariyādiyanti. Suttantābhidhammapiṭakāni vā suttaṃ, vinayapiṭakaṃ vinayoti evampi tīṇi piṭakāni na tāva pariyādiyanti. Asuttanāmakañhi[79] buddhavacanaṃ nāma atthi. Seyyathidaṃ — jātakaṃ, paṭisambhidā, niddeso, suttanipāto, dhammapadaṃ, udānaṃ, itivuttakaṃ, vimānavatthu, petavatthu, theragāthā, therīgāthā, apadānanti.
Và ở đây Kinh bao gồm Luật. Như ngài đã nói – “(Việc ấy) được bác bỏ ở đâu? – “Ở thành Sāvatthi, trong Suttavibhaṅga (Phân Tích Giới Bổn, sutta trong trường hợp này ám chỉ Luật).” Luật bao gồm Khandhaka (Hợp Phần). Như ngài đã nói – “Về việc vượt quá Luật”. Như vậy, gọi là không chấp giữ Luật Tạng. Ubhatovibhaṅga (Phân Tích Luật Lưỡng Phái) là Sutta, Hợp Phần (Khandhaka) và bộ Tập Yếu (Parivāra). gọi là Vinaya, như vậy là chấp giữ Luật. Hơn nữa, Tạng Kinh gọi là Kinh, Tạng Luật gọi là Luật, như vậy là chấp giữ cả hai Tạng. Thêm nữa, trước hết không chấp giữ ba Tạng như vầy – Tạng Kinh và Tạng Vi Diệu Pháp gọi là Kinh, Tạng Luật gọi là Luật. Thật vậy, Phật ngôn gọi là không phải Kinh cũng có là Bổn Sanh, Phân Tích Đạo, Diễn Giải, Kinh Tập, Pháp Cú, Phật Tự Thuyết, Phật Thuyết Như Vậy, Chuyện Thiên Cung, Chuyện Ngạ Quỷ, Trưởng Lão Kệ, Trưởng Lão Ni Kệ, Thánh Nhân Ký Sự.
Sudinnatthero pana — “asuttanāmakaṃ buddhavacanaṃ na atthī”ti taṃ sabbaṃ paṭipakkhipitvā — “tīṇi piṭakāni suttaṃ, vinayo pana kāraṇan”ti āha. tato taṃ kāraṇaṃ dassento idaṃ suttamāhari —
Hơn nữa, trưởng lão Sudinna đã phản đối tất cả rằng – “Phật ngôn gọi là không phải Kinh có hay sao?” rồi nói “Tam Tạng gọi là Kinh, còn Luật gọi là nhân”. Khi đó, mới đem bài Kinh này đến dẫn chứng –
“Ye kho tvaṃ, gotami, dhamme jāneyyāsi, ime dhammā sarāgāya saṃvattanti no virāgāya, saññogāya saṃvattanti no visaññogāya, ācayāya saṃvattanti no apacayāya, mahicchatāya saṃvattanti no appicchatāya, asantuṭṭhiyā saṃvattanti no santuṭṭhiyā, saṅgaṇikāya saṃvattanti no pavivekāya, kosajjāya saṃvattanti no vīriyārambhāya, dubbharatāya saṃvattanti no subharatāya. Ekaṃsena, gotami, dhāreyyāsi — ‘Neso dhammo, neso vinayo, netaṃ satthusāsanan’ti. Ye ca kho tvaṃ, gotami, dhamme jāneyyāsi, ime dhammā virāgāya saṃvattanti no sarāgāya, visaññogāya saṃvattanti no saññogāya, apacayāya saṃvattanti no ācayāya, appicchatāya saṃvattanti no mahicchatāya, santuṭṭhiyā saṃvattanti no asantuṭṭhiyā, pavivekāya saṃvattanti no saṅgaṇikāya, vīriyārambhāya saṃvattanti no kosajjāya, subharatāya saṃvattanti no dubbharatāya. ekaṃsena, gotami, dhāreyyāsi — ‘eso dhammo, eso vinayo, etaṃ satthusāsanan’ti”[80].
“Và này Gotamī, các Pháp nào mà bà có thể biết rằng các pháp này đưa đến tham ái mà không đưa đến sự xa lìa tham ái, đưa đến sự ràng buộc mà không đưa đến sự thoát khỏi ràng buộc, đưa đến sự tích lũy mà không đưa đến sự không tích lũy, đưa đến sự ham muốn nhiều mà không đưa đến sự ham muốn ít, đưa đến sự không biết đủ, không đưa đến sự biết đủ, đưa đến sự tụ hội mà không đưa đến sự đơn độc, đưa đến sự biếng nhác mà không đưa đến sự nỗ lực tinh tấn, đưa đến sự khó nuôi dưỡng mà không đưa đến sự dễ nuôi dưỡng; này Gotamī, bà có thể xác định dứt khoát rằng: ‘Điều này không phải là Pháp, điều này không phải là Luật, điều này không phải là lời giáo huấn của bậc Đạo Sư.’ Này Gotamī, các Pháp nào mà bà có thể biết rằng các pháp này đưa đến sự xa lìa tham ái mà không đưa đến tham ái, đưa đến sự thoát khỏi ràng buộc mà không đưa đến sự ràng buộc, đưa đến sự không tích lũy mà không đưa đến sự tích lũy, đưa đến sự ham muốn ít mà không đưa đến sự ham muốn nhiều, đưa đến sự biết đủ mà không đưa đến sự không biết đủ, đưa đến sự đơn độc mà không đưa đến sự tụ hội, đưa đến sự nỗ lực tấn mà không đưa đến sự biếng nhác, đưa đến sự dễ nuôi dưỡng mà không đưa đến sự khó nuôi dưỡng; này Gotamī, bà có thể xác định dứt khoát rằng: ‘Điều này là Pháp, điều này là Luật, điều này là lời giáo huấn của bậc Đạo Sư.’”
Tasmā sutteti tepiṭake buddhavacane otāretabbāni. vinayeti etasmiṃ rāgādivinayakāraṇe saṃsandetabbānīti ayamettha attho. Na ceva sutte osarantīti suttapaṭipāṭiyā katthaci anāgantvā challiṃ uṭṭhapetvā guḷhavessantara- guḷhaummagga- guḷhavinaya- vedalla- piṭakānaṃ aññatarato āgatāni paññāyantīti attho. Evaṃ āgatāni hi rāgādivinaye ca na paññāyamānāni chaḍḍetabbāni honti. Tena vuttaṃ — “iti hetaṃ, bhikkhave, chaḍḍeyyāthā”ti. Etenupāyena sabbattha attho veditabbo.
Vì thế, nên được xem xét ở Tam Tạng Phật ngôn được gọi là Kinh, nên so sánh với nhân là việc diệt trừ ái luyến v.v, gọi là Luật, ý nghĩa trong câu này như đã trình bày. Không hiện diện ở Kinh: Các câu và các chữ không hiện diện ở bất cứ chỗ nào theo thứ tự Kinh, đem những thứ vụn vặt đến từ Guḷhavessantara Guḷhaummagga Guḷhavinaya Vedalla và Piṭaka được biết đến. Bởi vì các câu và các chữ như vậy nhưng không được biết đến trong việc diệt trừ tham ái v.v, nên bỏ đi. Do đó, đức Thế Tôn mới nói rằng – “Như thế, này các tỳ khưu, các ngươi có thể bỏ đi điều ấy.” Nên hiểu ý nghĩa các đoạn kế tiếp theo đường lối này.
Idaṃ, bhikkhave, catutthaṃ mahāpadesaṃ dhāreyyāthāti idaṃ catutthaṃ dhammassa patiṭṭhānokāsaṃ dhāreyyātha.
Này các tỳ khưu, đây là đại Giáo Pháp thứ tư, các ngươi cần phải ghi nhớ: ngươi cần phải ghi nhớ vị trí thiết lập của pháp thứ tư này.
Imasmiṃ pana ṭhāne imaṃ pakiṇṇakaṃ veditabbaṃ. sutte cattāro mahāpadesā, khandhake cattāro mahāpadesā, cattāri pañhabyākaraṇāni, suttaṃ, suttānulomaṃ, ācariyavādo, attanomati, tisso saṅgītiyoti.
Hơn nữa, trong trường hợp này nên biết Pakiṇṇaka như thế, trong bài Kinh có bốn đại Giáo Pháp – mahāpadesā, bốn cách trả lời câu hỏi, Kinh, phù hợp với Kinh, học thuyết của vị thầy, tư kiến cá nhân, có ba kỳ kết tập kinh điển.
Tattha — “ayaṃ dhammo, ayaṃ vinayo”ti dhammavinicchaye patte ime cattāro mahāpadesā pamāṇaṃ. yaṃ ettha sameti tadeva gahetabbaṃ, itaraṃ viravantassapi[81] na gahetabbaṃ.
Trong các Pakiṇṇaka ấy, khi đạt đến sự xác định Pháp rằng “đây là Pháp, đây là Luật”, bốn đại Giáo Pháp này điều ấy đáng nắm giữ, những điều này của người nắm giữ sái quấy cũng không nên nắm giữ.
“Idaṃ kappati, idaṃ na kappatī”ti kappiyākappiyavinicchaye patte — “Yaṃ, bhikkhave, mayā idaṃ na kappatīti appaṭikkhittaṃ, taṃ ce akappiyaṃ anulometi, kappiyaṃ paṭibāhati, taṃ vo na kappatī”tiādinā[82] nayena khandhake vuttā cattāro mahāpadesā pamāṇaṃ. Tesaṃ vinicchayakathā samantapāsādikāyaṃ vuttā. Tattha vuttanayena yaṃ kappiyaṃ anulometi, tadeva kappiyaṃ, itaraṃ akappiyanti evaṃ sanniṭṭhānaṃ kātabbaṃ.
Khi đạt đến “điều này được phép, điều này không được phép” điều này được phép, điều này không được phép – bốn đại Giáo Pháp được nói trong khandhaka theo phương thức sau – “Này các tỳ khưu, điều nào ta chưa cấm rằng: ‘Điều này không được phép,’ và điều ấy phù hợp với điều được phép và trái nghịch với điều không được phép, đối với các ngươi điều ấy là được phép,” là chừng mực. Lời nói về việc xét xử đã được nói trong Samantapāsādikā (Chú giải Tạng Luật) theo phương thức được nói ở đây nên thực hiện sự quyết định như vầy: “Điều nào phù hợp với điều được phép thì điều đó được phép, ngoài ra thì không được phép”.
Ekaṃsabyākaraṇīyo pañho, vibhajjabyākaraṇīyo pañho, paṭipucchābyākaraṇīyo pañho, ṭhapanīyo pañhoti imāni cattāri pañhabyākaraṇāni nāma. Tattha “cakkhuṃ aniccan”ti puṭṭhena — “Āma aniccan”ti ekaṃseneva byākātabbaṃ. Esa nayo sotādīsu. Ayaṃ ekaṃsabyākaraṇīyo pañho. “Aniccaṃ nāma cakkhun”ti puṭṭhena — “na cakkhumeva, sotampi aniccaṃ ghānampi aniccan”ti evaṃ vibhajitvā byākātabbaṃ. Ayaṃ vibhajjabyākaraṇīyo pañho. “Yathā cakkhu tathā sotaṃ, yathā sotaṃ tathā cakkhun”ti puṭṭhena “kenaṭṭhena pucchasī”ti paṭipucchitvā “dassanaṭṭhena pucchāmī”ti vutte “na hī”ti byākātabbaṃ, “aniccaṭṭhena pucchāmī”ti vutte āmāti byākātabbaṃ. Ayaṃ paṭipucchābyākaraṇīyo pañho. “Taṃ jīvaṃ taṃ sarīran”tiādīni puṭṭhena pana “abyākatametaṃ bhagavatā”ti ṭhapetabbo, esa pañho na byākātabbo. Ayaṃ ṭhapanīyo pañho. Iti tenākārena pañhe sampatte imāni cattāri pañhabyākaraṇāni pamāṇaṃ. Imesaṃ vasena so pañho byākātabbo.
Câu hỏi nên được trả lời dứt khoát, câu hỏi nên được trả lời sau khi phân tích, câu hỏi nên được trả lời bằng sự hỏi lại, câu hỏi nên được đình chỉ. Trong bốn câu hỏi nên được trả lời ấy bị hỏi rằng: “Có phải nhãn là vô thường?” – nên trả lời dứt khoát “đúng vậy, (nhãn) là vô thường”. Nhĩ cũng áp dụng theo cách thức này. Đây là câu hỏi nên được trả lời dứt khoát. Bị hỏi rằng “chẳng lẽ nhãn là vô thường” – “Không chỉ nhãn, mà còn nhĩ, luôn cả tỷ đều vô thường,”nên được trả lời sau khi phân tích như vầy. Đầy là câu hỏi nên được trả lời sau khi phân tích. Bị hỏi rằng: “nhãn như thế nào thì nhĩ như thế ấy, nhĩ như thế nào thì nhãn như thế ấy,”sau khi được hỏi lại “ngài hỏi với ý nghĩa gì?” – nên trả lời rằng “tôi hỏi với ý nghĩa nhìn thấy, ” nên được trả lời “không phải”. Khi vị ấy hỏi rằng “tôi hỏi với ý nghĩa vô thường” – sẽ trả lời “Phải rồi!” Đây là câu hỏi nên được trả lời bằng sự hỏi lại. Nhưng bị hỏi rằng “Đó là mạng quyền, đó là thân thể” v.v, nên được đình chỉ nói rằng “Điều này đức Thế Tôn không trả lời” câu hỏi này không nên trả lời. Đây là câu hỏi nên được đình chỉ. Như thế, khi câu hỏi đến với các biểu hiện ấy, bốn câu hỏi được trả lời này được xem là ước lường được. Nên trả lời câu hỏi do tác động bốn câu hỏi nên được trả lời này.
Suttādīsu pana suttaṃ nāma tisso saṅgītiyo ārūḷhāni tīṇi piṭakāni. Suttānulomaṃ nāma anulomakappiyaṃ. Ācariyavādo nāma aṭṭhakathā. Attanomati nāma nayaggāhena anubuddhiyā attano paṭibhānaṃ. Tattha suttaṃ appaṭibāhiyaṃ, taṃ paṭibāhantena buddhova paṭibāhito hoti. Anulomakappiyaṃ pana suttena samentameva gahetabbaṃ, na itaraṃ. Ācariyavādopi suttena samentoyeva gahetabbo, na itaro. Attanomati pana sabbadubbalā, sāpi suttena samentāyeva gahetabbā, na itarā. Pañcasatikā, sattasatikā, sahassikāti imā pana tisso saṅgītiyo. Suttampi tāsu āgatameva pamāṇaṃ, itaraṃ gārayhasuttaṃ na gahetabbaṃ. Tattha otarantānipi hi padabyañjanāni na ceva sutte otaranti, na ca vinaye sandissantīti veditabbāni.
Hơn nữa, Tam Tạng đã được truyền lại qua ba lần kết tập gọi là Sutta, trong Pakiṇṇaka có Sutta v.v. hòa hợp với điều được phép gọi là điều phù hợp với giới bổn. Chú Giải là lý thuyết của vị thầy. Sự sáng suốt của chính mình dựa trên lý luận là quan niệm của cá nhân. Trong các Pakiṇṇaka ấy Giới Bổn mà ai ai cũng không thể phản đối khi phản đối Giới Bổn ấy cũng đồng nghĩa với phản đối lại với chính (lời dạy) của đức Phật. Còn điều hòa hợp với điều được phép trì cùng với Giới Bổn nên được hành, ngoài ra không nên hành trì. Luôn cả học thuyết của thầy cũng nên được hành trì cùng với chính Giới Bổn, ngoài ra không nên hành trì. Còn quan niệm của cá nhân toàn bộ đều yếu ớt, luôn cả quan điểm của cá nhân cũng nên hành trì nhưng phải phù hợp với Giới Bổn, ngoài ra không nên hành trì. Hơn nữa, ba kỳ kết tập này là Pañcasatikā (kỳ kết tập lần thứ 1), sattasatikā (kỳ kết tập lần thứ 2), sahassikā (kỳ kết tập lần thứ 3). Ngay cả Giới Bổn riêng biệt được truyền lại trong kỳ kết tập Tam Tạng ấy nên được hành trì chừng mực, ngoài ra bị khiển trách thì không nên hành trì. Thật vậy, các câu và các chữ được lưu truyền trong Giới Bổn ấy nên biết rằng không thể lưu lại ở Kinh và không thể so sánh với Luật.
Nói Về Cunda, Con Trai Người Thợ Kim Hoàn
- Kammāraputtassāti suvaṇṇakāraputtassa. so kira aḍḍho mahākuṭumbiko bhagavato paṭhamadassaneneva sotāpanno hutvā attano ambavane vihāraṃ kārāpetvā niyyātesi. taṃ sandhāya vuttaṃ — “ambavane”ti.
- Con trai người thợ kim hoàn: con trai người thợ kim hoàn. Được biết con trai của người thợ kim hoàn ấy là một đại trưởng giả, là vị Nhập Lưu, ngay từ lần đầu nhìn thấy đức Thế Tôn đã xây dựng tịnh xá ở vườn xoài của mình dâng lên cúng dường. Ngài muốn đề cập đến vườn xoài ấy mới nói rằng: ‘tại vườn xoài’.
Sūkaramaddavanti nātitaruṇassa nātijiṇṇassa ekajeṭṭhakasūkarassa pavattamaṃsaṃ. Taṃ kira mudu ceva siniddhañca hoti, taṃ paṭiyādāpetvā sādhukaṃ pacāpetvāti attho. Eke bhaṇanti — “sūkaramaddavanti pana muduodanassa pañcagorasayūsapācanavidhānassa nāmetaṃ, yathā gavapānaṃ nāma pākanāman”ti. Keci bhaṇanti — “Sūkaramaddavaṃ nāma rasāyanavidhi, taṃ pana rasāyanasatthe āgacchati, taṃ cundena — ‘Bhagavato parinibbānaṃ na bhaveyyā’ti rasāyanaṃ paṭiyattan”ti. tattha pana dvisahassadīpaparivāresu catūsu mahādīpesu devatā ojaṃ pakkhipiṃsu.
Món thịt heo rừng hầm: Loại thịt đã được làm sẵn của con heo to lớn nhất không quá trẻ và cũng không quá già. Được biết món ấy (đã được nấu) mềm và nhừ, nghĩa là đã được chuẩn bị sẵn và được nấu kỹ lưỡng. Một số nói rằng – “sūkaramaddava này gọi là cơm mềm được hòa trộn với năm loại hương vị (sữa tươi, sữa đặc, bơ lỏng, sữa đông, bơ tươi).” Một số lại nói rằng: “Phương pháp hòa trộn hương vị gọi là sūkaramaddava cũng sūkaramaddava ấy đến trong ý nghĩa hòa trộn hương vị. – “Món thịt heo rừng hầm ấy được thợ rèn Cunda chuẩn bị theo cách hòa trộn hương vị với mong muốn rằng ‘việc viên tịch Niết Bàn không có nơi đức Thế Tôn”, nhưng chư Thiên trong bốn đại châu lục có hai ngàn châu lục nhỏ bao quanh đã bỏ thêm dưỡng tố vào trong món ăn đó.
Nāhaṃ tanti imaṃ sīhanādaṃ kimatthaṃ nadati? Parūpavādamocanatthaṃ. Attanā paribhuttāvasesaṃ neva bhikkhūnaṃ, na manussānaṃ dātuṃ adāsi, āvāṭe nikhaṇāpetvā vināsesīti hi vattukāmānaṃ idaṃ sutvā vacanokāso na bhavissatīti paresaṃ upavādamocanatthaṃ sīhanādaṃ nadatīti.
Đức Thế Tôn gầm lên tiếng gầm loài sư tử này ‘Ta không nhìn thấy…’ để làm gì? Để giảm nguy hại cho người khác. Thật vậy, sau khi nghe điều ấy mong muốn nói rằng: ‘đức Thế Tôn, ngài đã không cho phần thức ăn còn thừa của mình đến các vị tỳ khưu và mọi người, đã bảo chôn xuống vào một cái hố, mới gầm lên tiếng gầm loài sư tử để tránh gây tổn hại đến những người khác với ý muốn sẽ không có cơ hội nói xấu.
- Bhuttassa ca sūkaramaddavenāti bhuttassa udapādi, na pana bhuttapaccayā. Yadi hi abhuttassa uppajjissatha, atikharo bhavissati. Siniddhabhojanaṃ bhuttattā panassa tanuvedanā ahosi. Teneva padasā gantuṃ asakkhi. Virecamānoti abhiṇhaṃ pavattalohitavirecanova samāno. Avocāti attanā patthitaṭṭhāne parinibbānatthāya evamāha. Imā pana dhammasaṅgāhakattherehi ṭhapitagāthāyoti veditabbā.
- Và khi đã ăn vào món thịt heo rừng hầm: (Cơn bệnh khốc liệt) đã phát khởi đến vị thọ dụng, nhưng không phải duyên thọ dụng. Cũng bởi vì (nếu) ngài không thọ dụng thì cũng cơn bệnh khốc liệt sẽ khởi lên và cơn bệnh trở nên nghiêm trọng hơn. Tuy nhiên, do thọ dụng vật thực mềm ngài mới có cảm thọ nhẹ nhàng. Chính vì nguyên nhân ấy ngài mới có thể bước đi được. Trong khi đang còn bị tiêu chảy: Ngài thường đi đại tiện ra máu, ngài đã nói như vầy ‘avoca’ cũng vì lợi ích cho việc viên tịch ở tại nơi mà ngài có ý muốn. Nên biết ý nghĩa rằng: Trưởng lão Dhammasaṅgāhaka đã đặt kệ ngôn này.
Giảng Về Chuyện Nước Uống
- Iṅghāti codanatthe nipāto. Acchodakāti pasannodakā. Sātodakāti madhurodakā. Sītodakāti tanusītalasalilā. Setakāti[83] nikkaddamā. Suppatitthāti sundaratitthā.
- Iṅgha: là phân từ trong ý nghĩa nhắc nhở. Có nước trong: nước trong. Nước ngọt: có nước ngon. Có nước mát: có nước ngọt. Có nước sạch: không có chất bẩn. Có bến nước xinh xắn: có bến nước xinh đẹp.
Nói về Pukkusa Mallaputta
- Pukkusoti tassa nāmaṃ. Mallaputtoti mallarājaputto. Mallā kira vārena rajjaṃ kārenti. Yāva nesaṃ vāro na pāpuṇāti, tāva vaṇijjaṃ karonti. Ayampi vaṇijjameva karonto pañca sakaṭasatāni yojāpetvā dhuravāte[84] vāyante purato gacchati, pacchā vāte vāyante satthavāhaṃ purato pesetvā sayaṃ pacchā gacchati. Tadā pana pacchā vāto vāyi, tasmā esa purato satthavāhaṃ pesetvā sabbaratanayāne nisīditvā kusinārato nikkhamitvā “pāvaṃ gamissāmī”ti maggaṃ paṭipajji. tena vuttaṃ — “kusinārāya pāvaṃ addhānamaggappaṭipanno hotī”ti.
- Pukkusa: là tên của vị ấy. Mallaputto: con trai của vua Malla. Được biết các vua Malla luân phiên trị vị vương quốc. Khi nào phiên của vị nào vẫn chưa đến, khi ấy vị ấy sẽ làm (nghề) buôn bán. Ngay cả vị Pukkusa này cũng làm việc buôn bán, sắp xếp năm trăm cỗ xe khi gió thổi về phía trước thì đi về phía trước, khi gió thổi về phía sau cũng đưa đoàn xe về phía trước, bản thân đi phía sau. Khi ấy, gió thổi về phía sau, vì thế vị ấy mới đưa đoàn xe đi về phía trước ngồi trên cổ xe chất toàn châu báu đã rời khỏi thành Kusinārā rồi tiếp tục cuộc hành trình ‘sẽ đi đến Pāva.’ Vì thế, đã nói rằng: “đang đi theo con đường dài từ Kusinārā đến Pāvā”.
Āḷāroti tassa nāmaṃ. Dīghapiṅgalo kireso, tenassa āḷāroti nāmaṃ ahosi. Kālāmoti gottaṃ. Yatra hi nāmāti yo nāma. Neva dakkhatīti na addasa. Yatrasaddayuttattā panetaṃ anāgatavasena vuttaṃ. Evarūpañhi īdisesu ṭhānesu saddalakkhaṇaṃ.
Āḷāra là tên của vị đạo sĩ, được biết vị đạo sĩ ấy có thân hình cao và vàng, vì thế ngài được gọi là Āḷāra. Kālāma là họ tộc. Yatra hi nāma đồng nghĩa yo nāma. Chẳng những không nhìn thấy: không nhìn thấy. Nhưng điều này được ngài nói ở thời lai bởi liên kết với từ ‘Yatra’. Thật vậy, lời nói có hình thức như vậy là trạng thái từ ở vị trí như thế.
- Niccharantīsūti vicarantīsu. Asaniyā phalantiyāti navavidhāya asaniyā bhijjamānāya viya mahāravaṃ ravantiyā. Navavidhā hi asaniyo — asaññā, vicakkā, saterā, gaggarā, kapisīsā, macchavilolikā, kukkuṭakā, daṇḍamaṇikā, sukkhāsanīti. Tattha asaññā asaññaṃ karoti. Vicakkā ekaṃ cakkaṃ karoti. Saterā saterasadisā[85] hutvā patati. Gaggarā gaggarāyamānā patati. Kapisīsā bhamukaṃ ukkhipento makkaṭo viya hoti. Macchavilolikā vilolitamaccho viya hoti. Kukkuṭakā kukkuṭasadisā hutvā patati. Daṇḍamaṇikā naṅgalasadisā hutvā patati. Sukkhāsanī patitaṭṭhānaṃ samugghāṭeti.
- Tia chớp: rền vang. Khi sét đánh: (Tiếng sét đánh) rền vang giống như sét đánh chia thành 9 tia chớp. Thật vậy, sét đánh có 9 tia chớp –, vicakkā, saterā, gaggarā, kapisīsā, macchavilolikā, kukkuṭakā, daṇḍamaṇikā, sukkhāsani. Trong chín loại ấy thì tia sét asaññā phát ra không dấu hiện nhận biết. Tia sét vicakkā phát ra hình một bánh xe. Tia sét saterā rơi xuống như cánh buồm. Tia sét Gaggarā phát ra âm thanh tựa như búa rơi. Tia sét Kapisīsā tựa như con khỉ nhướn mày. Tia sét Macchavilolikā tựa như cả nhảy. Tia sét Kukkuṭakā rơi tựa như gà. Tia sét Daṇḍamaṇikā rơi tựa như cái cày. Tia sét Sukkhāsani nhổ bỏ nơi rơi xuống (cắt lên).
Deve vassanteti sukkhagajjitaṃ gajjitvā antarantarā vassante. Ātumāyanti ātumaṃ nissāya viharāmi. Bhusāgāreti khalasālāyaṃ. Etthesoti etasmiṃ kāraṇe eso mahājanakāyo sannipatito. Kva ahosīti kuhiṃ ahosi. So taṃ bhanteti so tvaṃ bhante.
Trong khi trời đang mưa: Tiếng ầm ầm vang lên khi trời đang mưa ở từng giai đoạn. Trong thành tên Ātumā: cư ngụ tại thành Ātumā. Tại nhà tuốt lúa: gồm sân đập lúa. Vì lý do này, đám đông người ấy đã tụ tập lại: đám đông tụ tập vì lý do này. Kva ahosi là kuhiṃ ahosi (ngài đã ở đâu?) So taṃ bhante là so tvaṃ bhante.
- Siṅgīvaṇṇanti siṅgīsuvaṇṇavaṇṇaṃ. Yugamaṭṭhanti maṭṭhayugaṃ, saṇhasāṭakayugaḷanti attho. Dhāraṇīyanti antarantarā mayā dhāretabbaṃ, paridahitabbanti attho. Taṃ kira so tathārūpe chaṇadivaseyeva dhāretvā sesakāle nikkhipati. evaṃ uttamaṃ maṅgalavatthayugaṃ sandhāyāha. Anukampaṃ upādāyāti mayi anukampaṃ paṭicca. Acchādehīti upacāravacanametaṃ — ekaṃ mayhaṃ dehi, ekaṃ ānandassāti attho. Kiṃ pana thero taṃ gaṇhīti? Āma gaṇhi. Kasmā? Matthakappattakiccattā. Kiñcāpi hesa evarūpaṃ lābhaṃ paṭikkhipitvā upaṭṭhākaṭṭhānaṃ paṭipanno. Taṃ panassa upaṭṭhākakiccaṃ matthakaṃ pattaṃ. Tasmā aggahesi. Ye cāpi evaṃ vadeyyuṃ — “Anārādhako maññe ānando pañcavīsati vassāni upaṭṭhahantena na kiñci bhagavato santikā tena laddhapubban”ti. Tesaṃ vacanokāsacchedanatthampi aggahesi. Api ca jānāti bhagavā — “ānando gahetvāpi attanā na dhāressati, mayhaṃyeva pūjaṃ karissati. mallaputtena pana ānandaṃ pūjentena saṅghopi pūjito bhavissati, evamassa mahāpuññarāsi bhavissatī”ti therassa ekaṃ dāpesi. Theropi teneva kāraṇena aggahesīti. Dhammiyā kathāyāti vatthānumodanakathāya.
- (Cặp vải mịn) có màu hoàng kim: có màu sắc như màu vàng kim. Cặp vải mịn: cặp vải mịn, có nghĩa là đôi vải chất liệu mềm mại. Dùng để mặc: có thể mặc, có thể mặc thỉnh thoảng. Pukkusa ấy chỉ sử dụng vào ngày lễ hội lớn có hình thức như thế vào thời gian khác cũng bỏ đi. Ngài muốn ám chỉ đến đôi vải cát tường tốt nhất nên mới nói như vậy. Vì lòng thương tưởng: vì lòng thương tưởng đến con. hãy choàng lên: Đây là lời nói dịu dàng – giải thích rằng “Hãy cho ta một tấm và Ānanda một tấm”. Trưởng lão thọ nhận tâm vải ấy ư? Phải rồi, trưởng lão thọ nhận. Tại sao? Bơi có phận sự đã đạt đến cuối cùng. Thật sự thì trưởng lão ấy khước từ lợi lộc có hình thức như thế, thực hành phận sự của vị thị giả, tuy nhiên phận sự thị giả của vị ấy đã đạt đến cuối cùng. Vì thế, ngài đã thọ nhận. Hoặc người nào có thể nói như vầy – “Ānanda không hoan hỷ, ngài thị giả suốt hai mươi lăm năm chưa bao giờ nhận được bất cứ thứ gì từ trú xứ của đức Thế Tôn”. Vì thế, ngài mới nhận để cắt đứt cơ hội của những người ấy. Thêm nữa, đức Thế Tôn cũng biết rằng: “Ānanda mặc dầu thọ nhận (những) cũng sẽ không tự mình sử dụng, (mà) sẽ cúng dường đến Ta. Tuy nhiên, Mallaputta khi lễ bái đại đức Ānanda cũng đồng nghĩa với lễ bái hội chúng tỳ khưu, phước báu lớn lao sẽ có nơi Mallaputta ấy.” Vì thế, (ngài) mới nói cúng dường đến trưởng lão một tấm. Còn phía trưởng lão đã thọ nhận do nguyên nhân ấy. Bằng bài Pháp thoại: bằng lời nói tùy hỷ vật bố thí.
- Bhagavato kāyaṃ upanāmitanti nivāsanapārupanavasena allīyāpitaṃ. bhagavāpi tato ekaṃ nivāsesi, ekaṃ pārupi. Hataccikaṃ viyāti[86] yathā hatacciko aṅgāro antanteneva jotati, bahi panassa pabhā natthi, evaṃ bahi paṭicchannappabhaṃ hutvā khāyatīti attho.
- Cặp vải ấy khi được đặt gần gần thân thể của đức Thế Tôn: Thạo về phương diện mặc và choàng. Ngay cả đức Thế Tôn đã quấn một tấm, choàng một tấm từ cặp vải ấy. Giống như ngọn lửa bị lụi tàn: giống như ngọn lửa bị lụi tàn, (ánh sáng) chỉ chiếu sáng bên trong, nhưng ánh sáng ấy không phát ra bên ngoài, cặp vải ấy cũng tương tự như thế trông có vẻ thiếu ánh sáng ở bên ngoài.
Imesu kho, ānanda, dvīsupi kālesūti kasmā imesu dvīsu kālesu evaṃ hoti? āhāravisesena ceva balavasomanassena ca. Etesu hi dvīsu kālesu sakalacakkavāḷe devatā āhāre ojaṃ pakkhipanti, taṃ paṇītabhojanaṃ kucchiṃ pavisitvā pasannarūpaṃ samuṭṭhāpeti. Āhārasamuṭṭhānarūpassa pasannattā manacchaṭṭhāni indriyāni ativiya virocanti. Sambodhidivase cassa — “anekakappakoṭisatasahassasañcito vata me kilesarāsi ajja pahīno”ti āvajjantassa balavasomanassaṃ uppajjati, cittaṃ pasīdati, citte pasanne lohitaṃ pasīdati, lohite pasanne manacchaṭṭhāni indriyāni ativiya virocanti. parinibbānadivasepi — “ajja, dānāhaṃ, anekehi buddhasatasahassehi paviṭṭhaṃ amatamahānibbānaṃ nāma nagaraṃ pavisissāmī”ti āvajjantassa balavasomanassaṃ uppajjati, cittaṃ pasīdati, citte pasanne lohitaṃ pasīdati, lohite pasanne manacchaṭṭhāni indriyāni ativiya virocanti. Iti āhāravisesena ceva balavasomanassena ca imesu dvīsu kālesu evaṃ hotīti veditabbaṃ. Upavattaneti pācīnato nivattanasālavane. Antarena yamakasālānanti yamakasālarukkhānaṃ majjhe. Siṅgīvaṇṇanti gāthā saṅgītikāle ṭhapitā.
Này Ānanda … vào hai thời điểm này: Vì sao, thân thể của Như Lai cực kỳ trong sạch như vậy vào hai thời điểm này? Bởi vì sự đặc biệt của vật thực, và do sự vui mừng có năng lực. Vào hai thời điểm này các vị Thiên nhân trong toàn bộ thế giới bỏ chất dinh dưỡng vào thức ăn, vật thực ấy vào bụng tạo ra sắc đáng tịnh tín, các quyền có ý là thứ sáu vô cùng chói sáng bởi vì có sắc vật thực sở sanh trong sạch. Vào ngày giác ngộ (ngài) đã quán chiếu lại rằng – “Quả thật khối phiền não mà ta đã tích lũy hàng trăm ngàn kiếp, hôm nay ta đã từ bỏ?” nên đã khởi lên sự vui mừng có năng lực, tâm trở nên sáng chói, khi tâm trong sáng máu cũng trở nên trong sáng, khi máu trong sáng thì các quyền có ý là thứ sáu cũng trở nên vô cùng chói sáng. Luôn cả vào ngày viên tịch Niết Bàn (ngài) đã quán chiếu lại rằng – “Ngày hôm nay, Ta sẽ đi vào thành phố Bất Tử viên tịch Niết Bàn mà chư Phật hàng trăm ngàn vị đã vào rồi” nên đã khởi lên sự vui mừng có năng lực, tâm trở nên sáng chói, khi tâm trong sáng máu cũng trở nên trong sáng, khi máu trong sáng thì các quyền có ý là thứ sáu cũng trở nên vô cùng chói sáng. Như thế, nên biết rằng thân thể của Như Lai cực kỳ trong sạch vào cả thời điểm này nhờ vật thực và sự vui mừng có năng lực. Ở Upavattana: trong rừng cây sāla uốn vòng theo hướng Đông. Giữa hai cây sāla: ở giữa hai cây sāla. Siṅgīvaṇṇa: kệ ngôn này ngài đã biên soạn khi kết tập.
- Nhatvā ca pivitvā cāti ettha tadā kira bhagavati nahāyante antonadiyaṃ macchakacchapā ca ubhatotīresu vanasaṇḍo ca sabbaṃ suvaṇṇavaṇṇameva hoti. Ambavananti tassāyeva nadiyā tīre ambavanaṃ. Āyasmantaṃ cundakanti tasmiṃ kira khaṇe ānandatthero udakasāṭakaṃ pīḷento ohīyi, cundatthero samīpe ahosi. Taṃ bhagavā āmantesi.
- tắm rửa và uống nước: Ở đây, kể rằng vào thời gian ấy khi đức Thế Tôn tắm rửa thì cá rùa trong dòng nước và ở hai bên bờ sông toàn bộ đều có màu sắc như vàng. khu rừng xoài: khu vườn xoài ở bên bở của chính con sông ấy. Đại đức Cundaka: Kể rằng vào lúc ấy trưởng lão Ānanda đã vắt tấm y tắm còn lại, trưởng lão Cunda cũng ở gần. Đức Thế Tôn đã gọi ngài Cunda đến.
Gantvāna buddho nadikaṃ kakudhanti imāpi gāthā saṅgītikāleyeva ṭhapitā. Tattha pavattā bhagavā idha dhammeti bhagavā idha sāsane dhamme pavattā, caturāsīti dhammakkhandhasahassāni pavattānīti[87] attho. Pamukhe[88] nisīdīti satthu puratova nisīdi. Ettāvatā ca thero anuppatto. Evaṃ anuppattaṃ atha kho bhagavā āyasmantaṃ ānandaṃ āmantesi.
Đức Phật sau khi đi đến con sông Kukutthā: Kệ ngôn này đã biên soạn vào ngay khi kết tập. Trong những câu ấy ‘đức Thế Tôn, người chuyển vận Giáo Pháp ở nơi này’ Đức Thế Tôn chuyển vận Giáo Pháp trong Tôn Giáo này, giải thích rằng chuyển vận tám mươi bốn ngàn Pháp Uẩn. Đã ngồi tại nơi ấy, ở phía trước mặt: đã ngồi ở phía trước mặt bậc Đạo Sư. Và chỉ ngần ấy trưởng lão đã đến. Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo đại đức Ānanda vị đã đến như vậy.
- Alābhāti ye aññesaṃ dānānisaṃsasaṅkhātā lābhā honti, te alābhā. Dulladdhanti puññavisesena laddhampi manussattaṃ dulladdhaṃ. Yassa teti yassa tava. Uttaṇḍulaṃ vā atikilinnaṃ vā ko jānāti, kīdisampi pacchimaṃ piṇḍapātaṃ paribhuñjitvā tathāgato parinibbuto, addhā te yaṃ vā taṃ vā dinnaṃ bhavissatīti. Lābhāti diṭṭhadhammika- samparāyikadānānisaṃsasaṅkhātā lābhā. Suladdhanti tuyhaṃ manussattaṃ suladdhaṃ. Samasamaphalāti sabbākārena samānaphalā[89].
- Không phải lợi đắc của ngài: Lợi đắc được nói là lợi ích bố thí, là lợi đắc của người khác chớ không phải lợi đắc của ngươi. Điều đạt được xấu xa: việc đạt được bản ngã loài người với phước báu đặc biệt cũng xem là điều khó đạt. Yassa te đồng nghĩa với yassa tava (vị nào). Bố thí nào ngoài cơm và những điều vô cùng nhơ bẩn thì ai biết được? Như Lai thọ dụng đồ ăn khất thực cuối cùng ra sao rồi viên tịch Niết Bàn, thọ dụng bất kỳ món nào thì chắc chắn sẽ là món ngươi cho. Lợi đắc: lợi đắc là lợi ích trong việc cho vật thí có trong hiện tại hoặc trong tương lai. Thật khéo đạt được: việc đạt được bản ngã loài người là điều mà ngươi đã khéo có được. Có quả báo như nhau: Có quả báo như nhau bởi ở tất cả mọi phương diện.
Nanu ca yaṃ sujātāya dinnaṃ piṇḍapātaṃ bhuñjitvā tathāgato abhisambuddho, so sarāgasadosasamohakāle paribhutto, ayaṃ pana cundena dinno vītarāgavītadosavītamohakāle paribhutto, kasmā ete samaphalāti? Parinibbānasamatāya ca samāpattisamatāya ca anussaraṇasamatāya ca. Bhagavā hi sujātāya dinnaṃ piṇḍapātaṃ paribhuñjitvā saupādisesāya nibbānadhātuyā parinibbuto, cundena dinnaṃ paribhuñjitvā anupādisesāya nibbānadhātuyā parinibbutoti evaṃ parinibbānasamatāyapi samaphalā. Abhisambujjhanadivase ca catuvīsatikoṭisatasahassasaṅkhyā samāpattiyo samāpajji, parinibbānadivasepi sabbā tā samāpajjīti evaṃ samāpattisamatāyapi samaphalā. Sujātā ca aparabhāge assosi — “na kiresā rukkhadevatā, bodhisatto kiresa, taṃ kira piṇḍapātaṃ paribhuñjitvā anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho, sattasattāhaṃ kirassa tena yāpanaṃ ahosī”ti. Tassā idaṃ sutvā — “lābhā vata me”ti anussarantiyā balavapītisomanassaṃ udapādi. Cundassāpi aparabhāge — “avasānapiṇḍapāto kira mayā dinno, dhammasīsaṃ kira me gahitaṃ, mayhaṃ kira piṇḍapātaṃ paribhuñjitvā satthā anupādisesāya nibbānadhātuyā parinibbuto”ti sutvā “lābhā vata me”ti anussarato balavasomanassaṃ udapādīti evaṃ anussaraṇasamatāyapi samaphalāti veditabbā.
Như Lai đã thọ dụng đồ ăn khất thực nào đã được cúng dường bởi nàng Sujātā rồi chứng quả Toàn Giác, đồ ăn khất thực ấy ngài đã thọ dụng vào lúc vẫn còn tham ái, sân hận và si mê, nhưng đồ ăn khất thực này được ông Cunda đã cúng dường, ngài đã được thọ dụng vào thời khắc đã xa lìa tham ái, sân hận và si mê không phải hay sao? Tại sao cả hai món đồ ăn này có quá báo như nhau? Bởi vì đồng đẳng do viên tịch, đồng đẳng do thể nhập thiền chứng và đồng đẳng do sự nhớ lại. Thật vậy, đức Thế Tôn đã thọ dụng đồ ăn khất thực được cúng dường bởi nàng Sujātā, rồi viên tịch Niết Bàn trong cảnh giới Niết Bàn còn sót lại chút ít, và thọ dụng đồ ăn khất thực được ông Cunda cúng dường rồi viên tịch Niết Bàn trong cảnh giới Niết Bàn không còn dư sót, tóm lại có quả báo như nhau vì đồng đẳng do viên tịch Niết Bàn. Và cũng vào ngày ngài chứng quả Toàn Giảc, ngài đã thể nhập sự thể nhập Thánh Quả tính được hai trăm ngàn koṭi, vào ngày ngài viên tịch Niết Bàn, ngài cũng đã thể nhập toàn bộ sự thể nhập Thánh Quả ấy, tóm lại là có quả báo như nhau do đồng đẳng về sự thể nhập. Vào thời gian sau nàng Sujātā được biết: “Nghe rằng người mà ta nhìn thấy không phải thần cây mà là Bồ-tát, được biết vị ấy sau khi thọ dụng đồ ăn khất thực đã hoàn toàn giác ngộ quả vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, ngài đã duy trì với vật thực nuôi dưỡng cơ thể ấy suốt bảy tuần lễ”. Khi nàng nghe được điều này – nàng cũng nhớ lại “quả thật là lợi đắc của ta” đã khởi lên hỷ lạc dữ dội. Vào thời gian sau ông Cunda được nghe – “Kể rằng đồ ăn khất thực lần cuối cùng mà ta đã cúng dường, ta đạt được Pháp chủ đạo, được biết bậc Đạo Sư sau khi thọ dụng đồ ăn khất thực của ta ngài đã viên tịch Niết Bàn trong cảnh giới Niết Bàn không còn dư sót” trong khi nhớ lại “quả thật là lợi đắc của ta” đã khởi lên sự vui mừng dữ dội, nên biết rằng có quả báo như nhau luôn cả đồng đẳng do sự nhớ lại như vậy.
