Kinh số 99 – Giải Thích Kinh Subha

(Subhasuttavaṇṇanā)

Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Subha

462. Evamme sutanti subhasuttaṃ. Tattha todeyyaputtoti tudigāmavāsino todeyyabrāhmaṇassa putto. Ārādhako hotīti sampādako hoti paripūrako. Ñāyaṃ dhammanti kāraṇadhammaṃ. Kusalanti anavajjaṃ.

462. Kinh Subha được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, con trai của Bà-la-môn Todeyya: vị sống ở làng Tudi gọi là con trai của Bà-la-môn Todeyya. Trở nên thành tựu: Trở thành vị thành tựu đầy đủ trọn vẹn. Thiện Pháp đúng theo chánh đạo (Pháp làm phương tiện thoát mọi khổ đau): Pháp làm nhân. Là thiện: Không có lỗi lầm

463. Micchāpaṭipattinti aniyyānikaṃ akusalapaṭipadaṃ. Sammāpaṭipattinti niyyānikaṃ kusalapaṭipadaṃ.

463. Việc thực hành sai trái: việc thực hành không phải thiện, không làm phương tiện dẫn dắt thoát khỏi khổ đau. Việc thực hành chân chánh: việc thực hành pháp thiện làm phương tiện dẫn dắt thoát khỏi khổ đau.

Mahaṭṭhanti-ādīsu mahantehi veyyāvaccakarehi vā upakaraṇehi vā bahūhi attho etthāti mahaṭṭhaṃ. Mahantāni nāmaggahaṇamaṅgalādīni kiccāni etthāti mahākiccaṃ. Idaṃ ajja kattabbaṃ, idaṃ sveti evaṃ mahantāni adhikārasaṅkhātāni adhikaraṇāni etthāti mahādhikaraṇaṃ. Bahunnaṃ kamme yuttappayuttatāvasena pīḷāsaṅkhāto mahāsamārambho etthāti mahāsamārambhaṃ. Gharāvāsakammaṭṭhānanti gharāvāsakammaṃ. Evaṃ sabbavāresu attho veditabbo. Kasikamme cettha naṅgalakoṭiṃ ādiṃ katvā upakaraṇānaṃ pariyesanavasena mahatthatā, vaṇijjāya yathāṭhitaṃyeva bhaṇḍaṃ gahetvā parivattanavasena appatthatā veditabbā. Vipajjamānanti avuṭṭhiativuṭṭhiādīhi kasikammaṃ, maṇisuvaṇṇādīsu acchekatādīhi ca vaṇijjakammaṃ appaphalaṃ hoti, mūlacchedampi pāpuṇāti, vipariyāyena sampajjamānaṃ mahapphalaṃ cūḷantevāsikassa viya.

Có nhiều sự cần thiết v.v, ở đây có nhiều sự cần thiết có nghĩa như sau: bởi vì ở vị trí có sự cần thiết với việc thực hành sự nỗ lực hoặc với rất nhiều sự giúp đỡ. Có nhiều phận sự bởi vị trí này có nhiều việc làm chẳng hạn như ngày lễ Kiết Tường trong ngày đặt tên v.v, nhiều. Có nhiều vấn đề cần được giải quyết: bởi ở vị trí này có nhiều vấn đề, là nhiệm vụ công việc như vậy, vào ngày hôm nay phải làm việc này, ngày mai phải làm việc này. Có sự bắt tay vào việc nhiều: bởi trong vị trí này có sự bắt tay vào việc nhiều, là sự đàn áp bởi quyền lực của sự phấn đấu vì công việc của nhiều người, việc làm của chính bản thân người tại gia gọi là vị trí việc làm của người tại gia cư sĩ. Nên biết ý nghĩ trong tất cả các phần như vậy. Và ở đây việc làm nông và việc buôn bán này, trong việc làm nông nên biết nhiều nhu cầu với việc tìm kiếm nhiều dụng cụ như lưỡi cày v.v, trong việc buôn buôn nên biết được ít nhu cầu với việc mang những hàng hóa ở trạng thái ban đầu đến bán. Làm hư hỏng: nghề nông có kết quả thấp dẫn đến thua lỗ do trời không mưa và mưa quá nhiều v.v, việc buôn bán có kết quả thấp dẫn đến thua lỗ bởi không thiện xảo v.v, trong việc quan sát ngọc quý và vàng v.v. Ngược lại, được thành tựu có kết quả lớn tương tự như các học trò của Cūḷaka.