Yasasaṃvattanikanti parivārasaṃvattanikaṃ. Ādhipateyyasaṃvattanikanti jeṭṭhakabhāvasaṃvattanikaṃ.
Nghiệp đưa đến danh tiếng: vận hành đưa đến sự kính trọng. Nghiệp đưa đến uy quyền: Vận hành đưa đến bản thể người đứng đầu.
Saṃyamatoti sīlasaṃyamena saṃyamantassa, saṃvare ṭhitassāti attho. Veraṃ na cīyatīti pañcavidhaṃ veraṃ na vaḍḍhati. Kusalo ca jahāti pāpakanti kusalo pana ñāṇasampanno ariyamaggena anavasesaṃ pāpakaṃ lāmakaṃ akusalaṃ jahāti. Rāgadosamohakkhayā sa nibbutoti so imaṃ pāpakaṃ jahitvā rāgādīnaṃ khayā kilesanibbānena nibbutoti. Iti cundassa ca dakkhiṇaṃ, attano ca dakkhiṇeyyasampattiṃ sampassamāno udānaṃ udānesīti.
Người đang tự chế ngự: người có sự thu thúc bằng sự thu thúc trong giới, nghĩa là đã vững trú trong sự thu thúc. Sự thù nghịch không được tích lũy: Không tạo năm sự thù nghịch. Và người hiền thiện từ bỏ điều ác: Hơn nữa, vị thiện xảo, vị viên mãn về trí tuệ từ bỏ ác bất thiện thấp hèn không dư sót bằng Thánh Đạo. Do sự diệt tận luyến ái, sân hận, và si mê, vị ấy được tịch diệt: Vị thiện xảo ấy từ bỏ bất thiện thấp hèn này rồi tịch diệt bởi phiền não Niết Bàn do đã cạn kiệt ái luyến v.v. Như thế đức Thế Tôn khi quan sát phía hữu của ông Cunda và sự thành tựu phía hữu của ngài nên đã thốt lên lời cảm hứng.
Giảng Giải Tụng Phẩm Thứ Tư được kết thúc.
Giảng Về Hai Cây Sāla
- Mahatā bhikkhusaṅghena saddhinti idha bhikkhūnaṃ gaṇanaparicchedo natthi. Veḷuvagāme vedanāvikkhambhanato paṭṭhāya hi — “na cirena bhagavā parinibbāyissatī”ti sutvā tato tato āgatesu bhikkhūsu ekabhikkhupi pakkanto nāma natthi. Tasmā gaṇanavītivatto saṅgho ahosi. Upavattanaṃ mallānaṃ sālavananti yatheva hi kalambanadītīrato rājamātuvihāradvārena thūpārāmaṃ gantabbaṃ hoti, evaṃ hiraññavatiyā pārimatīrato sālavanuyyānaṃ, yathā anurādhapurassa thūpārāmo, evaṃ taṃ kusinārāyaṃ hoti. Yathā thūpārāmato dakkhiṇadvārena nagaraṃ pavisanamaggo pācīnamukho gantvā uttarena nivatto, evaṃ uyyānato sālavanaṃ pācīnamukhaṃ gantvā uttarena nivattaṃ. Tasmā taṃ — “upavattanan”ti vuccati. Antarena yamakasālānaṃ uttarasīsakanti tassa kira mañcakassa ekā sālapanti sīsabhāge hoti, ekā pādabhāge. Tatrāpi eko taruṇasālo sīsabhāgassa āsanno hoti, eko pādabhāgassa. Api ca yamakasālā nāma mūlakhandhaviṭapapattehi aññamaññaṃ saṃsibbitvā ṭhitasālāti[90] vuttaṃ. Mañcakaṃ paññapehīti tasmiṃ kira uyyāne rājakulassa sayanamañco atthi, taṃ sandhāya paññapehīti āha. theropi taṃyeva paññapetvā adāsi.
- Đức Thế Tôn cùng với đại chúng tỳ khưu: Ở đây, số lượng các vị tỳ khưu không thể xác định. Vừa biết được rằng: vốn dĩ đức Thế Tôn chế ngự cảm thọ ở làng Veḷuvagāma “không bao lâu đức Thế Tôn sẽ viên tịch Niết Bàn” trong số các vị tỳ khưu đến từ nơi ấy không có dầu chỉ một vị tỳ khưu gọi là bỏ ra đi. Vì thế, hội chúng tỳ khưu có số lượng không thể tính đếm. Rồi đến Upavattana, khu rừng cây sāla của những người tộc Malla: Đức Thế Tôn đi đến từ bờ bên kia của dòng sông Hiraññavatī đến khu rừng Sālavana, giống như rời khỏi bờ con sông Kalambanadī đến Thūpārāma bằng cánh cổng của tịnh xá Rājamātu, khu rừng cây sāla ở thành Kusinārāya, giống như Thūpārāma của thành Anurādhapura. Con đường đi vào thành bằng cánh cổng phía Nam từ Thūpārāma hướng về phía Đông rồi rẽ sang phía Bắc như thế nào, khu rừng cây sāla từ vườn thượng uyển hướng về phía Đông rời rẽ sang phía Bắc cũng như thế ấy. Vì thế, khu rừng cây sāla được gọi là – “upavattana – con đường uốn cong”. Có đầu quay về hướng Bắc, giữa hai cây sāla: Kể rằng một hàng cây sāla ở trên phía đầu, một hàng nằm phía dưới chân của cái giường. Trong hàng cây sāla ấy một cây sāla còn non gần phía trên đầu, một cây ở gần dưới chân. Hơn nữa, ngài nói rằng những cây sāla đứng sát nhau bằng gốc rễ, thân, cành và lá gọi là hai cây sāla. Ngươi hãy xếp đặt chỗ nằm: Được biết có một long sàng của vua ở trong khu vườn đó, để nhắc đến chỗ nằm ấy mới bảo xếp đặt. Cả trưởng lão cũng xếp đặt chỗ nằm để cúng dường.
Kilantosmi, ānanda, nipajjissāmīti tathāgatassa hi —
“Gocari kaḷāpo gaṅgeyyo, piṅgalo pabbateyyako.
Hemavato ca tambo ca, mandākini[91] uposatho.
Chaddantoyeva dasamo, ete nāgānamuttamā”ti. —
Ettha yaṃ dasannaṃ gocarisaṅkhātānaṃ pakatihatthīnaṃ balaṃ, taṃ ekassa kaḷāpassāti evaṃ dasaguṇavaḍḍhitāya gaṇanāya pakatihatthīnaṃ koṭisahassabalappamāṇaṃ balaṃ, taṃ sabbampi cundassa piṇḍapātaṃ paribhuttakālato paṭṭhāya caṅgavāre[92] pakkhittaudakaṃ viya parikkhayaṃ gataṃ. Pāvānagarato tīṇi gāvutāni kusinārānagaraṃ, etasmiṃ antare pañcavīsatiyā ṭhānesu nisīditvā mahatā ussāhena āgacchantopi sūriyassa atthaṅgamitavelāyaṃ sañjhāsamaye[93] bhagavā sālavanaṃ paviṭṭho. Evaṃ rogo sabbaṃ ārogyaṃ maddanto āgacchati. Etamatthaṃ dassento viya sabbalokassa saṃvegakaraṃ vācaṃ bhāsanto — “kilantosmi, ānanda, nipajjissāmī”ti āha.
Này Ānanda, Ta bị mệt, Ta sẽ nằm xuống: thật vậy, trong lời này thì dòng giống loài voi là Gocari, Kaḷāpa, Gaṅgeyya, Piṅgala, Pabbateyyaka. Hemavata Tamba, Mandākini, Uposatha và Chaddanta là đủ mười, những giống này là tốt nhất của các loài voi. Sức mạnh nào của Như Lai là sức mạnh ngang bằng với sức mạnh của một ngàn koṭi loài voi bình thường bằng cách thêm (và) nhân mười lần như vậy, tức là sức mạnh của các voi bình thường được xem là (tương đương) với mười con voi Gocarī, mười con voi Gocarī tương đương với sức mạnh của một con voi Kaḷāpa, toàn bộ sức mạnh ấy đã đi đến cạn kiệt tương tự y như dòng nước đổ vào bình lọc nước kể từ thời điểm thọ dụng đồ ăn khất thực của ông Cunda. Từ thành Pāvā đến thành Kusinārā quãng đường (dài) 3 gāvuta, trên quãng đường này đức Thế Tôn muôn phải nghỉ ngơi đến hai mươi lăm chỗ, ngài đến với sự nỗ lực lớn lao, ngài đi vào khu rừng cây sāla vào buổi chiều khi mặt trời lặng. Tật bệnh cũng đến nghiền nát tất cả mọi sự vô bệnh bằng cách như vậy. Tương tự y như thuyết giảng ý nghĩa này, trong khi nói lời nói khiến khởi lên sự chấn động đối với tất cả chúng sanh mới nói rằng: “Này Ānanda, Ta bị mệt, Ta sẽ nằm xuống…”
Kasmā pana bhagavā evaṃ mahantena ussāhena idhāgato, kiṃ aññattha na sakkā parinibbāyitunti? Parinibbāyituṃ nāma na katthaci na sakkā, tīhi pana kāraṇehi idhāgato, idañhi bhagavā evaṃ passati — “mayi aññattha parinibbāyante mahāsudassanasuttassa atthuppatti na bhavissati, kusinārāyaṃ pana parinibbāyante yamahaṃ devaloke anubhavitabbaṃ sampattiṃ manussalokeyeva anubhaviṃ, taṃ dvīhi bhāṇavārehi maṇḍetvā desessāmi, taṃ me sutvā bahū janā kusalaṃ kātabbaṃ maññissantī”ti.
Vì sao đức Thế Tôn đi đến nơi đây bằng sự nỗ lực lớn lao, không thể viên tịch Niết Bàn ở nơi khác hay sao? Không phải không thể viên tịch ở nơi khác, mà ngài đến nơi này với 3 lý do, thật vậy đức Thế Tôn biết điều này như vậy – “Khi Như Lai viên tích Niết Bàn ở nơi khác thì nhân sanh của câu chuyện Đại Thiện Kiến Vương sẽ không có, nhưng khi viên tịch Niết Bàn ở Kusinārā xuyên suốt cho đến khi thuyết sự thành tựu mà Như Lai thọ hưởng ở Thiên giới, đã thọ hưởng ở nhân giới, được trang hoàng bằng hai tụng phẩm, nhiều người lắng nghe pháp của Như Lai, sẽ nghĩ đến thiện cần thực hành.
Aparampi passati — “maṃ aññattha parinibbāyantaṃ subhaddo na passissati, so ca buddhaveneyyo, na sāvakaveneyyo; na taṃ sāvakā vinetuṃ sakkonti. Kusinārāyaṃ parinibbāyantaṃ pana maṃ so upasaṅkamitvā pañhaṃ pucchissati, pañhāvissajjanapariyosāne ca saraṇesu patiṭṭhāya mama santike pabbajjañca upasampadañca labhitvā kammaṭṭhānaṃ gahetvā mayi dharamāneyeva arahattaṃ patvā pacchimasāvako bhavissatī”ti.
Hơn nữa, thấy thêm ý nghĩa khác rằng – “Khi Như Lai viên tịch Niết Bàn ở chỗ khác thì Subhadda sẽ không được yết kiến, bởi vì Subhadda có thể hiểu được lời giảng dạy của đức Phật, không thể hiểu được lời giảng dạy của vị Thánh đệ tử; chư Thánh đệ tử không thể hướng dẫn vị ấy. Nhưng nếu Như Lai viên tịch ở thành Kusināra thì Subhadda sẽ không đến gặp hỏi câu hỏi và kết thúc câu hỏi thị vị ấy sẽ được vững trú vào Tam Bảo được xuất gia trong hội chúng của ta, thọ nhận đề mục nghiệp xứ (thiết lập) sẽ chứng đắc quả vị A-ra-hán trở thành vị Thánh đệ tử cuối cùng cho đến khi Ta còn tại thế.”
Aparampi passati — “Mayi aññattha parinibbāyante dhātubhājanīye mahākalaho bhavissati, lohitaṃ nadī viya sandissati. Kusinārāyaṃ parinibbute doṇabrāhmaṇo taṃ vivādaṃ vūpasametvā dhātuyo vibhajissatī”ti. imehi tīhi kāraṇehi bhagavā evaṃ mahantena ussāhena idhāgatoti veditabbo.
Thấy thêm ý nghĩa khác nữa rằng – “Khi Như Lai viên tịch ở nơi khác sẽ xảy ra cuộc tranh cãi dữ dội vào lúc phân chia xá-lợi, cả dòng nước cũng chảy thành máu, nhưng khi Như Lai viên tịch ở thành Kusināra, sau khi Bà-la-môn Doṇa làm tan biến cuộc tranh cãi ấy sẽ phân chia toàn bộ xá-lợi. Nên biết rằng: Đức Thế Tôn đã đi đến nơi này bằng sự nỗ lực lớn lao như vậy với 3 lý do.
Sīhaseyyanti ettha kāmabhogīseyyā, petaseyyā, sīhaseyyā, tathāgataseyyāti catasso seyyā.
Nằm dáng nằm loài sư tử: Ở đây, bốn thế nằm là thế nằm của người hưởng dục, thế nằm của ngạ quỷ, thế nằm của loài sư tử, và thế nằm của Như Lai
Tattha — “yebhuyyena, bhikkhave, kāmabhogī sattā vāmena passena sentī”ti ayaṃ kāmabhogīseyyā. Tesu hi yebhuyyena dakkhiṇena passena sayantā nāma natthi.
Trong bốn thế nằm ấy – “Này chư tỳ khưu, chúng sanh thọ hưởng dục lạc quá nhiều, nằm ngủ nằm nghiêng sang bên trái” đây là thế nằm của người thọ hưởng dục. Bởi vì chúng sanh hưởng dục với thế nằm bên phải phần nhiều là không có.
“Yebhuyyena, bhikkhave, petā uttānā sentī”ti[94] ayaṃ petaseyyā. appamaṃsalohitattā hi petā aṭṭhisaṅghāṭajaṭitā ekena passena sayituṃ na sakkonti, uttānāva senti.
“Này chư tỳ khưu, ngạ quỷ phần đông nằm ngửa” đây là thế nằm của ngạ quỷ. Bởi vì, do có ít thịt và máu, loài ngạ quỷ bị khung xương ghìm lại, không thể nằm nghiêng sang một bên chỉ có thể nằm ngửa mà thôi.
“Sīho, bhikkhave, migarājā dakkhiṇena passena seyyaṃ kappeti … pe … attamano hotī”ti[95] ayaṃ sīhaseyyā. Tejussadattā hi sīho migarājā dve purimapāde ekasmiṃ ṭhāne, pacchimapāde ekasmiṃ ṭhāne ṭhapetvā naṅguṭṭhaṃ antarasatthimhi pakkhipitvā purimapādapacchimapādanaṅguṭṭhānaṃ ṭhitokāsaṃ sallakkhetvā dvinnaṃ purimapādānaṃ matthake sīsaṃ ṭhapetvā sayati. Divasaṃ sayitvāpi pabujjhamāno na utrasanto pabujjhati, sīsaṃ pana ukkhipitvā purimapādādīnaṃ ṭhitokāsaṃ sallakkheti. Sace kiñci ṭhānaṃ vijahitvā ṭhitaṃ hoti — “Na yidaṃ tuyhaṃ jātiyā sūrabhāvassa ca anurūpan”ti anattamano hutvā tattheva sayati, na gocarāya pakkamati. Avijahitvā ṭhite pana — “Tuyhaṃ jātiyā ca sūrabhāvassa ca anurūpamidan”ti haṭṭhatuṭṭho uṭṭhāya sīhavijambhitaṃ vijambhitvā kesarabhāraṃ vidhunitvā tikkhattuṃ sīhanādaṃ naditvā gocarāya pakkamati.
“Này chư tỳ khưu, sư tử vua của các loài thú, nằm nghiêng sang bên phải… có tâm hoan hỷ” đây là thế nằm của loài sư tử. Thật vậy, do là loài thú có đầy sức lực, sư tử vua của các loài thú đặt hai chân trước một bên, đặt hai chân sau một bên, lấy đuôi đặt vào giữa phần mềm hai chân (phần đùi non), xác định chỗ đặt chân trước, chân sau và đuôi, rồi đặt đầu xuống dựa vào hai chân trước, dù ngủ vào ban ngày, khi tỉnh giấc cũng không có sự hoảng hốt, thức dậy ngẩng đầu lên rồi quan sát chỗ đặt hai chân trước v.v, nến đặt sai vị trí một chút cũng cảm thấy không hài lòng rằng: “Điều này không thích hợp đối với dòng dõi và sự dũng mãnh của ta” cũng sẽ nằm lại ở ngay chính vị trí ấy không rời đi săn mồi. Khi đặt không sai chỗ sẽ hài lòng: “Điều này thích hợp đối với dòng dõi và sự dũng mãnh của ta” liền đứng dậy vươn mình rung lắc bờm gầm lên tiếng gầm sư tử ba lần, rồi mới rời khỏi để đi săn mồi.
“Catutthajjhānaseyyā pana tathāgatassa seyyāti vuccati”[96] . tāsu idha sīhaseyyā āgatā. ayañhi tejussadairiyāpathattā uttamaseyyā nāma.
Còn thế nằm trong tứ thiền được gọi là thế nằm của Như Lai. Trong bốn thế nằm ấy, ở đây đến với thế nằm của loài sư tử. Bởi vì thế nằm này là thế nằm cao quý do tư thế tràn đầy uy lực.
Pāde pādanti dakkhiṇapāde vāmapādaṃ. Accādhāyāti atiādhāya, īsakaṃ atikkamma ṭhapetvā. Gopphakena hi gopphake, jāṇunā vā jāṇumhi saṅghaṭṭiyamāne abhiṇhaṃ vedanā uppajjati, cittaṃ ekaggaṃ na hoti, seyyā aphāsukā hoti. Yathā pana na saṅghaṭṭeti, evaṃ atikkamma ṭhapite vedanā nuppajjati, cittaṃ ekaggaṃ hoti, seyyā phāsu hoti. Tasmā evaṃ nipajji. Anuṭṭhānaseyyaṃ upagatattā panettha — “uṭṭhānasaññaṃ manasi karitvā”ti na vuttaṃ. Kāyavasena cettha anuṭṭhānaṃ veditabbaṃ, niddāvasena pana taṃ rattiṃ bhagavato bhavaṅgassa okāsoyeva nāhosi. Paṭhamayāmasmiñhi mallānaṃ dhammadesanā ahosi, majjhimayāme subhaddassa pacchimayāme bhikkhusaṅghaṃ ovadi, balavapaccūse parinibbāyi.
Đặt bàn chân chồng lên bàn chân: lấy chân trái đặt lên chân phải. Accādhāya: Chồng lên, đặt chân này lên trên chân kia hơi chênh lệch nhau. Bởi vì khi mắt cá chân chồng lên mắt cá chân, đầu gối chồng lên đầu gối, thọ sanh khởi liên tục, không có trạng thái nhất tâm, việc nằm không thoải mái; Nhưng khi đặt chênh lệch nhau, không chồng lên nhau, thọ không sanh, có trạng thái nhất tâm, việc nằm ngủ cũng thoải mái. Do dó, ngài mới nằm như vậy. Nhưng ở đây do đã đi vào trạng thái nằm không thể đứng dậy: nên đã không nói “Sau khi đã tác ý đến tư tưởng về việc đứng dậy”. Và ở đây, nên biết việc không thể đứng dậy do tác động của thân, nhưng đức Thế Tôn không tạo thời cơ cho tâm hộ kiếp thiếp đi vào trọn đêm ấy. Bởi vì vào canh đầu đã có việc thuyết giảng Giáo Pháp đến những người Mallā, vào canh giữa đến Subhadda, ở canh cuối giáo huấn hội chúng tỳ khưu, ngài viên tịch Niết Bàn vào lúc trời hừng sáng.
Sabbaphāliphullāti sabbe samantato pupphitā mūlato paṭṭhāya yāva aggā ekacchannā ahesuṃ, na kevalañca yamakasālāyeva, sabbepi rukkhā sabbapāliphullāva ahesuṃ. Na kevalañhi tasmiṃyeva uyyāne, sakalañhipi dasasahassacakkavāḷe pupphūpagā pupphaṃ gaṇhiṃsu, phalūpagā phalaṃ gaṇhiṃsu, sabbarukkhānaṃ khandhesu khandhapadumāni, sākhāsu sākhāpadumāni, vallīsu vallipadumāni, ākāsesu ākāsapadumāni[97] pathavītalaṃ bhinditvā daṇḍapadumāni pupphiṃsu. Sabbo mahāsamuddo pañcavaṇṇapadumasañchanno ahosi. Tiyojanasahassavitthato himavā ghanabaddhamorapiñchakalāpo viya, nirantaraṃ mālādāmagavacchiko viya, suṭṭhu pīḷetvā ābaddhapupphavaṭaṃsako viya, supūritaṃ pupphacaṅkoṭakaṃ viya ca atiramaṇīyo ahosi.
Toàn bộ với các bông hoa sái mùa: hai cây sāla nở rộ bao phủ từ gốc cho đến ngọn, và không chỉ riêng hai cây Sālā mà tất cả các cành cây toàn bộ cũng đều nở rộ những hoa. Và không chỉ riêng ở khu vườn ấy mà tất cả các cây ở trong mười ngàn thế giới thì cây cho hoa đã trổ hoa, cây cho quả đã kết trái. Các hoa sen mọc ở thân đã nở rộ ở thân của tất cả các cây, các hoa sen mọc ở nhánh đã nở rộ ở cách nhánh, các hoa sen mọc ở dây leo đã nở rộ ở các dây leo, các hoa sen mọc hướng lên bầu trời đã nở rộ ở không trung, các hoa sen có cuống dài đã xuyên thủng mặt đất và nở rộ. Tất cả đại dương đã được bao phủ bởi các hoa sen năm màu. Núi Hy-mã-lạp trải rộng ba ngàn do-tuần đã trở nên vô cùng xinh đẹp trông như là chùm lông đuôi chim công dày rậm được túm chặt lại, như là tràng hoa và bó hoa được dây quấn tròn lại không có khoảng hở, như là lẵng hoa đội đầu đã được kết thành và buộc lại một cách khéo léo, như là cái rương có những bông hoa đã khéo được xếp đầy.
Te tathāgatassa sarīraṃ okirantīti te yamakasālā bhummadevatāhi sañcalitakhandhasākhaviṭapā tathāgatassa sarīraṃ avakiranti, sarīrassa upari pupphāni vikirantīti attho. Ajjhokirantīti ajjhottharantā viya kiranti. Abhippakirantīti abhiṇhaṃ punappunaṃ pakirantiyeva. Dibbānīti devaloke nandapokkharaṇīsambhavāni, tāni honti suvaṇṇavaṇṇāni paṇṇacchattappamāṇapattāni, mahātumbamattaṃ reṇuṃ gaṇhanti. Na kevalañca mandāravapupphāneva, aññānipi pana dibbāni pāricchattaka-koviḷārapupphādīni suvaṇṇa-caṅkoṭakāni pūretvā cakkavāḷa-mukhavaṭṭiyampi tidasapurepi brahmalokepi ṭhitāhi devatāhi paviṭṭhāni, antalikkhā patanti. Tathāgatassa sarīranti antarā avikiṇṇāneva āgantvā patta-kiñjakkha-reṇu-cuṇṇehi tathāgatassa sarīrameva okiranti.
Những bông hoa ấy rắc xuống…thân thể của đức Như Lai: Hai cây Sālā có thân và cành được chư Thiên địa cầu lay động làm rơi xuống các bông hoa ở trên thi thể của đức Như Lai. Rải xuống: rơi xuống khắp dường như bao phủ. Phủ khắp: rải rắc khắp thường xuyên liên tục. Thuộc cõi trời: đã xảy ra ở hồ nước Nandapokkhara, các bông hoa Mạn-đà-la có màu sắc như vàng, có kích thước của cái dù che bằng lá, và hạt phấn lớn bằng cái chén uống nước. Và không chỉ riêng các bông hoa Mạn-đà-la thuộc cõi trời, tất cả các loại khác cũng thuộc cõi trời như những bông hoa pāricchattaka và koviḷāra, v.v… cũng đã lần lượt phủ đầy các rương bằng vàng được các Thiên nhân ngự ở ranh cửa khẩu Thiên giới ở cung trời Tam Thập Tam và ở cõi Phạm Thiên đem đến rải xuống từ hư không. Thi thể của đức Như Lai: ném xuống đã không bị tản mát giữa chừng trời mà chúng đã rơi xuống và rải rắc ngay ở trên thi thể của đức Như Lai bằng phấn hoa và nhụy hoa.
Dibbānipi candanacuṇṇānīti devatānaṃ upakappanacandanacuṇṇāni. Na kevalañca devatānaṃyeva, nāgasupaṇṇamanussānampi upakappanacandanacuṇṇāni. Na kevalañca candanacuṇṇāneva, kāḷānusārikalohitacandanādi- sabbadibbagandhajāla-cuṇṇāni, haritālāñjana-suvaṇṇa-rajata-cuṇṇāni sabbadibbagandhavāsavikatiyo suvaṇṇarajatādisamugge pūretvā cakkavāḷamukhavaṭṭiādīsu ṭhitāhi devatāhi paviṭṭhāni antarā avippakiritvā tathāgatasseva sarīraṃ okiranti.
Các bột đàn hương thuộc cõi Trời: Các bột phấn trầm hương là sản phẩm của chư Thiên. Và không chỉ riêng của chư Thiên, mà còn có các bột phấn trầm hương của các loài rồng, các kim-sí-điểu, và của loài người nữa. Và không chỉ riêng các bột phấn của trầm hương mà còn có các loại bột phấn được sanh lên từ Thiên giới như gỗ trầm đen và gỗ trầm đỏ v.v. Các loại bột phấn màu vàng tươi, màu vàng kim loại, màu bạc được ướp với mùi hương cõi trời, tất cả chứa đầy các giỏ bằng vàng, bằng bạc, v.v… được chư Thiên ngự ở ranh cửa khẩu của thế giới v.v, mang đến đã không bị tản mát giữa chừng trời rải rắc xuống thi thể của chính đức Như Lai.
Dibbānipi tūriyānīti devatānaṃ upakappanatūriyāni. Na kevalañca tāniyeva, sabbānipi tantibaddhacammapariyonaddhaghanasusirabhedāni dasasahassacakkavāḷesu devanāgasupaṇṇamanussānaṃ tūriyāni ekacakkavāḷe sannipatitvā antalikkhe vajjantīti veditabbāni.
Các nhạc khí thuộc cõi Trời: các nhạc khí là sản phẩm của chư Thiên. Và không chỉ riêng các loại nhạc khi ấy, mà có có tất cả các loại nhạc cụ như là các loại đàn được căng dây, các loại trống được bọc da đặc và rỗng v.v…, của chư Thiên, của các loài rồng, của kim-sí-điểu, và của nhân loại trong mười ngàn thế giới, nên biết rằng đã tụ họp lại ở một cõi thế giới và tấu lên ở trên không trung.
Dibbānipi saṅgītānīti varuṇavāraṇadevatā[98] kira nāmetā dīghāyukā devatā — “mahāpuriso manussapathe nibbattitvā buddho bhavissatī”ti sutvā “paṭisandhiggahaṇadivase naṃ gahetvā gamissāmā”ti mālaṃ ganthetumārabhiṃsu.Tā ganthamānāva — “mahāpuriso mātukucchiyaṃ nibbatto”ti sutvā “tumhe kassa ganthathā”ti vuttā “na tāva niṭṭhāti[99], kucchito nikkhamanadivase gaṇhitvā gamissāmā”ti āhaṃsu. Punapi “nikkhanto”ti sutvā “mahābhinikkhamanadivase gamissāmā”ti. Ekūnatiṃsavassāni ghare vasitvā “ajja mahābhinikkhamanaṃ nikkhanto”tipi sutvā “abhisambodhidivase gamissāmā”ti. Chabbassāni padhānaṃ katvā “ajja abhisambuddho”tipi sutvā “dhammacakkappavattanadivase gamissāmā”ti. “Sattasattāhāni bodhimaṇḍe vītināmetvā isipatanaṃ gantvā dhammacakkaṃ pavattitan”tipi sutvā “yamakapāṭihāriyadivase gamissāmā”ti. “Ajja yamakapāṭihāriyaṃ karī”tipi sutvā “devorohaṇadivase gamissāmā”ti. “Ajja devorohaṇaṃ karī”tipi sutvā “āyusaṅkhārossajjane gamissāmā”ti. “Ajja āyusaṅkhāraṃ ossajī”tipi sutvā “na tāva niṭṭhāti, parinibbānadivase gamissāmā”ti.
Các bản hợp ca thuộc cõi Trời: Nghe rằng chư Thiên có tuổi thọ lâu dài là varuṇa và vāraṇa, các vị Thiên ấy đã nghe được rằng: “Bậc Đại Nhân sẽ tái sanh vào cõi nhân loại và sẽ trở thành đức Phật” nên đã bắt đầu kết lại các vòng hoa nghĩ rằng: “Chúng ta sẽ mang theo và đi đến vào ngày nhập thai.” Các vị ấy còn đang kết các vòng hoa biết rằng – “Bậc Đại Nhân đã giáng sanh vào bụng người mẹ” khi được hỏi: “Các ngài kết vòng hoa cho ai vậy?” hoặc “Các vị đã trễ rồi,” họ đã đáp rằng: “Chúng tôi sẽ mang theo và đi đến vào ngày đản sanh từ bụng mẹ.” Kế đó, sau khi nghe nói: “Đã đản sanh rồi,” họ đã đáp rằng: “Chúng tôi sẽ đi đến vào ngày ra đi vĩ đại.” Biết được rằng bậc Đại Nhân đã sống đời sống tại gia hai mươi chín năm, sau khi nghe nói: “Sự ra đi vĩ đại đã qua rồi,” họ đã đáp rằng: “Chúng tôi sẽ đi đến vào ngày đạt được quả vị Toàn Giác tối thượng.” (Ngài) đã thực hành sự tinh tấn lớn lao suốt sáu năm, sau khi nghe nói rằng: “Hôm nay là ngày Toàn Giác,” họ đã đáp rằng: “Chúng tôi sẽ đi đến vào ngày vận chuyển bánh xe Pháp.” Sau khi nghe nói: “Đã trải qua bảy tuần lễ ở ngay khu vực lân cận cội Bồ Đề, rồi đi đến vườn nai tại Isipatana chuyển vận bánh xe Pháp,” họ đã đáp rằng: “Chúng tôi sẽ đi đến vào ngày thị hiện Song Thông.” Sau khi nghe nói: “Hôm nay Ngài đã thị hiện Song Thông,” họ đã đáp rằng: “Chúng tôi sẽ đi đến vào ngày từ Thiên giới về lại trần gian.” Sau khi nghe nói: “Hôm nay Ngài đã từ Thiên giới về lại trần gian,” họ đã đáp rằng: “Chúng tôi sẽ đi đến vào lúc buông bỏ thọ hành.” Sau khi nghe nói: “Hôm nay ngài đã buông bỏ thọ hành,” và “Các vị đã trễ rồi,” họ đã đáp rằng: “Chúng tôi sẽ đi đến vào ngày viên tịch Niết Bàn.”
“Ajja bhagavā yamakasālānamantare dakkhiṇena passena sato sampajāno sīhaseyyaṃ upagato balavapaccūsasamaye parinibbāyissati. Tumhe kassa ganthathā”ti sutvā pana — “kinnāmetaṃ, ‘ajjeva mātukucchiyaṃ paṭisandhiṃ gaṇhi, ajjeva mātukucchito nikkhami, ajjeva mahābhinikkhamanaṃ nikkhami, ajjeva buddho ahosi, ajjeva dhammacakkaṃ pavattayi, ajjeva yamakapāṭihāriyaṃ akāsi, ajjeva devalokā otiṇṇo, ajjeva āyusaṅkhāraṃ ossaji, ajjeva kira parinibbāyissatī’ti. Nanu nāma dutiyadivase yāgupānakālamattampi ṭhātabbaṃ assa. Dasa pāramiyo pūretvā buddhattaṃ pattassa nāma ananucchavikametan”ti Apariniṭṭhitāva mālāyo gahetvā āgamma, anto cakkavāḷe okāsaṃ alabhamānā cakkavāḷamukhavaṭṭiyaṃ lambitvā cakkavāḷamukhavaṭṭiyāva ādhāvantiyo hatthena hatthaṃ gīvāya gīvaṃ gahetvā tīṇi ratanāni ārabbha dvattiṃsa mahāpurisalakkhaṇāni chabbaṇṇarasmiyo dasa pāramiyo aḍḍhachaṭṭhāni jātakasatāni cuddasa buddhañāṇāni[100] ārabbha gāyitvā tassa tassa avasāne “mahāyaso, mahāyaso”ti vadanti. Idametaṃ paṭicca vuttaṃ — “dibbānipi saṅgītāni antalikkhe vattanti tathāgatassa pūjāyā”ti.
Tuy nhiên, khi được nói rằng: “Hôm nay, đức Thế Tôn đã nằm xuống trong thế nằm của loài sư tử, nghiêng về bên phải, ở khoảng giữa hai cây Sālā có niệm, có sự nhận biết rõ sẽ viên tịch Niết Bàn vào lúc hừng sáng. Vậy các ngài kết vòng hoa cho ai vậy?” (Họ đã đáp rằng): “Chẳng phải chính hôm nay là ngày ngài đã giáng sanh vào bụng người mẹ hay sao? Chẳng phải chính hôm nay là ngày ngài đã đản sanh từ bụng mẹ? Chẳng phải chính hôm nay là ngày ngài đã thực hiện cuộc ra đi vĩ đại? Chẳng phải chính hôm nay là ngày ngài đã trở thành Phật? Chẳng phải chính hôm nay là ngày ngài đã vận chuyển bánh xe Pháp? Chẳng phải chính hôm nay là ngày ngài đã thị hiện Song Thông? Chẳng phải chính hôm nay là ngày ngài đã từ Thiên giới về lại trần gian? Chẳng phải chính hôm nay là ngày Ngài đã buông bỏ thọ hành? Nghe nói chính hôm nay ngài sẽ viên tịch Niết Bàn. Sao ngài không thể tồn tại thêm một ngày nữa dầu chỉ trong chốc lát cho việc húp cháo? Điều này thật không công bằng cho Ngài sau khi đã tròn đủ mười Ba-la-mật đã chứng đạt quả vị Phật!” rồi đã cầm lấy các tràng hoa chưa được hoàn tất và đi đến, trong lúc không thể đạt được khoảng trống ở Thiên giới, các Thiên nhân ấy đã chiếm lấy chỗ giáp ranh Thiên giới. Trong khi di chuyển, họ đã tay nắm tay, cổ bá cổ ca hát về ngôi Tam Bảo, về ba mươi hai tướng của bậc Đại Nhân, về các hào quang sáu màu, về mười Ba-la-mật, về năm trăm năm mươi chuyện tiền thân, và mười bốn tuệ của đức Phật. Vào lúc chấm dứt của mỗi phần ấy, họ đã nói rằng: “Vị có danh tiếng vĩ đại, vị có danh tiếng vĩ đại”. Dựa vào việc ấy, điều này đã được nói lên: “Luôn cả các bản hợp ca thuộc cõi Trời vang vọng ở không trung để cúng dường Như Lai.”
- Bhagavā pana yamakasālānaṃ antarā dakkhiṇena passena nipannoyeva pathavītalato yāva cakkavāḷamukhavaṭṭiyā, cakkavāḷamukhavaṭṭito ca yāva brahmalokā sannipatitāya parisāya mahantaṃ ussāhaṃ disvā āyasmato ānandassa ārocesi. Tena vuttaṃ — “atha kho bhagavā āyasmantaṃ ānandaṃ … pe … tathāgatassa pūjāyā”ti. Evaṃ mahāsakkāraṃ dassetvā tenāpi attano asakkatabhāvameva dassanto na kho, ānanda, ettāvatātiādimāha.
- Hơn nữa, đức Thế Tôn đã nằm xuống nghiêng về bên phải, ở khoảng giữa hai cây Sālā, đã nhìn thấy sự nỗ lực lớn lao của hội chúng tụ hội từ địa cầu đến chỗ tiếp giáp với Thiên giới và từ chỗ tiếp giáp với Thiên giới đến Phạm Thiên giới mới bảo đại đức Ānanda. Vì thế ngài đã nói rằng – “Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo đại đức Ānanda … để cúng dường đức Như Lai.” Sau khi thuyết về sự trọng vọng lớn lao như vậy, để thuyết về tính chất ngài là người mà hội chúng không những chỉ trọng vọng với sự trọng vọng lớn lao ấy nên mới nói rằng: “Này Ānanda, không phải với chừng ấy.”
Idaṃ vuttaṃ hoti — “ānanda, mayā dīpaṅkarapādamūle nipannena aṭṭha dhamme samodhānetvā abhinīhāraṃ karontena na mālāgandhatūriyasaṅgītānaṃ atthāya abhinīhāro kato, na etadatthāya pāramiyo pūritā. Tasmā na kho ahaṃ etāya pūjāya pūjito nāma homī”ti.
Ngài giải thích như vầy – “Này Ānanda, ta đã nằm phủ phục dưới đôi bàn chân của đức Phật Dīpaṅkara, sau khi liên tưởng đến tám pháp đã thực hiện lời phát nguyện không phải thực hiện lời phát nguyện vì lợi ích cho các tràng hoa, hương thơm, nhạc khí, các bản hợp ca, mà cũng không phải làm tròn Ba-la-mật vì lợi ích cho những thứ ấy. Vì thế, đức Như Lai không gọi là được cúng dường với sự cúng dường này.”
Kasmā pana bhagavā aññattha ekaṃ umāpupphamattampi gahetvā buddhaguṇe āvajjetvā katāya pūjāya buddhañāṇenāpi aparicchinnaṃ vipākaṃ vaṇṇetvā idha evaṃ mahantaṃ pūjaṃ paṭikkhipatīti? Parisānuggahena ceva sāsanassa ca ciraṭṭhitikāmatāya. Sace hi bhagavā evaṃ na paṭikkhipeyya, anāgate sīlassa āgataṭṭhāne sīlaṃ na paripūressanti, samādhissa āgataṭṭhāne samādhiṃ na paripūressanti, vipassanāya āgataṭṭhāne vipassanāgabbhaṃ na gāhāpessanti. Upaṭṭhāke samādapetvā pūjaṃyeva kārentā viharissanti. āmisapūjā ca nāmesā sāsanaṃ ekadivasampi ekayāgupānakālamattampi sandhāretuṃ na sakkoti. Mahāvihārasadisañhi vihārasahassaṃ mahācetiyasadisañca cetiyasahassampi sāsanaṃ dhāretuṃ na sakkonti. Yena kammaṃ kataṃ, tasseva hoti. Sammāpaṭipatti pana tathāgatassa anucchavikā pūjā. Sā hi tena patthitā ceva, sakkoti sāsanañca sandhāretuṃ, tasmā taṃ dassento yo kho ānandātiādimāha.
Vì sao đức Thế Tôn ca ngợi quả dị thục mà ngay cả trí tuệ của vị Phật cũng xác định không được việc cúng dường mà người đã mang lại dầu chỉ một cây bông vải, đã hướng tâm đến ân đức Phật lễ bái đặt ở chỗ khác, ở đây trở lại phản đối sự lễ bái to lớn như vậy? Để trợ giúp hội chúng và cũng vì mong muốn Giáo Pháp sẽ tồn tại lâu dài. Thật vậy, nếu đức Thế Tôn không cần phản đối như vậy, vào thời vị lai hội chúng của đức Phật sẽ không thực hành giới ở vị trí đã đến của giới, sẽ không thực hành định ở vị trí đã đến của định, sẽ không giữ lấy căn phòng minh sát ở vị trí đã đến của minh sát. Động viên rồi lại động viên mà các thị giả sẽ sống chỉ với việc thực hiện lễ bái. Và sự cúng dường bằng tài vật ấy không thể duy trì Giáo Pháp dầu chỉ một ngày, hay dầu chỉ trong chốc lát cho việc húp cháo. Thật vậy, hàng ngàn tu viện như Đại Tịnh Xá, hàng ngàn bảo điện như Đại Bảo Điện cũng không thể tồn tại trong Giáo Pháp. Hành động người nào đã tạo, (kết quả hành động) là của chính người ấy. Còn sự thật hành chân chánh là sự cúng dường thích đáng đối với đức Như Lai. Sự thật, với điều đó là điều mong mỏi, và có thể duy trì Giáo Pháp, vì thế đức Thế Tôn khi thuyết điều đó nên đã nói rằng: “Này Ānanda, người nào…”
Tattha dhammānudhammappaṭipannoti navavidhassa lokuttaradhammassa anudhammaṃ pubbabhāgapaṭipadaṃ paṭipanno. Sāyeva pana paṭipadā anucchavikattā “sāmīcī”ti vuccati. Taṃ sāmīciṃ paṭipannoti sāmīcippaṭipanno. Tameva pubbabhāgapaṭipadāsaṅkhātaṃ anudhammaṃ carati pūretīti anudhammacārī.
Trong câu đó, thực hành đúng pháp và thuận pháp: thực hành pháp hành sơ khởi thuận theo pháp của chín Pháp Siêu Thế. Cũng chính sự thực hành ấy được gọi là ‘đúng đắn’ bởi vì là sự thực hành thích hợp, có sự hành xử thuận theo pháp; ‘Thực hành đúng đắn’ bởi vì thực hành đúng đắn. ‘Có sự hành xử thuận theo pháp’ bởi làm tròn đủ các hành vi thuận theo pháp chính pháp ấy được xem là đường lối thực hành phần ban đầu.
Pubbabhāgapaṭipadāti ca sīlaṃ ācārapaññatti dhutaṅgasamādānaṃ yāva gotrabhuto sammāpaṭipadā veditabbā. Tasmā yo bhikkhu chasu agāravesu patiṭṭhāya paññattiṃ atikkamati, anesanāya jīvikaṃ kappeti, ayaṃ na dhammānudhammappaṭipanno. Yo pana sabbaṃ attano paññattaṃ sikkhāpadaṃ jinavelaṃ jinamariyādaṃ jinakāḷasuttaṃ aṇumattampi na vītikkamati, ayaṃ dhammānudhammappaṭipanno nāma. Bhikkhuniyāpi eseva nayo. Yo upāsako pañca verāni dasa akusalakammapathe samādāya vattati appeti, ayaṃ na dhammānudhammappaṭipanno. Yo pana tīsu saraṇesu, pañcasupi sīlesu, dasasu sīlesu paripūrakārī hoti, māsassa aṭṭha uposathe karoti, dānaṃ deti, gandhapūjaṃ mālāpūjaṃ karoti, mātaraṃ pitaraṃ upaṭṭhāti, dhammike samaṇabrāhmaṇe upaṭṭhāti, ayaṃ dhammānudhammappaṭipanno nāma. Upāsikāyapi eseva nayo.
Giới và sự quy định về tánh hạnh, sự thọ trì các pháp đầu đà, thực hành đúng đắn đạt đến sự chuyển tánh nên biết là đường lối thực hành phần ban đầu. Vì thế, vị tỳ khưu nào đã an trú vào sáu sự bất kính vị phạm điều quy định, kiếm kế sinh nhai bằng việc nuôi mạng không chân chánh, vị tỳ khưu này gọi là không thực hành đúng pháp và thuận pháp. Còn vị nào không vi phạm các điều học đã được quy định cho chính mình tất cả đều được giới hạn, ranh giới và thước đo của bậc chiến thắng dầu là nhỏ nhặt, vì này gọi là thực hành đúng pháp và thuận pháp. Luôn cả tỳ khưu ni cũng áp dụng cách thức này. Vị nam cư sĩ nào nắm lấy năm sự thù hận, mười bất thiện nghiệp đạo thực hành chặt chẽ, nam cư sĩ này gọi là không thực hành đúng pháp và thuận pháp. Còn vị nào thực hành trọn vẹn vào ba sự nương nhờ, ngũ giới, mười giới, thọ trì Uposatha mỗi tháng tám lần, bố thí vật thí, lễ bái bằng vật thơm, lễ bái bằng tràng hoa, phụng dưỡng mẹ và cha, phụng sự Sa-môn và Bà-la-môn, nam cư sĩ này gọi là thực hành đúng pháp và thuận pháp. Luôn cả cận sự nữ cũng áp dụng theo cách thức này.
Paramāya pūjāyāti uttamāya pūjāya. Ayañhi nirāmisapūjā nāma sakkoti mama sāsanaṃ sandhāretuṃ. Yāva hi imā catasso parisā maṃ imāya pūjessanti, tāva mama sāsanaṃ majjhe nabhassa puṇṇacando viya virocissatīti dasseti.
Với sự cúng dường tối thượng: với sự cúng dường tối thượng. Đức Thế Tôn thuyết giảng rằng sự thật gọi là sự cúng dường không thuộc vật chất, điều này có thể duy trì Giáo Pháp của ta được. Thật vậy, cho đến khi nào bốn hội chúng này sẽ lễ bái ta bằng sự lễ bái này, cho đến khi ấy Giáo Pháp của ta sẽ hưng thịnh tựa như vầng trăng ngày rằm lơ lửng giữa bầu trời.
Nói về trưởng lão Upavāṇa
- Apasāresīti apanesi. Apehīti apagaccha. Thero ekavacaneneva tālavaṇṭaṃ[101] nikkhipitvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Upaṭṭhākotiādi paṭhamabodhiyaṃ anibaddhupaṭṭhākabhāvaṃ sandhāyāha. Ayaṃ, bhante, āyasmā upavāṇoti evaṃ therena vutte ānando upavāṇassa sadosabhāvaṃ sallakkheti, ‘handassa niddosabhāvaṃ kathessāmī’ti bhagavā yebhuyyena ānandātiādimāha. Tattha yebhuyyenāti idaṃ asaññasattānañceva arūpadevatānañca ohīnabhāvaṃ sandhāya vuttaṃ. Apphuṭoti asamphuṭṭho abharito vā. Bhagavato kira āsannapadese vālaggamatte okāse sukhumattabhāvaṃ māpetvā dasa dasa mahesakkhā devatā aṭṭhaṃsu. Tāsaṃ parato vīsati vīsati. Tāsaṃ parato tiṃsati tiṃsati. Tāsaṃ parato cattālīsaṃ cattālīsaṃ. Tāsaṃ parato paññāsaṃ paññāsaṃ. Tāsaṃ parato saṭṭhi saṭṭhi devatā aṭṭhaṃsu. Tā aññamaññaṃ hatthena vā pādena vā vatthena vā na byābādhenti. “Apehi maṃ, mā ghaṭṭehī”ti vattabbākāraṃ nāma natthi. “Tā kho pana devatāyo dasapi hutvā vīsatipi hutvā tiṃsampi hutvā cattālīsampi hutvā paññāsampi hutvā āraggakoṭinitudanamattepi tiṭṭhanti, na ca aññamaññaṃ byābādhentī”ti[102] vuttasadisāva ahesuṃ. Ovārentoti āvārento[103]. Thero kira pakatiyāpi mahāsarīro hatthipotakasadiso. So paṃsukūlacīvaraṃ pārupitvā atimahā viya ahosi.
- Đã quở trách: hãy rời đi. Hãy tránh đi: hãy đi khỏi. Chỉ bằng một lời nói trưởng lão sau khi đặt cái quạt lá cọ xuống đã đứng ở một bên. Đức Thế Tôn muốn đề cập đến tình trạng mà ngài không có thị giả thường cận vào thời kỳ đầu giác ngộ nên đã nói rằng: ‘thị giả, v.v.’ Khi trưởng lão nói như vầy: ‘Bạch Ngài, đại đức Upavāṇa này…’ trưởng lão Ānanda xác định lỗi lầm của đại đức Upavāṇa, ‘thôi được rồi, ta sẽ nói sự không lỗi lầm của vị ấy’ đức Thế Tôn đã nói: ‘Này Ānanda, hầu hết…’ Trong lời ấy, hầu hết: điều này ngài đã nhắc đến những chúng sanh vô tưởng và các vị Thiên Vô Sắc bị lờ đi. Không được chạm đến: Không đụng đến hoặc không chạm đến. Được biết chỗ gần kề đức Thế Tôn chư Thiên có uy lực lớn đã hóa hiện bản ngã vi tế đứng trong hư không ngang bằng đỉnh đầu một cọng tóc thành nhóm mười vị. Phía trước nhóm mười vị ấy có nhóm hai mươi vị. Phía trước nhóm hai mươi vị ấy có nhóm ba mươi vị. Phía trước nhóm ba mươi vị ấy có nhóm bốn mươi vị. Phía trước nhóm bốn mươi vị có nhóm năm mươi vị. Phía trước nhóm năm mươi vị ấy có nhóm sáu mươi vị, họ chen lấn nhau bằng tay, bằng chân, hoặc bằng vải vóc, không có lý do cần nói rằng “hãy tránh đi, chớ chen lấn.” Các vị Thiên nhân cũng giống với điều đã nói rằng: “Này Sārīputta, các Thiên nhân ấy mười vị, hai mươi vị, ba mươi vị, bốn mươi vị, năm mươi vị, hay sáu mươi vị đã đứng trên hư không dầu chỉ đỉnh đầu của cây kim nhọn chạm vào, không chen chút lẫn nhau.” Che khuất: đứng che khuất. Được biết rằng trưởng lão thân hình to lớn tựa như con voi, mặc y làm bằng vải dơ bị quăng bỏ nhìn trông có vẻ vô cùng to lớn.
Tathāgataṃ dassanāyāti bhagavato mukhaṃ daṭṭhuṃ alabhamānā evaṃ ujjhāyiṃsu. Kiṃ pana tā theraṃ vinivijjha passituṃ na sakkontīti? Āma, na sakkonti. devatā hi puthujjane vinivijjha passituṃ sakkonti, na khīṇāsave. Therassa ca mahesakkhatāya tejussadatāya upagantumpi na sakkonti. Kasmā pana therova tejussado, na aññe arahantoti? yasmā kassapabuddhassa cetiye ārakkhadevatā ahosi.
Để chiêm ngưỡng Như Lai: các vị Thiên khi không nhìn thấy gương mặt của đức Thế Tôn mới quở trách như vậy. Vậy các vị thiên nhân ấy không thể nhìn xuyên qua trưởng lão chăng? Phải rồi, không thể. Những vị Thiên ấy có thể nhìn xuyên qua các Phàm nhân nhưng không thể nhìn xuyên qua các vị Lậu Tận và cũng không thể đến gần. Bởi vì trưởng lão có đại oai lực, có đại quyền lực. Tại sao trưởng lão có đại oai lực, còn người khác không phải là bậc A-ra-hán? Bởi vì ngài là chư Thiên hộ trì ở trong bảo điện của đức Phật Kassapa.
Vipassimhi kira sammāsambuddhe parinibbute ekagghanasuvaṇṇakkhandhasadisassa dhātusarīrassa ekameva cetiyaṃ akaṃsu, dīghāyukabuddhānañhi ekameva cetiyaṃ hoti. Taṃ manussā ratanāyāmāhi vidatthivitthatāhi dvaṅgulabahalāhi[104] suvaṇṇiṭṭhakāhi haritālena ca manosilāya ca mattikākiccaṃ tilateleneva udakakiccaṃ sādhetvā yojanappamāṇaṃ uṭṭhapesuṃ. Tato bhummā devatā yojanappamāṇaṃ, tato ākāsaṭṭhakadevatā, tato uṇhavalāhakadevatā, tato abbhavalāhakadevatā, tato cātumahārājikā devatā, tato tāvatiṃsā devatā yojanappamāṇaṃ uṭṭhapesunti evaṃ sattayojanikaṃ cetiyaṃ ahosi. Manussesu mālāgandhavatthādīni gahetvā āgatesu ārakkhadevatā gahetvā tesaṃ passantānaṃyeva cetiyaṃ pūjesi.
Kể rằng khi bậc Chánh đẳng Chánh giác Vipassī viên tịch Niết Bàn tất cả mọi người đã cùng nhau xây dựng một bảo điện chứa đựng xá-lợi tương tự như một khối vàng đặc. Thật vậy, đức Phật có tuổi thọ lâu dài chỉ có một ngôi bảo điện mọi người sử dụng tấm ngói dài một khuỷu tay, rộng hai gang tay, dày tám lóng tay xây dựng ngôi bảo điện ấy gắn liền với đá màu đỏ và với đá màu đen thay thế đất hòa trộn với dầu mè thay thế nước rồi thiết lập khoảng chừng một do-tuần. Từ đó, chư Thiên địa cầu cũng (thiết lập) một do-tuần, sau đó chư Thiên hư không, tiếp đến chư Thiên thuộc loại mây nóng, kế đến chư Thiên mây sấm, tiếp theo Tứ Đại Thiên Vương, tiếp đó chư Thiên cõi trời Tam Thập Tam cũng thiết lập một do-tuần. Ngôi bảo điện có 7 do tuần theo cách như thế. Khi mọi người cầm tràng hoa, vật thơm và vải vóc v.v, đến, các chư Thiên hộ trì cũng cùng nhau cầm bông hoa đến lễ bái ngôi bảo điện mặc cho những người ấy nhìn thấy.
Tadā ayaṃ thero brāhmaṇamahāsālo hutvā ekaṃ pītakaṃ vatthaṃ ādāya gato. Devatā tassa hatthato vatthaṃ gahetvā cetiyaṃ pūjesi. Brāhmaṇo taṃ disvā pasannacitto “ahampi anāgate evarūpassa buddhassa cetiye ārakkhadevatā homī”ti patthanaṃ katvā tato cuto devaloke nibbatti. Tassa devaloke ca manussaloke ca saṃsarantasseva kassapo bhagavā loke uppajjitvā parinibbāyi. Tassāpi ekameva dhātusarīraṃ ahosi. Taṃ gahetvā yojanikaṃ cetiyaṃ kāresuṃ. So tattha ārakkhadevatā hutvā sāsane antarahite sagge nibbattitvā amhākaṃ bhagavato kāle tato cuto mahākule paṭisandhiṃ gahetvā nikkhamma pabbajitvā arahattaṃ patto. Iti cetiye ārakkhadevatā hutvā āgatattā thero tejussadoti veditabbo.
Khi ấy, trưởng lão này là Bà-la-môn đại phú hào đã cầm lấy một tấm y vàng đi. Vị Thiên đã thọ nhận tấm y từ tay của Bà-la-môn ấy đi đến để lễ bái ngôi bảo điện. Sau khi Bà-la-môn nhìn thấy điều ấy cũng có tâm tịnh tín thiết lập sự mong muốn rằng: “Vào thời vị lai, ngay cả ta cũng sẽ là vị Thiên hộ trì ở ngôi bảo điện của đức Phật có hình thức như vậy,” chết từ bản ngã ấy tái sanh vào Thiên giới. Khi Bà-la-môn ấy du hành ở nhân giới và Thiên giới, đức Thế Tôn Kassapa đã hiện khởi ở thế giới rồi viên tịch Niết Bàn. Xá-lợi của ngài cũng chỉ có ở một nơi. Mọi người đã cung thỉnh xá-lợi ấy cho xây dựng bảo điện một do tuần. Bà-la-môn là vị Thiên bảo hộ trong bảo tháp ấy, khi bậc Đạo Sư biến mất, đã hóa sanh vào Thiên giới trong thời kỳ của đức Thế Tôn của chúng ta tử từ Thiên giới ấy đã hạ sanh vào một đại gia tộc, sau khi xuất gia đã chứng đắc quả vị A-ra-hán. Nên biết rằng trưởng lão có đại uy lực do từng là vị Thiên bảo hộ ở ngôi bảo điện ấy bằng cách như vậy.
Devatā, ānanda, ujjhāyantīti iti ānanda, devatā ujjhāyanti, na mayhaṃ puttassa añño koci doso atthīti dasseti.
Này Ānanda, các vị Thiên nhân phàn nàn: Đức Thế Tôn chỉ ra rằng: này Ānanda, các vị Thiên nhân phàn nàn, không phải con trai ta có lỗi lầm gì khác?
- Kathaṃbhūtā pana, bhanteti kasmā āha? Bhagavā tumhe — “devatā ujjhāyantī”ti vadatha, kathaṃ bhūtā pana tā tumhe manasi karotha, kiṃ tumhākaṃ parinibbānaṃ adhivāsentīti pucchati. Atha bhagavā — “nāhaṃ adhivāsanakāraṇaṃ vadāmī”ti tāsaṃ anadhivāsanabhāvaṃ dassento santānandātiādimāha.
- Tại sao đại đức Ānanda lại đáp rằng: “Bạch ngài, các Thiên nhân như thế nào mới lưu tâm ngài?” – Kính bậc đức Thế Tôn ngài nói rằng: “các vị Thiên nhân phàn nàn”, – Vậy các vị Thiên nhân ấy như thế nào? mới để tâm ngài, – Để can ngăn việc viên tích Niết Bàn của ngài sao? – Vậy thì đức Thế Tôn khi thuyết giảng thực tính không thể can ngăn của các vị Thiên nhân ấy (rằng) “Ta không nói đến lý do của việc can ngăn nên đã nói rằng: “Này Ānanda, có hạng Thiên nhân…”
Tattha ākāse pathavīsaññiniyoti ākāse pathaviṃ māpetvā tattha pathavīsaññiniyo. Kandantīti rodanti. Chinnapātaṃ papatantīti majjhe chinnā viya hutvā yato vā tato vā papatanti. Āvaṭṭantīti āvaṭṭantiyo patitaṭṭhānameva āgacchanti. Vivaṭṭantīti patitaṭṭhānato parabhāgaṃ vaṭṭamānā gacchanti. Apica dve pāde pasāretvā sakiṃ purato sakiṃ pacchato sakiṃ vāmato sakiṃ dakkhiṇato saṃparivattamānāpi — “āvaṭṭanti vivaṭṭantī”ti vuccanti. Santānanda, devatā pathaviyaṃ pathavīsaññiniyoti pakatipathavī kira devatā dhāretuṃ na sakkoti. Tattha hatthako brahmā viya devatā osīdanti. Tenāha bhagavā — “Oḷārikaṃ hatthaka, attabhāvaṃ abhinimmināhī”ti[105]. Tasmā yā devatā pathaviyaṃ pathaviṃ māpesuṃ, tā sandhāyetaṃ vuttaṃ — “pathaviyaṃ pathavīsaññiniyo”ti.
Trong câu ấy ở không gian có sự lầm tưởng (không gian) là địa giới: hóa hiện địa giới ở không gian có sự lầm tưởng không gian ấy là địa giới. Than khóc: khóc lóc. Ngã xuống như hai chân bị chặt đứt: ngã xuống tựa như bị chặt đứt nửa người. Lăn lộn: ngã xuống lăn lại từ chỗ ngã xuống. Lộn lại: ngã xuống lăn đi đến chỗ khác từ chỗ bị ngã. Và hơn nữa, ngã xuống lăn về phía trước, phía sau, bên trái, bên phải, đều được gọi là “lăn qua, lộn lại.” Này Ānanda, có hạng Thiên nhân ở không gian có sự lầm tưởng (không gian) là địa giới: Kể rằng các vị Thiên nhân không thể giữ thăng bằng trên mặt đất thông thường. Các vị thiên nhân chìm vào quả địa cầu ấy giống như Phạm Thiên Hatthaka. Vì lý do ấy đức Thế Tôn mới nói rằng: “Này Hatthaka, hãy hóa thành một bản thể thô.” Do đó, ngài đề cập đến những vị Thiên hóa thành địa giới trong địa giới, mới nói rằng: “Các vị Thiên nhân có sự lầm tưởng địa giới là địa giới”.
Vītarāgāti pahīnadomanassā silāthambhasadisā anāgāmikhīṇāsavadevatā.
Đã xa lìa luyến ái: các vị Thiên nhân là bậc Thánh Bất Lai và bậc Lậu Tận có thọ ưu đã được đoạn trừ tựa như cột trụ đá.
Giảng Về Bốn Nơi Động Tâm
- Vassaṃvuṭṭhāti buddhakāle kira dvīsu kālesu bhikkhū sannipatanti upakaṭṭhāya vassūpanāyikāya kammaṭṭhānaggahaṇatthaṃ, vuṭṭhavassā ca gahitakammaṭṭhānānuyogena nibbattitavisesārocanatthaṃ. Yathā ca buddhakāle, evaṃ tambapaṇṇidīpepi apāragaṅgāya[106] bhikkhū lohapāsāde sannipatiṃsu, pāragaṅgāya[107] bhikkhū tissamahāvihāre. Tesu apāragaṅgāya bhikkhū saṅkārachaḍḍakasammajjaniyo gahetvā āgantvā mahāvihāre sannipatitvā cetiye sudhākammaṃ katvā — “Vuṭṭhavassā āgantvā lohapāsāde sannipatathā”ti[108] vattaṃ katvā phāsukaṭṭhānesu vasitvā vuṭṭhavassā āgantvā lohapāsāde pañcanikāyamaṇḍale, yesaṃ pāḷi paguṇā, te pāḷiṃ sajjhāyanti. Yesaṃ aṭṭhakathā paguṇā, te aṭṭhakathaṃ sajjhāyanti. Yo pāḷiṃ vā aṭṭhakathaṃ vā virādheti, taṃ — “kassa santike tayā gahitan”ti vicāretvā ujuṃ katvā gāhāpenti. Pāragaṅgāvāsinopi tissamahāvihāre evameva karonti. Evaṃ dvīsu kālesu sannipatitesu bhikkhūsu ye pure vassūpanāyikāya kammaṭṭhānaṃ gahetvā gatā visesārocanatthaṃ āgacchanti, evarūpe sandhāya “pubbe bhante vassaṃvuṭṭhā”tiādimāha.
- Đã trải qua mùa an cư: Được biết rằng vào thời kỳ đức Phật hội chúng tỳ khưu tụ hội 2 lần là khi vào mùa an cư đang đến gần để thọ nhận đề mục nghiệp xứ, ra mùa an cư để nói về ân đức đặc biệt được sanh lên do việc thường xuyên thực hành đề mục nghiệp xứ đã được thọ nhận. Và vào thời kỳ đức Phật thế nào, ngay cả trên hòn đảo Tambapaṇṇi cũng như thế ấy, các vị tỳ khưu an trú ở phía bên kia của dòng sống Gaṅgā hội họp ở Lohapāsāda, luôn cả các vị tỳ khưu ở bờ còn lại của dòng sông Gaṅgā hội họp ở Đại Tịnh Xá Tissa. Trong hai nhóm tỳ khưu ấy, các vị tỳ khưu sống ở bờ bên kia sông Gaṅgā đã cầm lấy chổi để quét rác rồi hội họp lại ở Đại Tịnh Xá, trát vữa bảo điện, ra mùa an cư cũng đến hội họp ở Lohapāsāda thực hành phận sự ở chỗ được thoải mái, ra mùa an cư đã đến trường học Ngũ Bộ, thuộc lòng Pāḷī nào, trì tụng Pāḷī đó, thuộc lòng Chú Giải nào, trì tụng Chú Giải đó. Xem xét đến vị tỳ khưu nào học Pāḷī hoặc Chú Giải bị thiếu sót “ngài học tập ở trú xứ của ai?” rồi cho nắm giữ lại một cách ngay thẳng. Còn vị tỳ khưu sống ở bờ còn lại của sông Gaṅgā cũng tụ hội trong Đại Tịnh Xá Tissa cũng tương tự y như thế. Hai nhóm tỳ khưu tụ hội vào hai lần như vậy, những vị tỳ khưu nào học tập đề mục nghiệp xứ trước khi vào mùa an cư rồi trở lại nói ân đức đặc biệt, ngài muốn đề cập đến vị tỳ khưu có hình thức như thế nên mới nói rằng: “Trước đây, bạch Ngài, các vị tỳ khưu đã trải qua mùa an cư…”
Manobhāvanīyeti manasā bhāvite sambhāvite. ye vā mano manaṃ bhāventi vaḍḍhenti rāgarajādīni pavāhenti, evarūpeti attho. Thero kira vattasampanno mahallakaṃ bhikkhuṃ disvā thaddho hutvā na nisīdati, paccuggamanaṃ katvā hatthato chattañca pattacīvarañca gahetvā pīṭhaṃ papphoṭetvā deti, tattha nisinnassa vattaṃ katvā senāsanaṃ paṭijaggitvā deti. Navakaṃ bhikkhuṃ disvā tuṇhībhūto na nisīdati, samīpe ṭhatvā vattaṃ karoti. So tāya vattapaṭipattiyā aparihāniṃ patthayamāno evamāha.
Người tu tập tâm: đã tu tập, đã rèn luyện bởi ý. Giải thích rằng những vị nào tu tập, tăng trưởng tâm ý thả trôi phiền não tựa như bụi bẩn ái luyến v.v, vị tỳ khưu có hình thức như thế. Kể rằng vị trưởng lão đầy đủ tánh hạnh gặp vị tỳ khưu già không ương ngạnh đang ngồi, đi ra tiếp đón nhận lấy dù, bình bát, y phục và sắp đặt chỗ ngồi cúng dường, khi ngài ngồi ở nơi đó cũng làm các bổn phận sắp đặt chỗ trú ngụ cúng dường. Gặp vị tân tỳ khưu cũng không ngồi im lặng, đã đứng ở chỗ không xa làm phận sự. Vị ấy ước muốn sự không suy hoại của việc thực hành phận sự đã nói như vậy.
Atha bhagavā — “ānando manobhāvanīyānaṃ dassanaṃ na labhissāmī”ti cinteti, Handassa, manobhāvanīyānaṃ dassanaṭṭhānaṃ ācikkhissāmi, yattha vasanto ito cito ca anāhiṇḍitvāva lacchati manobhāvanīye bhikkhū dassanāyāti cintetvā cattārimānītiādimāha.
Khi ấy đức Thế Tôn suy tư: “Ānanda (nghĩ rằng) ta sẽ không có cơ hội để gặp các vị tỳ khưu khả kính”. Thôi được rồi, ta sẽ nói địa điểm để gặp vị tỳ khưu khả kính cho ngươi, nơi ngươi sống không cần đi tới đi lui cũng sẽ được gặp các vị tỳ khưu khả kính, nên đã nói rằng: “Bốn địa điểm này…”
Tattha saddhassāti buddhādīsu pasannacittassa vattasampannassa, yassa pāto paṭṭhāya cetiyaṅgaṇavattādīni sabbavattāni katāneva paññāyanti. Dassanīyānīti dassanārahāni dassanatthāya gantabbāni. Saṃvejanīyānīti saṃvegajanakāni. Ṭhānānīti kāraṇāni, padesaṭhānāneva vā.
Ở đó, có đức tin: tất cả mọi phận sự có phận sự quét dọn sân của bảo tháp v.v, mà ngươi đã làm từ sáng sớm, hiện hữu cùng con trai gia đình danh giá có tâm tịnh tín đối với đức Phật v.v, người hoàn thành phận sự. Là nơi đáng được chiêm bái: đáng được chiêm bái, là xứng đáng đi đến để chiêm ngưỡng. Đem lại sự động tâm: khởi lên sự động tâm. Địa điểm: lý do, hoặc địa phận, địa điểm.
Ye hi kecīti idaṃ cetiyacārikāya satthakabhāvadassanatthaṃ vuttaṃ. Tattha cetiyacārikaṃ āhiṇḍantāti ye ca tāva tattha tattha cetiyaṅgaṇaṃ sammajjantā[109], āsanāni dhovantā[110] bodhimhi udakaṃ siñcantā āhiṇḍanti, tesu vattabbameva natthi asukavihāre “cetiyaṃ vandissāmā”ti nikkhamitvā pasannacittā antarā kālaṅkarontāpi anantarāyena sagge patiṭṭhahissanti yevāti dasseti.
Bất cứ những người nào: điều này ngài nói để thuyết đến cuộc hành hương đến các bảo tháp (là) có lợi ích. Ở đó, thăm viếng hành hương các bảo tháp: ngài thuyết rằng trước hết những vị nào quét dọn sân của bảo tháp ở chỗ này ở chỗ nọ, rửa sạch các chỗ ngồi (các sàng tọa), tưới nước ở cây Bồ Đề trong lúc thăm viếng thì các vị ấy không cần phải nói đến, sau khi đi khỏi nghĩ rằng: “chúng ta sẽ đi đảnh lễ bảo tháp” ở tịnh xá kia, có tâm tịnh tín dù mệnh chung ngay trong lúc ấy cũng sẽ sanh vào Thiên giới không gặp chướng ngại.
Giảng về các câu hỏi của Ānanda
- Adassanaṃ, ānandāti yadetaṃ mātugāmassa adassanaṃ, ayamettha uttamā paṭipattīti dasseti. Dvāraṃ pidahitvā senāsane nisinno hi bhikkhu āgantvā dvāre ṭhitampi mātugāmaṃ yāva na passati, tāvassa ekaṃseneva na lobho uppajjati, na cittaṃ calati. Dassane pana satiyeva tadubhayampi assa. tenāha — “adassanaṃ ānandā”ti. Dassane bhagavā sati kathanti bhikkhaṃ gahetvā upagataṭṭhānādīsu dassane sati kathaṃ paṭipajjitabbanti pucchati. Atha bhagavā yasmā khaggaṃ gahetvā — “sace mayā saddhiṃ ālapasi, ettheva te sīsaṃ pātessāmī”ti ṭhitapurisena vā, “sace mayā saddhiṃ ālapasi, ettheva te maṃsaṃ murumurāpetvā[111] khādissāmī”ti ṭhitayakkhiniyā vā ālapituṃ varaṃ. Ekasseva hi attabhāvassa tappaccayā vināso hoti, na apāyesu aparicchinnadukkhānubhavanaṃ. Mātugāmena pana ālāpasallāpe sati vissāso hoti, vissāse sati otāro hoti, otiṇṇacitto sīlabyasanaṃ patvā apāyapūrako hoti; Tasmā anālāpoti āha. Vuttampi cetaṃ —
- Này Ānanda, (như là) có sự không nhìn thấy: ngài chỉ ra rằng: sự không nhìn thấy người nữ, ở đây, điều này là cách xử sự thích hợp. Thật vậy, vị tỳ khưu mở cửa ngồi trên chỗ ngồi khi nào không nhìn thấy người nữ người nữ đến đứng ở cửa, khi ấy vị tỳ khưu ấy không khởi lên tham ái, tâm không lay động một cách trọn vẹn. Nhưng khi nhìn thấy thì cả hái điều ấy có thể có. Vì thế, đức Thế Tôn đã nói – “Này Ānanda, (như là) có sự không nhìn thấy”. Khi có sự nhìn thấy, bạch đức Thế Tôn, nên xử sự thế nào?: Đại đức Ānanda hỏi rằng: khi có sự nhìn thấy ở nơi mà vị tỳ khưu thọ nhận đồ ăn khất thực v.v, vị tỳ khưu nên cư xử như thế nào? Khi ấy, đức Thế Tôn nói rằng: người đàn ông cầm lấy con dao nói rằng: “Nếu ngài nói với tôi, tôi sẽ chặt đầu ngài ngay tại chỗ này” hoặc nữ Dạ-xoa đứng nói rằng: “Nếu ngài nói với tôi, tôi sẽ lóc thịt ngài nhai ăn ngay tại chỗ này”. Thật vậy, sự tiêu tan do duyên ấy chỉ thuộc về của một bản ngã, không phải chịu đựng đau khổ mà không thể xác định trong các khổ cảnh. Còn khi có cuộc trò chuyện trao đổi với người nữ, sự thân thuộc tồn tại, khi có sự thân thuộc thì đạo lộ tồn tại, vị tỳ khưu có tâm bị tham ái chi phối dẫn đến sự tiêu tan của giới hạnh lãnh chịu đầy (khổ đau) trong địa ngục. Vì thế đức Thế Tôn mới nói rằng: “(nên có) sự không trò chuyện”. Vấn đề này cũng đã được ngài nói rằng:
“Sallape asihatthena, pisācenāpi sallape.
Āsīvisampi āsīde, yena daṭṭho na jīvati.
Na tveva eko ekāya, mātugāmena sallape”ti.[112]
Ālapantena panāti sace mātugāmo divasaṃ vā pucchati, sīlaṃ vā yācati, dhammaṃ vā sotukāmo hoti, pañhaṃ vā pucchati, tathārūpaṃ vā panassa pabbajitehi kattabbakammaṃ hoti, evarūpe kāle anālapantaṃ “mūgo ayaṃ, badhiro ayaṃ, bhutvāva baddhamukho nisīdatī”ti vadati, tasmā avassaṃ ālapitabbaṃ hoti. Evaṃ ālapantena pana kathaṃ paṭipajjitabbanti pucchati. Atha bhagavā — “etha tumhe, bhikkhave, mātumattīsu mātucittaṃ upaṭṭhapetha, bhaginimattīsu bhaginicittaṃ upaṭṭhapetha, dhītumattīsu dhītucittaṃ upaṭṭhapethā”ti[113] imaṃ ovādaṃ sandhāya sati, ānanda, upaṭṭhapetabbāti āha.
Nói chuyện với người có kiếm ở trong tay, nói chuyện với ác quỷ. Ngồi thật gần với loài rắn độc, người bị người có kiếm trong tay, ác quỷ, con rắn có nọc độc cắn liền mệnh chung; vị tỳ khưu nói chuyện với nữ nhân một nam với một nữ cũng không có mạng sống tương tự.
Vậy khi có sự nói chuyện: Nếu như người nữ hỏi ngày xin giới, muốn lắng nghe pháp, hỏi câu hỏi, hoặc công việc mà bậc xuất gia cần phải làm đối với người nữ ấy, người nữ ấy sẽ nói cùng vị tỳ khưu không nói vào thời gian có hình thức như thế rằng: “Vị này bị câm, vị này bị điếc, thọ dụng xong lại ngồi ngậm miệng,” vì thế, vị tỳ khưu phải nói sự thật. Đại đức Ānanda hỏi rằng: bạch ngài vị tỳ khưu khi có sự nói chuyện như vậy nên cư xử như thế nào? Khi ấy đức Thế Tôn đề cập đến lời giáo huấn rằng: “Hãy đến, này các tỳ khưu, đối với những người chỉ là mẹ, hãy an trú tâm người mẹ. Ðối với những người chỉ là chị, hãy an trú tâm người chị. Ðối với người chỉ là con gái, hãy an trú tâm người con gái’, nên mới nói rằng: Này Ānanda, niệm nên được thiết lập..
- Abyāvaṭāti atantibaddhā nirussukkā hotha. Sāratthe[114] ghaṭathāti uttamatthe arahatte ghaṭetha. Anuyuñjathāti tadadhigamāya anuyogaṃ karotha. Appamattāti tattha avippamuṭṭhasatī. Vīriyātāpayogena ātāpino. Kāye ca jīvite ca nirapekkhatāya pahitattā pesitacittā viharatha.
- Chớ quan tâm: không liên quan đến, không lưu ý đến. Hãy gắng sức cho mục đích của mình: Cố gắng trong quả vị A-ra-hán là lợi ích tối thượng. Hãy gắn bó: hãy gắn bò thường xuyên nhằm mục đích chứng đắc quả vị A-ra-hán ấy. Không xao lãng: ở đây sống không xa rời niệm. Có nhiệt tâm bởi gắn liền với pháp thiêu đốt phiền não là sự tinh tấn. Có bản tánh cương quyết: có tâm chuyên hướng bởi vì là người không tha thiết thân và mạng sống.
- Kathaṃ pana, bhanteti tehi khattiyapaṇḍitādīhi kathaṃ paṭipajjitabbaṃ. addhā maṃ te paṭipucchissanti — “Kathaṃ, bhante, ānanda tathāgatassa sarīre paṭipajjitabban”ti; “tesāhaṃ kathaṃ paṭivacanaṃ demī”ti pucchati. Ahatena vatthenāti navena kāsikavatthena. Vihatena kappāsenāti supothitena kappāsena. kāsikavatthañhi sukhumattā telaṃ na gaṇhāti, kappāso pana gaṇhāti. tasmā “vihatena kappāsenā”ti āha. Āyasāyāti sovaṇṇāya. sovaṇṇañhi idha “ayasan”ti adhippetaṃ.
- Bạch Ngài, nên xử sự thế nào?: Đại đức Ānanda hỏi rằng những người ấy có Sát-đế-lỵ là bậc trí v.v, nên xử sự như thế nào? Chắc chắn họ sẽ hỏi tôi rằng – “Thưa ngài Ānanda, nên xử sự thân xác của đức Như Lai như thế nào?” “Con sẽ trả lời như thế nào?” Bằng lớp vải mới: Tấm vải mới được sản xuất ở xứ Kāsī. Bao bọc bằng lớp bông gòn đã chải: Với tấm vải được dệt kỹ lưỡng, tấm vải được sản xuất ở xứ Kāsī, không thấm dầu bởi vì chất liệu mịn màn, còn vải bông gòn thấm. Vì thế ngài mới nói rằng: “bao bọc bằng lớp bông gòn đã chải”. Máng làm bằng sắt: gồm cả máng làm bằng vàng. Thật vậy, máng làm bằng vàng, ở đây muốn đề cập đến “ayasaṃ”.
Nói đến những người xứng đáng bảo tháp
- Rājā cakkavattīti ettha kasmā bhagavā agāramajjhe vasitvā kālaṅkatassa rañño thūpārahataṃ[115] anujānāti, na sīlavato puthujjanassa bhikkhussāti? Anacchariyattā. puthujjanabhikkhūnañhi thūpe anuññāyamāne tambapaṇṇidīpe tāva thūpānaṃ okāso na bhaveyya, tathā aññesu ṭhānesu. tasmā “anacchariyā te bhavissantī”ti nānujānāti. Rājā cakkavattī ekova nibbattati, tenassa thūpo acchariyo hoti. Puthujjanasīlavato pana parinibbutabhikkhuno viya mahantampi sakkāraṃ kātuṃ vaṭṭatiyeva.
- Vị Chuyển Luân Vương: Tại sao đức Thế Tôn cho phép xây dựng bảo tháp đối với vua sống ở giữa ngôi làng đã băng hà, không cho phép đối với vị tỳ khưu phàm nhân có giới hạnh? Bởi vì không được xem là điều kỳ diệu. Thật vậy, khi cho phép xây dựng bảo tháp đối với vị tỳ khưu phàm nhân cũng không có chỗ dành cho các bảo tháp ở trên đào Tambapaṇṇi, ở những chỗ khác cũng tương tự. Vì thế, “những bảo tháp ấy không được xem là kỳ diệu” nên mới không cho phép. Vua Chuyển Luân được sanh lên chỉ có một, vì thế bảo tháp của vị ấy được xem là kỳ diệu. Còn đối với vị tỳ khưu phàm nhân có giới tỏ lòng thành kính dù to lớn, như vị tỳ khưu viên tịch Niết Bàn hoàn toàn xứng đáng.
Nói về các pháp kỳ diệu của trưởng lão Ānanda
- Vihāranti idha maṇḍalamālo vihāroti adhippeto, taṃ pavisitvā. Kapisīsanti dvārabāhakoṭiyaṃ ṭhitaṃ aggaḷarukkhaṃ. Rodamāno aṭṭhāsīti so kirāyasmā cintesi — “satthārā mama saṃvegajanakaṃ vasanaṭṭhānaṃ kathitaṃ, cetiyacārikāya sātthakabhāvo kathito, mātugāme paṭipajjitabbapañho vissajjito, attano sarīre paṭipatti akkhātā, cattāro thūpārahā kathitā, dhuvaṃ ajja bhagavā parinibbāyissatī”ti, tassevaṃ cintayato balavadomanassaṃ uppajji. Athassa etadahosi — “bhagavato santike rodanaṃ nāma aphāsukaṃ, ekamantaṃ gantvā sokaṃ tanukaṃ karissāmī”ti, so tathā akāsi. tena vuttaṃ — “rodamāno aṭṭhāsī”ti.
- Còn mái che tròn được đề cập là tịnh xá trong từ ‘tịnh xá’ này, sau khi đi vào tịnh xá. Thanh ngang của cánh cửa: Thanh gỗ để làm cái chốt cửa được đặt cố định ở đầu tay cửa. Đã đứng khóc lóc: Kể rằng ngài Ānanda nghĩ như vầy – “Bậc Đạo Sư nói đến các địa điểm làm khởi lên sự động tâm cho ta, nói đến việc hành hương ở các bảo điện có lợi ích, trả lời vấn đề nên xử sự đối với người nữ, nói đến cách xử sự đối với thân xác của ngài, nói đến bốn hạng xứng đáng bảo tháp, hôm nay chắc chắn đức Thế Tôn sẽ viên tịch Niết Bàn”, khi ngài nghĩ như vậy đã khởi lên nỗi đau buồn dữ dội. Khi ấy, ngài suy tư như vầy – “Sự khóc lóc ở gần chỗ đức Thế Tôn là sự bất tiện, ta sẽ đi đến một chỗ khác, giảm bớt nỗi đau buồn,” ngài đã làm như thế. Vì thế ngài mới nói rằng: “đã đứng khóc lóc”.
Ahañca vatamhīti ahañca vata amhi, ahaṃ vatamhītipi pāṭho. Yo mama anukampakoti yo maṃ anukampati anusāsati, sve dāni paṭṭhāya kassa mukhadhovanaṃ dassāmi, kassa pāde dhovissāmi, kassa senāsanaṃ paṭijaggissāmi, kassa pattacīvaraṃ gahetvā vicarissāmīti bahuṃ vilapi. Āmantesīti bhikkhusaṅghassa antare theraṃ adisvā āmantesi.
Ahañca vatamhi tách thành ahañca vata amhi (Ôi! ta vẫn là…). Pāḷī ‘ahaṃ vatamhi’ như vầy cũng có. Người có sự thương xót đến ta: Người nào có sự thương xót dạy dỗ ta. Nói rất nhiều rằng: kể từ ngày mai ngay bây giờ ta sẽ dâng nước rửa mặt cho ai? Ta sẽ rửa chân cho ai? Ta sẽ dọn dẹp vệ sinh chỗ ở cho ai? Ta sẽ tiếp nhận bình bát và y phục của ai, đi du hành? Đã bảo: Không nhìn thấy trưởng lão trong khoảng thời gian đó nên mới bảo.
Mettena kāyakammenāti mettacittavasena pavattitena mukhadhovanadānādikāyakammena. Hitenāti hitavuddhiyā katena. Sukhenāti sukhasomanasseneva katena, na dukkhinā dummanena hutvāti attho. Advayenāti dve koṭṭhāse katvā akatena. yathā hi eko sammukhāva karoti na parammukhā, eko parammukhāva karoti na sammukhā evaṃ vibhāgaṃ akatvā katenāti vuttaṃ hoti. Appamāṇenāti pamāṇavirahitena. Cakkavāḷampi hi atisambādhaṃ, bhavaggampi atinīcaṃ, tayā kataṃ kāyakammameva bahunti dasseti.
Với thân nghiệp từ ái: Với thân nghiệp như dâng nước rửa mặt v.v, được thực hành do mãnh lực của tâm từ. Có lợi ích: Được thực hiện để phát triển lợi ích. Có an lạc: Được thực hiện do tác động lạc và hỷ, nghĩa là không có khổ thân và khổ tâm. Không hai lòng: Không làm thành 2 phần, tức là chỉ làm ở trước mặt chứ không làm ở sau lưng, chỉ làm ở sau lưng chứ không làm ở trước mặt, làm không tách biệt như vậy (trước sau như một). Không đo lường được: không thể đo lường. Chỉ ra rằng thật vậy thế giới (trở nên) vô cùng chật hẹp, luôn cả cảnh giới tột cùng của hiện hữu cũng (trở nên) vô cùng thấp bé chính thân nghiệp mà ngài đã làm.
Mettena vacīkammenāti mettacittavasena pavattitena mukhadhovanakālārocanādinā vacīkammena. Api ca ovādaṃ sutvā — “sādhu, bhante”ti vacanampi mettaṃ vacīkammameva. Mettena manokammenāti kālasseva sarīrapaṭijagganaṃ katvā vivittāsane nisīditvā — “satthā arogo hotu, abyāpajjo sukhī”ti evaṃ pavattitena manokammena. Katapuññosīti kappasatasahassaṃ abhinīhārasampannosīti dasseti. Katapuññosīti ca ettāvatā vissattho mā pamādamāpajji, atha kho padhānamanuyuñja. evañhi anuyutto khippaṃ hohisi anāsavo, dhammasaṅgītikāle arahattaṃ pāpuṇissasi. Na hi mādisassa katapāricariyā nipphalā nāma hotīti dasseti.