464. Evameva khoti yathā kasikammaṭṭhānaṃ vipajjamānaṃ appaphalaṃ hoti, evaṃ gharāvāsakammaṭṭhānampi, akatakalyāṇo hi kālaṃ katvā niraye nibbattati. Mahādattasenāpati nāma kireko brāhmaṇabhatto ahosi, tassa maraṇasamaye nirayo upaṭṭhāsi. So brāhmaṇehi “kiṃ passasī”ti vutto lohitagharanti āha. Brahmaloko bho esoti. Brahmaloko nāma bho kahanti. Uparīti. Mayhaṃ heṭṭhā upaṭṭhātīti. Kiñcāpi heṭṭhā upaṭṭhāti, tathāpi uparīti kālaṃ katvā niraye nibbatto. “iminā amhākaṃ yaññe doso dinno”ti sahassaṃ gahetvā nīharituṃ adaṃsu. Sampajjamānaṃ pana mahapphalaṃ hoti. Katakalyāṇo hi kālaṃ katvā sagge nibbattati. Sakalāya guttilavimānakathāya dīpetabbaṃ. Yathā pana taṃ vaṇijjakammaṭṭhānaṃ vipajjamānaṃ appaphalaṃ hoti, evaṃ sīlesu aparipūrakārino anesanāya yuttassa pabbajjākammaṭṭhānampi. Evarūpā hi neva jhānādisukhaṃ na saggamokkhasukhaṃ1 labhanti. Sampajjamānaṃ pana mahapphalaṃ hoti. Sīlāni hi pūretvā vipassanaṃ vaḍḍhento arahattampi pāpuṇāti.

464. Tương tự y như thế: vị trí là nông nghiệp khi bị hư hỏng có ít kết quả thế nào, ngay cả vị trí là việc làm của người tại gia cư sĩ cũng như thế. Bởi hạng người không tạo nghiệp tốt đẹp thì sau khi chết sẽ tái sanh vào địa ngục. Tương truyền rằng một người đệ tử được Bà-la-môn nuôi dưỡng tên là tướng quân Mahādatta, vào lúc lâm chung địa ngục đã xuất hiện. Các Bà-la-môn đã hỏi rằng “con nhìn thấy gì?”, vị ấy đã nói rằng: con nhìn thấy ngôi nhà màu đỏ, ngôi nhà máu. Bà-la-môn đã nói rằng: này con đó là Phạm thiên giới. – Thưa ngài Phạm thiên giới ở đâu? Ở trên. – Tuy nhiên xuất hiện nơi con là ở dưới. Thật sự thì ngôi nhà màu đỏ xuất hiện ở dưới không phải xuất hiện ở trên, vị ấy đã lâm chung rồi tái sanh vào địa ngục. Các Bà-la-môn nghĩ rằng: “người này đã nhìn thấy lỗi lầm của mình” đã lấy tài sản trị giá một nghìn đến bố thí để mang theo. Còn ở vị trí là nông nghiệp được thành tựu có kết quả lớn. Bởi hạng người đã tạo nghiệp tốt đẹp sau khi lâm chung sẽ hóa sanh vào thiên giới. Cần được làm sáng tỏ toàn bộ ở kệ ngôn Thiên Cung của Guttila. Giống như vị trí là thương buôn khi không tốt sẽ có kết quả thấp như thế nào, ngay cả vị trí là một vị tu sĩ không thực hành tròn đủ giới hạnh, phối hợp với sự việc tầm cầu không thích hợp cũng như thế đó. Bởi những Tỳ khưu như thế đó sẽ không có được sự an lạc trong thiền v.v, không đạt được hạnh phúc ở thiên giới và Nibbāna. Còn vị xuất gia được thành tựu sẽ có kết quả lớn bởi vì đã thực hành làm cho giới được tròn đủ, tu tập Minh sát chứng đắc quả vị A-ra-hán.

Brāhmaṇā bho gotamāti idha kiṃ pucchāmīti pucchati? brāhmaṇā vadanti “pabbajito ime pañca dhamme pūretuṃ samattho nāma natthi, gahaṭṭhova pūretī”ti. Samaṇo pana gotamo “gihissa vā ahaṃ māṇava pabbajitassa vā”ti punappunaṃ vadati, neva pabbajitaṃ muñcati, mayhameva pucchaṃ maññe na sallakkhetīti cāgasīsena pañca dhamme pucchāmīti pucchati. Sace te agarūti sace tuyhaṃ yathā brāhmaṇā paññapenti, tathā idha bhāsituṃ bhāriyaṃ na hoti, yadi na koci aphāsukabhāvo hoti, bhāsassūti attho. Na kho me bhoti kiṃ sandhāyāha? paṇḍitapatirūpakānaṃ hi santike kathetuṃ dukkhaṃ hoti, te pade pade akkharakkhare Dosameva vadanti. Ekantapaṇḍitā pana kathaṃ sutvā sukathitaṃ pasaṃsanti, dukkathite pāḷipadaatthabyañjanesu yaṃ yaṃ virujjhati, taṃ taṃ ujuṃ katvā denti. Bhagavatā ca sadiso ekantapaṇḍito nāma natthi, tenāha “na kho me bho gotama garu, yatthassu bhavanto vā nisinnā bhavantarūpā vā”ti. Saccanti vacīsaccaṃ. Tapanti tapacariyaṃ. Brahmacariyanti methunaviratiṃ. Ajjhenanti mantagahaṇaṃ. Cāganti āmisapariccāgaṃ.

Kính bạch Ngài Gotama, các Bà-la-môn đó: ở đây thanh niên hỏi rằng: tôi xin hỏi điều gì ở chỗ này? Các Bà-la-môn nói rằng: “Bậc xuất gia gọi là có thể thực hành được năm Pháp này thì không có, chỉ có hàng tại gia cư sĩ mới có thể thực hành”. Hơn nữa, Sa-môn Gotama thường xuyên nói rằng: “Thanh niên, ta…đối với người tại gia cư sĩ hoặc vị xuất gia” không nói ra dầu chỉ là bậc xuất gia, có vẻ không xác định việc hỏi của ta, vì thế ta mới hỏi đến năm Pháp có sự xả bỏ tài sản v.v, là câu cuối cùng. Nếu ông không thấy nhọc lòng: Nếu như ông không cảm thấy nhọc lòng để nói ở chỗ này với cách mà các Bà-la-môn chủ trương, nếu như ông không cảm thấy nhọc lòng gì thì ông hãy nói. Thanh niên đã nói rằng: Thưa ngài Gotama, tôi không cảm thấy nhọc lòng, muốn đề cập đến điều gì? Bởi vì nói chuyện trong trú xứ của kẻ mạo danh bậc trí sẽ trở nên đau khổ, những vị ấy chỉ nói về những lỗi lầm trong từng câu từng chữ. Còn đối với một bậc trí chân chính sau khi đã nghe lời nói thì sẽ tán dương lời khéo thuyết, còn nếu như có sai sót ở bất cứ chỗ nào trong các câu Pāḷī, Chú giải và văn tự thì sẽ cho thực hiện lại đúng. Và gọi là bậc trí chân chánh như đức Thế Tôn hẳn không có. Bởi thế thanh niên mới nói rằng: “Kinh bạch ngài Gotama, khi ở đây có vị như ngài đang ngồi hay các vị giống như ngài, tôi không cảm thấy nặng lòng”. Chân thật: lời nói chân thật. Khổ hạnh: thực hành khổ hạnh. Phạm hạnh: Tránh xa việc đôi lứa. Tụng đọc: Việc học tụng chú thuật. Sự xả bỏ: Việc bố thí tài sản.