Với khẩu nghiệp từ ái: với khẩu nghiệp như nói đến thời gian rửa mặt v.v, được thực hành do tác động của tâm từ. Thêm nữa, sau khi nghe lời giáo huấn đã nói “lành thay, thưa ngài” được liệt vào khẩu nghiệp từ ái. Với ý nghiệp từ ái: sau khi vệ sinh thân thể từ sáng sớm đã ngồi trên tọa cự tĩnh tọa – “Mong cho bậc Đạo Sư hãy là người vô bệnh, không có khổ não, an lạc” với ý nghiệp thực hành như vậy. Ngươi là người đã có tạo phước (trong quá khứ): Chỉ ra rằng ngươi là người đã thành tựu sự phát nguyện xuyên suốt một trăm ngàn kiếp. Và với câu ‘ngươi là người đã có tạo phước (trong quá khứ)’ chỉ chừng ấy ngươi chớ nên xao lãng, sau đó hãy ra sức nỗ lực, thật vậy ngươi ra sức nỗ lực như thế thì ngươi sẽ mau chóng trở thành bậc Vô Lậu, sẽ thành tựu quả vị A-ra-hán vào lúc kết tập Giáo Pháp. Bởi vì sự hầu hạ mà ngươi đã thực hiện đối với đức Phật như ta là không vô ích.
- Evañca pana vatvā mahāpathaviṃ pattharanto viya ākāsaṃ vitthārento viya cakkavāḷagiriṃ osārento[116] viya sineruṃ ukkhipento viya mahājambuṃ khandhe gahetvā cālento viya āyasmato ānandassa guṇakathaṃ ārabhanto atha kho bhagavā bhikkhū āmantesi. Tattha “yepi te, bhikkhave, etarahī”ti kasmā na vuttaṃ? aññassa buddhassa natthitāya. Eteneva cetaṃ veditabbaṃ — “yathā cakkavāḷantarepi añño buddho natthī”ti. Paṇḍitoti byatto. Medhāvīti khandhadhātuāyatanādīsu kusalo.
- Hơn nữa, sau khi thuyết như vậy mới bắt đầu giảng về ân đức của bậc A-ra-hán tựa như lan truyền khắp đại địa cầu, tựa như lan tỏa khắp không trung, tựa như chạm đến đỉnh núi Cakkavāḷa, tựa như nâng lên đỉnh núi Suṇeru, tựa như nắm lấy thân cây Jambu to lớn rung lắc, khi ấy đức Thế Tôn đã bảo các vị tỳ khưu. Ở đó, tại sao đức Thế Tôn không thuyết rằng: “Này các tỳ khưu, những vị nào…cũng giống như ta có hiện nay” bởi vì không có vị Phật nào khác. Nên hiểu điều ấy bằng chính Pāḷī này – “Vị Phật khác giữa các thế giới là không có.” Sáng suốt: sắc sảo. Thông minh: vị thông thạo về Uẩn – Giới – Xứ v.v.
- Bhikkhuparisā ānandaṃ dassanāyāti ye bhagavantaṃ passitukāmā theraṃ upasaṅkamanti, ye ca “āyasmā kirānando samantapāsādiko abhirūpo dassanīyo bahussuto saṅghasobhano”ti therassa guṇe sutvā āgacchanti, te sandhāya “bhikkhuparisā ānandaṃ dassanāya upasaṅkamantī”ti vuttaṃ. Esa nayo sabbattha. Attamanāti savanena no dassanaṃ sametīti sakamanā tuṭṭhacittā. Dhammanti “kacci, āvuso, khamanīyaṃ, kacci yāpanīyaṃ, kacci yoniso manasikārena kammaṃ karotha, ācariyupajjhāye vattaṃ pūrethā”ti evarūpaṃ paṭisanthāradhammaṃ. tattha bhikkhunīsu — “kacci, bhaginiyo, aṭṭha garudhamme samādāya vattathā”ti idampi nānākaraṇaṃ hoti. Upāsakesu āgatesu “upāsaka, na te kacci sīsaṃ vā aṅgaṃ vā rujjati, arogā te puttabhātaro”ti na evaṃ paṭisanthāraṃ karoti. Evaṃ pana karoti — “kathaṃ upāsakā tīṇi saraṇāni pañca sīlāni rakkhatha, māsassa aṭṭha uposathe karotha, mātāpitūnaṃ upaṭṭhānavattaṃ pūretha, dhammikasamaṇabrāhmaṇe paṭijaggathā”ti. Upāsikāsupi eseva nayo.
- Nếu tập thể tỳ khưu đi đến để gặp Ānanda: Những người nào ước muốn yết kiến đức Thế Tôn, đi đến gặp trưởng lão và những người nào đến được nghe về ân đức của trưởng lão rằng “Nghe rằng ngài Ānanda tịnh tín toàn diện, có vóc dáng đẹp, đáng nhìn, đa văn, chói sáng ở giữa hội chúng,” ngài ám chỉ đến những người ấy mới nói rằng “Hội chúng tỳ khưu đến gặp Ānanda.” Các đoạn kế tiếp cũng áp dụng cách thức này. Được hoan hỷ: có tâm vui vẻ, vui mừng do nhìn thấy điều hợp với sự lắng nghe. Dhamma: Dhamma là sự tiếp đãi có hình thức như vậy “Này hiền giả, sức khỏe có khá không? Mọi việc có được thuận tiện không? Ngươi hãy thực hiện phận sự bằng tác ý đúng đường lối, hãy làm tròn phận sự đối với các vị thầy dạy học và thầy tế độ.” Pháp là sự tiếp đãi ấy – “Này các sư tỷ, tám trọng pháp có được thực hành không?” chính điều này có sự khác biệt. Khi các nam cư sĩ đến không thực hiện sự tiếp đãi như vậy rằng “Này nam cư sĩ, ngươi không đau đầu hoặc các chi phần sao? Phải chăng con trai hoặc anh em trai của ngươi vô bệnh? Hơn nữa, thực hành như vậy – “Này các nam cư sĩ, các ngươi (đi đến) ba sự nương nhờ và thọ trì năm giới như thế nào, hãy thọ trì bát quan trai giới mỗi tháng, hãy thực hành bổn phận phụng dưỡng mẹ và cha, hãy xử sự đối với các Sa-môn và Bà-la-môn đúng pháp. Luôn cả các nữ cư sĩ cũng áp dụng cách thức này.
Idāni ānandattherassa cakkavattinā saddhiṃ upamaṃ karonto cattārome bhikkhavetiādimāha. Tattha khattiyāti abhisittā ca anabhisittā ca khattiyajātikā. Te kira — “rājā cakkavattī nāma abhirūpo dassanīyo pāsādiko ākāsena vicaranto rajjaṃ anusāsati dhammiko dhammarājā”ti tassa guṇakathaṃ sutvā “savanena dassanampi saman”ti attamanā honti. Bhāsatīti kathento — “kathaṃ, tātā, rājadhammaṃ pūretha, paveṇiṃ rakkhathā”ti paṭisanthāraṃ karoti. Brāhmaṇesu pana — “kathaṃ ācariyā mante vācetha, kathaṃ antevāsikā mante gaṇhanti, dakkhiṇaṃ vā vatthāni vā kapilaṃ[117] vā alatthā”ti paṭisanthāraṃ karoti. Gahapatīsu — “kathaṃ tātā, na vo rājakulato daṇḍena vā balinā vā pīḷā atthi, sammā devo dhāraṃ anupavecchati, sassāni sampajjantī”ti evaṃ paṭisanthāraṃ karoti. Samaṇesu — “kathaṃ, bhante, pabbajitaparikkhārā sulabhā, samaṇadhamme na pamajjathā”ti evaṃ paṭisanthāraṃ karoti.
Bây giờ, khi làm ví dụ so sánh với vị Chuyên Luân Vương đối với trưởng lão Ānanda, ngài mới nói rằng: “Này các tỳ khưu, bốn pháp kỳ diệu, phi thường này có ở Ānanda.” Trong câu đó, Sát-đế-lỵ: Dòng dõi Sát-đế-lỵ, vị được đăng quang và không được đăng quang. Được biết sau khi các vị Sát-đế-lỵ ấy nghe lời nói ca ngợi về đức hạnh của vị Chuyển Luân Vương rằng: “Vị Chuyển Luân Vương có vóc dáng đẹp, dễ nhìn, dễ thương, đi lại được trên hư không, trị vì vương quốc, là vị minh vương công chính” (tập thể ấy) được hoan hỷ “Việc nhìn thấy hợp với điều đã nghe”. Trong khi thuyết giảng là ‘Nói’ – thực hiện nói lời giao tiếp – “Cha ơi, như thế nào gọi là vương pháp? như thế nào gọi là gìn giữ truyền thống?”. Còn đối với Bà-la-môn thực hiện nói lời giao tiếp rằng – “Thưa thầy như thế nào gọi là trì tụng chú thuật? Các vị đệ tử học tập chú thuật như thế nào? Hãy hướng vai phải nhiễu quanh, vải vóc hoặc con bò hồng.” Đối với các gia chủ thực hiện nói lời giao tiếp như vầy rằng – “Cha ơi, các người không bị hành hạ bởi các hình phạt hoặc bằng thuế má từ hoàng tộc, phải chăng mưa rơi đúng thời? Phải chăng lúa thóc đầy đủ?” Đối với các vị Sa-môn thực hiện lời nói giao tiếp như vầy rằng – “Thưa ngài, vật dụng cần thiết đối với vị xuất gia dễ dàng nhận được như thế nào? Các ngài chớ xao lãng trong Sa-môn Pháp.
Chỉ bảo về Kinh Mahāsudassana
- Khuddakanagaraketi nagarapatirūpake sambādhe khuddakanagarake. Ujjaṅgalanagaraketi visamanagarake. Sākhānagaraketi yathā rukkhānaṃ sākhā nāma khuddakā honti, evameva aññesaṃ mahānagarānaṃ sākhāsadise khuddakanagarake. Khattiyamahāsālāti khattiyamahāsārappattā mahākhattiyā. Esa nayo sabbattha.
- Tại thị tứ nhỏ bé: thành phố nhỏ bé chật hẹp, là thành phố cần phải phát triển. Tại thị tứ cằn cỗi: ở thành phố không bằng phẳng. Tại thị tứ vùng ven: ở thành phố nhỏ bé tựa như một nhánh của thành phố lớn khác, như một nhánh nhỏ của các thân cây. Sát-đế-lỵ có thế lực: các Sát-đế-lỵ lớn đã trở thành các vị Sát-đế-lỵ vô cùng có thế lực. Các đoạn kế tiếp cũng áp dụng cách thức này.
Tesu khattiyamahāsālā nāma yesaṃ koṭisatampi koṭisahassampi dhanaṃ nikhaṇitvā ṭhapitaṃ, divasaparibbayo ekaṃ kahāpaṇasakaṭaṃ nigacchati, sāyaṃ dve pavisanti. Brāhmaṇamahāsālā nāma yesaṃ asītikoṭidhanaṃ nihitaṃ hoti, divasaparibbayo eko kahāpaṇakumbho nigacchati, sāyaṃ ekasakaṭaṃ pavisati. Gahapatimahāsālā nāma yesaṃ cattālīsakoṭidhanaṃ nihitaṃ hoti, divasaparibbayo pañca kahāpaṇambaṇāni nigacchanti, sāyaṃ kumbho pavisati.
Trong các sự giàu có ấy được gọi là vị Sát-đế-lỵ có thế lực bao gồm các vị Sát-đế-lỵ cất giữ tài giản hàng trăm koṭi, hàng ngàn koṭi, chi ra một cỗ xe đồng tiền kahāpaṇa mỗi ngày, nhận vào hai cỗ xe đồng tiền kahāpaṇa vào mỗi buổi chiều. Bà-la-môn có thế lực: bao gồm các vị Bà-la-môn cất giữ tài sản tám mươi koṭi, chi ra một kumbha đồng tiền kahāpaṇa mỗi ngày, nhận vào một cỗ xe kahāpaṇa vào mỗi buổi chiều. Gia chủ có thế lực: các gia chủ cất giữ tài sản bốn mươi koṭi, chi ra năm ambaṇa mỗi ngày, nhận vào một kumbha vào mỗi buổi chiều.
Mā hevaṃ, ānanda, avacāti ānanda, mā evaṃ avaca, na imaṃ “khuddakanagaran”ti vattabbaṃ. Ahañhi imasseva nagarassa sampattiṃ kathetuṃ — “anekavāraṃ tiṭṭhaṃ nisīdaṃ mahantena ussāhena, mahantena parakkamena idhāgato”ti vatvā bhūtapubbantiādimāha. Subhikkhāti khajjabhojjasampannā. Hatthisaddenāti ekasmiṃ hatthimhi saddaṃ karonte caturāsītihatthisahassāni saddaṃ karonti, iti hatthisaddena avivittā hoti, tathā assasaddena. Puññavanto panettha sattā catusindhavayuttehi rathehi aññamaññaṃ anubandhamānā antaravīthīsu vicaranti, iti rathasaddena avivittā hoti. Niccaṃ payojitāneva panettha bheriādīni tūriyāni, iti bherisaddādīhipi avivittā hoti. Tattha sammasaddoti kaṃsatāḷasaddo. Pāṇitāḷasaddoti pāṇinā caturassāmbaṇa-tāḷasaddo. Kuṭabherisaddotipi vadanti.
Này Ānanda, chớ có nói như vậy!: Này Ānanda, chớ có nói như vậy! Đức Thế Tôn nói rằng: (Này Ānanda) không nên nói thành phố này là “thành phố nhỏ bé”. Sự thật, Như Lai đến thành phố này bằng sự nỗ lực lớn lao, bằng sự cố gắng lớn lao, đã đứng, đã ngồi nhiều lần” cũng vì mục đích nói đến sự thành tựu của chính thành phố này, nên mới nói rằng: “Trong thời quá khứ, v.v.” Thực phẩm đầy đủ: đầy đủ vật thực cúng và vật thực mềm. Tiếng voi: khi một thớt tượng rống lên thì tám mươi bốn thớt tượng cũng rống lên, như thế thành phố Kusāvatī không hề yên lặng từ tiếng voi. Từ tiếng ngựa cũng tương tự. Hơn nữa, tất cả chúng sanh ở kinh thành này có phước báu, có cỗ xe được thắng vào bốn con ngựa Sindhu với nhau du hành ở giữa đường, như thế mới gọi là không hề yên tĩnh bởi tiếng xe cộ. Hơn nữa, các nhạc khí có trống v.v, trong thành phố ấy, cũng thường xuyên khua lên, như thế gọi là không hề yên tĩnh từ tiếng trống v.v. Trong những câu đó, tiếng chập chõa: âm thanh tiếng chập chõa. Tiếng vỗ tay: tiếng tāla được gõ bằng tay và miếng gỗ vuông. Một số vị nói rằng: tiếng trống định âm.
Asnātha pivatha khādathāti asnātha pivatha khādatha. Ayaṃ panettha saṅkhepo, Bhuñjatha bhoti iminā dasamena saddena avivittā hoti anupacchinnasaddā. Yathā pana aññesu nagaresu “kacavaraṃ chaḍḍetha, kudālaṃ gaṇhatha, pacchiṃ gaṇhatha, pavāsaṃ gamissāma, taṇḍulapuṭaṃ gaṇhatha, bhattapuṭaṃ gaṇhatha, phalakāvudhādīni sajjāni karothā”ti[118] evarūpā saddā honti, na yidha evaṃ ahosīti dasseti.
Quý vị hãy ăn, hãy uống, hãy nhai: hãy ăn, hãy uống, hãy nhai. Ở đây, điều này là phần tóm tắt. Thành phố Kusāvatī không yên tĩnh từ mười thứ tiếng này rằng: “Bạch ngài, mời ngài hãy ăn” có âm thanh không hề đứt quãng. Đức Thế Tôn thuyết rằng: Ở những thành phố khác, có âm thanh có hình thức như vậy “các ngươi hãy vứt bỏ rác rưởi, hãy cầm lấy cuốc, hãy cầm lấy giỏ xách, chúng tôi sẽ đi qua đêm, hãy cầm lấy một gói gạo, hãy cầm lấy một gói cơm tẻ, hãy cho sắp xếp tấm ván và vũ khí” ở thành phố Kusāvatī này không như thế.
“Dasamena saddenā”ti ca vatvā “kusāvatī, ānanda, rājadhānī sattahi pākārehi parikkhittā ahosī”ti sabbaṃ mahāsudassanasuttaṃ niṭṭhāpetvā gaccha tvaṃ ānandātiādimāha. Tattha abhikkamathāti abhimukhā kamatha, āgacchathāti attho. Kiṃ pana te bhagavato āgatabhāvaṃ na jānantīti? Jānanti. Buddhānaṃ gatagataṭṭhānaṃ nāma mahantaṃ kolāhalaṃ hoti, kenacideva karaṇīyena nisinnattā na āgatā. “Te āgantvā bhikkhusaṅghassa ṭhānanisajjokāsaṃ saṃvidahitvā dassantī”ti tesaṃ santike avelāyampi bhagavā pesesi.
Và ‘từ tiếng thứ mười’ này kết thúc toàn bộ bài Kinh Mahāsudassana “Này Ānanda, kinh thành Kusāvatī đã được bao quanh bằng bảy tường thành” nên mới nói rằng: “Ngươi hãy đi, này Ānanda…” Trong số những câu ấy ‘hãy đi đến’ các vị hãy tiến về phía trước. Những người tộc Malla ở thành Kusinārā không biết rằng: đức Thế Tôn đi đến hay sao? – Biết. Thường những nơi nào chư Phật đi và đến đều gây ra cảnh náo động, luôn cả nơi vẫn chưa đến để tụ hội vì công việc cần làm nào đó. Đức Thế Tôn biết rằng: “Sau khi họ đến sẽ phải sắp đặt chỗ ngồi cho hội chúng tỳ khưu” mới bảo Ānanda đi gần trú xứ của những người tộc Malla, dẫu không phải thời điểm thích hợp.
Việc lễ bái của những người tộc Malla
- Amhākañca noti ettha no kāro nipātamattaṃ. Aghāvinoti uppannadukkhā. Dummanāti anattamanā. Cetodukkhasamappitāti domanassasamappitā. Kulaparivattaso kulaparivattaso ṭhapetvāti ekekaṃ kulaparivattaṃ kulasaṅkhepaṃ vīthisabhāgena ceva racchāsabhāgena ca visuṃ visuṃ ṭhapetvā.
- Từ ‘no’ trong câu ‘Amhākañca no’ này chỉ là phân từ. Có sự khổ sở: đau khổ đã sanh khởi. Buồn rầu: không hoan hỷ. Tâm tư khổ não: người chứa đầy ưu phiền. theo từng gia đình: (sắp xếp) những người tộc Malla thành từng gia đình, tóm lại là những gia đình được chia theo từng khu vực sống trên cùng một con đường và trong cùng một con hẻm.
Nói về câu chuyện về du sĩ ngoại đạo Subhadda
- Subhaddo nāma paribbājakoti udiccabrāhmaṇamahāsālakulā pabbajito channaparibbājako. Kaṅkhādhammoti vimatidhammo. Kasmā panassa ajja evaṃ ahosīti? Tathāvidhaupanissayattā. Pubbe kira puññakaraṇakāle dve bhātaro ahesuṃ. Te ekatova sassaṃ akaṃsu. Tattha jeṭṭhakassa — “ekasmiṃ sasse navavāre aggasassadānaṃ mayā dātabban”ti ahosi. So vappakāle bījaggaṃ nāma datvā gabbhakāle kaniṭṭhena saddhiṃ mantesi — “gabbhakāle gabbhaṃ phāletvā dassāmā”ti kaniṭṭho — “taruṇasassaṃ nāsetukāmosī”ti āha. Jeṭṭho kaniṭṭhassa ananuvattanabhāvaṃ ñatvā khettaṃ vibhajitvā attano koṭṭhāsato gabbhaṃ phāletvā khīraṃ nīharitvā sappinavanītena saṃyojetvā adāsi, Puthukakāle puthukaṃ kāretvā adāsi, lāyanakāle lāyanaggaṃ, veṇikaraṇe[119] veṇaggaṃ, kalāpādīsu kalāpaggaṃ, khalaggaṃ, khalabhaṇḍaggaṃ[120], koṭṭhagganti evaṃ ekasasse navavāre aggadānaṃ adāsi. Kaniṭṭho pana uddharitvā adāsi.
- Có du sĩ ngoại đạo tên Subhadda: Có du sĩ ngoại đạo đã mặc y phục từ gia đình Udicca Bà-la-môn có thế lực. Có điều nghi ngờ: điều ngờ vực. Tại sao? Du sĩ ngoại đạo Subhadda đã suy nghĩ như vậy vào ngày hôm nay. – Bởi vì có nhân duyên (upanissaya). Kể rằng trước đây có hai anh em trong việc làm trọn phước báu. Họ đã cùng nhau gieo mạ. Ở đó, người anh nghĩ rằng – “Sẽ cúng dường mạ quý tốt nhất mỗi năm chín lần”. Vào mùa gieo mạ đã cúng dường hạt tốt nhất. Vào mùa cây lúa trổ đòng đòng đã tham khảo ý kiến của em trai: “Sẽ cắt những bông lúa non để cúng dường.” – Em trai đáp rằng: “Anh muốn cho những bông lúa non bị hỏng? – Sau khi người anh biết được em trai không đồng ý đã chia ruộng lúa rồi mổ bụng lúa từ phần của mình vắt lấy sữa hòa trộn với bơ lỏng và nước mía. Vào mùa (cây lúa) thành cốm làm cốm cúng dường. Vào mùa gặt đã cúng dường gạo tốt nhất. Vào lúc buộc sợi rơm cúng dường lúa tốt nhất. Vào lúc làm sợi rơm cúng dường lúa tốt nhất. Vào lúc làm thành bó v.v, cúng dường lúa tốt nhất … gạo tốt nhất vào lúc chở vào sân … gạo tốt nhất vào lúc đập lúa … gạo tốt nhất vào lúc ở trong kho … đã bố thí vật thí hạng nhất mỗi năm chín lần như vậy. Còn người em trai sau khi hoàn thành mùa lúa mới cúng dường.
Tesu jeṭṭhako aññāsikoṇḍaññatthero jāto. Bhagavā — “kassa nu kho ahaṃ paṭhamaṃ dhammaṃ deseyyan”ti olokento “aññāsikoṇḍañño ekasmiṃ sasse nava aggadānāni adāsi, imaṃ aggadhammaṃ tassa desessāmī”ti sabbapaṭhamaṃ dhammaṃ desesi. So aṭṭhārasahi brahmakoṭīhi saddhiṃ sotāpattiphale patiṭṭhāsi. Kaniṭṭho pana ohīyitvā pacchā dānassa dinnattā satthu parinibbānakāle evaṃ cintetvā satthāraṃ daṭṭhukāmo ahosi.
Trong hai anh em ấy, người anh trai đã được sanh ra là trưởng lão Aññāsikoṇḍañña. Đức Thế Tôn trong khi quan sát – “Ta nên thuyết Pháp cho ai trước đây?” – “Aññāsikoṇḍañña đã cúng dường vật thí hạng nhất mỗi năm chín lần, ta sẽ thuyết giảng Giáo Pháp tối thượng này cho vị ấy” nên mới thuyết giảng Giáo Pháp (cho vị ấy) trước nhất trong số tất cả (các vị đệ tử). Ngài an trú vào Thánh Quả Nhập Lưu cùng với mười tám koṭi Bà-la-môn. Còn người em trai chậm chạp đã suy nghĩ như vầy vào thời điểm bậc Đạo Sư vô dư Niết Bàn do bố thí vật thí sau nên đã có ước muốn gặp bậc Đạo Sư.
Mā tathāgataṃ[121] viheṭhesīti thero kira — “ete aññatitthiyā nāma attano gahaṇameva gaṇhanti, tassa vissajjāpanatthāya bhagavato bahuṃ bhāsamānassa kāyavācāvihesā bhavissati, pakatiyāpi ca kilantoyeva bhagavā”ti maññamāno evamāha. Paribbājako — “na me ayaṃ bhikkhu okāsaṃ karoti, atthikena pana anuvattitvā kāretabbo”ti theraṃ anuvattanto dutiyampi tatiyampi āha.
Chớ phiền nhiễu đức Như Lai: Kể rằng trưởng lão nghĩ rằng – “Gọi là du sĩ ngoại đạo ấy tất cả đều ích kỷ, khi đức Thế Tôn nói nhiều vì lợi ích giải quyết vấn đề ấy sẽ làm khó chịu cả thân và khẩu, bởi vì theo tự nhiên đức Thế Tôn cũng đang bị mệt” nên đã nói như vậy. Du sĩ ngoại đạo theo ý trưởng lão với ý nghĩ rằng: “Vị tỳ khưu này không cho cơ hội đến ta, với người đi tìm lợi ích nên đã hành xử thuận theo ý” nên đã nói 2-3 lần.
- Assosi khoti sāṇidvāre ṭhitassa bhāsato pakatisoteneva assosi, sutvā ca pana subhaddasseva atthāya mahatā ussāhena āgatattā alaṃ ānandātiādimāha. Tattha alanti paṭikkhepatthe nipāto. Aññāpekkhovāti aññātukāmova hutvā. Abbhaññiṃsūti[122] yathā tesaṃ paṭiññā, tatheva jāniṃsu. Idaṃ vuttaṃ hoti — sace nesaṃ sā paṭiññā niyyānikā, sabbe abbhaññaṃsu, no ce, na abbhaññaṃsu. Tasmā kiṃ tesaṃ paṭiññā niyyānikā, aniyyānikāti ayameva tassa pañhassa attho. Atha bhagavā tesaṃ aniyyānikabhāvakathanena atthābhāvato ceva[123] okāsābhāvato ca “alan”ti paṭikkhipitvā dhammameva desesi. Paṭhamayāmasmiñhi mallānaṃ dhammaṃ desetvā majjhimayāme subhaddassa, pacchimayāme bhikkhusaṅghaṃ ovaditvā balavapaccūsasamaye parinibbāyissāmicceva bhagavā āgato.
- Đã nghe: Khi trưởng lão đứng nói ở gần tấm bình phong thì đức Thế Tôn đã nghe bằng tai bình thường, và khi ấy (ngài) đã nói rằng: “Thôi đi, này Ānanda!” bởi vì đức Thế Tôn đến với sự nỗ lực lớn lao vì mục đích trợ giúp cho chính Subhadda. Ở đó từ alaṃ là phân từ, trong ý nghĩa phản đối. Với mong muốn để thấu hiểu: là người mong muốn để thấu hiểu. Đã thấu hiểu: đã thấu hiểu như các chủ học thuyết ấy theo sự thừa nhận. Ngài giải thích rằng: Nếu như sự thừa nhận ấy của các vị ấy đưa đến giải thoát, tất cả họ đều thấu hiểu; nếu không, họ không thấu hiểu. Vì thế, sự thừa nhận của các chủ học thuyết ấy là đưa đến giải thoát hay không đưa đến giải thoát? Nội dung của vấn đề chỉ có như vậy. Khi ấy đức Thế Tôn phản đối: “Thôi đi” do không có lợi ích và do không có cơ hội bởi việc nói đến sự thừa nhận của các chủ học thuyết không đưa đến giải thoát, (và) thuyết giảng Giáo Pháp. Đức Thế Tôn đã đến với ý muốn sẽ thuyết giảng Giáo Pháp đến những người tộc Malla vào canh đầu thuyết giảng Giáo Pháp cho Subhadda vào canh giữa, ban huấn từ đến hội chúng tỳ khưu vào canh cuối, và sẽ viên tịch vô dư Niết Bàn vào lúc trời hừng sáng.
- Samaṇopi tattha na upalabbhatīti paṭhamo sotāpannasamaṇopi tattha natthi, dutiyo sakadāgāmisamaṇopi, tatiyo anāgāmisamaṇopi, catuttho arahattasamaṇopi tattha natthīti attho. “Imasmiṃ kho”ti purimadesanāya aniyamato vatvā idāni attano sāsanaṃ niyamento āha. Suññā parappavādā samaṇebhīti catunnaṃ maggānaṃ atthāya āraddhavipassakehi catūhi, maggaṭṭhehi catūhi, phalaṭṭhehi catūhīti dvādasahi samaṇehi suññā parappavādā tucchā rittakā. Ime ca subhaddāti ime dvādasa bhikkhū. Sammā vihareyyunti ettha sotāpanno attano adhigataṭṭhānaṃ aññassa kathetvā taṃ sotāpannaṃ karonto sammā viharati nāma. Esa nayo sakadāgāmiādīsu. Sotāpattimaggaṭṭho aññampi sotāpattimaggaṭṭhaṃ karonto sammā viharati nāma. Esa nayo sesamaggaṭṭhesu. Sotāpattimaggatthāya āraddhavipassako attano paguṇaṃ kammaṭṭhānaṃ kathetvā aññampi sotāpattimaggatthāya āraddhavipassakaṃ karonto sammā viharati nāma. esa nayo sesamaggatthāya āraddhavipassakesu. idaṃ sandhāyāha — “sammā vihareyyun”ti. Asuñño loko arahantehi assāti naḷavanaṃ saravanaṃ viya nirantaro assa.
- Ở đó Sa-môn cũng không được tìm thấy: Ở đó không có Sa-môn thứ nhất là vị Nhập Lưu, Sa-môn thứ hai là vị Nhất Lai, Sa-môn thứ ba là vị Bất Lai, luôn cả Sa-môn thứ tư là vị A-ra-hán cũng không có trong Pháp và Luật ấy. Đức Thế Tôn đã nói theo cách không xác định nhờ sự giảng giải Giáo Pháp trước, bây giờ khi xác định Giáo Pháp của ngài mới nói rằng: “Trong Pháp và Luật này…” Các học thuyết của những kẻ khác không có các Sa-môn (có sự thấu hiểu): Học thuyết của những kẻ khác không có mười hai nhóm Sa-môn là vị bắt đầu minh sát vì lợi ích cho bốn Đạo thêm bốn nhóm, vị đã vững trú trong bốn nhóm Đạo, vị đã vững trú trong bốn nhóm Quả. Này Subhadda, nếu…: Tỳ khưu mười hai nhóm này. Có thể sống chân chánh: Vị Nhập Lưu nói với người khác về địa vị mà mình đã đạt được, trong khi thực hiện người ấy trở thành vị Nhập Lưu gọi là sống chân chánh. Vị Nhất Lai cũng áp dụng cách thức này. Vị vững trú trong Đạo Nhập Lưu, trong khi thực hiện người khác cũng được vững trú trong Đạo Nhập Lưu cũng gọi là sống chân chánh. Vị vững trú trong Đạo còn lại cũng cách thức này. Vị bắt đầu minh sát để đạt đến Đạo Nhập Lưu xác định đề mục thiền mà bản thân rành rẽ; trong khi thực hiện người khác cũng bắt đầu minh sát để đưa đến Đạo Nhập Lưu cũng gọi là sống chân chánh. Vị bắt đầu minh sát để đưa đến các Đạo còn lại cũng áp dụng cách thức này. Ngài muốn đề cập đến ý nghĩa này mới thuyết rằng: “Có thể sống chân chánh…” Thế gian sẽ không thiếu vắng các vị A-la-hán: Sẽ không thiếu vắng giống như rừng lau hay rừng sậy.
Ekūnatiṃso vayasāti vayena ekūnatiṃsavasso hutvā. Yaṃ pabbajinti ettha yanti nipātamattaṃ. Kiṃ kusalānuesīti “kiṃ kusalan”ti anuesanto pariyesanto. tattha — “kiṃ kusalan”ti sabbaññutaññāṇaṃ adhippetaṃ, taṃ gavesantoti attho. Yato ahanti yato paṭṭhāya ahaṃ pabbajito, etthantare samadhikāni paññāsa vassāni hontīti dasseti. Ñāyassa dhammassāti ariyamaggadhammassa. Padesavattīti padese vipassanāmagge pavattanto. Ito bahiddhāti mama sāsanato bahiddhā. Samaṇopi natthīti padesavattivipassakopi natthi, paṭhamasamaṇo sotāpannopi natthīti vuttaṃ hoti.
Với tuổi hai mươi chín: với độ tuổi hai mươi chín. Từ yaṃ trong cụm ‘yaṃ pabbajintī’ này chỉ là phân từ. có sự tầm cầu điều gì là tốt lành: Có sự ầm cầu “điều gì là tốt lành”. Ở đó, ngài muốn đề cập đến Trí Toàn Tri – “điều gì là tốt lành” trong câu “có sự tầm cầu điều gì là tốt lành” ấy, giải thích rằng: tầm cầu Trí Toàn Tri. Từ khi ta: Để chỉ ra rằng kể từ thời gian nào, trong khoảng thời gian này ta là vị xuất gia đã hơn năm mươi hạ lạp. Của Giáo Pháp là phương tiện đưa đến giải thoát: Pháp là Thánh Đạo. Vận hạnh ở lãnh địa: Vận hành ở lãnh địa là luôn cả đạo lộ của minh sát. Ở bên ngoài nơi này: Bên ngoài Giáo Pháp của Ta. Không có Sa-môn: Sa-môn vị thực hành minh sát, vị an trú ở đạo lộ của minh sát là không có. Ngài giải thích rằng: Sa-môn thứ nhất dầu là vị Nhập Lưu cũng không có.
Ye etthāti ye tumhe ettha sāsane satthārā sammukhā antevāsikābhisekena abhisittā, tesaṃ vo lābhā tesaṃ vo suladdhanti. Bāhirasamaye kira yaṃ antevāsikaṃ ācariyo — “imaṃ pabbājehi, imaṃ ovada, imaṃ anusāsā”ti vadati, so tena attano ṭhāne ṭhapito hoti, tasmā tassa — “imaṃ pabbajehi, imaṃ ovada, imaṃ anusāsā”ti ime lābhā honti. Therampi subhaddo tameva bāhirasamayaṃ gahetvā evamāha.
Những vị đã được tấn phong với lễ tấn phong trở thành đệ tử trong Giáo Pháp này trước mặt bậc Đạo Sư: những vị nào được bậc Đạo Sư tấn phong trở thành đệ tử trong Giáo Pháp này ở trước mặt bậc Đạo Sư là lợi đắc của những vị ấy, là điều lợi ích của những vị ấy. Được biết học thuyết bên ngoài thì vị thầy nói các đệ tử người nào đó “hãy xuất gia người này, hãy ban lời giáo huấn người này, hãy chỉ bảo người này” người đệ tử ấy được thầy đặt vào vị trí chính mình, vì thế những điều này “hãy xuất gia người này, hãy ban lời giáo huấn người này, hãy chỉ bảo người này” là lợi đắc của các đệ tử ấy. Du sĩ Subhadda đã theo chính học thuyết bên ngoài ấy nên mới nói rằng: “Luôn cả vị trưởng lão như vậy”
Alattha khoti kathaṃ alattha? Thero kira naṃ ekamantaṃ netvā udakatumbato pānīyena sīsaṃ temetvā tacapañcakakammaṭṭhānaṃ kathetvā kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādāpetvā saraṇāni datvā bhagavato santikaṃ ānesi. Bhagavā upasampādetvā kammaṭṭhānaṃ ācikkhi. So taṃ gahetvā uyyānassa ekamante caṅkamaṃ adhiṭṭhāya ghaṭento vāyamanto vipassanaṃ vaḍḍhento saha paṭisambhidāhi arahattaṃ patvā āgamma bhagavantaṃ vanditvā nisīdi. Taṃ sandhāya — “acirūpasampanno kho panā”tiādi vuttaṃ.
Đã đạt được (sự tu lên bậc trên): đã đạt được như thế nào? Được biết trưởng lão dẫn Subhadda đến một nơi, sau khi lấy nước từ cái chum đổ lên đầu đã nói đến đề mục thiền định với năm yếu tố cấu thành cơ thể kết thúc bởi da rồi cạo bỏ râu tóc, cho khoác lên các tấm vải màu ca-sa (và) cho nương nhờ, dẫn đến gần chỗ đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn đã cho (vị ấy) tu lên bậc trên, và nói về đề mục thiền. Vị ấy đã nhận lấy đề mục thiền phát nguyện đi kinh hành ở một bên ở khu vườn thượng uyển, trong khi cố gắng, trong khi tinh tấn thanh lọc minh sát đã chứng đắc quả vị A-ra-hán cùng với tuệ phân tích, đi đến sau khi đảnh lễ đức Thế Tôn đã ngồi xuống. Ngài muốn đề cập đến điều đó nên mới nói rằng: “Và khi đã được tu lên bậc trên không bao lâu…”
So ca bhagavato pacchimo sakkhisāvako ahosīti saṅgītikārakānaṃ vacanaṃ. tattha yo bhagavati dharamāne pabbajitvā aparabhāge upasampadaṃ labhitvā kammaṭṭhānaṃ gahetvā arahattaṃ pāpuṇāti, upasampadampi vā dharamāneyeva labhitvā aparabhāge kammaṭṭhānaṃ gahetvā arahattaṃ pāpuṇāti, kammaṭṭhānampi vā dharamāneyeva gahetvā aparabhāge arahattameva pāpuṇāti, sabbopi so pacchimo sakkhisāvako. Ayaṃ pana dharamāneyeva bhagavati pabbajito ca upasampanno ca kammaṭṭhānañca gahetvā arahattaṃ pattoti.
Và vị ấy đã là đệ tử trực tiếp cuối cùng của đức Thế Tôn: Lời nói của các vị kết tập rằng: Ở đó, vị nào đã xuất gia khi đức Thế Tôn còn tại thế, sau đó đạt được sự tu lên bậc trên đã học tập đề mục thiền chứng đắc quả vị A-ra-hán, hoặc được tu lên bậc trên khi đức Thế còn tại thế sau đó học tập đề mục thiền chứng đắc quả vị A-ra-hán, hoặc học tập đề mục thiền khi đức Thế Tôn còn tại thế sau đó chứng đắc quả vị A-ra-hán thì những vị ấy đều được gọi là đệ tử trực tiếp cuối cùng. Còn vị này được xuất gia, được tu lên bậc trên, và được học tập đề mục thiền chứng đắc quả vị A-ra-hán khi đức Thế Tôn vẫn còn tại thế.
Giải Thích Tụng Phẩm Thứ Năm được kết thúc
Lời nói cuối cùng của đức Như Lai
- Idāni bhikkhusaṅghassa ovādaṃ ārabhi, taṃ dassetuṃ atha kho bhagavātiādi vuttaṃ. Tattha desito paññattoti dhammopi desito ceva paññatto ca, vinayopi desito ceva paññatto ca. Paññatto ca nāma ṭhapito paṭṭhapitoti attho. So vo mamaccayenāti so dhammavinayo tumhākaṃ mamaccayena satthā. Mayā hi vo ṭhiteneva — “idaṃ lahukaṃ, idaṃ garukaṃ, idaṃ satekicchaṃ, idaṃ atekicchaṃ, idaṃ lokavajjaṃ, idaṃ paṇṇattivajjaṃ, ayaṃ āpatti puggalassa santike vuṭṭhāti, ayaṃ āpatti gaṇassa santike vuṭṭhāti, ayaṃ saṅghassa santike vuṭṭhātī”ti sattāpattikkhandhavasena otiṇṇe vatthusmiṃ sakhandhakaparivāro ubhatovibhaṅgo vinayo nāma desito, taṃ sakalampi vinayapiṭakaṃ mayi parinibbute tumhākaṃ satthukiccaṃ sādhessati.
- Bây giờ bắt đầu giáo huấn cho hội chúng tỳ khưu, để thuyết điều đó mới nói rằng: “Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo…” Ở đó, đã được chỉ bảo, đã được quy định: Pháp đã được chỉ bảo và đã được quy định, luôn cả Luật cũng đã được chỉ bảo và đã được quy định, giải thích rằng: gọi là đã được quy định bao gồm đã được diễn đạt, đã được thiết lập. Pháp và Luật ấy, sau khi Ta tịch diệt, là bậc Đạo Sư của các ngươi: Pháp và Luật ấy sẽ là bậc Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta tịch diệt. Thật vậy, ta vẫn tồn tại, thuyết giảng Ubhatovibhaṅga Vinaya cùng với bộ Hợp Phần (Khandhaka), bộ Tập Yếu (Parivāra) cho các ngươi về sự việc được sắp xếp về phương diện bảy nhóm tội như sau “Đây là tội nhẹ, đây là tội nặng, đây là tội có thể sửa chữa được, đây là tội không thể sửa chữa được, đây là tội lỗi đối với thế gian, đây là tội lỗi do sự quy định, đây tội lỗi được thoát khỏi trong sự hiện diện của cá nhân, đây tội lỗi được thoát khỏi trong sự hiện diện của nhóm, đây tội lỗi được thoát khỏi trong sự hiện diện của hội chúng,” Ngay cả toàn bộ Tạng Luật khi ta viên tịch Niết Bàn cũng sẽ (thay thế ta) làm tròn trách nhiệm của bậc Đạo Sư đối với các ngươi.
Ṭhiteneva ca mayā — “ime cattāro satipaṭṭhānā, cattāro sammappadhānā, cattāro iddhipādā, pañca indriyāni, pañca balāni, satta bojjhaṅgā, ariyo aṭṭhaṅgiko maggo”ti tena tenākārena ime dhamme vibhajitvā vibhajitvā suttantapiṭakaṃ desitaṃ, taṃ sakalampi suttantapiṭakaṃ mayi parinibbute tumhākaṃ satthukiccaṃ sādhessati. Ṭhiteneva ca mayā — “ime pañcakkhandhā, dvādasāyatanāni, aṭṭhārasa dhātuyo, cattāri saccāni, bāvīsatindriyāni, nava hetū, cattāro āhārā, satta phassā, satta vedanā, satta saññā, satta sañcetanā, satta cittāni. Tatrāpi ‘ettakā dhammā kāmāvacarā, ettakā rūpāvacarā, ettakā arūpāvacarā, ettakā pariyāpannā, ettakā apariyāpannā, ettakā lokiyā, ettakā lokuttarā’ti” ime dhamme vibhajitvā vibhajitvā catuvīsati-samantapaṭṭhānānantanaya-mahāpaṭṭhānapaṭimaṇḍitaṃ abhidhammapiṭakaṃ desitaṃ, taṃ sakalampi abhidhammapiṭakaṃ mayi parinibbute tumhākaṃ satthukiccaṃ sādhessati.