466. Pāpito bhavissatīti ajānanabhāvaṃ pāpito bhavissati. Etadavocāti bhagavatā andhaveṇūpamāya niggahito taṃ paccāharituṃ asakkonto yathā nāma dubbalasunakho migaṃ uṭṭhapetvā sāmikassa abhimukhaṃ katvā sayaṃ apasakkamati, evameva ācariyaṃ apadisanto etaṃ “brāhmaṇo”tiādivacanaṃ avoca. Tattha Pokkharasātīti idaṃ tassa nāmaṃ, “Pokkharasāyī”tipi2 vuccati. Tassa kira kāyo setapokkharasadiso devanagare ussāpitarajatatoraṇaṃ viya sobhati, sīsaṃ panassa katalākhārasaparikammaṃ viya, massupi candamaṇḍale kāḷamegharāji viya khāyati, akkhīni nīluppalasadisāni, nāsā rajatapanāḷikā viya suvaṭṭitā suparisuddhā, hatthapādatalāni ceva mukhañca katalākhārasaparikammaṃ viya sobhati. Ativiya sobhaggappatto brāhmaṇassa attabhāvo. Arājake ṭhāne rājānaṃ kātuṃ yuttamimaṃ brāhmaṇaṃ3, evamesa4 sassirīko, iti naṃ Pokkharasadisattā “Pokkharasātī”ti sañjānanti, pokkhare pana so nibbatto, na mātukucchiyanti iti naṃ pokkhare sayitattā “Pokkharasāyī”ti sañjānanti. Opamaññoti upamaññagotto. Subhagavanikoti ukkaṭṭhāya subhagavanassa issaro. Hassakaṃyevāti hasitabbakaññeva. Nāmakaṃyevāti lāmakaññeva. Tadeva taṃ atthābhāvena rittakaṃ. Rittakattā ca5 tucchakaṃ. Idāni taṃ bhagavā sācariyakaṃ niggahituṃ kiṃ pana māṇavāti-ādimāha.

466. Sẽ trở thành người cho đi đến: sẽ trở thành người cho đi đến sự thiếu hiểu biết. Đã nói lời này: thanh niên Bà-la-môn bị đức Thế Tôn chế ngự với việc so sánh giống như hàng người mù, khi không thể đáp trả lại lời đó, khi không thể dẫn chứng đến vị thầy, giống như một con chó không còn sức lực, miếng thịt đã để ở trước mặt chủ, bản thân cũng đã kiệt sức như thế nên mới nói lời như sau: “Bà-la-môn…” như vậy. Ở đó, Pokkharasāti này là tên của vị Bà-la-môn ấy, được gọi là Pokkharasāti. Được biết rằng thân thể của vị Bà-la-môn ấy giống như hoa sen trắng, xinh đẹp tựa như thể cột trụ bạc được dựng lên ở thế giới chư Thiên, còn phần đầu của vị ấy tựa như được làm bằng ngọc bích màu đen. Thậm chí hàm râu cũng hiện ra trông như đám mây đen ở trong vầng trăng, cả hai tròng mắt tựa như hoa sen xanh. Sống mũi cao đẹp, thanh tịnh trong sáng tựa như cái ống bằng bạc; lòng bàn tay, lòng bàn chân và miệng đều xinh đẹp tựa như được nhuộm bằng màu cánh kiến. Sắc thân của Bà-la-môn đạt đến sự hoàn hảo tối thắng, thích hợp để phong vương, ở trong vị trí không thể trở thành vua, chính vì như vậy mọi người biết được Bà-la-môn ấy là “Pokkharasāti” là như vậy, do Bà-la-môn này là người tuyệt đẹp, hơn nữa Bà-la-môn đó đã được sinh ra trong hoa sen chớ không phải sanh ra từ trong bụng mẹ, thế nên mọi người mới biết Bà-là-môn ấy là Pokkharasāti do nằm ở trong hoa sen như thế. Opamañña: Thuộc dòng họ Upamañña. Vị chúa tể trong rừng Subhaga: là vị chúa tể ở khu rừng Subhaga bởi sự xuất chúng. Đáng chê cười: thật đáng chê cười. Hoàn toàn xấu xa: hoàn toàn thấp kém. Chính những lời nói ấy gọi là trống rỗng, bởi không có lợi ích, gọi là trống không bởi lời rỗng tuếch. Bây giờ, đức Thế Tôn khi chế ngự lời nói của thanh niên Bà-la-môn Subha ấy cùng với cả thầy (vị ấy) mới thuyết rằng: “Thế nào, này Thanh niên Bà-la-môn? v.v.

467. Tattha katamā nesaṃ seyyoti katamā vācā tesaṃ seyyo, pāsaṃsataroti attho. Sammuccāti sammatiyā lokavohārena. Mantāti tulayitvā pariggaṇhitvā. Paṭisaṅkhāyāti jānitvā. Atthasañhitanti kāraṇanissitaṃ. Evaṃ santeti lokavohāraṃ amuñcitvā tulayitvā jānitvā kāraṇanissitaṃ katvā kathitāya seyyabhāve sati. Āvutoti āvarito. Nivutoti nivārito. Ophuṭoti onaddho. Pariyonaddhoti paliveṭhito.

467. Trong lời nói đó, lời nói nào của Sa-môn Bà-la-môn ấy trội hơn…như thế nào?: Những lời nói nào của Sa-môn Bà-la-môn đó trội hơn, có nghĩa là lời nói đáng tán thán, tốt hơn. Sammuccā: đã được thừa nhận, theo cách gọi thông dụng của thế gian. Đã biết là đã suy tư. Đã quán chiếu: đã nhận biết. Gắn liền với lợi ích: dựa vào nhân. Nếu là như vậy: trong khi lời nói mà người không từ bỏ cách nói thông dụng của thế gian, đã cân nhắc, đã biết, đã nói làm nhân để trở thành chỗ nương nhờ, là lời nói trội hơn có tồn tại. Bị bao bọc: Bị xâu lại. Bị bao trùm: Bị ngăn cản. Bị bao kín: Bị phủ khắp. Bị bọc lại: Bị che kín.

468 Gadhitoti-ādīni vuttatthāneva. Sace taṃ bho gotama ṭhānanti sace etaṃ kāraṇamatthi. Svāssāti dhūmachārikādīnaṃ abhāvena so assa aggi accimā ca vaṇṇimā ca pabhassaro cāti. Tathūpamāhaṃ māṇavāti tappaṭibhāgaṃ ahaṃ. Idaṃ vuttaṃ hoti:- yatheva hi tiṇakaṭṭhupādānaṃ paṭicca jalamāno aggi dhūmachārikāaṅgārānaṃ atthitāya sadoso hoti. evamevaṃ pañca kāmaguṇe paṭicca uppannā pīti jātijarābyādhimaraṇasokādīnaṃ atthitāya sadosā. Yathā pana pariccattatiṇakaṭṭhupādāno dhūmādīnaṃ abhāvena parisuddho, evameva lokuttarajjhānadvayasampayuttapīti jātiādīnaṃ abhāvena parisuddhāti attho.

468. Bị buộc chặt v.v, có ý nghĩa đã được nói rồi. Thưa ngài Gotama, nếu có sự kiện … Nếu nguyên nhân đó có mặt. Này thanh niên Bà-la-môn, ta nói…ví như thế đó: này thanh niên Bà-la-môn ta nói ví như như thế: Ta nói ví như hỷ nương vào ngũ dục. Tức là ví như lửa do duyên cỏ và củi khô làm nhiên liệu bốc cháy, trở thành ngọn lửa có lỗi lầm do bởi có khói, tro và than như thế nào, tương tự y như vậy, hỷ nương vào ngũ dục sanh khởi có lỗi lầm bởi có sanh, già, bệnh, chết và sầu v.v, thế đó. Tức là ngọn lửa được xem là vật thanh tịnh bởi không có khói v.v, mà thoát khỏi từ nhiên liệu là cỏ và củi khô như thế nào, tương tự y như vậy, hỷ phối hợp với cả hai là tâm Siêu thế và Thiền được gọi là thanh tịnh bởi vì không có sanh v.v, thế đó.