Và ta vẫn tồn tại – sau khi phân loại, phân tích các Pháp này, thuyết giảng Tạng Kinh với biểu hiện đó như sau: “Đây là bốn sự thiết lập niệm, bốn chánh cần, bốn nền tảng của thần thông, năm quyền, năm lực, bảy yếu tố đưa đến giác ngộ, đạo lộ thánh thiện tám chi phần,” ngay cả toàn bộ Tạng Kinh khi ta viên tịch Niết Bàn cũng sẽ (thay thế ta) làm tròn trách nhiệm của bậc Đạo Sư đối với các ngươi. Và ta vẫn tồn tại – sau khi phân loại, phân tích các Pháp này là năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới, bốn chân lý, hai mươi hai quyền, chín nhân, bốn loại vật thực, bảy xúc, bảy thọ, bảy tưởng, bảy ý hành (sañcetanā), bảy thứ tâm. Luôn cả trong những tâm ấy ‘chỉ những pháp này là Dục giới, chừng này là Sắc giới, chừng này là Vô sắc giới, chừng này là pháp hệ phược, chừng này là pháp phi hệ phược, chừng này là Hiệp Thế, chừng này là Siêu Thế,” rồi thuyết giảng Tạng Vi Diệu Pháp là toàn bộ hệ thống hai mươi bốn duyên sanh khởi được tô điểm với Mahāpaṭṭhāna, ngay cả toàn bộ Tạng Vi Diệu Pháp khi ta viên tịch Niết Bàn cũng sẽ (thay thế ta) làm tròn trách nhiệm của bậc Đạo Sư đối với các ngươi.
Iti sabbampetaṃ abhisambodhito yāva parinibbānā pañcacattālīsavassāni bhāsitaṃ lapitaṃ — “tīṇi piṭakāni, pañca nikāyā, navaṅgāni, caturāsīti dhammakkhandhasahassānī”ti evaṃ mahāpabhedaṃ hoti. Iti imāni caturāsīti dhammakkhandhasahassāni tiṭṭhanti, ahaṃ ekova parinibbāyāmi. Ahañca kho pana dāni ekakova ovadāmi anusāsāmi, mayi parinibbute imāni caturāsīti dhammakkhandhasahassāni tumhe ovadissanti anusāsissantīti evaṃ bhagavā bahūni kāraṇāni dassento — “so vo mamaccayena satthā”ti ovaditvā puna anāgate cārittaṃ dassento yathā kho panātiādimāha.
Hơn nữa, toàn bộ Phật ngôn đã được ta thuyết giảng và nói đến suốt bốn mươi lăm năm kể từ khi đắc chứng quả vị giác ngộ tối thượng cho đến lúc vô dư Niết Bàn có nhiều thể loại như vậy là – “ba Tạng, năm Nikāya, chín thể loại, tám mươi bốn ngàn Pháp Uẩn”. Tám mươi bốn ngàn Pháp Uẩn này tồn tại như thế, ta sẽ đơn độc vô dư Niết Bàn. Đức Thế Tôn khi thuyết giảng có nhiều nguyên nhân như vậy rằng: Hơn nữa, trong lúc này đây ta còn đơn độc giáo huấn và giảng dạy, nhưng khi ta vô dư Niết Bàn rồi, tám mươi bốn ngàn Pháp Uẩn này sẽ giáo huấn và giảng dạy các ngươi, – đã giáo huấn “Pháp và Luật ấy sẽ là bậc Đạo Sư của các ngươi khi ta viên tịch Niết Bàn”, trong khi thuyết lập lại cuộc du hành trong thời vị lai mới thuyết rằng: “Hơn nữa, này Ānanda…”
Tattha samudācarantīti kathenti voharanti. Nāmena vā gottena vāti navakāti avatvā “tissa, nāgā”ti evaṃ nāmena vā, “kassapa, gotamā”ti evaṃ gottena vā, “āvuso tissa, āvuso kassapā”ti evaṃ āvusovādena vā samudācaritabbo. Bhanteti vā āyasmāti vāti bhante tissa, āyasmā tissāti evaṃ samudācaritabbo. Samūhanatūti ākaṅkhamāno samūhanatu, yadi icchati samūhaneyyāti attho. Kasmā pana samūhanathāti ekaṃseneva avatvā vikappavacaneneva ṭhapesīti? Mahākassapassa balaṃ diṭṭhattā. Passati hi bhagavā — “samūhanathāti vuttepi saṅgītikāle kassapo na samūhanissatī”ti. Tasmā vikappeneva ṭhapesi.
Ở đó, xưng hô với nhau : nói, xưng hô với nhau. bằng tên, hoặc bằng họ: vị tỳ khưu trượng nên xưng hô với vị kém thâm niên bằng tên như vầy “Tissa, Nāga” hoặc bằng họ như vầy “Kassapa, Gotama” hoặc bằng từ āvuso như vầy “āvuso Tissa, āvuso Kassapa”. Nên xưng hô với vị tỳ khưu trưởng thượng bằng từ ‘bhante’ hay ‘đại đức’: Nên xưng hô như vầy “bhante Tissa, đại đức Tissa”. (Nếu như) hội chúng trong khi muốn hãy hủy bỏ: Trong khi muốn hãy hủy bỏ. Giải thích rằng: giả sử mong muốn có thể loại bỏ. Tại sao đức Thế Tôn không nói một cách dứt khoát ‘hãy hủy bỏ’ mà nói bằng lời nói lựa chọn. Bởi vì nhìn thấy sức mạnh của trưởng lão Mahākassapa. Thật vậy, đức Thế Tôn nhìn thấy rằng – “Khi nói rằng: hãy hủy bỏ, trưởng lão Mahākassapa sẽ không hủy bỏ vào thời kỳ kết tập”. Do đó, mới nói bằng chính lời nói lựa chọn.
Tattha — “ekacce therā evamāhaṃsu — cattāri pārājikāni ṭhapetvā avasesāni khuddānukhuddakānī”tiādinā nayena pañcasatikasaṅgītiyaṃ khuddānukhuddakakathā āgatāva vinicchayo pettha samantapāsādikāyaṃ vutto. Keci panāhu — “bhante, nāgasena, katamaṃ khuddakaṃ, katamaṃ anukhuddakan”ti milindena raññā pucchito. “Dukkaṭaṃ, mahārāja, khuddakaṃ, dubbhāsitaṃ anukhuddakan”ti vuttattā nāgasenatthero khuddānukhuddakaṃ jānāti. Mahākassapo pana taṃ ajānanto —
Các điều học nhỏ nhặt và tiểu tiết đến trong kỳ kết tập pañcasatika (kỳ kết tập Kinh điển lần thứ nhất) theo phương thức sau – “Trong số các vị trưởng lão ấy – một số vị trưởng lão đã nói như vầy – Giữ lại bốn điều bất cộng trụ, các điều còn lại là các điều học nhỏ nhặt và ít quan trọng”, hơn nữa việc phân đoán những điều học nhỏ nhặt và ít quan trọng này đã nói trong Chú Giải Samantapāsādikā. Một số nói rằng – “Thưa ngài Nāgasena các điều học nhỏ nhặt ấy là các điều nào? Các điều học tiểu tiết là các điều nào?” do bị hỏi bởi đức vua Milinda. Trưởng lão Nāgasena biết được các điều học nhỏ nhặt và tiểu tiết đã đáp rằng: “Tâu đại vương, điều học nhỏ nhặt là tội dukkaṭa (đã làm sai trái). Điều học tiểu tiết là tội đã nói sai trái.” Còn trưởng lão Mahākassapa khi trong biết điều đó –
“Suṇātu me, āvuso, saṅgho santamhākaṃ sikkhāpadāni gihigatāni, gihinopi jānanti — “Idaṃ vo samaṇānaṃ sakyaputtiyānaṃ kappati, idaṃ vo na kappatī”ti. Sace mayaṃ khuddānukhuddakāni sikkhāpadāni samūhanissāma, bhavissanti vattāro — “Dhūmakālikaṃ samaṇena gotamena sāvakānaṃ sikkhāpadaṃ paññattaṃ, yāva nesaṃ satthā aṭṭhāsi, tāvime sikkhāpadesu sikkhiṃsu, yato imesaṃ satthā parinibbuto, na dānime sikkhāpadesu sikkhantī”ti. Yadi saṅghassa pattakallaṃ, saṅgho apaññattaṃ na paññapeyya, paññattaṃ na samucchindeyya, yathāpaññattesu sikkhāpadesu samādāya vatteyya. Esā ñattīti –
“Này các sư đệ, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Có các điều học của chúng ta có liên quan đến hàng tại gia và hàng tại gia cũng biết rằng: ‘Điều này là được phép đối với các Sa-môn Thích tử, điều này là không được phép.’ Nếu chúng ta bỏ đi các điều học nhỏ nhặt và ít quan trọng, sẽ có những người nói rằng: ‘Các điều học đã được Sa-môn Gotama quy định cho các đệ tử đến lúc người được hỏa táng. Khi nào bậc Đạo Sư của họ còn tồn tại khi ấy họ còn học tập các điều học. Bởi vì bậc Đạo Sư của họ đã Vô Dư Niết Bàn nên giờ đây họ không còn học tập các điều học nữa.’ Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng không nên quy định thêm điều chưa được quy định, không nên bỏ đi điều đã được quy định, nên thọ trì và thực hành các điều học theo như đã được quy định. Đây là lời đề nghị.
Kammavācaṃ sāvesīti. Na taṃ evaṃ gahetabbaṃ. Nāgasenatthero hi — “paravādino okāso mā ahosī”ti evamāha. mahākassapatthero “khuddānukhuddakāpattiṃ na samūhanissāmī”ti kammavācaṃ sāvesi.
Ngài tuyên bố tuyên ngôn hành sự. Điều đó không nên chấp như vậy. Bởi vì, trưởng lão Nāgasena đã nói như vầy “không có chỗ cho phe đối nghịch”. Trưởng lão Mahākassapa tuyên bố tuyên ngôn hành sự “ta sẽ không bỏ đi các điều học nhỏ nhặt và ít quan trọng”.
Brahmadaṇḍakathāpi saṅgītiyaṃ āgatattāsamantapāsādikāyaṃ vinicchitā.
Luôn cả câu chuyện Bà-la-môn Daṇḍa ngài cũng đã lý giải trong Chú Giải Tạng Luật là Samantapāsādikā do đã đến trong kỳ kết tập kinh điển.
Kaṅkhāti dveḷhakaṃ. Vimatīti vinicchituṃ asamatthatā, buddho nu kho, na buddho nu kho, dhammo nu kho, na dhammo nu kho, saṅgho nu kho, na saṅgho nu kho, maggo nu kho, na maggo nu kho, paṭipadā nu kho, na paṭipadā nu khoti yassa saṃsayo uppajjeyya, taṃ vo vadāmi “pucchatha bhikkhave”ti ayamettha saṅkhepattho. Satthugāravenāpi na puccheyyāthāti mayaṃ satthusantike pabbajimha, cattāro paccayāpi no satthu santakāva, te mayaṃ ettakaṃ kālaṃ kaṅkhaṃ akatvā na arahāma ajja pacchimakāle kaṅkhaṃ kātunti sace evaṃ satthari gāravena na pucchatha. Sahāyakopi bhikkhave sahāyakassa ārocetūti tumhākaṃ yo yassa bhikkhuno sandiṭṭho sambhatto, so tassa ārocetu, ahaṃ etassa bhikkhussa kathessāmi, tassa kathaṃ sutvā sabbe nikkaṅkhā bhavissathāti dasseti.
Sự nghi ngờ: Con đường hai ngã. Sự nghi vấn: không thể phân đoán được; Là đức Phật phải không? Không phải là đức Phật ư? Là đức Pháp phải không? Không phải là đức Pháp ư? Là đức Tăng phải không? Không phải là đức Tăng ư? Là đạo lộ phải không? Không phải là đạo lộ ư? Là lối thực hành phải không? Không phải là lối thực hành ư? Ta sẽ nói điều đó cho các ngươi “này chư tỳ khưu hãy hỏi” ở đây, điều này là phần tóm tắt. Không thể hỏi bởi vì tôn kính bậc Đạo Sư: nếu các ngươi không hỏi bởi sự tôn kính bậc Đạo Sư như vầy rằng: các ngươi đã xuất gia gần bên bậc Đạo Sư, luôn cả bốn món vật dụng đều thuộc về bậc Đạo Sư của chúng ta, vào ngày hôm nay không nên bày tỏ sự nghi ngờ mãi chừng ấy, và cũng không nên bày tỏ sự nghi ngờ về sau. Này các tỳ khưu, thế thì hãy để bạn đồng tu nói với bạn đồng tu vậy: ngài thuyết rằng: trong số các ngươi, người nào gặp gỡ vị tỳ khưu nào, người ấy hãy nói với vị tỳ khưu ấy rằng: Tôi sẽ nói cùng một vị tỳ khưu, này các vị lắng nghe lời nói vị tỳ khưu ấy thì tất cả sẽ không còn nghi ngờ.
Evaṃ pasannoti evaṃ saddahāmi ahanti attho. Ñāṇamevāti nikkaṅkhabhāvapaccakkhakaraṇañāṇaṃyeva, ettha tathāgatassa na saddhāmattanti attho. Imesañhi, ānandāti imesaṃ antosāṇiyaṃ nisinnānaṃ pañcannaṃ bhikkhusatānaṃ. Yo pacchimakoti yo guṇavasena pacchimako. Ānandattheraṃyeva sandhāyāha.
Con đã được tịnh tín: Con tịnh tín như vậy. Chính là trí: Thực hiện tính chất người không còn nghi ngờ được sáng tỏ, chính trí ấy của Như Lai trong câu này, không chỉ riêng niềm tin. Này Ānanda (trong số năm trăm vị tỳ khưu) này: Trong số năm trăm vị tỳ khưu ngồi ở bên trong bức màn này. Vị tỳ khưu cuối cùng: Vị tỳ khưu cuối cùng về phương diện phẩm hạnh (đã là bậc Nhập Lưu). Ngài muốn đề cập đến chính trưởng lão Ānanda.
- Appamādena sampādethāti satiavippavāsena sabbakiccāni sampādeyyātha. Iti bhagavā parinibbānamañce nipanno pañcacattālīsa vassāni dinnaṃ ovādaṃ sabbaṃ ekasmiṃ appamādapadeyeva pakkhipitvā adāsi. Ayaṃ tathāgatassa pacchimā vācāti Idaṃ pana saṅgītikārakānaṃ vacanaṃ.
- Các ngươi hãy kiên trì với sự không xao lãng: Hãy làm mọi phận được tròn đủ bởi sự không xao lãng từ sự ghi nhớ. Như thế, khi đức Thế Tôn nằm xuống ở chiếc giường viên tịch Niết Bàn đã ban lời giáo huấn được tuyên bố suốt bốn mươi lăm năm được tóm gọn trong câu là (sống) hoàn toàn không xao lãng. Đây là lời nói cuối cùng của đức Như Lai. Hơn nữa, lời này cũng là lời nói của các vị kết tập Kinh điển.
Giảng về sự viên tịch Niết Bàn của đức Thế Tôn
- Ito paraṃ yaṃ parinibbānaparikammaṃ katvā bhagavā parinibbuto, taṃ dassetuṃ atha kho bhagavā paṭhamaṃ jhānantiādi vuttaṃ. Tattha parinibbuto bhanteti nirodhaṃ samāpannassa bhagavato assāsapassāsānaṃ abhāvaṃ disvā pucchati. Na āvusoti thero kathaṃ jānāti? Thero kira satthārā saddhiṃyeva taṃ taṃ samāpattiṃ samāpajjanto yāva nevasaññānāsaññāyatanā vuṭṭhānaṃ, tāva gantvā idāni bhagavā nirodhaṃ samāpanno, antonirodhe ca kālaṅkiriyā nāma natthīti jānāti.
- Tiếp theo đó, khi thuyết giảng điều đức Thế Tôn thực hiện đề mục parikamma trong lúc viên tịch nên mới nói rằng: “Khi ấy, đức Thế Tôn đã thể nhập thiền thứ nhất” Ở đó, thưa bhante Anuruddha (có phải đức Thế Tôn đã viên tịch Niết Bàn?): Sau khi (ngài Ānanda) nhìn thấy đức Thế Tôn thể nhập thiền diệt không có sự thở ra sự thở vào mới hỏi rằng: Có phải đức Thế Tôn đã viên tịch Niết Bàn? Ngài Anuruddha đáp rằng: vẫn chưa, này āvuso, trưởng lão biết chuyện? Được biết trưởng lão đã nhập vào sự thể nhập ấy cùng với bậc Đạo Sư mới biết rằng: lúc nào đức Thế Tôn xuất khỏi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, thì lúc đó ngài đã thể nhập thiền diệt, gọi là viên tịch bên trong thể nhập thiền diệt (điều đó) là không có.
Atha kho bhagavā saññāvedayitanirodhasamāpattiyā vuṭṭhahitvā nevasaññānāsaññāyatanaṃ samāpajji … pe … tatiyajjhānā vuṭṭhahitvā catutthajjhānaṃ samāpajjīti ettha bhagavā catuvīsatiyā ṭhānesu paṭhamajjhānaṃ samāpajji, terasasu ṭhānesu dutiyajjhānaṃ, tathā tatiyajjhānaṃ, pannarasasu ṭhānesu catutthajjhānaṃ samāpajji. Kathaṃ? Dasasu asubhesu, dvattiṃsākāre aṭṭhasu kasiṇesu, mettākaruṇāmuditāsu, ānāpāne, paricchedākāseti imesu tāva catuvīsatiyā ṭhānesu paṭhamajjhānaṃ samāpajji. Ṭhapetvā pana dvattiṃsākārañca dasa asubhāni ca sesesu terasasu dutiyajjhānaṃ, tesuyeva ca tatiyajjhānaṃ samāpajji. Aṭṭhasu pana kasiṇesu, upekkhābrahmavihāre, ānāpāne, paricchedākāse, catūsu arūpesūti imesu pannarasasu ṭhānesu catutthajjhānaṃ samāpajji. Ayampi ca saṅkhepakathāva. Nibbānapuraṃ pavisanto pana bhagavā dhammassāmī sabbāpi catuvīsatikoṭisatasahassasaṅkhyā samāpattiyo pavisitvā videsaṃ gacchanto ñātijanaṃ āliṅgetvā viya sabbasamāpattisukhaṃ anubhavitvā paviṭṭho.
Trong Chánh Văn Pāḷī: Khi ấy, đức Thế Tôn, sau khi xuất ra khỏi Diệt Tưởng Thọ, đã thể nhập Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ …nt… Sau khi xuất ra khỏi thiền thứ ba, Ngài đã thể nhập thiền thứ tư. Ở đây, đức Thế Tôn sau khi nhập thiền thứ nhất ở 24 vị trí, thiền thứ hai ở 13 vị trí, thiền thứ ba tương tự, nhập thiền thứ tư ở 15 vị trí. Đã thể nhập như thế nào? Đã thể nhập thiền thứ nhất ở 24 vị trí có 10 bất tịnh, 32 biểu hiện, 8 biến xứ kasiṇa, từ, bi, hỷ, xả, niệm hơi thở vào và niệm hơi thở vô, giao giới hư không v.v. Nhưng loại trừ 32 biểu hiện và 10 đề mục bất tịnh thể; nhập thiền thứ hai ở 13 vị trí còn lại và thể nhập tam thiền ở 13 vị trí ấy tương tự. Hơn nữa, thể nhập thiền thứ tư ở 15 vị trí này là 8 biến xứ kasiṇa, xả Phạm trú, niệm hơi thở vào và niệm hơi thở vô, giao giới hư không, bốn Vô sắc giới. Và đây chỉ được nói cách vắn tắt. Hơn nữa, đức Thế Tôn là bậc Pháp Chủ, ngài đi vào thành phố là Niết Bàn, ngài thể nhập toàn bộ tổng cộng hai triệu bốn trăm ngàn koṭi rồi thể nhập thiền để thọ hưởng sự an lạc trong tất cả sự thể nhập giống như người đi ra nước ngoài được ôm lấy thân quyến.
Catutthajjhānā vuṭṭhahitvā samanantarā bhagavā parinibbāyīti ettha jhānasamanantaraṃ, paccavekkhaṇāsamanantaranti dve samanantarāni. Tattha jhānā vuṭṭhāya bhavaṅgaṃ otiṇṇassa tattheva parinibbānaṃ jhānasamanantaraṃ nāma. Jhānā vuṭṭhahitvā puna jhānaṅgāni paccavekkhitvā bhavaṅgaṃ otiṇṇassa tattheva parinibbānaṃ paccavekkhaṇāsamanantaraṃ nāma. Imānipi dve samanantarāneva. Bhagavā pana jhānaṃ samāpajjitvā jhānā vuṭṭhāya jhānaṅgāni paccavekkhitvā bhavaṅgacittena abyākatena dukkhasaccena parinibbāyi. Ye hi keci buddhā vā paccekabuddhā vā ariyasāvakā vā antamaso kunthakipillikaṃ upādāya sabbe bhavaṅgacitteneva abyākatena dukkhasaccena kālaṅkarontīti. Mahābhūmicālādīni vuttanayānevāti.
Đức Thế Tôn sau khi xuất khỏi thiền thứ tư, liền sau đó ngài đã viên tịch Niết Bàn: cả hai lần sau đó là theo tuần tự của thiền, theo tuần tự của trí quán xét lại. Ở đó, sau khi xuất khỏi thiền đã chìm vào hộ kiếp rồi viên tịch Niết Bàn trong giai đoạn đó gọi là giai đoạn thiền, ở giai đoạn thứ hai đó. Đức Thế Tôn sau khi xuất khỏi thiền quán xét lại chi thiền, chìm vào hộ kiếp rồi viên tịch Niết Bàn trong chính giai đoạn ấy gọi là giai đoạn trí quán xét lại. Luôn cả hai điều này cũng đều gọi là ở giai đoạn; Hơn nữa, đức Thế Tôn sau khi thể nhập ngài đã xuất thiền, quán xét chi thiền rồi viên tịch Niết Bàn bằng tâm hộ kiếp, là tâm vô ký, là chân lý về khổ. Bất kỳ một chúng sanh nào cho dù đức Phật hay vị Thánh đệ tử, thấp nhất như loài kiến đen hay kiến vàng, đều chết bằng tâm hộ kiếp thuộc tâm tố, tất cả đều là chân lý về khổ. Vấn đề về quả địa cầu rúng động v.v, có cách thức đã được trình bày.
- Bhūtāti sattā. Appaṭipuggaloti paṭibhāgapuggalavirahito. Balappattoti dasavidhañāṇabalaṃ patto.
- Bhūta: tất cả chúng sanh. Vị không người đối xứng ở thế gian: không có ai có thể sánh được. Vị đã đạt được (mười) năng lực: vị đã đạt được mười trí lực.
- Uppādavayadhamminoti uppādavayasabhāvā. Tesaṃ vūpasamoti tesaṃ saṅkhārānaṃ vūpasamo, asaṅkhataṃ nibbānameva sukhanti attho.
- Có pháp sanh và diệt: có bản chất sanh và diệt. Sự tĩnh lặng của chúng: sự an tịnh của các hành ấy cũng là Niết Bàn không có duyên tạo tác là an lạc.
- Nāhu assāsapassāsoti na jāto assāsapassāso. Anejoti taṇhāsaṅkhātāya ejāya abhāvena anejo. Santimārabbhāti anupādisesaṃ nibbānaṃ ārabbha paṭicca sandhāya. Yaṃ kālamakarīti yo kālaṃ akari. Idaṃ vuttaṃ hoti — “āvuso, yo mama satthā buddhamuni santiṃ gamissāmīti, santiṃ ārabbha kālamakari, tassa ṭhitacittassa tādino idāni assāsapassāso na jāto, natthi, nappavattatī”ti.[124]
- Đã không còn hơi thở ra vào: Không còn hơi thở vào và hơi thở ra. Không lay động: gọi là ‘không lay động’ bởi vì không có phiền não làm phương tiện lay động, tức là tham ái. Hướng về an tịnh: Hướng đến do đề cập đến vô dư Niết Bàn. Đã thực hiện thời điểm: Vị nào đã thực hiện thời điểm. Ngài giải thích rằng – “Này āvuso, đức Phật bậc Hiền Trí là Đạo Sư nào của chúng ta, hướng đến an tịnh đã thực hiện thời điểm, bây giờ bậc Hiền Trí vị có tâm vững chắc như thế ấy không còn hơi thở ra vào, không có, không vận hành.”
Asallīnenāti alīnena asaṅkuṭitena suvikasiteneva cittena. Vedanaṃ ajjhavāsayīti vedanaṃ adhivāsesi, na vedanānuvattī hutvā ito cito ca samparivatti. Vimokkhoti kenaci dhammena anāvaraṇavimokkho sabbaso apaññattibhāvūpagamo pajjotanibbānasadiso jāto.
Không thối chuyển : với tâm không thối chuyển, phấn khởi một cách tốt đẹp. Đã chấp nhận cảm thọ: Đã kìm nén cảm thọ của mình. tức là không cảm thấy khó chịu, vận hành do mãnh lực của cảm thọ. Sự giải thoát: Sự giải thoát không bị trở ngại bởi bất kỳ pháp nào đạt đến bản thể không có quy định ở mọi khía cạnh tựa như sự dập tắt của ngọn đèn đang cháy.
- Tadāsīti “saha parinibbānā mahābhūmicālo”ti evaṃ heṭṭhā vuttaṃ bhūmicālameva sandhāyāha. Tañhi lomahaṃsanañca bhiṃsanakañca āsi. Sabbākāravarūpeteti sabbavarakāraṇūpete.
- Khi đó: đề cập đến mặt đất rung động đã được nói sau như vầy “đại địa cầu rung chuyển cùng với sự viên tịch”. Thật vậy, sự rung chuyển của đại địa cầu khiến lông dựng đứng và mặt lộ ra vẻ sợ hãi. Gắn liền với mọi biểu hiện nổi bậc: đạt đến với mọi nguyên nhân cao quý.
- Avītarāgāti puthujjanā ceva sotāpannasakadāgāmino ca. Tesañhi domanassaṃ appahīnaṃ. Tasmā tepi bāhā paggayha kandanti. ubhopi hatthe sīse ṭhapetvā rodantīti sabbaṃ purimanayeneva veditabbaṃ.
- Chưa xa lìa luyến ái: Phàm nhân, vị Nhập Lưu và vị Bất Lai. Thật vậy, những vị ấy vẫn chưa dứt bỏ ưu phiền. Vì thế, những vị ấy giơ hai cánh tay lên và than khóc, đặt xuống hai tay trên đầu than khóc. Toàn bộ vấn đề nên biết theo chính cách thức ấy.
- Ujjhāyantīti “ayyā attanāpi adhivāsetuṃ na sakkonti, sesajanaṃ kathaṃ samassāsessantī”ti vadantiyo ujjhāyanti. Kathaṃbhūtā pana bhante āyasmā anuruddho devatā manasikarotīti devatā, bhante, kathaṃbhūtā āyasmā anuruddho sallakkheti, kiṃ tā satthu parinibbānaṃ adhivāsentīti?
- Đang phàn nàn: Chư Thiên phàn nàn nói rằng “Các ngài đại đức không thể tự mình kiềm chế làm sao an ủi những vị còn lại được?” “Thế thì, thưa ngài Anuruddha, tâm trạng của các Thiên nhân thế nào?” Thưa ngài các Thiên nhân có trạng thái như thế nào? Đại đức Anuruddha xác định rằng: “các Thiên nhân ấy can ngăn việc viên tịch Niết Bàn của bậc Đạo Sư được sao?
Atha tāsaṃ pavattidassanatthaṃ thero santāvusotiādimāha. Taṃ vuttatthameva. Rattāvasesanti balavapaccūse parinibbutattā rattiyā avasesaṃ cullakaddhānaṃ[125]. Dhammiyā kathāyāti aññā pāṭiyekkā dhammakathā nāma natthi, “āvuso sadevake nāma loke appaṭipuggalassa satthuno ayaṃ maccurājā na lajjati, kimaṅgaṃ pana lokiyamahājanassa lajjissatī”ti evarūpāya pana maraṇapaṭisaṃyuttāya kathāya vītināmesuṃ. tesañhi taṃ kathaṃ kathentānaṃ muhutteneva aruṇaṃ uggacchi.
Sau đó, để thuyết giảng sự hiện hữu của các Thiên nhân ấy trưởng lão đã nói rằng: “Có hạng thiên nhâ”. Lời đó có ý nghĩa đều đã được trình bày. Phần còn lại của đêm: Khoảng thời gian còn lại chút ít của đêm, bởi vì viên tịch Niết Bàn vào lúc gần sáng. Nói chuyện về Giáo Pháp: Không có Pháp thoại riêng biệt nào khác, tuy nhiên cả hai vị trưởng lão để thời gian trôi qua bằng kệ ngôn liên quan với sự tử có hình thức như vậy “này các āvuso, Tử Thần này không cảm thấy hổ thẹn với bậc Đạo Sư Vị không người đối xứng ở thế gian cùng với Thiên giới, còn nói gì nữa sẽ xấu hổ đối với đại chúng ở thế gian.” Thật vậy, khi các trưởng lão đang nói kệ ngôn ấy, chỉ trong phút chốc bình mình cũng vừa ló dạng.
- Atha khoti aruṇuggaṃ[126] disvāva thero theraṃ etadavoca. Teneva karaṇīyenāti kīdisena nu kho parinibbānaṭṭhāne mālāgandhādisakkārena bhavitabbaṃ, kīdisena bhikkhusaṅghassa nisajjaṭṭhānena bhavitabbaṃ, kīdisena khādanīyabhojanīyena bhavitabbanti, evaṃ yaṃ bhagavato parinibbutabhāvaṃ sutvā kattabbaṃ teneva karaṇīyena.
- Khi ấy: khi mặt trời mọc, trưởng lão cũng đã nói với trưởng lão. Vì chính công việc cần làm ấy: nên sắp đặt với sự cung kính có tràng hoa và hương thơm v.v, ở nơi viên tịch Niết Bàn trong trường hợp phải như như thế nào, nên sắp đặt chỗ ngồi đối với hội chúng tỳ khưu như thế nào, nên sắp đặt vật thực loại cứng và vật thực loại mềm như thế nào, như vậy sau khi hay tin về sự kiện viên tịch Niết Bàn của đức Thế Tôn (những vị tộc Malla đã tụ hội lại) vì chính công việc cần làm ấy.
Giảng về việc xử sự với thân xác của đức Như Lai
- Sabbañca tāḷāvacaranti sabbaṃ tūriyabhaṇḍaṃ. Sannipātethāti bheriṃ carāpetvā samāharatha. te tatheva akaṃsu. Maṇḍalamāḷeti dussamaṇḍalamāḷe. paṭiyādentāti sajjentā.
- Tất cả nhạc cụ: tất cả mọi loại nhạc cụ. Hãy chuẩn bị: đánh trống thông báo tụ hội, những vị tộc Malla ấy đã làm như thế. Các lều tròn: đem những tràng hoa cuộn bằng vải. Chuẩn bị: sắp xếp.
Dakkhiṇena dakkhiṇanti nagarassa dakkhiṇadisābhāgeneva dakkhiṇadisābhāgaṃ. Bāhirena bāhiranti antonagaraṃ appavesetvā bāhireneva nagarassa bāhirapassaṃ haritvā. Dakkhiṇato nagarassāti anurādhapurassa dakkhiṇadvārasadise ṭhāne ṭhapetvā sakkārasammānaṃ katvā jetavanasadise ṭhāne jhāpessāmāti attho.
(Chúng ta sẽ đưa đi) theo hướng nam về phía nam: ở khu vực phía nam về phía nam của thành phố. Hướng bên ngoài tiến ra bên ngoài: không đi vào bên trong thành phố, đưa đi bên ngoài tiến ra bên ngoài thành. Ở phía nam của thành phố: Đã được đặt ở địa điểm như cổng thành ở phía nam của thành phố Anurādhapura, đã thể hiện lòng rộng rãi và sự tôn kính, rồi sẽ sẽ hỏa thiêu thân xác (của đức Thế Tôn) ở địa điểm như Jetavana.
- Aṭṭha mallapāmokkhāti majjhimavayā thāmasampannā aṭṭhamallarājāno. Sīsaṃ nhātāti sīsaṃ dhovitvā nahātā. Āyasmantaṃ anuruddhanti therova dibbacakkhukoti pākaṭo, tasmā te santesupi aññesu mahātheresu — “ayaṃ no pākaṭaṃ katvā kathessatī”ti theraṃ pucchiṃsu. Kathaṃ pana, bhante, devatānaṃ adhippāyoti bhante, amhākaṃ tāva adhippāyaṃ jānāma. Devatānaṃ kathaṃ adhippāyoti pucchanti. thero paṭhamaṃ tesaṃ adhippāyaṃ dassento tumhākaṃ khotiādimāha. Makuṭabandhanaṃ nāma mallānaṃ cetiyanti mallarājūnaṃ pasādhanamaṅgalasālāya etaṃ nāmaṃ. Cittīkataṭṭhena panesā “cetiyan”ti vuccati.
- Tám vị tộc trưởng Malla: Tám vị tộc trưởng Mala ở giai đoạn trung niên đầy đủ về sức lực. Đã gội đầu: đã tắm rửa gội đầu sạch sẽ. Đại đức Anuruddha: Chỉ mình trưởng lão xuất hiện là vị có thiên nhãn, vì thế khi những vị trưởng lão khác mặc dù có thâm niên (nhưng) các vị tộc trưởng Malla ấy cũng chỉ hỏi trưởng lão với ý định “ngài trưởng lão Anuruddha này sẽ nói rõ cho chúng ta”. Thưa Ngài, vậy ý định của các vị Thiên nhân là thế nào?” Các vị tộc Malla hỏi rằng: “Bạch ngài, trước tiên chúng tôi biết được ý định của chúng tôi, nhưng ý định của các vị Thiên nhân là thế nào?” – Trưởng lão nói ý định của các vị ấy trước nên mới nói rằng: “ý định của các ông…” Bảo điện của những người tộc Malla tên Makuṭabandhana: Đây là tên đại sảnh tế lễ được trang hoàng của những người tộc Malla. Đại sảnh tế lễ này được gọi là “bảo điện” bởi ý nghĩa được xây dựng một cách tuyệt đẹp.
- Yāva sandhisamalasaṅkaṭīrāti ettha sandhi nāma gharasandhi, samalaṃ nāma gūtharāsiniddhamanapanāḷi, saṅkaṭīraṃ nāma saṅkāraṭṭhānaṃ. Dibbehi ca mānusakehi ca naccehīti upari devatānaṃ naccāni honti, heṭṭhā manussānaṃ. Esa nayo gītādīsu. Apica devatānaṃ antare manussā, manussānaṃ antare devatāti evampi sakkarontā pūjentā agamaṃsu. Majjhena majjhaṃ nagarassa haritvāti evaṃ hariyamāne bhagavato sarīre bandhulamallasenāpatibhariyā mallikā nāma — “bhagavato sarīraṃ āharantī”ti sutvā attano sāmikassa kālaṃ kiriyato paṭṭhāya aparibhuñjitvā ṭhapitaṃ visākhāya pasādhanasadisaṃ mahālatāpasādhanaṃ nīharāpetvā — “iminā satthāraṃ pūjessāmī”ti taṃ majjāpetvā gandhodakena dhovitvā dvāre ṭhitā.
- Luôn cả các khoảng trống (giữa các căn nhà), các cống rãnh, và các đống rác: ở đây khoảng trống giữa các ngôi nhà gọi là sandhi, các cống rãnh hố phân gọi là samala, nơi đổ rác gọi là saṅkaṭīra. Với những vũ khúc thuộc cõi trời và của loài người: Khiêu vũ của các vị Thiên ở trên (không trung) và của loài người ở bên dưới. Với những bài ca v.v, cũng áp dụng cách thức này. Hơn nữa, giữ các vị Thiên cũng có loài người, ở giữa loài người cũng có các vị Thiên, cả các vị Thiên lẫn loài người đều đi đến cung kính lễ bái theo phương thức đã được trình bày. Sau khi đi theo hướng trung tâm đến trung tâm của thành phố: khi kim thân của đức Thế Tôn được họ đưa đến như vậy, phu nhân của tướng quan Bandhula tên là Mallikā biết rằng – sau khi nghe “họ đưa kim thân của đức Thế Tôn đến” đã cho đem lại tấm áo choàng Mahālatā-pasādhana tương tự như đồ trang sức của bà Visākhā mà ta cất giữ không sử dụng kể từ khi phu quân của ta mệnh chung – “ta sẽ lễ bái bậc Đạo Sư với tấm áo choàng mahālatā-pasādhana này”, sau khi làm cho sạch sẽ tấm áo choàng mahālatā-pasādhana ấy đã tẩy uế bằng nước hoa rồi đặt ở cửa.
Taṃ kira pasādhanaṃ tāsañca dvinnaṃ itthīnaṃ, devadāniyacorassa geheti tīsuyeva ṭhānesu ahosi. Sā ca satthu sarīre dvāraṃ sampatte — “otāretha, tātā, satthusarīran”ti vatvā taṃ pasādhanaṃ satthusarīre paṭimuñci. taṃ sīsato paṭṭhāya paṭimukkaṃ yāvapādatalāgataṃ. Suvaṇṇavaṇṇaṃ bhagavato sarīraṃ sattaratanamayena mahāpasādhanena pasādhitaṃ ativiya virocittha. Taṃ sā disvā pasannacittā patthanaṃ akāsi — “bhagavā yāva vaṭṭe saṃsarissāmi, tāva me pāṭiyekkaṃ pasādhanakiccaṃ mā hotu, niccaṃ paṭimukkapasādhanasadisameva sarīraṃ hotū”ti.
Kể rằng đồ trang sức ấy xuất hiện ở ba địa điểm là ở ngôi làng của hai nữ nhân ấy (bà Visākhā và bà Mallikā) và ngôi làng của tên cướp Devadāniya. Và bà Mallikā đã nói rằng – khi kim thân của bậc Đạo Sư đến cửa, các ngươi hãy đặt kim thân của bậc Đạo Sư xuống, mặc tấm áo choàng ấy vào kim thân của bậc Đạo Sư, tấm áo choàng ấy được mặc từ đầu đến lòng bàn chân, thân thể của đức Thế Tôn có màu da tựa như màu hoàng kim được tô điểm với tấm áo choàng mahālatā-pasādhana làm bằng bảy loại châu báu vô cùng chói sáng. Sau khi bà Mallikā nhìn thấy điều đó đã sanh tâm tịnh tín, đã thực hiện lời phát nguyện rằng – “Kính bạch đức Thế Tôn, cho đến khi nào con còn sẽ luân chuyển trong vòng luân hồi, cho đến khi ấy nhiệm vụ với món đồ trang sức này hãy đừng tách biệt khỏi ngài, cầu xin thân thể hãy như món đồ trang sức được mặc vào thường xuyên.”
Atha bhagavantaṃ sattaratanamayena mahāpasādhanena ukkhipitvā puratthimena dvārena nīharitvā puratthimena nagarassa makuṭabandhanaṃ mallānaṃ cetiyaṃ, ettha bhagavato sarīraṃ nikkhipiṃsu.
Khi ấy, những người tộc Malla-pāmokkha đã nâng đức Thế Tôn lên cùng với tấm áo choàng mahālatā-pasādhana được làm bằng loại châu báu đi ra khỏi cổng thành phía đông, rồi đặt kim thân của đức Thế Tôn xuống tại ngôi bảo điện Makuṭabandhana của người dân Malla ở phía đông của thành phố.
Nói về việc đi đến của ngài Mahākassapa
- Pāvāya kusināranti pāvānagare piṇḍāya caritvā “kusināraṃ gamissāmī”ti addhānamaggappaṭipanno hoti. Rukkhamūle nisīdīti ettha kasmā divāvihāranti na vuttaṃ? Divāvihāratthāya anisinnattā. Therassa hi parivārā bhikkhū sabbe sukhasaṃvaddhitā mahāpuññā. Te majjhanhikasamaye tattapāsāṇasadisāya bhūmiyā padasā gacchantā kilamiṃsu. Thero te disvā — “bhikkhū kilamanti, gantabbaṭṭhānañca na dūraṃ, thokaṃ vissamitvā darathaṃ paṭippassambhetvā sāyanhasamaye kusināraṃ gantvā dasabalaṃ passissāmī”ti maggā okkamma aññatarasmiṃ rukkhamūle saṅghāṭiṃ paññapetvā udakatumbato udakena hatthapāde sītale katvā nisīdi. parivārabhikkhūpissa rukkhamūle nisīditvā yoniso manasikāre kammaṃ[127] kurumānā tiṇṇaṃ ratanānaṃ vaṇṇaṃ bhaṇamānā nisīdiṃsu. Iti darathavinodanatthāya nisinnattā “divāvihāran”ti na vuttaṃ.
- Từ Pāvā đến Kusinārā: Ngài Mahākassapa đang thực hiện cuộc hành trình dài (với ý định): sau khi đi khất thực trong thành Pāvā “(ta) sẽ đi đến thành Kusināra”. Đã ngồi xuống ở một gốc cây nọ: Vì sao ngài không nói rằng: nghỉ ban ngày? Bởi vì ngài không ngồi vì mục đích nghỉ ban ngày. Sự thật, những vị tỳ khưu tùy tùng của trưởng lão đều tăng trưởng sự an lạc, có phước báu to lớn. Ngài bước đi với đôi chân trần trên mặt đất tựa như bề mặt tảng đá nóng vào buổi trưa (sẽ) mệt nhọc. Sau khi trưởng lão nhìn thấy các vị tỳ khưu ấy đã nghĩ rằng – “Các vị tỳ khưu (sẽ) mệt nhọc, và địa điểm nên đi đến cũng không xa, nên sẽ nghỉ ngơi một chút để xua tan sự mệt nhọc, vào buổi chiều đến thành Kusinārā sẽ yết kiến đấng Thập Lực” sau khi (ta) rời con đường lộ đã trải y tăng-già-lê ở một gốc cây nọ, lấy nước từ bình lọc nước xoa tay và chân rồi ngồi xuống. Luôn cả những vị tỳ khưu tùy tùng của ngài sau khi ngồi xuống ở gốc cây ấy đã khéo léo tác ý thực hành đề mục thiền, ngồi tán dương ân đức Tam Bảo. Như thế nên ngài mới nói rằng: “nghỉ ngơi ban ngày” bởi vì ngồi để xoa dịu sự mệt mỏi.
Mandāravapupphaṃ gahetvāti mahāpātippamāṇaṃ pupphaṃ āgantukadaṇḍake ṭhapetvā chattaṃ viya gahetvā. Addasa khoti āgacchantaṃ dūrato addasa. Disvā ca pana cintesi —
Cầm lấy bông hoa mandārava: Lấy một cây gậy cắm vào một bông hoa mandārava kích thước lớn và mang đi như chiếc ô. Đã nhìn thấy: đã nhìn thấy một đạo sĩ lõa thể đang đi lại từ đằng xa. Và hơn nữa, sau khi nhìn thấy trưởng lão đã nghĩ rằng–
“Etaṃ ājīvakassa hatthe mandāravapupphaṃ paññāyati, etañca na sabbadā manussapathe paññāyati, yadā pana koci iddhimā iddhiṃ vikubbati, tadā sabbaññubodhisattassa ca mātukucchiokkamanādīsu hoti. Na kho pana ajja kenaci iddhivikubbanaṃ kataṃ, na me satthā mātukucchiṃ okkanto, na kucchito nikkhamanto, nāpissa ajja abhisambodhi, na dhammacakkappavattanaṃ, na yamakapāṭihāriyaṃ, na devorohaṇaṃ, na āyusaṅkhārossajjanaṃ. Mahallako pana me satthā dhuvaṃ parinibbuto bhavissatī”ti.