469. Idāni ye te brāhmaṇehi cāgasīsena pañca dhammā paññattā, tepi yasmā pañceva hutvā na niccalā tiṭṭhanti, anukampājātikena saddhiṃ cha āpajjanti. Tasmā taṃ dosaṃ dassetuṃ ye te māṇavāti-ādimāha. Tattha anukampājātikanti anukampāsabhāvaṃ.

469. Bây giờ, năm Pháp được các Bà-la-môn chủ trương bởi sự xả bỏ làm chủ đề đó, có phải chính năm Pháp đã tồn tại là Pháp không bị dao động, được thiết lập? Không đưa đến sự thành tựu cùng với lòng bi mẫn là thứ sáu, cho nên để thuyết về lỗi lầm đó đã nói rằng: Này thanh niên Bà-la-môn những Pháp đó như thế nào v.v.? Trong các câu đó thì (bố thí) chỉ vì lòng bi mẫn là có lòng bi mẫn làm thực tính.

Kattha bahulaṃ samanupassasīti idaṃ Bhagavā yasmā “esa ime pañca dhamme pabbajito paripūretuṃ samattho nāma natthi, gahaṭṭho paripūretī”ti āha, tasmā “pabbajitova ime pūreti, gahaṭṭho pūretuṃ samattho nāma natthī”ti teneva mukhena bhaṇāpetuṃ pucchati.

Ông quán xét thấy năm Pháp này nhiều nhất ở đâu? này do đức Thế Tôn đã nói rằng: “bậc xuất gia này gọi là người không thể thực hành năm Pháp này một cách trọn vẹn, mà chỉ có người tại gia cư sĩ thực hành được trọn vẹn”, bởi thế “chi có bậc xuất gia thực hành trọn vẹn năm Pháp này, người tại gia cư sĩ gọi là không thể thực hành một cách trọn vẹn” mới hỏi để cho thanh niên Bà-la-môn nói theo chính phương thức đó.

Na satataṃ samitaṃ saccavādītiādīsu gahaṭṭho aññasmiṃ asati valañjanakamusāvādampi karotiyeva, pabbajitā asinā sīse chijjantepi dve kathā na kathenti. Gahaṭṭho ca antotemāsamattampi sikkhāpadaṃ rakkhituṃ na sakkoti, pabbajito niccameva tapassī sīlavā tapanissitako hoti. Gahaṭṭho māsassa aṭṭhadivasamattampi uposathakammaṃ kātuṃ na sakkoti, pabbajitā yāvajīvaṃ brahmacārino honti. Gahaṭṭho ratanasuttamaṅgalasuttamattampi potthake likhitvā ṭhapeti, pabbajitā niccaṃ sajjhāyanti. Gahaṭṭho salākabhattampi akhaṇḍaṃ katvā dātuṃ na sakkoti, pabbajitā aññasmiṃ asati kākasunakhādīnampi piṇḍaṃ denti, bhaṇḍaggāhakadaharassapi patte pakkhipantevāti evamattho daṭṭhabbo. Cittassāhaṃ eteti ahaṃ ete pañca dhamme mettacittassa parivāre vadāmīti attho.

Là người không nói lời chân thật thường xuyên liên tục v.v.: Nên hiểu ý nghĩa như sau: người cư sĩ khi không có lý do nào khác cũng hành động kể cả nói dối của kẻ gian xảo, những bậc xuất gia dẫu cho bị chặt đầu bằng thanh gươm cũng không nói hai lời. Hơn nữa, người tại gia không thể gìn giữ các điều học xuyên suốt trong ba tháng. Bậc xuất gia là người có sự nhiệt thành, có giới hạnh, có sự nhiệt thành làm nơi nương tựa thường hằng liên tục. Người cư sĩ không thể thực hành việc làm vào ngày trai giới dầu chỉ 8 ngày mỗi tháng, những vị xuất gia là người thực hành Phạm hạnh cho đến hết cuộc đời. Người tại gia cư sĩ thậm chí ghi chép cả Kinh Ratana và Kinh Maṅgala vào cuốn sổ rồi đặt nó sang một bên, còn những bậc xuất gia không nhưng ghi nhớ mà còn trì tụng thường xuyên. Người cư sĩ không thể bố thí salākabhatta (cho liên tục) không đứt quãng, những vị xuất gia khi không có những thứ khác cũng cho miếng cơm đến các con quạ và con chó v.v, chỉ đặt vào bình bát vật thực của chính vị Tỳ khưu trẻ nhận bình bát. Ta nói những Pháp đó (là tùy tùng) của tâm: có nghĩa là Ta nói năm Pháp đó là tùy tùng của tâm từ.