“Bông hoa mandārava xuất hiện ở trong tay của đạo sĩ lõa thể này, và bông hoa mandārava không xuất hiện ở cõi nhân loại, sẽ có nơi một số vị có thần thông thực hiện sự biến hóa thần thông và khi Bồ-tát Toàn Tri ngài nhập thai vào bụng mẹ v.v, nhưng ngày hôm nay bất cứ thần thông gì cũng không thể thực hiện sự biến hóa thần thông, (ngày hôm nay) không phải ngày bậc Đạo Sư của ta nhập thai vào bụng mẹ, không phải ngày đản sanh từ bụng mẹ, ngày hôm nay cũng không phải ngày Toàn Giác, ngày hôm nay cũng không phải ngày chuyển vận bánh xe Pháp, cũng không phải ngày thị hiện song thông, cũng không phải ngày từ Thiên giới về lại trần gian, cũng không phải ngày buông bỏ thọ hành. Nhưng bậc Đạo Sư của ta đã già yếu chắc chắn ngài sẽ viên tịch Niết Bàn.”
Tato — “pucchāmi nan”ti cittaṃ uppādetvā — “sace kho pana nisinnakova pucchāmi, satthari agāravo kato bhavissatī”ti uṭṭhahitvā ṭhitaṭṭhānato apakkamma chaddanto nāgarājā maṇicammaṃ viya dasabaladattiyaṃ meghavaṇṇaṃ paṃsukūlacīvaraṃ pārupitvā dasanakhasamodhānasamujjalaṃ añjaliṃ sirasmiṃ patiṭṭhapetvā satthari katena gāravena ājīvakassa abhimukho hutvā — “āvuso, amhākaṃ satthāraṃ jānāsī”ti āha. Kiṃ pana satthu parinibbānaṃ jānanto pucchi ajānantoti? Āvajjanapaṭibaddhaṃ khīṇāsavānaṃ jānanaṃ, anāvajjitattā panesa ajānanto pucchīti eke. Thero samāpattibahulo, rattiṭṭhānadivāṭṭhānaleṇamaṇḍapādīsu niccaṃ samāpattibaleneva yāpeti, kulasantakampi gāmaṃ pavisitvā dvāre samāpattiṃ samāpajjitvā samāpattito vuṭṭhitova bhikkhaṃ gaṇhāti. Thero kira iminā pacchimena attabhāvena mahājanānuggahaṃ karissāmi — “ye mayhaṃ bhikkhaṃ vā denti gandhamālādīhi vā sakkāraṃ karonti, tesaṃ taṃ mahapphalaṃ hotū”ti evaṃ karoti. Tasmā samāpattibahulatāya na jānāti. Iti ajānantova pucchatīti vadanti, taṃ na gahetabbaṃ.
Khi đó, trưởng lão đã khởi tâm – “Sẽ hỏi vị ấy” – (suy nghĩ rằng) “nếu như ta ngồi hỏi, sẽ không thể hiện sự tôn trọng đối với bậc Đạo Sư” sau khi đứng dậy đã mặc tấm y phấn tảo (y được làm bằng vải dơ bị quăng bỏ) màu đám mây được đức Thế ban tặng trông như thể Long tượng Chaddanta rời khỏi từ vị trí đứng phủ lên mình tấm da ngọc ma-ni, đã chấp tay tỏa sáng với mười đầu ngón tay ở trên đầu quay mặt về phía du sĩ lõa thể với sự kính trọng đã được thực hiện nơi bậc Đạo Sư, nói rằng – “Này đạo hữu, đạo hữu có biết bậc Đạo Sư của chúng tôi không?” Vậy thì ngài Mahākassapa có biết được sự viên tịch Niết Bàn của bậc Đạo Sư hay không biết nên mới hỏi? Một số vị nói rằng: cái biết của các vị Lậu Tận gắn liền vào sự hướng tâm, còn trưởng lão Mahākassapa không biết nên mới hỏi do ngài không hướng tâm đến. Trưởng lão có nhiều sự chứng đạt, thường xuyên duy trì mạng sống bằng nhiều sự chứng đạt ở chỗ nghỉ ban ngày, ở chỗ nghỉ ban đêm, thạch động và lều vải v.v, đi vào làng ở từng hộ gia đình cũng thể nhập thiền chứng ở từng cửa nhà, xuất khỏi thiền chứng rồi mới thọ nhận đồ ăn khất thực. Được biết trưởng lão đã thực hiện sự hướng tâm như vầy với bản ngã cuối cùng này ta sẽ trợ giúp đại chúng – “người nào cúng dường đồ ăn khất thực hoặc thể hiện sự kính trọng với vật thơm và tràng hoa v.v, đến ta, việc bố thí ấy của những người ấy hãy có được kết quả lớn”. Vì thế mà ngài mới không biết do có nhiều sự chứng đạt. Do đó một số vị nói rằng ngài không biết mới hỏi, lời ấy không nên chấp vào.
Na hettha ajānanakāraṇaṃ atthi. Abhilakkhitaṃ satthu parinibbānaṃ ahosi, dasasahassilokadhātukampanādīhi nimittehi. Therassa pana parisāya kehici bhikkhūhi bhagavā diṭṭhapubbo, kehici na diṭṭhapubbo, tattha yehipi diṭṭhapubbo, tepi passitukāmāva, yehipi adiṭṭhapubbo, tepi passitukāmāva. tattha yehi na diṭṭhapubbo, te atidassanakāmatāya gantvā “kuhiṃ bhagavā”ti pucchantā “parinibbuto”ti sutvā sandhāretuṃ[128] nāsakkhissanti. Cīvarañca pattañca chaḍḍetvā ekavatthā vā dunnivatthā vā duppārutā vā urāni paṭipisantā[129] parodissanti. Tattha manussā — “mahākassapattherena saddhiṃ āgatā paṃsukūlikā sayampi itthiyo viya parodanti, te kiṃ amhe samassāsessantī”ti mayhaṃ dosaṃ dassanti. Idaṃ pana suññaṃ mahāaraññaṃ, idha yathā tathā rodantesu doso natthi. Purimataraṃ sutvā nāma sokopi tanuko hotīti bhikkhūnaṃ satuppādanatthāya jānantova pucchi.
Bởi vì không có lý do gì để không biết điều đó. Sự viên tịch Niết Bàn của bậc Đạo Sư đã được xác định rõ ràng với những dấu hiệu như mười ngàn thế giới rung chuyển, v.v. Hơn nữa, trong hội chúng của trưởng lão, một số vị tỳ khưu trước đây đã từng được nhìn thấy đức Thế Tôn, một số vị trước đây chưa từng nhìn thấy, trông số các vị tỳ khưu ấy, những vị nào trước đây đã từng được nhìn thấy, những vị ấy cũng vẫn muốn được thấy; những vị nào trước đây chưa từng được nhìn thấy thì những vị tỳ khưu ấy cũng muốn được thấy; trong số những vị tỳ khưu ấy, những vị nào trước đây chưa từng được nhìn thấy, những vị ấy đi bởi vì (họ) rất khao khát được nhìn thấy, trong khi hỏi “đức Thế Tôn đang ở đâu?” sau khi biết được “ngài đã viên tịch Niết Bàn” sẽ không thế giữ vững (được tâm trạng), vứt bỏ bình bát và y phục, chỉ mặc một y, mặc y luộm thuộm, trùm y luộm thuộm, đấm ngực than khóc. Ở đó, mọi người sẽ chỉ ra lỗi lầm của tôi rằng – “các vị tỳ khưu đích thân cầm y phấn tảo (y được may bằng vải bị quăng bỏ) đã đi đến cùng với trưởng lão Mahākassapa khóc lóc như nữ nhân, những vị ấy sẽ an ủi chúng ta như thế nào?” Hơn nữa, khu rừng to lớn này trống không, khi các vị tỳ khưu than khóc như ở nơi này thì lỗi lầm có lẽ không có. Sau khi biết trước được sự việc. nỗi buồn có lẽ cũng sẽ nguôi ngoai. (Cho nên) trưởng lão dầu biết rõ sự việc (nhưng) vẫn hỏi để cho sanh khởi sự chú tâm đối với các vị tỳ khưu.
Ajja sattāhaparinibbuto samaṇo gotamoti ajja samaṇo gotamo sattāhaparinibbuto. Tato me idanti tato samaṇassa gotamassa parinibbutaṭṭhānato.
Hôm nay Sa-môn Gotama đã viên tịch Niết Bàn: Tính từ ngày hôm này Sa-môn Gotama đã viên tịch Niết Bàn được bảy ngày rồi. Đây bông hoa mandārava tôi đã cầm lấy này từ nơi ấy: Bông hoa mandārava này tôi cầm lấy từ nơi địa điểm viên tịch Niết Bàn của Sa-môn Gotama.
- Subhaddo nāma vuḍḍhapabbajitoti “subhaddo”ti tassa nāmaṃ. Vuḍḍhakāle pana pabbajitattā “vuḍḍhapabbajito”ti vuccati. Kasmā pana so evamāha? Bhagavati āghātena. Ayaṃ kireso khandhake āgate ātumāvatthusmiṃ nahāpitapubbako vuḍḍhapabbajito bhagavati kusinārato nikkhamitvā aḍḍhateḷasehi bhikkhusatehi saddhiṃ ātumaṃ āgacchante bhagavā āgacchatīti sutvā — “āgatakāle yāgupānaṃ[130] karissāmī”ti sāmaṇerabhūmiyaṃ ṭhite dve putte etadavoca — “bhagavā kira, tātā, ātumaṃ āgacchati mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ aḍḍhateḷasehi bhikkhusatehi; gacchatha tumhe, tātā, khurabhaṇḍaṃ ādāya nāḷiyāvāpakena anugharakaṃ anugharakaṃ āhiṇḍatha loṇampi telampi taṇḍulampi khādanīyampi saṃharatha bhagavato āgatassa yāgupānaṃ karissāmā”ti[131]. Te tathā akaṃsu.
- Có vị xuất gia lúc đã già tên Subhadda: “Subhadda” là tên của vị tỳ khưu ấy. Tuy nhiên, vị ấy xuất gia lúc đã về già, được gọi là “có vị xuất gia lúc đã già”. Vậy nguyên nhân gì tỳ khưu Subhadda ấy lại nói như vậy? Do kết oan trái với đức Thế Tôn. Kể rằng tỳ khưu Subhadda này đây đã từng là thợ cắt tóc trong thành Ātumāvatthu bắt nguồn từ bộ Khandhaka đã xuất gia khi về già. Sau khi đức Thế Tôn rời khỏi thành phố Kusināra đi đến thành phố Atumā cùng với hội chúng tỳ khưu gồm có một ngàn hai trăm năm mươi vị, sau khi nghe tin đức Thế Tôn đang đi đến (nghĩ rằng) – “sẽ cúng dường cháo (đến đức Thế Tôn) khi ngài đi đến” – Mới gọi hai con chuẩn bị xuất gia làm sa-di và nói – “Này hai con thương, nghe nói đức Thế Tôn đi đến Ātumā cùng với đại chúng tỳ khưu gồm có một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ khưu; Này hai con thương, hai con hãy đi và mang theo thùng dao cạo, hãy viếng từng nhà với thùng và bao bì, hãy gom góp muối, dầu ăn, gạo lức, và vật thực loại cứng; chúng ta sẽ thực hiện việc dâng cúng cháo đến đức Thế Tôn khi ngài đi đến.” Hai người con ấy cũng đã thực hiện như thế.
Manussā te dārake mañjuke paṭibhāneyyake disvā kāretukāmāpi akāretukāmāpi kārentiyeva. Katakāle — “kiṃ gaṇhissatha tātā”ti pucchanti. te vadanti — “na amhākaṃ aññena kenaci attho, pitā pana no bhagavato, āgatakāle yāgudānaṃ dātukāmo”ti. Taṃ sutvā manussā aparigaṇetvāva yaṃ te sakkonti āharituṃ, sabbaṃ denti. yampi na sakkonti, manussehi pesenti. Atha bhagavati ātumaṃ āgantvā bhusāgāraṃ paviṭṭhe subhaddo sāyanhasamayaṃ gāmadvāraṃ gantvā manusse āmantesi — “upāsakā, nāhaṃ tumhākaṃ santikā aññaṃ kiñci paccāsīsāmi[132], mayhaṃ dārakehi ābhatāni taṇḍulādīni[133] yeva saṅghassa pahonti. yaṃ hatthakammaṃ, taṃ me dethā”ti. “Idañcidañca gaṇhathā”ti sabbūpakaraṇāni gāhetvā vihāre uddhanāni kāretvā ekaṃ kāḷakaṃ kāsāvaṃ nivāsetvā tādisameva pārupitvā — “idaṃ karotha, idaṃ karothā”ti sabbarattiṃ vicārento satasahassaṃ vissajjetvā bhojjayāguñca madhugoḷakañca paṭiyādāpesi. Bhojjayāgu nāma bhuñjitvā pātabbayāgu, tattha sappimadhuphāṇitamacchamaṃsapupphaphalarasādi yaṃ kiñci khādanīyaṃ nāma sabbaṃ pakkhipati kīḷitukāmānaṃ sīsamakkhanayoggā hoti sugandhagandhā.
Dân chúng sau khi nhìn thấy hai đứa bé ấy có giọng nói ngọt ngào, khôn ngoan ấy, dầu không có ý muốn thuê làm hoặc có ý muốn thuê làm cũng đều bảo chúng làm. Trong lúc thực hiện – hỏi rằng “các con sẽ đem đi sao?” – Chúng trả lời rằng – “chúng con không cần bất cứ thứ gì khác, nhưng cha của chúng con có ý muốn cúng dường cháo đến đức Thế Tôn khi ngài đi đến.” Sau khi mọi người nghe điều đó cũng không tính toán những thứ có thể mang đi, (họ) cho hết. Những thứ không thể mang đi, thì (họ) phái người đưa đi. Khi ấy, sau khi đức Thế Tôn đến thành phố Ātumā đã đi vào sân đập lúa, vào lúc chiều tối tỳ khưu Subhadda cũng đi đến cổng làng rồi gọi mọi người (và nói) – “các nam cư sĩ, các nữ cư sĩ, tôi không nhận được bất cứ thứ gì khác từ trú xứ quý vị, gạo lức, v.v, mà con tôi đã đem đến vừa đủ cho hội chúng tỳ khưu, nghề lao động tay chân nào, hãy cho tôi việc ấy.” – Chúng tôi sẽ làm như thế nào thưa ngài? – Tỳ khưu Subhadda đáp rằng: “Quý vị hãy cầm lấy những thứ này và thứ này” (vị ấy) đã cho cầm lấy tất cả đồ phụ tùng, đã làm bếp lửa ở tịnh xá, tự mình mặc một tấm y kāsa màu đen, đã trùm (lên người) một tấm y, rồi ra lệnh rằng: “Hãy làm điều này, hãy làm điều này, ” trầm tư suy nghĩ suốt đêm đã xuất ra tài sản một trăm ngàn (đồng tiền vàng) cho chuẩn bị cháo đặc, mật viên và phên mật mía. Cháo đặc sau khi ăn có thể uống, có bơ lỏng, mật ong, nước mía, cá, thịt, hoa, quả, và vị, v.v, bất cứ món nào cũng đều được gọi là vật thực loại mềm, bỏ hết chúng vào cháo ấy, những hương thơm thơm ngát được họ bôi lên đầu dành cho những người có ý định tiêu khiển cũng có.
Atha bhagavā kālasseva sarīrapaṭijagganaṃ katvā bhikkhusaṅghaparivuto piṇḍāya carituṃ ātumanagarābhimukho pāyāsi. Manussā tassa ārocesuṃ — “bhagavā piṇḍāya gāmaṃ pavisati, tayā kassa yāgu paṭiyāditā”ti. So yathānivatthapāruteheva tehi kāḷakakāsāvehi ekena hatthena dabbiñca kaṭacchuñca gahetvā brahmā viya dakkhiṇajāṇumaṇḍalaṃ bhūmiyaṃ patiṭṭhapetvā vanditvā — “paṭiggaṇhātu me, bhante, bhagavā yāgun”ti āha.
Khi ấy, vào lúc sáng sớm đức Thế Tôn sau khi thực hiện việc chăm sóc cơ thể, có hội chúng tỳ khưu vây quanh, ngài hướng mắt về thành phố Ātumā để đi khất thực. Dân chúng đã thuật lại cho tỳ khưu Subhadda – “Đức Thế Tôn đang đi vào làng để khất thực, ngài chuẩn bị cháo đặc để cho ai?” Vị ấy đã mặc và trùm tấm y ca-sa màu đen ấy, dùng một tay cầm lấy cái vá và cái môi, quỳ gối bên phải trên mặt đất đảnh lễ tựa như Phạm Thiên, nói rằng “Kính bạch ngài, cầu xin đức Thế Tôn (vì lòng bi mẫn) hãy nhận cháo đặc của con”.
Tato “jānantāpi tathāgatā pucchantī”ti khandhake āgatanayena bhagavā pucchitvā ca sutvā ca taṃ vuḍḍhapabbajitaṃ vigarahitvā tasmiṃ vatthusmiṃ akappiyasamādānasikkhāpadañca, khurabhaṇḍapariharaṇasikkhāpadañcāti dve sikkhāpadāni paññapetvā — “bhikkhave, anekakappakoṭiyo bhojanaṃ pariyesanteheva vītināmitā, idaṃ pana tumhākaṃ akappiyaṃ adhammena uppannaṃ bhojanaṃ, imaṃ paribhuttānaṃ anekāni attabhāvasahassāni apāyesveva nibbattissanti, apetha mā gaṇhathā”ti bhikkhācārābhimukho agamāsi. ekabhikkhunāpi na kiñci gahitaṃ.
Khi đó, sau khi đức Thế Tôn hỏi và lắng nghe những lời ấy đã khiển trách vị xuất gia lúc về già ấy, chính vì chuyện đó mà hai điều học đã được quy định là (1) điều học với sự thọ trì không thích hợp và (2) điều học với sự gìn giữ dao cạo tóc. Theo phương thức bắt nguồn từ Khandhaka (Luật Hợp Phần) như sau – “Như Lai dầu biết nhưng vẫn hỏi”, rồi nói rằng – “Này chư tỳ khưu, những vị tỳ khưu tầm cầu vật thực đã trải qua nhiều koṭi kiếp, các ngươi thọ dụng vật thực không được phép của các ngươi được phát sinh do không đúng pháp, sẽ phải đi tái sanh vào các khổ cảnh nhiều trăm ngàn bản ngã-attabhāva, “hãy tránh xa, chớ dính vào” sau đó ngài quay mặt đi khất thực. Không nhận bất cứ thứ gì dầu chỉ một vị tỳ khưu.
Subhaddo anattamano hutvā ayaṃ “sabbaṃ jānāmī”ti āhiṇḍati, sace na gahitukāmo, pesetvā ārocetabbaṃ. Ayaṃ pakkāhāro nāma sabbaciraṃ tiṭṭhanto sattāhamattaṃ[134] tiṭṭheyya. Idañhi mama yāvajīvaṃ pariyattaṃ assa. Sabbaṃ tena nāsitaṃ, ahitakāmo ayaṃ mayhanti bhagavati āghātaṃ bandhitvā dasabale dharante kiñci vattuṃ nāsakkhi. Evaṃ kirassa ahosi — “ayaṃ uccā kulā pabbajito mahāpuriso, sace kiñci vakkhāmi, maṃyeva santajjessatī”ti. Svāyaṃ ajja “parinibbuto bhagavā”ti sutvā laddhassāso viya haṭṭhatuṭṭho evamāha.
Điều này đã khiến tỳ khưu Subhadda không được hài lòng, đi lanh quanh (nghĩ rằng) “Đức Thế Tôn tự cho mình biết tất cả”, nếu như không muốn nhận, cũng nên phái người đến nói. Ai cũng biết vật thực này đã chín nếu như để lâu cũng chỉ để được bảy ngày. Thật ra, những món ăn này có lẽ là những món ăn được ta chuẩn bị cả đời, ngài đã làm hư hỏng tất cả, đức Thế Tôn có tâm không tốt đối với ta, trong khi đấng Thập Lực vẫn còn tại thế, (vị ấy) không dám nói bất cứ điều gì, nên đã kết oan trái với đức Thế Tôn. Được biết vị ấy suy nghĩ như vầy – “Bậc Đại Nhân này đã xuất gia từ dòng dõi cao quý, nếu như ta nói bất cứ lời gì, thì chính tá sẽ bị đe dọa.” Vừa mới nghe tin hôm nay “đức Thế Tôn đã viên tịch Niết Bàn” trở nên mừng rỡ hoan hỷ như được thở phào nhẹ nhõm nên đã nói như vậy.
Thero taṃ sutvā hadaye pahāradānaṃ viya matthake patitasukkhāsani viya maññi, dhammasaṃvego cassa uppajji — “sattāhamattaparinibbuto bhagavā, ajjāpissa suvaṇṇavaṇṇaṃ sarīraṃ dharatiyeva, dukkhena bhagavatā ārādhitasāsane nāma evaṃ lahu mahantaṃ pāpakasaṭaṃ kaṇṭako uppanno, alaṃ kho panesa pāpo vaḍḍhamāno aññepi evarūpe sahāye labhitvā sakkā sāsanaṃ osakkāpetun”ti. Tato thero cintesi –
Trưởng lão sau khi nghe lời đó không ngỡ rằng: như bị đâm vào tim, như bầu trời không mây đổ xuống lên trên đỉnh đầu,và trạng thái động tâm sanh khởi – “Đức Thế Tôn đã viên tịch Niết Bàn chỉ mới bảy ngày, thậm chí vào lúc này thân thể của ngài vẫn có màu da tựa như màu hoàng kim vẫn được duy trì hoàn toàn; Kẻ cặn bã, xấu ác là cái gai lớn nhanh chóng xuất hiện như vầy trong Giáo Pháp được mang đến bởi bậc Đạo Sư qua nhiều gian khổ, hơn nữa kẻ ác này khi phát triển, được những kẻ có hình hình thức như thế làm đồng bọn cũng có thể làm cho Giáo Pháp bị suy tàn. Sau đó, trưởng lão nghĩ rằng –
“Sace kho panāhaṃ imaṃ mahallakaṃ idheva pilotikaṃ nivāsāpetvā chārikāya okirāpetvā[135] nīharāpessāmi, manussā ‘samaṇassa gotamassa sarīre dharamāneyeva sāvakā vivadantī’ti amhākaṃ dosaṃ dassessanti adhivāsemi tāva.
“Nếu như ta cho vị tỳ khưu già này mặc tấm y cũ, lấy tro rắc lên đầu rồi trục xuất, mọi người sẽ đưa nhau đến quở trách ta rằng: ‘Trong khi thân thể của Sa-môn Gotama vẫn còn tồn tại vậy mà các đệ tử đã tranh cãi với nhau,’” Vì thế ta nên kham nhẫn trước.
Bhagavatā hi desito dhammo asaṅgahitapuppharāsisadiso. Tattha yathā vātena pahaṭapupphāni yato vā tato vā gacchanti, evameva evarūpānaṃ pāpapuggalānaṃ vasena gacchante gacchante kāle vinaye ekaṃ dve sikkhāpadāni nassissanti, sutte eko dve pañhāvārā nassissanti, abhidhamme ekaṃ dve bhūmantarāni nassissanti, evaṃ anukkamena mūle naṭṭhe pisācasadisā bhavissāma; tasmā dhammavinayasaṅgahaṃ karissāma. Evañhi sati daḷhaṃ[136] suttena saṅgahitāni pupphāni viya ayaṃ dhammavinayo niccalo bhavissati.
Bởi vì Pháp được đức Thế Tôn đã được thuyết giảng tựa như một đống những bông hoa vẫn chưa được buộc lại. Trong các Pháp đã được thuyết giảng ấy, ví như những bông hoa cần gió thổi đi như thế nào; một-hai điều học ở Luật sẽ biến mất, một-hai vấn đề (pañhāvāra) ở Kinh sẽ biến mất, một-hai bhūmi ở Vi Diệu Pháp cũng sẽ biến mất khi thời gian trôi qua do tác động của những kẻ xấu ác có hình thức như vậy cũng tương tự y như thế, khi gốc rễ biến mất như vậy, chúng tôi sẽ trở thành như ma quỷ; Do đó, ta sẽ thực hiện cuộc kết tập Pháp và Luật. Chính vì như thế Pháp và Luật này sẽ được trường tồn tựa như những bông hoa được buộc lại bằng sợi chỉ chắc chắn.
Etadatthañhi bhagavā mayhaṃ tīṇi gāvutāni paccuggamanaṃ akāsi, tīhi ovādehi upasampadaṃ adāsi, kāyato apanetvā kāye cīvaraparivattanaṃ akāsi, ākāse pāṇiṃ cāletvā candūpamaṃ paṭipadaṃ kathento maṃ kāyasakkhiṃ katvā kathesi, tikkhattuṃ sakalasāsanadāyajjaṃ paṭicchāpesi. mādise bhikkhumhi tiṭṭhamāne ayaṃ pāpo sāsane vuḍḍhiṃ mā alattha. Yāva adhammo na dippati, dhammo na paṭibāhiyati. Avinayo na dippati vinayo na paṭibāhiyati. Adhammavādino na balavanto honti, dhammavādino na dubbalā honti; avinayavādino na balavanto honti, vinayavādino na dubbalā honti. Tāva dhammañca vinayañca saṅgāyissāmi. Tato bhikkhū attano attano pahonakaṃ gahetvā kappiyākappiyaṃ kathessanti. Athāyaṃ pāpo sayameva niggahaṃ pāpuṇissati, puna sīsaṃ ukkhipituṃ na sakkhissati, sāsanaṃ iddhañceva phītañca bhavissatī”ti.
Cũng vì lợi ích đó đức Thế Tôn đã thực hiện việc đi ra đón ta suốt chặng đường ba gāvuta, đã ban phép tu lên bậc trên thông qua ba lời giáo huấn, đã ban cho y phục từ thân như thể lay chuyển bàn tay trong hư không, nói đến lối thực hành tựa như vầng trăng, khen ngợi ta là bậc thân chứng (có Pháp trú ngang bằng với ngài), trao quyền thừa kế toàn bộ Giáo Pháp ba lần rằng: “Vị tỳ khưu như ta vẫn còn tồn tại, vị tỳ khưu xấu xa này sẽ không đạt được sự tăng trưởng trong Giáo Pháp. Khi nào điều phi Pháp không phát triển, (thì) Chánh Pháp cũng không bị bỏ quên. Điều phi Luật không phát triển, (thì) Luật cũng không bị bỏ quên. Còn những kẻ nói phi Pháp không trở nên hùng mạnh, (thì) những người nói Pháp không bị yếu đi; còn những kẻ nói phi Luật không trở nên hùng mạnh, (thì) những người nói về Luật không bị yếu đi; Khi ấy ta sẽ (thực hiện) kết tập Pháp và Luật. Sau đó, các vị tỳ khưu tập hợp đầy đủ các cá nhân sẽ nói điều nên làm và điều không nên làm. Khi ấy vị tỳ khưu xấu ác này tự mình sẽ cảm nhận sự quở trách, cũng không thể ngẩng cao đầu được nữa, Giáo Pháp cũng sẽ được trường tồn và truyền bá rộng rãi.
So evaṃ nāma mayhaṃ cittaṃ uppannanti kassaci anārocetvā bhikkhusaṅghaṃ samassāsesi. tena vuttaṃ — “atha kho āyasmā mahākassapo … pe … netaṃ ṭhānaṃ vijjatī”ti.
Trưởng lão nghĩ rằng: ta đã khởi tâm suy nghĩ như vậy mà vẫn không thể bày tỏ với bất cứ ai chỉ có thể trấn an hội chúng tỳ khưu. Vì lý do đó nên ngài mới nói rằng: “Khi ấy, đại đức Mahākassapa …nt… sự việc ấy không thể xảy ra.”
- Citakanti vīsaratanasatikaṃ candanacitakaṃ. Āḷimpessāmāti aggiṃ gāhāpessāma. Na sakkonti āḷimpetunti aṭṭhapi soḷasapi dvattiṃsapi janā jālanatthāya yamakayamakaukkāyo gahetvā tālavaṇṭehi[137] bījantā bhastāhi dhamantā tāni tāni kāraṇāni karontāpi na sakkontiyeva aggiṃ gāhāpetuṃ. Devatānaṃ adhippāyoti ettha tā kira devatā therassa upaṭṭhākadevatāva. Asītimahāsāvakesu hi cittāni pasādetvā tesaṃ upaṭṭhākāni asītikulasahassāni sagge nibbattāni. Tattha there cittaṃ pasādetvā sagge nibbattā devatā tasmiṃ samāgame theraṃ adisvā — “Kuhiṃ nu kho amhākaṃ kulūpakatthero”ti antarāmagge paṭipannaṃ disvā “amhākaṃ kulūpakattherena avandite citako mā pajjalitthā”ti adhiṭṭhahiṃsu.
- Giàn hỏa táng: giàn hỏa thiêu được làm bằng gỗ đàn hương kết hợp với hai ngàn loại ngọc quý. Sẽ châm lửa: trợ giúp nhau châm lửa. Không thể châm lửa được: tám vị, rồi mười sáu vị, rồi ba mươi hai vị đã đi đến cầm lấy hai cây đuốc để châm lửa trong lúc quạt bằng quạt lá thốt nốt và thổi bằng ống thổi, mặc dù làm bằng cách thức này cách thức kia nhưng họ vẫn không thể làm cho ngọn lửa bốc cháy. Ý định của các vị Thiên nhân: Ở đây, kể rằng các vị Thiên nhân là những vị hầu cận của chính trưởng lão. Thật ra, do có tâm tín thành đối với tám mươi vị Thánh đại đệ tử, tám mươi nghìn gia đình hộ độ của những vị ấy được hóa sanh vào Thiên giới. Vào lúc ấy, các vị Thiên nhân được tái sanh vào cõi trời do đã có tâm tín thành đối với vị trưởng lão không nhìn thấy vị trưởng lão ở tập thể ấy nên đã bối rối (nghĩ rằng): “Vị trưởng lão quen thuộc của chúng ta đâu rồi?” Sau khi nhìn thấy vị ấy đang di chuyển ở trên đường nên đã chú nguyện rằng: “Khi vị trưởng lão quen thuộc của chúng ta chưa đảnh lễ (thân thể của đức Thế Tôn) thì giàn hỏa thiêu chớ có bốc cháy.”
Manussā taṃ sutvā – ‘‘mahākassapo kira nāma bho bhikkhu pañcahi bhikkhusatehi saddhiṃ ‘dasabalassa pāde vandissāmī’ti āgacchati. Tasmiṃ kira anāgate citako na pajjalissati. Kīdiso bho so bhikkhu kāḷo odāto dīgho rasso, evarūpe nāma bho bhikkhumhi ṭhite kiṃ dasabalassa parinibbānaṃ nāmā’’ti keci gandhamālādi hatthā paṭipathaṃ gacchiṃsu. Keci vīthiyo vicittā katvā āgamanamaggaṃ olokayamānā aṭṭhaṃsu.
Sau khi nghe chuyện đó (nguyên nhân của sự không bốc cháy ở giàn hỏa thiêu) mọi người nghĩ rằng – “Nghe rằng ngài Mahākassapa cùng với năm trăm vị tỳ khưu đang đi đến (với ý định): ‘Ta sẽ đảnh lễ hai bàn chân của đấng Thập Lực.’ Nghe rằng khi vị ấy chưa đến thì giàn hỏa thiêu sẽ không bốc cháy. Vị tỳ khưu ấy là như thế nào? Đen, trắng, cao, thấp? Trong khi vị tỳ khưu như thế còn tồn tại, tại sao lại xảy ra sự viên tịch Niết Bàn của đấng Thập Lực?” Rồi một số cầm trong tay các vật thơm và tràng hoa, v.v… đã đi ra đón rước. Một số đã trang hoàng các con đường rồi đứng trông ngóng về phía lối đi vào.
- Atha kho āyasmā mahākassapo yena kusinārā…pe… sirasā vandīti thero kira citakaṃ padakkhiṇaṃ katvā āvajjantova sallakkhesi – ‘‘imasmiṃ ṭhāne sīsaṃ, imasmiṃ ṭhāne pādā’’ti. Tato pādānaṃ samīpe ṭhatvā abhiññāpādakaṃ catutthajjhānaṃ samāpajjitvā vuṭṭhāya – ‘‘Arāsahassa paṭimaṇḍitacakkalakkhaṇapatiṭṭhitā dasabalassa pādā saddhiṃ kappāsapaṭalehi pañca dussayugasatāni suvaṇṇadoṇiṃ candanacitakañca dvedhā katvā mayhaṃ uttamaṅge sirasmiṃ patiṭṭhahantū’’ti adhiṭṭhāsi. Saha adhiṭṭhānacittena tāni pañca dussayugasatāni dvedhā katvā valāhakantarā puṇṇacando viya pādā nikkhamiṃsu. Thero vikasitarattapadumasadise hatthe pasāretvā suvaṇṇavaṇṇe satthupāde yāva gopphakā daḷhaṃ gahetvā attano siravare patiṭṭhapesi. Tena vuttaṃ – ‘‘bhagavato pāde sirasā vandī’’ti.
- Sau đó, khi đến được Kusinārā, đại đức Mahākasspa … đê đầu lễ bái hai bàn chân của đức Thế Tôn: Kể rằng trưởng lão đã hướng vai phải nhiễu quanh giàn hỏa thiêu và trong lúc quỳ xuống đã xác định rằng – “Phần đầu ở chỗ này, hai bàn chân ở chỗ này.” Sau đó, vị trưởng lão đã đứng gần cạnh hai bàn chân rồi nhập vào tứ thiền có nền tảng là thần thông, sau đó xuất ra và chú nguyện rằng – “Xin cho hai bàn chân của đấng Thập Lực có tướng trạng được tô điểm ngàn căm hãy tách hai năm trăm lớp vải đôi được quấn với bông vải, chiếc hòm bằng vàng và cùng với giàn hỏa thiêu bằng gỗ trầm hương rồi đặt lên trên đỉnh đầu của ta.” Do tâm chú nguyện, hai bàn chân đã tách hai năm trăm lớp vải đôi ấy, v.v… và đã lộ ra ngoài trông như ánh trăng ngày rằm hiện ra từ đám mây dày đặc. Vị trưởng lão đã đưa lên hai bàn tay, giống như là đóa sen đỏ được hé nở, nắm chặt đến tận mắt cá hai bàn chân có màu sắc vàng chói của đấng Đạo Sư, rồi đã đặt lên đỉnh đầu của mình. Vì thế, ngài đã nói rằng: “…đê đầu lễ bái hai bàn chân của đức Thế Tôn.”
Mahājano taṃ acchariyaṃ disvā ekappahāreneva mahānādaṃ nadi, gandhamālādīhi pūjetvā yathāruci vandi. Evaṃ pana therena ca mahājanena ca tehi ca pañcahi bhikkhusatehi vanditamatte puna adhiṭṭhānakiccaṃ natthi. Pakatiadhiṭṭhānavaseneva therassa hatthato muccitvā alattakavaṇṇāni bhagavato pādatalāni candana-dāruādīsu kiñci acāletvāva yathāṭhāne patiṭṭhahiṃsu, yathāṭhāne ṭhitāneva[138] ahesuṃ. Bhagavato hi pādesu nikkhamantesu vā pavisantesu vā kappāsaaṃsu vā dasikatantaṃ vā[139] telabindu vā dārukkhandhaṃ vā ṭhānā calitaṃ nāma nāhosi. Sabbaṃ yathāṭhāne ṭhitameva ahosi. Uṭṭhahitvā pana atthaṅgate cande viya sūriye viya ca tathāgatassa pādesu antarahitesu mahājano mahākanditaṃ kandi. Parinibbānakālato adhikataraṃ kāruññaṃ ahosi.
Đám đông người khi nhìn thấy điều kỳ diệu ấy, đã đồng loạt thốt lên một tiếng kêu lớn, rồi họ đã cúng dường bằng các vật thơm, tràng hoa, v.v…, và đã đảnh lễ theo như ý thích. Sau khi được vị trưởng lão cùng với năm trăm vị tỳ khưu ấy và đám đông người đảnh lễ như thế cũng không còn phận sự nào khác cần phải chú nguyện nữa. Nhờ vào năng lực chú nguyện thông thường, hai lòng bàn chân của đức Thế Tôn có màu sắc đỏ cánh kiến đã rời khỏi hai bàn tay của vị trưởng lão và đã trở lại vị trí như cũ không làm lay động chút nào ở lớp gỗ đàn hương, v.v… đã duy trì theo đúng vị trí như thế. Thật vậy, khi hai bàn chân của đức Thế Tôn được đưa ra hay rút vào, không một nắm tơ gòn, hay sợi vải, hay giọt dầu, hoặc mẫu gỗ gọi là bị chuyển dịch rời khỏi vị trí. Tất cả đều được duy trì theo đúng vị trí như thế. Nhưng khi hai bàn chân của đấng Như Lai biến mất, tương tự như mặt trăng và tương tự như mặt trời đã lặn xuống, đám đông người đã đứng dậy và khóc lớn lên. Nỗi niềm thương tiếc càng gia tăng hơn so với thời điểm viên tịch Niết Bàn nữa.
Sayamevabhagavato citako pajjalīti idaṃ pana kassaci pajjalāpetuṃ vāyamantassa adassanavasena vuttaṃ. Devatānubhāvena panesa samantato ekappahāreneva pajjali.
Giàn hỏa táng đức Thế Tôn tự bốc cháy: hơn nữa, điều này đề cập đến do tác động không thấy bất cứ người nào nỗ lực châm lửa. Khi ấy, giàn hỏa thiêu ấy đã bốc cháy trong nháy mắt ở xung quanh do oai lực của chư Thiên.
- Sarīrāneva avasissiṃsūti pubbe ekagghanena ṭhitattā sarīraṃ nāma ahosi. Idāni vippakiṇṇattā sarīrānīti vuttaṃ sumanamakuḷasadisā ca dhotamuttasadisā ca suvaṇṇasadisā ca dhātuyo avasissiṃsūti attho. Dīghāyukabuddhānañhi sarīraṃ suvaṇṇakkhandhasadisaṃ ekameva hoti. Bhagavā pana – ‘‘ahaṃ na ciraṃ ṭhatvā parinibbāyāmi, mayhaṃ sāsanaṃ tāva sabbattha na vitthāritaṃ, tasmā parinibbutassāpi me sāsapamattampi dhātuṃ gahetvā attano attano vasanaṭṭhāne cetiyaṃ katvā paricaranto mahājano saggaparāyaṇo hotū’’ti dhātūnaṃ vikiraṇaṃ adhiṭṭhāsi. Kati, panassa dhātuyo vippakiṇṇā, kati na vippakiṇṇāti. Catasso dāṭhā, dve akkhakā, uṇhīsanti imā satta dhātuyo na vippakiriṃsu, sesā vippakiriṃsūti. Tattha sabbakhuddakā dhātu sāsapabījamattā ahosi, mahādhātu majjhe bhinnataṇḍulamattā, atimahatī majjhe bhinnamuggamattāti[140].
- Chỉ có các phần xá-lợi đã được lưu lại: Trước đây được gọi là di thể do sự thiết lập bởi đồng một khung xương. Bây giờ, ngài nói rằng toàn bộ di thể đã phân tán, giải thích thêm: và các xá-lợi còn lại trông giống như nụ hoa nhài, trông giống như là các hạt ngọc trai trong suốt và trông giống như là vàng vậy. Bởi vì di thể của chư Phật có tuổi thọ dài được kết dính thành một khối trông giống như khối vàng. Trái lại, đức Thế Tôn đã chú nguyện về việc phân tán các xá-lợi rằng: “Ta không tồn tại lâu dài và sẽ viên tịch Niết Bàn. Giáo Pháp của ta chưa được truyền bá rộng rãi đến tất cả mọi nơi. Vì thế, khi ta đã viên tịch Niết Bàn, có số đông người sau khi đạt được xá-lợi dầu chỉ bằng hạt cải sẽ kiến tạo ngôi bảo điện ở chỗ cư ngụ của mỗi cá nhân và sẽ thường xuyên cúng dường; hãy có cõi trời là nơi đến trong thời vị lai.” Như vậy “có bao nhiêu loại xá-lợi của Ngài đã được phân tán? Bao nhiêu đã không được phân tán?” Bốn cái răng, hai xương đòn ở vai, và xương sọ, bảy phần xá-lợi này không bị phân tán. Các phần còn lại đã được phân tán. Trong đó, tất cả các xá-lợi nhỏ là có kích thước bằng hạt cải, xá-lợi loại lớn là có kích thước bằng hạt gạo bể đôi ở giữa, xá-lợi loại cực lớn là có kích thước của hạt đậu bể đôi ở giữa.
Udakadhārāti aggabāhumattāpi jaṅghamattāpi tālakkhandhamattāpi udakadhārā ākāsato patitvā nibbāpesi. Udakasālatoti parivāretvā ṭhitasālarukkhe sandhāyetaṃ vuttaṃ, tesampi hi khandhantaraviṭapantarehi udakadhārā nikkhamitvā nibbāpesuṃ. Bhagavato citako mahanto. Samantā pathaviṃ bhinditvāpi naṅgalasīsamattā udakavaṭṭi phalikavaṭaṃsakasadisā uggantvā citakameva gaṇhanti. Gandhodakenāti suvaṇṇaghaṭe rajataghaṭe ca pūretvā ābhatanānāgandhodakena. Nibbāpesunti suvaṇṇamayarajatamayehi aṭṭhadaṇḍakehi vikiritvā candanacitakaṃ nibbāpesuṃ.
Dòng nước: từ trên không trung có những vòi nước kích thước bằng bắp tay, kích thước bằng cẳng chân, kích thước bằng thân cây thốt-nốt phun xuống và làm nguội cái hòm. Nước từ cây sāla cũng đã phun ra: điều này nói liên quan đến những cây Sālā mọc xung quanh, có vòi nước ở giữa phần thân cây và ở phần giữa các nhánh của những cây sālā ấy đã phun ra và dập tắt. Giàn hỏa thiêu đức Thế Tôn thật là vĩ đại, có luồng nước kích thước bằng đầu cán cày vạch đất phun lên và phủ lấy giàn hỏa thiêu như là tràng ngọc pha lê trùm lên giàn hỏa thiêu. Nước thơm: với nước có đủ loại hương thơm đã được chuyển đến đổ đầy các chậu vàng và các chậu bạc. Đã dập tắt: Các vị vua xứ Mallā đã dùng tám cây gậy làm bằng vàng và bạc khơi ra và dập tắt giàn hỏa thiêu bằng gỗ trầm hương.
Ettha ca citake jhāyamāne parivāretvā ṭhitasālarukkhānaṃ sākhantarehi viṭapantarehi pattantarehi jālā uggacchanti, pattaṃ vā sākhā vā pupphaṃ vā daḍḍhā nāma natthi, kipillikāpi makkaṭakāpi[141] jālānaṃ antareneva vicaranti. Ākāsato patitaudakadhārāsupi sālarukkhehi nikkhantaudakadhārāsupi pathaviṃ bhinditvā nikkhantaudakadhārāsupi dhammakathāva[142] pamāṇaṃ. Evaṃ citakaṃ nibbāpetvā pana mallarājāno santhāgāre catujjātiyagandhaparibhaṇḍaṃ kāretvā lājapañcamāni pupphāni vikiritvā upari celavitānaṃ bandhitvā suvaṇṇatārakādīhi khacitvā tattha gandhadāma- mālādāma- ratanadāmāni olambetvā santhāgārato yāva makuṭabandhanasaṅkhātā sīsapasādhanamaṅgalasālā, tāva ubhohi passehi sāṇikilañjaparikkhepaṃ kāretvā upari celavitānaṃ bandhāpetvā suvaṇṇatārakādīhi khacitvā tatthapi gandhadāmamālādāmaratanadāmāni olambetvā maṇidaṇḍavaṇṇehi veṇūhi ca pañcavaṇṇaddhaje ussāpetvā samantā vātapaṭākā[143] parikkhipitvā susammaṭṭhāsu vīthīsu kadaliyo ca puṇṇaghaṭe ca ṭhapetvā daṇḍakadīpikā jāletvā alaṅkatahatthikkhandhe saha dhātūhi suvaṇṇadoṇiṃ ṭhapetvā mālāgandhādīhi pūjentā sādhukīḷitaṃ kīḷantā antonagaraṃ pavesetvā santhāgāre sarabhamayapallaṅke[144] ṭhapetvā upari setacchattaṃ dhāresuṃ. Evaṃ katvā – ‘‘atha kho kosinārakā mallā bhagavato sarīrāni sattāhaṃ santhāgāre sattipañjaraṃ karitvā’’ti sabbaṃ veditabbaṃ.
Và tại nơi ấy, trong khi giàn hỏa thiêu đang được đốt cháy và ngọn lửa đã vươn lên đến các cành, các nhánh, và các lá của những cây Sālā mọc ở xung quanh nhưng không có lá cây hoặc cành cây nào bị đốt cháy. Thậm chí các loài kiến, loài khỉ, và các loài sinh vật nhỏ bò băng ngang đám lửa. Điểm đặc biệt chính là tính chất tự nhiên của các vòi nước phun xuống từ hư không, của các vòi nước phun ra từ các cây Sālā, và của các luồng nước xẻ đất phun lên. Hơn nữa, sau khi giàn hỏa thiêu đã được dập tắt như thế, các vị vua xứ Mallā đã cho tẩm bốn loại hương thơm ở tại hội trường, đã rải rắc các loại bông hoa với bắp rang là loại thứ năm, đã cho buộc lên và trang hoàng với những ngôi sao bằng vàng ở bên trên các mái che bằng vải, rồi đã cho treo lên ở đó những vòng hương thơm, những vòng bông hoa, và những vòng châu ngọc. Họ đã cho làm hàng rào bằng màn che và thảm ở hai bên từ hội trường cho đến đại sảnh tế lễ được trang hoàng ở chóp đỉnh có tên là Makuṭabandhana, sau đó đã cho buộc lên và trang hoàng với những ngôi sao bằng vàng ở bên trên các mái che bằng vải, rồi đã cho treo lên ở đó những vòng hương thơm, những vòng bông hoa và những vòng châu ngọc luôn cả ở nơi ấy. Họ đã cho dựng lên những lá cờ ngũ sắc có các cán bằng ngọc ma-ni và bằng tre, đã cho bố trí các cờ và các biểu ngữ ở xung quanh, đã cho bố trí những cây chuối và những hũ đầy nước ở các con đường đã được tẩy uế và quét dọn. Họ đã cho đốt lên những ngọn đuốc, và đặt chiếc hòm vàng có các xá-lợi ở trên lưng con voi đã được trang hoàng, rồi cúng dường với các tràng hoa, các loại hương thơm, v.v… Trong khi hân hoan với cuộc lễ hội thánh thiện, họ đã tiến vào trung tâm thành phố, và đã đặt lên chiếc long sàng được làm bằng da hươu có che lọng trắng ở phía trên bên trong hội trường. Khi đã thực hiện như vậy – những người tộc Malla sống ở Kusinārā đã làm một cái lồng bằng các cây thương, và đã cho rào quanh lại bằng lớp tường thành gồm các cung tên rồi trọng vọng, cung kính, sùng bái, cúng dường các phần xá-lợi của đức Thế Tôn ở hội trường với các vũ điệu, với các bài ca, với các tấu khúc, với các tràng hoa, với các hương thơm trong bảy ngày,” bậc trí giả nên hiểu tất cả như đã trình bày.
Tattha sattipañjaraṃ karitvāti sattihatthehi purisehi parikkhipāpetvā. Dhanupākāranti paṭhamaṃ tāva hatthikumbhena kumbhaṃ paharante parikkhipāpesuṃ, tato asse gīvāya gīvaṃ paharante, tato rathe āṇikoṭiyā āṇikoṭiṃ paharante, tato yodhe bāhunā bāhuṃ paharante. Tesaṃ pariyante koṭiyā koṭiṃ paharamānāni dhanūni parikkhipāpesuṃ. Iti samantā yojanappamāṇaṃ ṭhānaṃ sattāhaṃ sannāhagavacchikaṃ viya katvā ārakkhaṃ saṃvidahiṃsu. Taṃ sandhāya vuttaṃ – ‘‘dhanupākāraṃ parikkhipāpetvā’’ti.
Trong đó, đã làm một cái lồng bằng các cây thương: đã bố trí xung quanh với những nam nhân ở tay cầm lao. Đã cho rào quanh lại bằng lớp tường thành gồm các cung tên: trước tiên đã bố trí xung quanh với những con voi có đầu với đầu đối diện nhau, kế đến là bố trí những con ngựa (xếp theo thứ tự) cổ với cổ sánh cùng nhau, tiếp đến là bố trí những cỗ xe có trục xe với trục xe kề sát nhau, sau đó là bố trí những chiến binh có cánh tay kề với các cánh tay. Và ở vòng ngoài cùng hàng các chiến binh ấy, họ đã bố trí đều khắp các cung thủ đang dùng tên đối chọi với tên. Sau khi (những người tộc Mallā) thực hiện khu vực chung quanh có khoảng cách một do-tuần trọn bảy ngày như con bò mặc áo giáp, họ đã sắp đặt sự bảo vệ như thế. Ngài muốn đề cập đến điều đó nên mới nói rằng – “Đã cho rào quanh lại bằng lớp tường thành gồm các cung tên.”
Kasmā panete evamakaṃsūti? Ito purimesu hi dvīsu sattāhesu te bhikkhusaṅghassa ṭhānanisajjokāsaṃ karontā khādanīyaṃ bhojanīyaṃ saṃvidahantā sādhukīḷikāya okāsaṃ na labhiṃsu. Tato nesaṃ ahosi – ‘‘imaṃ sattāhaṃ sādhukīḷitaṃ kīḷissāma, ṭhānaṃ kho panetaṃ vijjati yaṃ amhākaṃ pamattabhāvaṃ ñatvā kocideva āgantvā dhātuyo gaṇheyya, tasmā ārakkhaṃ ṭhapetvā kīḷissāmā’’ti. Te tathā evamakaṃsu.
Vì sao những người ấy đã làm như thế? Bởi vì trước đây hai tuần lễ, trong lúc sắp đặt chỗ đứng và ngồi, và chuẩn bị vật thực loại cứng loại mềm cho hội chúng tỳ khưu, họ đã không có cơ hội thưởng thức cuộc lễ hội thánh thiện. Do đó họ đã khởi ý rằng – “Tuần lễ này, chúng ta sẽ vui hưởng cuộc lễ hội thánh thiện. Vả lại, điều mà người nào đó biết được rằng khi đã nắm rõ tình trạng xao lãng của chúng ta có thể xâm nhập và lấy đi các xá-lợi sự kiện này được biết đến; vì thế chúng ta sẽ vui hưởng sau khi đã sắp đặt sự bảo vệ.” Vì lý do ấy, họ đã làm như thế.
Giảng về việc phân chia các phần xá-lợi
- Assosikho rājāti kathaṃ assosi? Paṭhamameva kirassa amaccā sutvā cintayiṃsu – ‘‘satthā nāma parinibbuto, na so sakkā puna āharituṃ. Pothujjanikasaddhāya pana amhākaṃ raññā sadiso natthi, sace esa imināva niyāmena suṇissati, hadayamassa phalissati. Rājā kho pana amhehi anurakkhitabbo’’ti te tisso suvaṇṇadoṇiyo āharitvā catumadhurassa pūretvā rañño santikaṃ gantvā etadavocuṃ – ‘‘Deva, amhehi supinako diṭṭho, tassa paṭighātatthaṃ tumhehi dukūladupaṭṭaṃ nivāsetvā yathā nāsāpuṭamattaṃ paññāyati, evaṃ catumadhuradoṇiyā nipajjituṃ vaṭṭatī’’ti. Rājā atthacarānaṃ amaccānaṃ vacanaṃ sutvā ‘‘evaṃ hotu tātā’’ti sampaṭicchitvā tathā akāsi.
- Đức vua Ajātasattu Vedehiputta xứ Magadha đã nghe rằng: Đã nghe được bằng cách nào? Trước tiên, các viên quan đại thần của nhà vua đã nghe tin rồi đã suy nghĩ rằng: “Bậc Đạo Sư đã viên tịch Niết Bàn, không còn cách nào để níu kéo Ngài lại nữa rồi. Vả lại, không có ai sánh bằng đức vua của chúng ta về đức tin của phàm nhân. Nếu đức vua nghe được tin theo cách thức này thì trái tim của ngài sẽ bị vỡ tan; hơn nữa, đức vua cần được chúng ta bảo vệ.” Rồi các viên quan đại thần đã mang lại ba cái hòm bằng vàng, cho đổ đầy bốn loại mật ong, sau đó đã đi đến gặp đức vua, và đã nói điều này: “Tâu bệ hạ, điều mộng mị đã được chúng tôi nhìn thấy. Việc cần làm để diệt trừ điều mộng mị ấy thì bệ hạ cần phải mặc y phục thật mịn hai lớp, rồi nằm xuống ở trong hòm chứa bốn loại mật ong sao cho chỉ còn nhìn thấy lỗ mũi.” Sau khi lắng nghe lời nói của những các viên quan đại thần, đức vua đã đồng ý: “Này các khanh, hãy vậy đi” và đã làm như thế.
Atheko amacco alaṅkāraṃ omuñcitvā kese pakiriya yāya disāya satthā parinibbuto, tadabhimukho hutvā añjaliṃ paggayha rājānaṃ āha – ‘‘Deva, maraṇato muccanakasatto nāma natthi, amhākaṃ āyuvaḍḍhano cetiyaṭṭhānaṃ puññakkhettaṃ abhisekasiñcako[145] so bhagavā satthā kusinārāya parinibbuto’’ti. Rājā sutvāva visaññījāto catumadhuradoṇiyaṃ usumaṃ muñci. Atha naṃ ukkhipitvā dutiyāya doṇiyā nipajjāpesuṃ. So puna saññaṃ labhitvā – ‘‘tātā, kiṃ vadethā’’ti pucchi. ‘‘Satthā, mahārāja, parinibbuto’’ti. Rājā punapi visaññījāto catumadhuradoṇiyā usumaṃ muñci. Atha naṃ tatopi ukkhipitvā tatiyāya doṇiyā nipajjāpesuṃ. So puna saññaṃ labhitvā ‘‘tātā, kiṃ vadethā’’ti pucchi. ‘‘Satthā, mahārāja, parinibbuto’’ti. Rājā punapi visaññījāto, atha naṃ ukkhipitvā nahāpetvā matthake ghaṭehi udakaṃ āsiñciṃsu.
Sau đó, một viên quan đại thần đã cởi bỏ đồ trang sức và xõa tóc ra, rồi quay mặt về hướng bậc Đạo Sư đã viên tịch Niết Bàn, chắp tay lên tâu với đức vua rằng: “Tâu bệ hạ, không có chúng sanh nào thoát khỏi tử thần. Đức Thế Tôn, bậc Đạo Sư của chúng ta là vị tăng thịnh của cuộc sống, là vị trí của ngôi bảo điện, là thửa ruộng của phước báu, là vương miện của sự tôn vương, đã viên tịch Niết Bàn ở Kusinārā.” Đức vua sau khi nghe tin đã bị bất tỉnh và chiếc hòm chứa bốn loại mật ong đã tiết ra hơi nóng. Khi đó, họ đã nâng đức vua ra khỏi chiếc hòm thứ nhất và đặt nằm xuống ở chiếc hòm thứ hai. Đức vua sau khi hồi tỉnh – đã hỏi rằng “Này khanh, khanh nói điều gì?” “Tâu bệ hạ, bậc Đạo Sư đã viên tịch Niết Bàn.” Đức vua lại bị bất tỉnh và chiếc hòm chứa bốn loại mật ong đã tiết ra hơi nóng. Khi ấy, họ đã nâng đức vua ra khỏi chiếc hòm thứ hai và đặt nằm xuống ở chiếc hòm thứ ba. Sau khi hồi tỉnh lại lần nữa, đức vua đã hỏi rằng: “Này khanh, khanh nói điều gì?” “Tâu bệ hạ, bậc Đạo Sư đã viên tịch Niết Bàn.” Đức vua lại bị bất tỉnh, và sau đó các viên quan đại thần đã nâng đức vua ra khỏi chỗ ấy, đã cho tắm rửa, rồi đã rưới nước từ các chum lên trên đầu.
Rājā saññaṃ labhitvā āsanā vuṭṭhāya gandhaparibhāvite maṇivaṇṇe kese vikiritvā suvaṇṇaphalakavaṇṇāya piṭṭhiyaṃ pakiritvā pāṇinā uraṃ paharitvā pavāḷaṅkuravaṇṇāhi suvaṭṭitaṅgulīhi suvaṇṇabimbisakavaṇṇaṃ uraṃ sibbanto viya gahetvā paridevamāno ummattakavesena antaravīthiṃ otiṇṇoã So alaṅkatanāṭakaparivuto nagarato nikkhamma jīvakambavanaṃ gantvā yasmiṃ ṭhāne nisinnena bhagavatā dhammo desito taṃ oloketvā – ‘‘Bhagavā sabbaññu, nanu imasmiṃ ṭhāne nisīditvā dhammaṃ desayittha, sokasallaṃ me vinodayittha, tumhe mayhaṃ sokasallaṃ nīharittha, ahaṃ tumhākaṃ saraṇaṃ gato[146]. Idāni pana me paṭivacanampi na detha, bhagavā’’ti punappunaṃ paridevitvā ‘‘Nanu bhagavā ahaṃ aññadā evarūpe kāle ‘tumhe mahābhikkhusaṅghaparivārā jambudīpatale cārikaṃ carathā’ti suṇomi, idāni panāhaṃ tumhākaṃ ananurūpaṃ ayuttaṃ pavattiṃ suṇomī’’ti evamādīni ca vatvā saṭṭhimattāhi gāthāhi bhagavato guṇaṃ anussaritvā cintesi – ‘‘mama parideviteneva[147] na sijjhati, dasabalassa dhātuyo āharāpessāmī’’ti evaṃ assosi. Sutvā ca imissā visaññibhāvādipavattiyā avasāne dūtaṃ pāhesi. Taṃ sandhāya atha kho rājātiādi vuttaṃ.
Sau khi hồi tỉnh, đức vua đã từ chỗ ngồi đứng dậy khiến mái tóc màu ngọc ma-ni được tẩm hương thơm xõa xuống trên lưng có hình dáng như thể tấm khiên bằng vàng, dùng lòng bàn tay vỗ vào bộ ngực, đã nắm lấy bộ ngực có màu sắc tựa như trái trái bình bát dây màu vàng chói như thể là đang cấu xé bằng những ngón tay có màu sắc của mầm san hô đang được quặp cong vào. Và trong lúc than vãn, đức vua đã bước ra giữa đường với dáng vẻ của người điên. Đức vua có nàng vũ công đã được trang điểm làm tùy tùng, ngài đã rời khỏi thành phố đi đến vườn xoài của lương y Jīvaka, sau đó đã nhìn vào địa điểm đức Thế Tôn đã ngồi thuyết giảng Giáo Pháp, rồi mải miết than vãn rằng – “Bạch đức Thế Tôn đấng Toàn Tri, phải chăng ngài đã ngồi ở chỗ này thuyết giảng Giáo Pháp đến con? Ngài đã nhổ lên mũi tên sầu muộn, ngài đã lấy đi mũi tên sầu muộn của con, con đã đi đến nương nhờ nơi ngài. Bạch đức Thế Tôn, kể từ bây giờ ngài không ban cho con dầu một lời đáp lại!” – “Bạch đức Thế Tôn, phải chăng vào một lúc khác ở thời điểm như thế này con đã được nghe rằng: ‘Ngài cùng với đại chúng tỳ khưu tùy tùng đang đi du hành đến vùng đất Jambudīpa’? Vậy mà giờ đây con lại được nghe về điều không hợp lý và sai lạc về Ngài.” Sau khi đã nói những lời tương tợ như thế, v.v…, đức vua đã tưởng niệm đến ân đức của Thế Tôn bằng sáu mươi bài kệ, sau đó đã suy nghĩ rằng: – “Ta chẳng được gì trong khi than vãn. Ta sẽ bảo mang lại các xá-lợi của đấng Thập Lực,” đã nghe như vậy. Rồi sau đó, sau khi tỉnh lại từ cơn bất tỉnh đã phái sứ giả đi. Ngài đề cập đến vấn đề đó nên mới nói rằng: “Sau đó, đức vua Ajātasattu Vedehiputta…”
Tattha dūtaṃ pāhesīti dūtañca paṇṇañca pesesi. Pesetvā ca pana – ‘‘sace dassanti, sundaraṃ. No ce dassanti, āharaṇupāyena āharissāmī’’ti caturaṅginiṃ senaṃ sannayhitvā sayampi nikkhantoyeva. Yathā ca ajātasattu, evaṃ licchavīādayopi dūtaṃ pesetvā sayampi caturaṅginiyā senāya nikkhamiṃsuyeva. Tattha pāveyyakā sabbehi āsannatarā kusinārato tigāvutantare nagare vasanti, bhagavāpi pāvaṃ pavisitvāva kusināraṃ gato. Atha kasmā paṭhamataraṃ na āgatāti ce? Mahāparivārā panete rājāno mahāparivāraṃ karontāva pacchato jātā.
Trong câu đó, đã phái sứ giả đi: đã phái sứ giả và mang thơ đến gặp (các vị vua xứ Mallā). Và hơn nữa, sau khi đã phái người đi, đức vua (nghĩ rằng): – “Nếu họ trao cho thì tốt đẹp; nếu họ không trao cho, thì ta sẽ chiếm đoạt bằng cách cướp lấy,” sau đó đã đích thân tập hợp đoàn quân gồm bốn loại binh chủng và xuất chinh. Các vị vua Licchavi cũng phái sứ giải đi, đã đích thân tập hợp đoàn quân gồm bốn loại binh chủng và xuất chinh tương tự như đức vua Ajātasattu. Nếu có câu hỏi rằng: trong số những vị ấy, những người tộc Malla ở Pāvā có khoảng cách (đoạn đường) gần hơn tất cả; họ cư ngụ ở thành phố Pāvā cách thành phố Kusinārā chưa đến ba gāvuta, ngay cả đức Thế Tôn cũng đã ghé vào thành phố Pāvā rồi mới đi đến thành phố Kusinārā. Vậy tại sao các vị vua xứ Mallā ở thành phố Pāvā lại không đi đến trước? Bởi vì, các vị vua có đoàn tùy tùng đông đảo, khi làm phận sự cùng đoàn tùy tùng đông đảo, nên mới đến sau.
Te saṅghe gaṇe etadavocunti sabbepi te sattanagaravāsino āgantvā – ‘‘amhākaṃ dhātuyo vā dentu, yuddhaṃ vā’’ti kusinārānagaraṃ parivāretvā ṭhite – ‘‘etaṃ bhagavā amhākaṃ gāmakkhette’’ti paṭivacanaṃ avocuṃ. Te kira evamāhaṃsu – ‘‘na mayaṃ satthu sāsanaṃ pahiṇimha, nāpi gantvā ānayimha. Satthā pana sayameva āgantvā sāsanaṃ pesetvā amhe pakkosāpesi. Tumhepi kho pana yaṃ tumhākaṃ gāmakkhette ratanaṃ uppajjati, na taṃ amhākaṃ detha. Sadevake ca loke buddharatanasamaṃ ratanaṃ nāma natthi, evarūpaṃ uttamaratanaṃ labhitvā mayaṃ na dassāma. Na kho pana tumhehiyeva mātuthanato khīraṃ pītaṃ, amhehipi mātuthanato khīraṃ pītaṃ. Na tumheyeva purisā, amhepi purisā hotū’’ti aññamaññaṃ ahaṃkāraṃ katvā sāsanapaṭisāsanaṃ pesenti, aññamaññaṃ mānagajjitaṃ gajjanti. Yuddhe pana sati kosinārakānaṃyeva jayo abhavissa. Kasmā? Yasmā dhātupāsanatthaṃ[148] āgatā devatā nesaṃ pakkhā ahesuṃ. Pāḷiyaṃ pana – ‘‘bhagavā amhākaṃ gāmakkhette parinibbuto, na mayaṃ dassāma bhagavato sarīrānaṃ bhāga’’nti ettakameva āgataṃ.
(Những người tộc Malla sống ở Kusinārā) đã nói với các hội chúng, với các nhóm ấy điều này: Thậm chí tất cả cư dân của bảy thành phố ấy cũng đã đi đến tuyên bố rằng: “Hãy trao ra các xá-lợi cho chúng tôi hoặc là sẽ có chiến tranh,” rồi thiết lập quân lính bao vây thành phố Kusinārā. – Các vị vua xứ Malla đã đáp rằng: “Đức Thế Tôn đã viên tịch Niết Bàn trong cánh đồng làng của chúng tôi. Được biết các vị ấy đã nói như vầy: “Chúng tôi đã không gửi tin đến bậc Đạo Sư và đã không đi đến rước về. Hơn nữa, chính bậc Đạo Sư đã đích thân đi đến, đã gửi tin, và đã cho gọi chúng tôi đến. – Ngay cả các vị cũng thế, khi báu vật phát sanh trong cánh đồng làng của các vị, các vị sẽ không cho vật ấy đến chúng tôi. Trong thế gian tính luôn cả Thiên giới, không có báu vật nào sánh bằng Phật Bảo; sau khi nhận được báu vật tối thượng như thế này chúng tôi sẽ không trao ra.” Họ đã thể hiện sự cao ngạo với nhau rằng: “Chỉ có các ông được bú sữa từ vú mẹ, còn chúng tôi không phải không được bú? Không lẽ chỉ có các ngươi là đàn ông, còn chúng tôi không phải là đàn ông sao! Hãy vậy đi! Hãy vậy đi!” Trong khi lời qua tiếng lại, họ đã thốt lên những lời la hét ngạo mạn với nhau. Hơn nữa, nếu chiến trận xảy ra, chiến thắng sẽ thuộc về chính những người tộc Malla ở Kusinārā. Tại sao? Bởi vì chư Thiên đã đến để tôn vinh xá-lợi hùa theo phe những người ấy. Hơn nữa, trong Chánh Tạng Pāḷī chỉ dẫn chứng chừng này – “Đức Thế Tôn đã viên tịch Niết Bàn trong cánh đồng làng của chúng tôi, cánh đồng làng của chúng tôi, chúng tôi sẽ không ban phát phần xá-lợi của đức Thế Tôn.”
- Evaṃ vutte doṇo brāhmaṇoti doṇabrāhmaṇo imaṃ tesaṃ vivādaṃ sutvā – ‘‘ete rājāno bhagavato parinibbutaṭṭhāne vivādaṃ karonti, na kho panetaṃ patirūpaṃ, alaṃ iminā kalahena, vūpasamessāmi nan”ti so gantvā te saṅghe gaṇe etadavoca. Kimavoca? Unnatappadese ṭhatvā dvibhāṇavāraparimāṇaṃ doṇagajjitaṃ nāma avoca. Tattha paṭhamabhāṇavāre tāva ekapadampi te na jāniṃsu. Dutiyabhāṇavārapariyosāne – ‘‘ācariyassa viya bho saddo, ācariyassa viya bho saddo’’ti sabbe niravā ahesuṃ. Jambudīpatale kira kulaghare jātā yebhuyyena tassa na antevāsiko nāma natthi. Atha so te attano vacanaṃ sutvā nirave tuṇhībhūte viditvā puna etadavoca – ‘‘suṇantu bhonto’’ti etaṃ gāthādvayaṃ avoca.
- Khi được nói như vậy, Bà-la-môn Doṇa: Bà-la-môn Doṇa sau khi nghe cuộc tranh cãi của các Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn ấy, đã suy nghĩ rằng – “Những vị vua này gây nên cuộc cãi vã ở địa điểm đã viên tịch Niết Bàn của đức Thế Tôn. Hơn nữa, điều này là không thích hợp. Quá đủ với cuộc gây gổ này rồi! Ta sẽ làm lắng dịu việc ấy,” Vị ấy đã đi nói với các hội chúng, với các nhóm của các vị vua. Đã nói như thế nào? Bà-la-môn Doṇa đã đứng ở bục cao nói lên kệ ngôn có tên là “Tiếng rống của Doṇa” dài tương đương hai tụng phẩm. Trong hai tụng phẩm ấy, khi còn ở vào tụng phẩm thứ nhất, các vị tộc Mallā không biết gì dầu chỉ một phân đoạn. Đến khi chấm dứt tụng phẩm thứ nhì, họ đã bàn tán rằng: “Này quý vị, hình như là tiếng nói của thầy giáo thọ! Này quý vị, hình như là tiếng nói của thầy giáo thọ!” rồi tất cả đều im lặng. Nghe rằng ở trên toàn bộ vùng đất Jambudīpa, người được sanh ra ở gia đình danh giá phần nhiều đều là học trò của vị ấy. Khi ấy, Bà-la-môn biết rằng: họ đã nghe được tiếng nói của mình nên im lặng, nên đã nói lập lại hai lần kệ ngôn này rằng: “Thưa các ngài, xin hãy lắng nghe…”
Tattha amhākaṃ buddhoti amhākaṃ buddho. Ahu khantivādoti buddhabhūmiṃ appatvāpi pāramiyo pūrento khantivāditāpasakāle dhammapālakumārakāle chaddantahatthikāle bhūridattanāgarājakāle campeyyanāgarājakāle saṅkhapālanāgarājakāle mahākapikāle aññesu ca bahūsu jātakesu paresu kopaṃ akatvā khantimeva akāsi. Khantimeva vaṇṇayi. Kimaṅgaṃ pana etarahi iṭṭhāniṭṭhesu tādilakkhaṇaṃ patto, sabbathāpi amhākaṃ buddho khantivādo ahosi. Tassa evaṃvidhassa na hi sādhu yaṃ uttamapuggalassa, sarīrabhāge siyā sampahāroti, “na hi sādhuyanti” na hi sādhu ayaṃ. Sarīrabhāgeti sarīravibhāganimittaṃ, dhātukoṭṭhāsahetūti attho. Siyā sampahāroti āvudhasampahāro sādhu na siyāti vuttaṃ hoti.
Ở đó, đức Phật của chúng tôi: đức Phật của chúng tôi. Là vị đã ca ngợi về nhẫn nại: Ngay cả khi chưa đạt đến bản thể của vị Phật, trong lúc đang làm tròn đủ các Ba-la-mật vào thời kỳ là đạo sĩ khổ hạnh Khantivāda, vào thời kỳ là vương tử Dhammapāla, vào thời kỳ là con voi Chaddanta, vào thời kỳ là rồng chúa Bhūridatta, vào thời kỳ là rồng chúa Campeyya, vào thời kỳ là rồng chúa Saṅkhapāla, vào thời kỳ là con khỉ đầu đàn, thậm chí trong nhiều kiếp sống khác đức Bồ Tát đã không gây sự tức giận đối với người khác, và đã thực hiện sự kham nhẫn, ngài đã ca ngợi sự kham nhẫn. Còn nói gì nữa, trong trường hợp được thỏa mãn hay không được thỏa mãn đã xảy ra như tình trạng hiện nay, đức Phật sẽ giáo huấn cho chúng ta về kham nhẫn có liên quan đến mọi khía cạnh còn nhiều hơn nữa. Việc ấy là như vầy: Bởi vì điều này là không tốt đẹp cho bậc Tối Thượng Nhân nếu có sự xung đột trong việc chia phần xá-lợi: Là điều không được tốt đẹp” nghĩa là điều này không được tốt đẹp. Trong việc chia phần xá-lợi: có ý nghĩa là “hiện tượng chia phần xá-lợi, tức là lý do của việc phân chia xá-lợi.” Nếu có sự tranh giành: là đề cập đến “nếu xảy ra sự tranh giành bằng vũ khí là không tốt đẹp.”
Sabbeva bhonto sahitāti sabbeva bhonto sahitā hotha, mā bhijjatha. Samaggāti kāyena ca vācāya ca ekasannipātā ekavacanā samaggā hotha. Sammodamānāti cittenāpi aññamaññaṃ sammodamānā hotha. Karomaṭṭhabhāgeti bhagavato sarīrāni aṭṭha bhāge karoma. Cakkhumatoti pañcahi cakkhūhi cakkhumato buddhassa. Na kevalaṃ tumheyeva, bahujanopi pasanno, tesu ekopi laddhuṃ ayutto nāma natthīti bahuṃ kāraṇaṃ vatvā saññāpesi.
Thưa các ngài, hết thảy tất cả hãy đoàn kết: Thưa các ngài, tất cả các ngài hãy đoàn kết, chớ có chia rẽ. Đồng lòng: nghĩa là các ngài hãy chung một khối, chung một lời, hợp nhất về phương diện thân và khẩu. Thuận thảo: nghĩa là các ngài hãy hoan hỷ với nhau ngay cả trong tâm. Hãy phân chia thành tám phần: nghĩa là hãy phân chia xá-lợi của đức Thế Tôn thành tám phần. Bậc Hữu Nhãn: nghĩa là đối với đức Phật, tức là bậc Hữu Nhãn, là vị có năm loại nhãn quan. Nhưng không chỉ riêng các ngài, mà còn có nhiều người cũng đã có lòng thành tín. Nếu mỗi một người trong số họ đều được nhận lãnh (xá-lợi) thì cũng không phải là điều vô lý. Sau khi nêu ra nhiều lý do, vị ấy đã làm cho mọi người thấu hiểu.
- Tesaṃ saṅghānaṃ gaṇānaṃ paṭissutvāti tesaṃ tesaṃ tato tato samāgatasaṅghānaṃ samāgatagaṇānaṃ paṭissuṇitvā. Bhagavatosarīrāni aṭṭhadhā samaṃ suvibhattaṃ vibhajitvāti ettha ayamanukkamo – doṇo kira tesaṃ paṭissuṇitvā suvaṇṇadoṇiṃ vivarāpesi. Rājāno āgantvā doṇiyaṃyeva ṭhitā suvaṇṇavaṇṇā dhātuyo disvā – ‘‘Bhagavā sabbaññu pubbe mayaṃ tumhākaṃ dvattiṃsamahāpurisalakkhaṇapaṭimaṇḍitaṃ chabbaṇṇabuddharasmikhacitaṃ asītianubyañjanasamujjalitasobhaṃ suvaṇṇavaṇṇaṃ sarīraṃ addasāma, idāni pana suvaṇṇavaṇṇāva dhātuyo avasiṭṭhā jātā, na yuttamidaṃ bhagavā tumhāka’’nti parideviṃsu.
- Bà-la-môn Doṇa đã nhận lời các hội chúng, các nhóm ấy như thế: Lăng nghe lời nói của hội chúng, các nhóm đến tụ hội từ chỗ này nơi nọ Bà-la-môn Doṇa phân chia xá-lợi của đức Thế Tôn thành phần đều bằng nhau. Tại nơi ấy, việc này đã xảy ra kế tiếp: “Đã khéo phân chia các xá-lợi của đức Thế Tôn thành tám phần đều nhau” – Nghe rằng Doṇa đã lập tức nghe theo lời các vị vua ấy và đã cho người mở ra cái hòm bằng vàng. Các vị vua đã đi đến ở ngay chỗ cái hòm và nhìn thấy các xá-lợi có màu sắc hoàng kim ấy nên đã tiếc nuối rằng – “Ôi đức Thế Tôn! Ôi đấng Toàn Tri! Trước đây chúng tôi đã nhìn thấy cơ thể có màu sắc hoàng kim được trang hoàng bằng ba mươi hai tướng trạng của bậc Đại Nhân, được điểm tô với hào quang sáu màu của đấng Giác Ngộ, và rực rỡ với tám mươi vẻ đẹp phụ, thế mà giờ đây chỉ còn lại có các xá-lợi màu hoàng kim được lưu lại. Ôi đức Thế Tôn! Điều này là không hợp lý đối với Ngài!”
Brāhmaṇopi tasmiṃ samaye tesaṃ pamattabhāvaṃ ñatvā dakkhiṇadāṭhaṃ gahetvā veṭhantare ṭhapesi. Atha pacchā aṭṭhadhā samaṃ suvibhattaṃ vibhaji. Sabbāpi dhātuyo pākatikanāḷiyā soḷasa nāḷiyo ahesuṃ, ekekanagaravāsino dve dve nāḷiyo labhiṃsu. Brāhmaṇassa pana dhātuyo vibhajantasseva sakko devānamindo – ‘‘kena nu kho sadevakassa lokassa kaṅkhacchedanatthāya catusaccakathāya paccayabhūtā bhagavato dakkhiṇadāṭhā gahitā’’ti olokento ‘‘brāhmaṇena gahitā’’ti disvā – ‘‘brāhmaṇopi dāṭhāya anucchavikaṃ sakkāraṃ kātuṃ na sakkhissati, gaṇhāmi na’’nti veṭhantarato gahetvā suvaṇṇacaṅkoṭake ṭhapetvā devalokaṃ netvā cūḷāmaṇicetiye patiṭṭhapesi.
Vào lúc bấy giờ, vị Bà-la-môn biết được các vị vua đang rơi vào trạng thái xao lãng nên đã cầm lấy chiếc răng bên phải để vào bên trong chiếc khăn đội đầu. Sau đó, vị ấy đã phân chia thành tám phần một cách đồng đều nhau. Tất cả các xá-lợi ấy là mười sáu nāḷī tính theo nāḷī khuôn mẫu. Các cư dân của mỗi một thành phố đã nhận được đủ hai nāḷī. Hơn nữa, trong khi Bà-la-môn đang phân chia xá-lợi, Thiên chủ Sakka đã xem xét rằng: “Ai đã lấy đi chiếc răng bên phải của đức Thế Tôn là vật thiết yếu trong việc thuyết giảng Tứ Diệu Đế nhằm mục đích đoạn trừ mối nghi hoặc của thế gian gồm luôn cả Thiên giới nữa?” và đã nhìn thấy rằng: “Vị Bà-la-môn đã lấy đi” (nên đã suy nghĩ rằng): “Vị Bà-la-môn sẽ không có khả năng thực hiện sự tôn kính một cách đúng đắn đối với chiếc răng. Ta hãy lấy đi vật ấy,” rồi đã lấy ra từ bên trong chiếc khăn đội đầu và đặt vào trong chiếc rương bằng vàng, sau đó đã đưa về Thiên giới và tôn trí trong ngôi bảo điện Cūḷāmaṇī.
Brāhmaṇopi dhātuyo vibhajitvā dāṭhaṃ apassanto corikāya gahitattā – ‘‘kena me dāṭhā gahitā’’ti pucchitumpi nāsakkhi. ‘‘Nanu tayāva dhātuyo bhājitā, kiṃ tvaṃ paṭhamaṃyeva attano dhātuyā atthibhāvaṃ na aññāsī’’ti. Attani dosāropanaṃ sampassanto – ‘‘mayhampi koṭṭhāsaṃ dethā’’ti vattumpi nāsakkhi. Tato – ‘‘ayampi suvaṇṇatumbo dhātugatikova, yena tathāgatassa dhātuyo mitā, imassāhaṃ thūpaṃ karissāmī’’ti cintetvā imaṃ me bhonto tumbaṃ dadantūti āha. Pippalivaniyāmoriyāpi ajātasattuādayo viya dūtaṃ pesetvā yuddhasajjāva nikkhamiṃsu.
Còn vị Bà-la-môn sau khi phân chia các xá-lợi xong không nhìn thấy chiếc răng, nhưng do bản thân chiếm lấy bởi hành động trộm cắp nên đã không thể hỏi rằng – “Ai đã lấy đi phần chiếc răng của ta?” Vì ngại bị chất vấn rằng: “Không phải các xá-lợi đã được chính ông phân chia hay sao? Chẳng lẽ ngay từ lúc ban đầu bản thân ông đã không biết về tình trạng hiện hữu của các xá-lợi?” Trong khi suy xét về việc gây ra sự sai lầm của bản thân, vị ấy cũng đã không thể nói rằng: “Các ngài cũng phải cho phần chia đến tôi nữa chớ.” Sau đó, vị ấy đã suy nghĩ rằng: “Cái chén vàng này cũng được xem là xá-lợi, vì nhờ nó các xá-lợi của đấng Như Lai đã được đo lường, ta sẽ xây dựng ngôi bảo tháp cho vật này” rồi đã nói rằng: “Xin các ngài hãy cho tôi cái chén này.” Luôn cả những người Moriya xứ Pipphalivana cũng đã phái sứ giả đi, rồi đã xuất quân đi đến với sự sẵn sàng chiến đấu tương tự như Vua Ajātasattu và những người khác.
Giảng về việc cúng dường bảo điện thờ xá-lợi
- Rājagahe bhagavato sarīrānaṃ thūpañca mahañca akāsīti kathaṃ akāsi? Kusinārato yāva rājagahaṃ pañcavīsati yojanāni, etthantare aṭṭhausabhavitthataṃ samatalaṃ maggaṃ kāretvā, yādisaṃ mallarājāno makuṭabandhanassa ca santhāgārassa ca antare pūjaṃ kāresuṃ, tādisaṃ pañcavīsatiyojanepi magge pūjaṃ kāretvā lokassa anukkaṇṭhanatthaṃ sabbattha antarāpaṇe pasāretvā suvaṇṇadoṇiyaṃ pakkhittadhātuyo sattipañjarena parikkhipāpetvā attano vijite pañcayojanasataparimaṇḍale manusse sannipātāpesi. Te dhātuyo gahetvā kusinārato sādhukīḷitaṃ kīḷantā nikkhamitvā yattha yattha suvaṇṇavaṇṇāni pupphāni passanti, tattha tattha dhātuyo sattiantare ṭhapetvā pūjaṃ akaṃsu. Tesaṃ pupphānaṃ khīṇakāle gacchanti, rathassa dhuraṭṭhānaṃ pacchimaṭṭhāne sampatte satta divase sādhukīḷitaṃ kīḷanti. Evaṃ dhātuyo gahetvā āgacchantānaṃ satta vassāni satta māsāni satta divasāni vītivattāni.
- Đức vua Ajātasattu Vedehiputta xứ Magadha đã thực hiện bảo tháp và lễ hội cho các xá-lợi của đức Thế Tôn ở Rājagaha, đã làm như thế nào? (Đức vua Ajātasattu) đã cho làm con đường dài hai mươi lăm do-tuần nối liền từ Kusinārā đến Rājagaha, ở giữa con đường ấy có bề mặt bằng phẳng và bề rộng tám usabha. Rồi các vị vua xứ Mallā đã thực hiện sự cúng dường ở khoảng giữa của bảo điện Makuṭabandhana và hội trường như thế nào thì đức vua Ajātasattu cũng đã thực hiện sự cúng dường ở con đường dài hai mươi lăm do-tuần như thế ấy. Sau khi đã cho trưng bày nơi hợp chợ ở tất cả các nơi nhằm để xoa dịu nỗi buồn thảm của thế gian và sau khi đã bố trí xung quanh các xá-lợi được đặt trong rương vàng vơi các dàn gươm giáo, đức vua Ajātasattu đã cho triệu tập lại dân chúng thuộc phạm vi năm trăm do-tuần trong lãnh thổ của mình. Những người ấy sau khi nhận lấy các xá-lợi, họ đã vui hưởng cuộc lễ hội thánh thiện đồng thời đã rời khỏi Kusinārā. Họ nhìn thấy các bông hoa xinh đẹp ở những nơi nào thì họ đã an vị các xá-lợi ở những nơi ấy giữa những hàng gươm giáo, đến khi các bông hoa ấy héo tàn thì họ tiếp tục di chuyển. Họ đã vui hưởng cuộc lễ hội thánh thiện trong bảy ngày rồi đến được địa điểm cuối cùng là đoạn đường dành cho xe ngựa. Như thế, sau khi nhận được các xá-lợi, những người rước xá-lợi đã trải qua bảy năm, bảy tháng, bảy ngày.
Micchādiṭṭhikā — “samaṇassa gotamassa parinibbutakālato paṭṭhāya balakkārena sādhukīḷitāya upaddutamha sabbe no kammantā naṭṭhā”ti ujjhāyantā manaṃ padosetvā chaḷāsītisahassamattā apāye nibbattā. Khīṇāsavā āvajjitvā “mahājano manaṃ padosetvā apāye nibbattī”ti disvā — “sakkaṃ devarājānaṃ dhātuāharaṇūpāyaṃ kāressāmā”ti tassa santikaṃ gantvā tamatthaṃ ārocetvā — “dhātuāharaṇūpāyaṃ karohi mahārājā”ti āhaṃsu. Sakko āha — “bhante, puthujjano nāma ajātasattunā samo saddho natthi, na so mama vacanaṃ karissati, apica kho māravibhiṃsakasadisaṃ vibhiṃsakaṃ dassessāmi, mahāsaddaṃ sāvessāmi, yakkhagāhakakhipitakārocake karissāmi, tumhe ‘amanussā mahārāja kupitā dhātuyo āharāpethā’ti vadeyyātha, evaṃ so āharāpessatī”ti. Atha kho sakko taṃ sabbaṃ akāsi.