470. Jātavaḍḍhoti jāto ca vaḍḍhito ca. Yo hi kevalaṃ tattha jātova hoti, aññattha vaḍḍhito, tassa samantā gāmamaggā na sabbaso paccakkhā honti, tasmā jātavaḍḍhoti āha. Jātavaḍḍhopi hi yo ciraṃ nikkhanto, tassa na sabbaso paccakkhā honti, tasmā tāvadeva avasaṭanti āha, taṃkhaṇameva nikkhantanti attho. Dandhāyitattanti “ayaṃ nu kho maggo ayaṃ nanu kho”ti kaṅkhāvasena cirāyitattaṃ. Vitthāyitattanti yathā sukhumaṃ atthajātaṃ sahasā pucchitassa kassaci sarīraṃ thaddhabhāvaṃ gaṇhāti, evaṃ thaddhabhāvagahaṇaṃ, na tvevāti iminā sabbaññutañāṇassa appaṭihatabhāvaṃ dasseti. Tassa hi purisassa mārāvaṭṭanādīnaṃ vasena siyā ñāṇassa paṭighāto, tena so dandhāyeyya vā vitthāyeyya vā, sabbaññutañāṇaṃ pana appaṭihataṃ, na sakkā tassa kenaci antarāyo kātunti dīpeti.

470. Đã sinh ra và lớn lên: Đã được sinh ra và đã được lớn lên. Người nào chỉ được sinh ra hoàn toàn ở nơi đó (nhưng) lại trưởng thành ở một nơi khác thì những con đường xung quanh làng không thể hiện hữu rõ ràng trọn vẹn cùng người đó, bởi thế mới nói rằng: Đã được sinh ra và đã được lớn lên. Ngay cả người nào đã được sinh, đã lớn lên tuy nhiên đi khỏi (nơi đó) quá lâu, con đường cũng không hiện hữu rõ ràng trọn vẹn cùng người ấy, bởi thế mới nói rằng người đi khỏi vào lúc đó, tức là người đi khỏi ngay lập tức vào lúc đó. Chậm chạp: chậm chạp bởi sự lưỡng lự rằng: con đường này hay con đường kia. Ngập ngừng: bóng dáng của bất cứ ai bị hàng nghìn hỏi đến ý nghĩa sâu xa đến tính chất thô như thế nào, việc đi đến tính chất thô như vậy hẳn không xảy ra, đức Thế Tôn thuyết giảng về tính chất không bị trở ngại của trí Toàn giác bằng từ ‘na tvevā (không như vậy)’. Tính chất không trở ngại sự hiểu biết có thể có cùng hạng người ấy bởi mãnh lực sự cám dỗ của ác ma v.v, do đó mà con người có thể chậm chạp hoặc có thể ngập ngừng, nhưng trí Toàn giác thì không có bất kỳ điều gì có thể ngăn cản được, ngài thuyết rằng: bất cứ ai cũng không thể làm nguy hại đến trí Toàn giác ấy.

Seyyathāpi māṇava balavā saṅkhadhamoti ettha balavāti balasampanno. Saṅkhadhamoti saṅkhadhamako. Appakasirenāti akicchena adukkhena. Dubbalo hi saṅkhadhamako saṅkhaṃ dhamantopi na sakkoti catasso disā sarena viññāpetuṃ, nāssa saṅkhasaddo sabbaso phari. Balavato pana vipphāriko hoti, tasmā balavāti āha. Mettāya cetovimuttiyāti ettha mettāyāti vutte upacāropi appanāpi vaṭṭati, cetovimuttiyāti vutte pana appanāva vaṭṭati. Yaṃ pamāṇakataṃ kammanti pamāṇakataṃ kammaṃ nāma kāmāvacaraṃ vuccati, appamāṇakataṃ kammaṃ nāma rūpārūpāvacaraṃ. Tesupi idha brahmavihārakammaññeva adhippetaṃ. Tañhi pamāṇaṃ atikkamitvā odhisaka-anodhisaka6 disāpharaṇavasena vaḍḍhetvā katattā appamāṇakatanti vuccati. Na taṃ tatrāvasissati, na taṃ tatrāvatiṭṭhatīti taṃ kāmāvacarakammaṃ tasmiṃ rūpārūpāvacarakamme na ohīyati na tiṭṭhati. Kiṃ vuttaṃ hoti: kāmāvacarakammaṃ tassa rūpārūpāvacarakammassa antarā laggituṃ vā ṭhātuṃ vā rūpārūpāvacarakammaṃ pharitvā pariyādiyitvā attano okāsaṃ gahetvā patiṭṭhātuṃ na sakkoti, athakho rūpārūpāvacarakammameva kāmāvacaraṃ mahogho viya parittaṃ udakaṃ pharitvā pariyādiyitvā attano okāsaṃ gahetvā tiṭṭhati, tassa vipākaṃ paṭibāhitvā sayameva brahmasahabyataṃ upanetīti. Sesaṃ sabbattha uttānamevāti.

Từ ‘có lực’ trong cụm từ ‘ví như, này thanh niên Bà-la-môn, người thổi tù và – có lực như thế nào’ thành tựu bởi lực. Người thổi tù và: người thổi tù và. Không khó khăn: Không khó khăn, không trở ngại. Người thổi tù và yếu ớt dầu đang thổi tù và cũng không thể tạo ra âm thanh làm cho bốn phương nghe được âm thanh tù và của vị ấy không lan tỏa đi toàn bộ (các phương), còn người có sức lực (có thể) lan tỏa (âm thanh) đi. Bởi thế mới nói rằng: người có sức lực. Nói rằng ‘bởi tâm từ’ trong cụm từ ‘sự giải thoát của tâm bởi từ ái này thích hợp cả cận định (và) cả an chỉ định, tuy nhiên khi nói về ‘sự giải thoát của tâm’ chỉ thích hợp an chỉ định mà thôi. Hành động được làm có tính chất hạn lượng thế nào: gọi hành động được làm có tính chất hạn lượng là Dục giới. Gọi hành động được làm có tính chất vô lượng là Sắc giới. Ở hành động là Dục giới và Sắc giới đó, ở đây có ý muốn đề cập đến hành động là Phạm trú mà thôi. Bởi vì Phạm trú đó đã vượt qua (tính chất) hạn lượng, đã làm cho tăng trưởng do tác động sự lan tỏa khắp các phương hướng cụ thể và phương hướng không cụ thể. Không có trú ở nơi đây (Dục giới), không có dừng lại ở nơi đây (Sắc giới): Nghiệp Dục giới đó không ở lại, không an trú ở trong nghiệp Sắc giới ấy. Ngài giải thích thế nào: – (ngài giải thích như sau) nghiệp Dục giới không gắn bó hoặc an trú giữa nghiệp Sắc giới hoặc lan tỏa khắp nghiệp Sắc giới và nghiệp Vô sắc chế ngự nắm lấy cơ hội đối với bản thân được thiết lập. Trên thực tế, chỉ có nghiệp Sắc giới mới lan tỏa khắp nghiệp Dục giới, giống như chỗ nước nhiều tràn ngập chỗ nước ít, chế ngự nắm lấy cơ hội đối với bản thân rồi an trú. Nghiệp Sắc giới ngăn chặn dị thục quả của nghiệp Dục giới đó, có sự cộng trú với Phạm thiên nhờ chính bản thân. Từ còn lại trong các câu đều đơn giản.

Giải Thích Kinh Subha Kết Thúc.

1 Cha. Ma. – saggamokkhaṃ

2 Sī. – Pokkharasādītipi

3 Ka. – Yutto brāhmaṇo

4 Sī. Syā. Ka. – Evameva

5 Sī. – Rittakattāva

6 Sī. Syā. – odissaka-anodissaka