Những kẻ tà kiến trong khi phàn nàn rằng: “Kể từ lúc Sa-môn Gotama viên tịch Niết Bàn trở đi, chúng ta đã bị quấy rầy bởi cuộc lễ hội thánh thiện với hình thức rầm rộ khiến tất cả các việc kinh doanh của chúng ta không tồn tại,” đã làm cho tâm trí bị ô nhiễm và đã bị sanh vào địa ngục với số lượng tám mươi sáu ngàn người. Các bậc Lậu Tận đã suy xét rằng: “Nhiều người đã làm cho tâm trí bị ô nhiễm và đã bị sanh vào địa ngục,” đến khi nhìn thấy Vua Trời Sakka đã suy nghĩ rằng: “Chúng ta sẽ để cho Vua Trời Sakka tạo ra phương thức đem lại xá-lợi,” sau đó đã đi đến gặp Vua Trời Sakka, kể lại sự việc ấy, và đã nói rằng: “Tâu đại vương, mong ngài hãy thực hiện phương thức đem lại xá-lợi.” Vua Trời Sakka đã nói rằng: “Thưa ngài, phàm nhân không ai có đức tin ngang bằng với vua Ajātasattu, vị ấy sẽ không làm theo lời nói của ta đâu, thế thì ta sẽ thị hiện sự kinh hoàng có thể kinh sợ, tương tự như sự kinh hoàng có thể kinh sợ của Ma Vương. Ta sẽ tạo ra âm thanh lớn, sẽ tạo ra người bệnh run rẩy tợ như người bị ma nhập. Xin các vị hãy nói rằng: ‘Tâu đại vương, nhóm phi nhân nổi giận, ngài hãy mau ra lệnh đem các xá-lợi đến.’ Với phương thức như thế, đức vua sẽ ra lệnh đem lại các xá-lợi.” Sau đó, Vua Trời Sakka đã thực hiện tất cả các việc ấy.
Therāpi rājānaṃ upasaṅkamitvā – ‘‘Mahārāja, amanussā kupitā, dhātuyo āharāpehī’’ti bhaṇiṃsu. Rājā – ‘‘Na tāva, bhante, mayhaṃ cittaṃ tussati. Evaṃ santepi āharantū’’ti āha. Sattamadivase dhātuyo āhariṃsu. Evaṃ āhatā[149] dhātuyo gahetvā rājagahe thūpañca mahañca akāsi. Itarepi attano attano balānurūpena āharitvā sakasakaṭṭhānesu thūpañca mahañca akaṃsu.
Còn phía các vị trưởng lão sau khi đến gặp đức vua đã nói rằng: “Tâu đại vương, phi nhân nổi giận, ngài hãy mau ra lệnh đem lại các xá-lợi.” Đức vua đã nói rằng: “Bạch các ngài, đến thế mà tâm của trẫm còn chưa được hoan hỷ. Tuy nhiên, nếu xảy ra các việc như vậy thì hãy đem lại (các xá-lợi).” Vào ngày thứ bảy họ đã mang các xá-lợi đến. Như thế, sau khi nhận lấy các xá-lợi đã được đem lại, đức vua đã xây dựng ngôi bảo tháp ở thành Rājagaha và tổ chức đại lễ liên quan. Luôn cả các vị vua khác cũng đã rước đi các xá-lợi tùy theo năng lực của mình, đã thực hiện (xây dựng) ngôi bảo tháp tại lãnh thổ của mỗi vị và tổ chức đại lễ liên quan.
- Evametaṃ bhūtapubbanti evaṃ etaṃ dhātubhājanañceva dasathūpakaraṇañca jambudīpe bhūtapubbanti pacchā saṅgītikārakā āhaṃsu. Evaṃ patiṭṭhitesu pana thūpesu mahākassapatthero dhātūnaṃ antarāyaṃ disvā rājānaṃ ajātasattuṃ upasaṅkamitvā ‘‘mahārāja, ekaṃ[150] dhātunidhānaṃ kātuṃ vaṭṭatī’’ti āha. Sādhu, bhante, nidhānakammaṃ tāva mama hotu, sesadhātuyo pana kathaṃ āharāmīti? Na, mahārāja, dhātuāharaṇaṃ tuyhaṃ bhāro, amhākaṃ bhāroti. Sādhu, bhante, tumhe dhātuyo āharatha, ahaṃ dhātunidhānaṃ karissāmīti. Thero tesaṃ tesaṃ rājakulānaṃ paricaraṇamattameva ṭhapetvā sesadhātuyo āhari. Rāmagāme pana dhātuyo nāgā pariggaṇhiṃsu, tāsaṃ antarāyo natthi. ‘‘Anāgate laṅkādīpe mahāvihāre mahācetiyamhi nidahissantī’’ti tā na āharitvā sesehi sattahi nagarehi āharitvā rājagahassa pācīnadakkhiṇadisābhāge ṭhatvā – ‘‘imasmiṃ ṭhāne yo pāsāṇo atthi, so antaradhāyatu, paṃsu suvisuddhā hotu, udakaṃ mā uṭṭhahatū’’ti adhiṭṭhāsi.
- Điều ấy trước đây đã xảy ra như vậy: việc phân chia xá-lợi và việc xây dựng mười ngôi bảo tháp đã từng xảy ra ở Jambudīpa, sau đó các vị trưởng lão đã triệu tập đại hội nên mới nói thế. Vả lại, khi các bảo tháp đã được thiết lập như thế, trưởng lão Mahākassapa nhận thấy sự nguy hiểm cho các xá-lợi nên đã đi đến gặp Ajātasattu nói rằng: “Tâu đại vương, cần tiến hành việc lưu giữ các xá-lợi chung một chỗ.” – (Vua Ajātasattu đáp) “Bạch ngài, lành thay! Công việc lưu giữ xá-lợi của trẫm xin được gác lại, nhưng trẫm sẽ cho thâu hồi các xá-lợi còn lại bằng cách nào?” – Tâu đại vương, việc thâu hồi các xá-lợi không phải là phận sự của ngài, là trách nhiệm của chúng tôi. – “Bạch ngài, lành thay! Vậy xin các ngài bi mẫn hãy thâu hồi các xá-lợi. Trẫm sẽ lưu giữ các xá-lợi.” Chỉ trừ ra các xá-lợi đang được thờ phụng bởi các dòng dõi hoàng tộc ấy, các xá-lợi còn lại đã được vị trưởng lão thâu hồi. Tuy nhiên, các loài rồng đã lấy đi các xá-lợi ở Rāmagāma. Vị trưởng lão (nghĩ rằng): “Không có nguy hiểm cho các xá-lợi ấy, trong tương lai sẽ được tôn trí ở ngôi đại bảo điện của Đại Tự trên đảo Laṅkā” nên đã không thâu hồi phần ấy. Sau khi đã thâu hồi từ bảy thành phố còn lại, vị trưởng lão đã tôn trí (các xá-lợi) ở khu vực phía Đông và phía Nam của thành phố Rājagaha rồi đã chú nguyện rằng: “Tảng đá này ở tại nơi này, tảng đá ấy hãy biến mất, mong đất bụi hãy được thanh lọc sạch sẽ, và nước chớ có dâng lên.”
Rājā taṃ ṭhānaṃ khaṇāpetvā tato uddhatapaṃsunā iṭṭhakā kāretvā asītimahāsāvakānaṃ cetiyāni kāreti. ‘‘Idha rājā kiṃ kāretī’’ti pucchantānampi ‘‘mahāsāvakānaṃ cetiyānī’’ti vadanti, na koci dhātunidhānabhāvaṃ jānāti. Asītihatthagambhīre pana tasmiṃ padese jāte heṭṭhā lohasanthāraṃ santharāpetvā tattha thūpārāme cetiyagharappamāṇaṃ tambalohamayaṃ gehaṃ kārāpetvā aṭṭha aṭṭha haricandanādimaye karaṇḍe ca thūpe ca kārāpesi. Atha bhagavato dhātuyo haricandanakaraṇḍe pakkhipitvā taṃ haricandanakaraṇḍakampi aññasmiṃ haricandanakaraṇḍake, tampi aññasminti evaṃ aṭṭha haricandanakaraṇḍe ekato katvā eteneva upāyena te aṭṭha karaṇḍe aṭṭhasu haricandanathūpesu, aṭṭha haricandanathūpe aṭṭhasu lohitacandanakaraṇḍesu, aṭṭha lohitacandanakaraṇḍe aṭṭhasu lohitacandanathūpesu, aṭṭha lohitacandanathūpe aṭṭhasu dantakaraṇḍesu , aṭṭha dantakaraṇḍe aṭṭhasu dantathūpesu, aṭṭha dantathūpe aṭṭhasu sabbaratanakaraṇḍesu, aṭṭha sabbaratanakaraṇḍe aṭṭhasu sabbaratanathūpesu, aṭṭha sabbaratanathūpe aṭṭhasu suvaṇṇakaraṇḍesu, aṭṭha suvaṇṇakaraṇḍe, aṭṭhasu suvaṇṇathūpesu, aṭṭha suvaṇṇathūpe aṭṭhasu rajatakaraṇḍesu, aṭṭha rajatakaraṇḍe aṭṭhasu rajatathūpesu, aṭṭha rajatathūpe, aṭṭhasu maṇikaraṇḍesu, aṭṭha maṇikaraṇḍe aṭṭhasu maṇithūpesu, aṭṭha maṇithūpe aṭṭhasu lohitaṅkakaraṇḍesu[151], aṭṭha lohitaṅkakaraṇḍe aṭṭhasu lohitaṅkathūpesu, aṭṭha lohitaṅkathūpe aṭṭhasu masāragallakaraṇḍesu, aṭṭha masāragallakaraṇḍe aṭṭhasu masāragallathūpesu, aṭṭha masāragallathūpe aṭṭhasu phalikakaraṇḍesu, aṭṭha phalikakaraṇḍe aṭṭhasu phalikamayathūpesu pakkhipi.
Đức vua đã cho đào xới khu vực ấy lên, gạt bụi bẩn ra khỏi chỗ ấy (và) xây gạch để thay thế, ngài đã thông báo cho xây dựng các bảo tháp cho tám mươi vị đại đệ tử. Một số vị nói rằng ngay cả khi có người hỏi rằng: “Đức vua cho xây dựng gì ở đây vậy?” họ đáp rằng: “(Cho xây dựng) các ngôi bảo điện của các vị đại đệ tử;” và không ai biết đến sự việc lưu trữ các xá-lợi. Hơn nữa, khi khu vực ấy đạt được độ sâu tám mươi cánh tay, đức vua đã cho lát nền bằng kim loại ở bên dưới, rồi đã cho xây dựng gian nhà làm bằng đồng đỏ có kích thước bằng gian nhà của ngôi bảo điện ở tại nơi đó trong khuôn viên bảo tháp, sau đó đã cho thực hiện các ngôi bảo tháp và các hòm làm bằng gỗ trầm hương màu vàng, v.v… tám thứ mỗi loại. Sau đó, đức vua đã đặt các xá-lợi của đức Thế Tôn vào trong cái hòm gỗ trầm hương màu vàng, rồi đặt cái hòm gỗ trầm hương màu vàng ấy vào trong cái hòm gỗ trầm hương màu vàng khác, (như đã trình bày) đức vua đã đặt tổng cộng tám hòm gỗ trầm hương màu vàng vào trong cùng một cái hòm. Rồi theo chính phương thức ấy, đức vua đã đặt tám cái hòm vào trong tám bảo tháp bằng gỗ trầm hương màu vàng, rồi đặt tám bảo tháp bằng gỗ trầm hương màu vàng vào trong tám cái hòm bằng gỗ trầm hương màu đỏ, rồi đặt tám cái hòm bằng gỗ trầm hương màu đỏ vào trong tám bảo tháp bằng gỗ trầm hương màu đỏ, rồi đặt tám bảo tháp bằng gỗ trầm hương màu đỏ vào trong tám cái hòm bằng ngà, rồi đặt tám cái hòm bằng ngà vào trong tám bảo tháp bằng ngà, rồi đặt tám bảo tháp bằng ngà vào trong tám cái hòm được làm bằng tất cả các châu báu, rồi đặt tám cái hòm bằng tất cả các loại châu báu vào trong tám bảo tháp bằng tất cả các loại châu báu, rồi đặt tám bảo tháp bằng tất cả các loại châu báu vào trong tám cái hòm bằng vàng, rồi đặt tám cái hòm bằng vàng vào trong tám bảo tháp bằng vàng, rồi đặt tám bảo tháp bằng vàng vào trong tám cái hòm bằng bạc, rồi đặt tám cái hòm bằng bạc vào trong tám bảo tháp bằng bạc, rồi tám bảo tháp bằng bạc vào trong tám cái hòm bằng ngọc ma-ni, rồi đặt tám cái hòm bằng ngọc ma-ni vào trong tám bảo tháp bằng ngọc ma-ni, rồi đặt tám bảo tháp bằng ngọc ma-ni vào trong tám cái hòm bằng hồng ngọc, rồi đặt tám cái hòm bằng hồng ngọc vào trong tám bảo tháp bằng hồng ngọc, rồi đặt tám bảo tháp bằng hồng ngọc vào trong tám cái hòm bằng ngọc bích, rồi đặt tám cái hòm bằng ngọc bích vào trong tám bảo tháp bằng ngọc bích, rồi đặt tám bảo tháp bằng ngọc bích vào trong tám cái hòm bằng pha lê, rồi tám cái hòm bằng pha lê vào trong tám bảo tháp bằng pha lê.
Sabbesaṃ uparimaṃ phalikacetiyaṃ thūpārāmacetiyappamāṇaṃ ahosi, tassa upari sabbaratanamayaṃ gehaṃ kāresi, tassa upari suvaṇṇamayaṃ, tassa upari rajatamayaṃ, tassa upari tambalohamayaṃ gehaṃ[152]. Tattha sabbaratanamayaṃ vālikaṃ okiritvā jalajathalajapupphānaṃ sahassāni vippakiritvā aḍḍhachaṭṭhāni jātakasatāni asītimahāthere suddhodanamahārājānaṃ mahāmāyādeviṃ satta sahajāteti sabbānetāni suvaṇṇamayāneva kāresi. Pañcapañcasate suvaṇṇarajatamaye puṇṇaghaṭe ṭhapāpesi, pañca suvaṇṇaddhajasate ussāpesi. Pañcasate suvaṇṇadīpe, pañcasate rajatadīpe kārāpetvā sugandhatelassa pūretvā tesu dukūlavaṭṭiyo ṭhapesi.
Ngôi bảo điện bằng pha-lê có trước tất cả các bảo điện được xem là có kích thước bằng ngôi bảo điện ở Tu Viện Bảo Tháp. Ở trên bảo điện bằng pha lê đó, đức vua đã cho xây dựng gian nhà làm bằng tất cả các loại ngọc quý, rồi ở trên gian nhà bằng ngọc quý đó (ngài) đã cho xây dựng gian nhà làm bằng vàng, rồi ở trên gian nhà bằng vàng đó (ngài) đã cho xây dựng gian nhà làm bằng bạc, rồi ở trên gian nhà làm bằng bạc đó (ngài) đã cho xây dựng gian nhà làm bằng đồng đỏ. Ở trên gian nhà làm bằng đồng đỏ ấy, đức vua đã rải rắc loại cát làm bằng tất cả các loại ngọc quý rồi rải đều hàng ngàn loại bông hoa mọc ở trong nước và mọc ở trên đất liền. Đức vua đã cho xây dựng năm trăm năm mươi câu chuyện Bổn Sanh, tám mươi vị đại trưởng lão, đại vương Suddhodana, hoàng hậu Mahāmayā, bảy người và vật đồng sanh một lượt, tất cả các thứ ấy đều được làm hoàn toàn bằng vàng. Đức vua đã cho đặt năm trăm cái chum mỗi loại chứa đầy vàng và bạc, sau đó đã cho dựng lên năm trăm ngọn cờ bằng vàng với năm trăm cây đèn bằng vàng, rồi đã sử dụng các tim đèn bằng loại vải tốt bỏ vào các cây đèn và đã cho đổ đầy dầu có hương thơm.
Athāyasmā mahākassapo – ‘‘mālā mā milāyantu, gandhā mā vinassantu, dīpā mā vijjhāyantū’’ti adhiṭṭhahitvā suvaṇṇapaṭṭe akkharāni chindāpesi – ‘‘Anāgate piyadāso[153] nāma kumāro chattaṃ ussāpetvā asoko dhammarājā bhavissati. So imā dhātuyo vitthārikā karissatī’’ti.
Sau đó, đại đức Mahākassapa đã chú nguyện rằng: “Các tràng hoa chớ có héo úa, các hương thơm chớ bị biến mất, các ngọn đèn chớ có lụi tàn” rồi đã cho khắc ở trên cái mâm bằng vàng các chữ – “Trong ngày vị lai, vị hoàng tử tên Piyadāsa sẽ xứng đáng lên ngôi nắm giữ vương quyền và sẽ trở thành vị vua công chính tên là Asoka. Vị ấy sẽ làm cho các xá-lợi này được phổ biến rộng rãi.”
Rājā sabbapasādhanehi pūjetvā ādito paṭṭhāya dvāraṃ pidahanto nikkhami, so tambalohadvāraṃ pidahitvā āviñchanarajjuyaṃ kuñcikamuddikaṃ bandhitvā tattheva mahantaṃ maṇikkhandhaṃ ṭhapetvā – ‘‘anāgate daliddarājā imaṃ maṇiṃ gahetvā dhātūnaṃ sakkāraṃ karotū’’ti akkharaṃ chindāpesi.
Sau khi đã cúng dường với tất cả các vật trang điểm, đức vua đã lần lượt đóng lại từng cánh cửa rồi đi ra. Sau khi đóng lại cánh cửa bằng đồng đỏ, đức vua đã buộc lại các chìa khóa vào sợi dây và ngay tại chỗ ấy ngài đã để khối lớn ngọc ma-ni rồi cho khắc dòng chữ như sau: “Vào thời vị lai, các vị vua gặp khó khăn hãy lấy khối ngọc ma-ni này rồi thực hiện việc tôn vinh các xá-lợi.”
Sakko devarājā vissakammaṃ[154] āmantetvā – ‘‘tāta, ajātasattunā dhātunidhānaṃ kataṃ, ettha ārakkhaṃ paṭṭhapehī’’ti pahiṇi. So āgantvā vāḷasaṅghāṭayantaṃ yojesi, kaṭṭharūpakāni tasmiṃ dhātugabbhe phalikavaṇṇakhagge gāhetvā vātasadisena vegena anupariyāyantaṃ[155] yantaṃ yojetvā ekāya eva āṇiyā bandhitvā samantato giñjakāvasathākārena silāparikkhepaṃ katvā upari ekāya pidahitvā paṃsuṃ pakkhipitvā bhūmiṃ samaṃ katvā tassa upari pāsāṇathūpaṃ patiṭṭhapesi. Evaṃ niṭṭhite dhātunidhāne yāvatāyukaṃ ṭhatvā theropi parinibbuto, rājāpi yathākammaṃ gato, tepi manussā kālaṅkatā.
Vua trời Sakka đã gọi thiên tử Vissakamma lại nhắn nhủ rằng: “Này khanh, việc lưu giữ các xá-lợi đã được thực hiện đức vua Ajātasattu. Khanh hãy thiết lập sự bảo vệ ở nơi ấy.” Sau khi đi đến, vị ấy đã lắp ráp hệ thống tự động có kết cấu hung tợn, bức tranh gỗ cầm lấy các thanh gươm màu ngọc pha lê ở trong căn phòng thờ xá-lợi ấy chuyển động với tốc độ nhanh như một cơn gió. Vị ấy sau khi lắp ráp hệ thống tự động đã đóng vào chỉ bằng một cái nêm và lấy những viên đá bao bọc xung quanh theo hình thức căn nhà bằng gạch, ở bên trên được đậy lại bằng một tảng đá, sau đó đã rải đất lên, san bằng bề mặt, rồi dựng lên ngôi bảo tháp bằng đá ở trên đó. Khi việc lưu giữ các xá-lợi đã được hoàn tất như thế, vị trưởng lão đã sống đến hết tuổi thọ rồi đã viên tịch Niết Bàn, đức vua cũng đã đi theo nghiệp tương ứng, luôn cả những người ấy cũng đã qua đời.
Aparabhāge piyadāso nāma kumāro chattaṃ ussāpetvā asoko nāma dhammarājā hutvā tā dhātuyo gahetvā jambudīpe vitthārikā akāsi. Kathaṃ? So nigrodhasāmaṇeraṃ nissāya sāsane laddhappasādo caturāsīti vihārasahassāni kāretvā bhikkhusaṅghaṃ pucchi – ‘‘Bhante, mayā caturāsīti vihārasahassāni kāritāni, dhātuyo kuto labhissāmī’’ti? Mahārāja, – ‘‘dhātunidhānaṃ nāma atthī’’ti suṇoma, na pana paññāyati – ‘‘asukasmiṃ ṭhāne’’ti. Rājā rājagahe cetiyaṃ bhindāpetvā dhātuṃ apassanto paṭipākatikaṃ kāretvā bhikkhubhikkhuniyo upāsakaupāsikāyoti catasso parisā gahetvā vesāliṃ gato. Tatrāpi alabhitvā kapilavatthuṃ. Tatrāpi alabhitvā rāmagāmaṃ gato. Rāmagāme nāgā cetiyaṃ bhindituṃ na adaṃsu, cetiye nipatitakudālo khaṇḍākhaṇḍaṃ hoti. Evaṃ tatrāpi alabhitvā allakappaṃ veṭhadīpaṃ pāvaṃ kusināranti sabbattha cetiyāni bhinditvā dhātuṃ alabhitvāva paṭipākatikāni katvā puna rājagahaṃ gantvā catasso parisā sannipātāpetvā – ‘‘atthi kenaci sutapubbaṃ ‘asukaṭṭhāne nāma dhātunidhāna’nti’’ pucchi.
Vào triều đại kế tiếp, vị hoàng tử tên Piyadāsa lên ngôi nắm quyền cai trị và đã trở thành vị vua công chính tên là Asoka. Sau khi nhận được các xá-lợi ấy, ngài đã làm cho các xá-lợi này được phổ biến rộng rãi. Bằng cách nào? Đức vua Asoka đã có được sự tịnh tín trong Giáo Pháp do y cứ nơi vị sa-di Nirodha nên đã cho xây dựng tám mươi bốn ngàn tu viện, mới hỏi hội chúng tỳ khưu rằng: “Bạch các ngài, tám mươi bốn ngàn tu viện đã được trẫm cho xây dựng, trẫm sẽ nhận các xá-lợi ở đâu?” – “Tâu đại vương, chúng tôi được nghe rằng: ‘Có việc gọi là sự lưu giữ các xá-lợi,’ nhưng ở chỗ nào thì không được biết đến.” Đức vua sau khi cho phá vỡ ngôi bảo điện ở thành Rājagaha nhưng không tìm thấy xá-lợi nên đã cho xây dựng lại như trước đây, rồi đã hướng dẫn bốn hội chúng gồm có tỳ khưu, tỳ khưu ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ đi đến thành Vesālī. Ngay cả ở tại nơi ấy cũng không nhận được, nên đã đi đến Kapilavatthu. Thậm chí ở tại nơi này cũng không nhận được, nên đã đi đến Rāmagāma. Các loài rồng ở Rāmagāma đã không cho phép phá vỡ ngôi bảo điện; cuốc xẻng cuốc xuống ngôi bảo điện đều trở thành những mảnh vụn. Như thế, ngay tại chỗ ấy cũng không nhận được nên đã đi đến thành Allakappa, Veṭhadīpa, Pāva, Kusinārā mà không nhận được xá-lợi, nên đức vua đã cho xây dựng lại như trước đây rồi đã đi đến thành Rājagaha cho triệu tập bốn hội chúng lại hỏi rằng: “Có người nào trước đây đã từng được nghe về việc gọi là sự lưu giữ các xá-lợi ở chỗ nào hay không?”
Tatreko vīsavassasatiko thero – ‘‘asukaṭṭhāne dhātunidhāna’’nti na jānāmi, mayhaṃ pana pitā mahāthero maṃ sattavassakāle mālācaṅkoṭakaṃ gāhāpetvā – ‘‘ehi sāmaṇera, asukagacchantare pāsāṇathūpo atthi, tattha gacchāmā’’ti gantvā pūjetvā – ‘‘imaṃ ṭhānaṃ upadhāretuṃ vaṭṭati sāmaṇerā’’ti āha. Ahaṃ ettakaṃ jānāmi mahārājāti āha. Rājā ‘‘etadeva ṭhāna’’nti vatvā gacche hāretvā pāsāṇathūpañca paṃsuñca apanetvā heṭṭhā sudhābhūmiṃ addasa. Tato sudhañca iṭṭhakāyo ca hāretvā anupubbena pariveṇaṃ oruyha sattaratanavālukaṃ asihatthāni ca kaṭṭharūpakāni samparivattakāni addasa. So yakkhadāsake pakkosāpetvā balikammaṃ kāretvāpi neva antaṃ na koṭiṃ passanto devatānaṃ namassamāno – ‘‘ahaṃ imā dhātuyo gahetvā caturāsītiyā vihārasahassesu nidahitvā sakkāraṃ karomi, mā me devatā antarāyaṃ karontū’’ti āha.
Tại nơi ấy, có vị trưởng lão một trăm hai mươi tuổi đã nói rằng: “Tôi cũng không biết nơi lưu giữ các xá-lợi ở chỗ nào. Tuy nhiên, vào lúc tôi được bảy tuổi, vị đại trưởng lão là cha của tôi đã bảo mang theo tràng hoa và cái rương nói rằng: ‘Hãy đi, này sa-di, ở giữa chòm cây đằng kia có ngôi bảo tháp bằng đá, chúng ta hãy đi đến nơi ấy.’ Sau khi đi đến và lễ bái, rồi nói rằng: ‘Này sa di, phải ghi nhớ địa điểm này.’ Tâu đại vương, tôi biết chỉ có chừng ấy.” Đức vua đã nói rằng: “Chính là chỗ ấy!” sau đó đã cho cắt đi chòm cây và cho di chuyển ngôi bảo tháp bằng đá và đất cát ra thì đã nhìn thấy mặt nền bằng vữa hồ ở bên dưới. Sau khi đã cho phá hủy lớp vữa hồ và các viên gạch khỏi nơi ấy, đức vua đã đi xuống căn phòng theo tuần tự và đã nhìn thấy bãi cát gồm bảy loại ngọc quý và các bức tranh gỗ cầm gươm đang chuyển động xoay tròn. Sau khi cho mời các Dạ-xoa phục vụ đến, và ngay cả sau khi đã thực hiện nghi thức cúng tế mà vẫn không nhìn thấy ở sâu bên trong và bên trên, nên đã bày tỏ sự cung kính đến các Thiên nhân nói rằng: “Trẫm lấy đi các xá-lợi này rồi sẽ tôn trí trong tám mươi ngàn tu viện và sẽ thực hiện sự tôn kính. Xin các Thiên nhân chớ có gây ra điều chướng ngại đối với trẫm.”
Sakko devarājā cārikaṃ caranto taṃ disvā vissakammaṃ āmantesi – ‘‘tāta, asoko dhammarājā ‘dhātuyo nīharissāmī’ti pariveṇaṃ otiṇṇo, gantvā kaṭṭharūpakāni hārehī’’ti. So pañcacūḷagāmadārakavesena gantvā rañño purato dhanuhattho ṭhatvā – ‘‘harāmi mahārājā’’ti āha. ‘‘Hara, tātā’’ti saraṃ gahetvā sandhimhiyeva vijjhi, sabbaṃ vippakiriyittha. Atha rājā āviñchane bandhaṃ kuñcikamuddikaṃ gaṇhi, maṇikkhandhaṃ passi. ‘‘Anāgate daliddarājā imaṃ maṇiṃ gahetvā dhātūnaṃ sakkāraṃ karotū’’ti puna akkharāni disvā kujjhitvā – ‘‘mādisaṃ nāma rājānaṃ daliddarājāti vattuṃ ayutta’’nti punappunaṃ ghaṭetvā dvāraṃ vivarāpetvā antogehaṃ paviṭṭho.
Vua Trời Sakka trong lúc đi du hành đã nhìn thấy việc ấy nên đã gọi thiên tử Vissakamma nói rằng: “Này ái khanh, vị vua công chính Asoka đã xuống đến căn phòng (nghĩ rằng): ‘Trẫm sẽ mang đi các xá-lợi.’ Khanh hãy đi đến (nơi đó) hủy các bức tranh gỗ.” Vị ấy đã hóa thân thành đứa bé trai ở thôn quê có năm bím tóc tay cầm cung đi đến đứng phía trước của đức vua nói rằng: “Tâu đại vương, tôi sẽ làm cho dời đi.” – “Này khanh yêu quý, hãy mang đi.” Vị ấy đã cầm lấy mũi tên bắn thẳng vào ngay tại chỗ nối hệ thống tự động và tất cả mọi thứ đều bị tản ra. Sau đó, đức vua đã cầm lấy chìa khoá được buộc ở sợi dây thừng và đã nhìn thấy khối ngọc ma-ni, hơn nữa còn nhìn thấy dòng chữ “Vào thời vị lai, các vị vua gặp khó khăn hãy lấy khối ngọc ma-ni này rồi hãy thực hiện việc tôn vinh các xá-lợi” nên tức giận (nghĩ rằng): “Có thích đáng để gọi vị vua như ta là ‘vị vua gặp khó khăn’ hay không?” rồi đã loay hoay ra sức mở ra cánh cửa và đã đi vào bên trong gian nhà.
Aṭṭhārasavassādhikānaṃ dvinnaṃ vassasatānaṃ upari āropitadīpā tatheva pajjalanti. Nīluppalapupphāni taṅkhaṇaṃ āharitvā āropitāni viya, pupphasanthāro taṅkhaṇaṃ santhato viya, gandhā taṃ muhuttaṃ pisitvā ṭhapitā viya. Rājā suvaṇṇapaṭṭaṃ gahetvā – ‘‘anāgate piyadāso nāma kumāro chattaṃ ussāpetvā asoko nāma dhammarājā bhavissati so imā dhātuyo vitthārikā karissatī’’ti vācetvā – ‘‘diṭṭho bho, ahaṃ ayyena mahākassapattherenā’’ti vatvā vāmahatthaṃ ābhujitvā dakkhiṇena hatthena apphoṭesi.
Các cây đèn đã được thiết lập trải qua hơn hai trăm mười tám năm vẫn tỏa sáng như thế ấy. Những đóa hoa sen xanh như là đã được mang lại và đặt vào ngay thời khắc ấy, thảm trải bằng bông hoa giống như là đã được trải ra vào lúc ấy, và các hương thơm dường như vừa mới được nghiền giã và đặt xuống. Đức vua đã cầm lấy cái mâm vàng và đọc lên rằng: “Vào thời vị lai, vị hoàng tử tên Piyadāsa sẽ lên ngôi nắm quyền cai trị và sẽ trở thành vị vua công chính tên là Asoka. Vị ấy sẽ làm cho các xá-lợi này được phổ biến rộng rãi” rồi đã nói rằng: “Ta đã được ngài đại đức trưởng lão Mahākassapa nhìn thấy” sau đó đã lật ngửa bàn tay trái ra và vỗ vào bằng bàn tay phải.
So tasmiṃ ṭhāne paricaraṇadhātumattameva ṭhapetvā sesā dhātuyo gahetvā dhātugehaṃ pubbe pihitanayeneva pidahitvā sabbaṃ yathāpakatiyāva katvā upari pāsāṇacetiyaṃ patiṭṭhāpetvā caturāsītiyā vihārasahassesu dhātuyo patiṭṭhāpetvā mahāthere vanditvā pucchi – ‘‘Dāyādomhi, bhante, buddhasāsane’’ti. Kissa dāyādo tvaṃ, mahārāja, bāhirako tvaṃ sāsanassāti. Bhante, channavutikoṭidhanaṃ vissajjetvā caturāsīti vihārasahassāni kāretvā ahaṃ na dāyādo, añño ko dāyādoti? Paccayadāyako nāma tvaṃ mahārāja, yo pana attano puttañca dhītarañca pabbājeti, ayaṃ sāsane[156] dāyādo nāmāti. So puttañca dhītarañca pabbājesi. Atha naṃ therā āhaṃsu – ‘‘idāni, mahārāja, sāsane dāyādosī’’ti.
Sau khi để lại chỉ một phần xá-lợi cho việc phụng thờ ở tại nơi ấy, đức vua đã lấy đi tất cả các xá-lợi còn lại, sau đó đã đóng lại gian nhà xá-lợi theo cách thức đã được đóng lại trước đây, rồi đã cho xây dựng lại tất cả theo như tình trạng nguyên thủy. Sau khi cho thiết lập ngôi bảo điện bằng đá ở bên trên, đức vua đã an vị các xá-lợi trong tám mươi bốn ngàn tu viện, rồi đảnh lễ các vị đại trưởng lão, và hỏi rằng: “Bạch các ngài, trẫm có phải là thân quyến của Phật Giáo không?” – “Tâu đại vương, ngài là thân quyến của cái gì? Ngài là người ở bên ngoài của Giáo Pháp.” – “Bạch các ngài, trẫm đã xuất ra của cải tới chín mươi sáu koṭi và đã cho xây dựng tám mươi bốn ngàn tu viện mà vẫn không phải là thân quyến, vậy thì những người khác ai là thân quyến?” – Tâu đại vương, ngài được gọi là người thí chủ về vật dụng, còn người nào cho con trai và con gái xuất gia, người ấy được gọi là thân quyến của Giáo Pháp. Đức vua đã cho con trai và con gái (của ngài) xuất gia. Khi ấy các vị trưởng lão đáp rằng – “Tâu đại vương, bây giờ ngài đã là thân quyến của Giáo Pháp.”
Evametaṃ bhūtapubbanti evaṃ etaṃ atīte dhātunidhānampi jambudīpatale bhūtapubbanti. Tatiyasaṅgītikārāpi imaṃ padaṃ ṭhapayiṃsu. Aṭṭhadoṇaṃ cakkhumato sarīrantiādigāthāyo pana tambapaṇṇidīpe therehi vuttāti.
Điều ấy trước đây đã xảy ra như vậy: ngay cả việc lưu giữ xá-lợi trong thời quá khứ này điều này cũng đã từng xảy ra ở vùng đất Jambudīpa như thế. Luôn cả việc hội chúng thực hiện cuộc kết tập lần thứ ba cũng đặt ở câu này. Trong kệ ngôn được bắt đầu như sau Tám doṇa xá-lợi của bậc Hữu Nhãn, v.v, này vị trưởng lão ở hòn đảo Tambapaṇṇi đã nói rồi.
Giải Thích Đại Kinh Viên Tịch Niết Bàn được kết thúc – Kinh thứ ba (16)
Trong Chú Giải Trường Bộ Kinh là Sumaṅgalavilāsī.
[1] saṃ. ni. 5.1115
[2] Viyasati (Syā)
[3] Sabbaṃ mahagghabhaṇḍaṃ (Syā)
[4] Ekena nu kho (Syā, Ka)
[5] Āpādessāmi vajjīti (Ka)
[6] Vājati (Sī, Syā)
[7] Sutvā (Ka)
[8] Sannipatantā (Ka)
[9] Vatthuṁ (Syā), vattaṁ (Ka)
[10] Vicinitvā (Ka)
[11] Antokārikā nāma honti, tesaṁ (Syā, Ka)
[12] niviṭṭhā (Sī, Syā)
[13] Vāgurā (Syā)
[14] Vājaṁ (?) Vanacaraṇanti attho.
[15] Vajjisuttassa (Syā)
[16] Issarāti (Syā)
[17] Vajjisannipāte (Syā) Vajjisuttake (Ka)
[18] Jīvitaṁ (Ka)
[19] Gaṇḍiyā (Sī, Syā) ghaṇḍiyā (Ka)
[20] Sabbaṁ (Ka)
[21] cuḷava. 442
[22] Ponobhavikā (Sī) ponabbhavikā (Syā, Ka)
[23] ma. ni. 1.273
- ni. 1.387
[25] Bahussutā (Ka)
[26] Vi-Ṭṭha 2. 54 piṭṭhe.
[27] Mahāgatimpa-abhayatthero (Ka)
[28] Paṭicchāpetuṁ (Syā)
[29] a. ni. 9.36
[30] Dve sāṭakā (Syā)
[31] dī. ni. 3.141
[32] Santharitaṁ (Syā)
[33] Pariccatta-idhalokaparalokattho (Ka)
[34] Adussīlo viya (Syā) Dabbiko viya (Ka) Dabbito viya (Sāratthadīpanī)
[35] Abhikkantāti nikkhantā khīṇā (Syā) Abhikkantāti atikkantā parikkhīṇā (Aṁ-Ṭṭha 3, Aṭṭhakanipāte Uposathasuttavaṇṇanāyaṁ.)
[36] Sahassassevāti (Ka) sahassasevāti (Ṭīkāyaṁ pāṭhantaraṁ)
[37] Vadāpessanti (Ka)
[38] Visukammañca (Ka)
[39] Bhaṇḍagaṇṭhikānaṁ (Ka)
[40] Na āgacchantampi idhevāgamissati (Ka)
[41] Nagaramajjhe (Syā)
[42] Hananti (Ka)
[43] Vi. 3.377 piṭṭhe
[44] Pahāresi (?)
[45] Gilānavuṭṭhitoti (Ka)
[46] Vekhamissakenāti (Ka)
[47] Tamasotaṁ (Saṁ-Ṭṭha 3. Satipaṭṭhānasaṁyuttavaṇṇanāyaṁ)
[48] Sabbesampi tesaṁ (?)
[49] Ukkavelato (Syā)
[50] Tāvatiṁse (Syā)
[51] a. ni. 1.37
[52] Āropenti (Syā, Ka)
[53] Yāva sattatālappamāṇo (Syā, Ka)
[54] Pavuttiṁ (Sya)
[55] Parinibbānaṭṭhāne (Syā)
[56] Saṁ 3.141 piṭṭhe.
[57] Evaṁ gato (?)
[58] dī. ni. 2.7; a. ni. 6.74
[59] Daharasāṇaeraparivāritena vā jāto (Ka) daharasāmaṇeraparivārena pana gato (Syā)
[60] Visaññīvā (Syā)
[61] Bahussutametesanti (Ka)
[62] Jhānādivasena (Syā)
[63] Ossajjīti (Syā, Ka)
[64] paṭi. ma. 3.38
[65] ma. ni. 2.81
[66] Evañca (Syā)
[67] Bahulabhāvena (Ka)
[68] Saṁvejento vā (Syā)
[69] Plavantaṁ (Ka)
[70] Dhātukkhobhena (Ka)
[71] Paññātamattameva (?)
[72] Milakkhasadiso (Syā)
[73] Yassetaṁ (Syā, Ka)
[74] Sabbasaṅgāhikavasena (Syā, Ka)
[75] Pariccatto (Syā)
[76] Paṭisaṅkharissatīti (Ka), paṭidissatīti (Syā)
[77] cuḷava. 457
[78] Kosambiyaṁ vinayātisāreti (Syā, Ka) Vi 4. 506 piṭṭhe passitabbaṁ.
[79] Asuttanāmakaṁ kiñci (Syā)
[80] a. ni. 8.53
[81] Virujjhantassāpi (Syā)
[82] mahāva. 305
[83] Setodakāti (Syā, Ka)
[84] Purato vāte (Syā)
[85] Saṅkārasadisā (Ka) Lakārasadisā (Syā)
[86] Vītaccikaṁ viyāti (Sī)
[87] Pavattāti (?)
[88] Sammukhe (Ka)
[89] Samasamaphalā (Syā, Ka)
[90] Ṭhitā sālāti (Syā), ṭhitasāhāti (Ṭīkā)
[91] Mandāgiri (Ka)
[92] Caṅkavāre (Ka), paṅkavāre (Syā)
[93] Sāyaṇhasamaye (Syā)
[94] Aṁ. 567 piṭṭhe
[95] a. ni. 4.246
[96] a. ni. 4.246
[97] Ullokapadumāni (Ṭīkā)
[98] Varuṇavāruṇadevatā (Syā)
[99] Niṭṭhanti (Syā)
[100] Buddaguṇāni (Ka)
[101] Tālapaṇṇaṁ
[102] a. ni. 1.37
[103] Odhārentoti avadhārento (Syā)
[104] Aṭṭhaṅgulabahalāhi (Syā)
[105] a. ni. 3.128
[106] Aparagaṅgāya (Syā, Ka)
[107] Paragaṅgāya (Syā, Ka)
[108] Sannipatitvā (Syā)
[109] Sammajjitvā (Ka)
[110] Dhovanti (Ka)
[111] Paṭapaṭāpetvā (Sī)
[112] a. ni. 5.55
[113] saṃ. ni. 4.127
[114] Sadatthe (Syā)
[115] Thūpakaraṇaṁ (Syā)
[116] Ussādento (Syā), otārento (Ka)
[117] Kapilakaṁ (Syā)
[118] Sajjapethāti (Syā)
[119] Veṇikaraṇakāle (Syā) veṇikāle (Ka)
[120] Maddaggaṁ (Syā)
[121] Bhagavantaṁ (Syā)
[122] Abhiññaṁsūti (Ka)
[123] Aṭṭhānābhāvato ceva (Syā)
[124] Na jāto nappavattīti (Ka)
[125] Cuḷakaddhānaṁ (Ka)
[126] Aruṇuggamhi (Syā)
[127] Manasikārena kammaṭṭhānaṁ (Syā)
[128] Saṇṭhāretuṁ (Syā)
[129] Paṭiviṁsayantā (Syā)
[130] Yāgudānaṁ (Syā, Ka)
[131] mahāva. 303
[132] Gaṇhissāmi (Syā)
[133] Ābhatatelādīni (Ka)
[134] Sattāhamattampi (Ka)
[135] Chārikāya sīsaṁ okirāpetvāpi (Syā)
[136] Daḷhena (Syā)
[137] Tālapaṇṇehi (Syā)
[138] Yathāṭhitāneva (Syā)
[139] Dussatantaṁ vā (Syā)
[140] Bhinnamuggadalamattāti (Ka) Khu 4. 384 piṭṭhe passitabbaṁ.
[141] Kipīlikāpi makkaṭakāpi pāṇakāpi (Syā)
[142] Dhammatāva (Syā)
[143] Dhajapaṭākā (Syā), ratanapaṭākā (Ka)
[144] Sattaratanamayapallaṅke (Syā), sāramayapallaṅke (Ka)
[145] Abhisekapīṭhako (Syā)
[146] Santikaṁ āgato (Syā)
[147] Paridevena (Syā)
[148] Dhātupūjanatthaṁ (Syā, Ka), dhātupālanatthaṁ (Ka)
[149] Āgatā (Syā, Ka)
[150] Evaṁ (Syā)
[151] Lohitaṅgakaraṇḍesu (Syā, Ka)
[152] Gehaṁ ahosi (Syā, Ka)
[153] Piyadassī (Asokalekhāyaṁ)
[154] Visukammaṁ (Ka)
[155] Anupariyāyanti (Syā)
[156] Sāsanassa (Syā)