Kinh số 97 – Giải Thích Kinh Dhanañjāni
(Dhanañjānisuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Dhanañjāni
445. Evamme sutanti Dhanañjānisuttaṃ. Tattha Dakkhiṇāgirisminti girīti pabbato, Rājagahaṃ parikkhipitvā ṭhitapabbatassa dakkhiṇadisābhāge janapadassetaṃ nāmaṃ. Taṇḍulapālidvārāyāti rājagahassa kira dvattiṃsa mahādvārāni catusaṭṭhi khuddakadvārāni, tesu ekaṃ taṇḍulapālidvāraṃ nāma, taṃ sandhāya āha. Rājānaṃ nissāyāti “gaccha manusse apīḷetvā sassabhāgaṃ gaṇhāhī”ti raññā pesito gantvā sabbameva sassaṃ gaṇhāti, “mā no, bhante, nāsehī”ti ca vutte “rājakule vuttaṃ mandaṃ, ahaṃ raññā āgamanakāleyeva evaṃ āṇatto, mā kanditthā”ti evaṃ rājānaṃ nissāya brāhmaṇagahapatike vilumpati. Dhaññaṃ yebhuyyena attano gharaṃ pavesetvā appakaṃ rājakule paveseti. Kiṃ brāhmaṇagahapatikānaṃ na pīḷaṃ akāsīti ca vutto “āma mahārāja imasmiṃ vāre khettāni mandasassāni ahesuṃ, tasmā apīḷentassa me gaṇhato na bahu jātan”ti evaṃ brāhmaṇagahapatike nissāya rājānaṃ vilumpati.
445. Kinh Dhanañjāni được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, xứ sở Dakkhiṇāgirī: Ngọn núi tên Girī. Từ này là tên gọi là xứ sở ở phía Nam của ngọn núi được đặt bao quanh thành Rājagaha. Ở cánh cổng Taṇḍulapāla: Thành Rājagaha có ba mươi hai cánh cổng lớn, 64 cánh cổng nhỏ, trong số những cánh cổng đó có một cánh cổng được gọi là cổng Taṇḍulapāla. ngài nói liên quan đến cánh cổng Taṇḍulapāla đó. Ỷ thế vua: Bà-la-môn Dhanañjāni được đức vua cử đi (và) nói rằng: hãy đi thu phần lúa gạo không làm tổn thương dân chúng”, vị ấy đi thu hết phần lúa gạo và trở thành người mà dân chúng nói rằng: “xin ngài, đừng làm cho chúng tôi phải khốn khổ”, – (vị ấy) quay lại nói rằng: “lúa gạo được gieo trồng ở trong hoàng cung ít, đức vua ra lệnh cho ta như vậy khi đến đây, các người đừng than khóc làm gì.” Bà-la-môn Dhanañjāni ỷ thế vua như vậy gọi là chiếm đoạt (tài sản) của các Bà-la-môn và gia chủ. Thóc vua đưa vào nhà của mình rất nhiều, mang đến hoàng cung một lượng ít ỏi. Và bị đức vua hỏi rằng: “Khanh không đàn áp các Bà-la-môn và người gia chủ chứ?” – (vị ấy) đáp rằng: “Thưa vâng, tâu đại vương, vào thời điểm này ruộng có ít lúa, vì thế hạ thần đã không thúc ép (họ) để thu giữ (lúa gạo) cho nên (lúa gạo) mới không nhiều, Bà-la-môn Dhanañjāni dựa vào các Bà-la-môn và người gia chủ để lấy trộm của đức vua.
446 Payo pīyatanti taruṇakhīraṃ pivatu. Tāva bhattassāti yāva khīraṃ pivitvā nisīdissatha, tāvadeva bhattassa kālo bhavissati. Idheva hi no pātarāsabhattaṃ āharissantīti dasseti. Mātāpitarotiādīsu mahallakā mātāpitaro attharaṇapārupanāni sukhumāni vatthāni madhurabhojanaṃ sugandhagandhamālādīni ca pariyesitvā posetabbā. Puttadhītānaṃ nāmakaraṇamaṅgalādīni sabbakiccāni karontena puttadāro posetabbo. Evaṃ hi akariyamāne garahā uppajjatīti iminā nayena attho veditabbo.
446. Hãy uống sữa tươi: Hãy uống sữa tươi non. Sau khi ăn sáng xong: Thời gian ăn sáng sẽ có vào lúc nào thì (lúc đó) vị ấy ngồi xuống uống sữa tươi. Bà-la-môn Dhanañjāni chỉ ra rằng: mọi người sẽ mang thức ăn đến vì tất cả chúng ta ở tại nơi đó. Trong câu đó mẹ và cha v.v,: Cha và mẹ đã già con có thể tìm kiếm tấm trải ngồi và vải mặc mềm mại, vật thực ngon, và hương thơm với tràng hoa thơm v.v, đến để nuôi dưỡng. Cha và mẹ làm mọi việc chẳng hạn như ngày lễ Kiết Tường trong việc đặt tên con trai và con gái, có thể chăm sóc các con và vợ. Khi không thực hiện thì sự khiển trách sẽ sanh khởi, nên biết ý nghĩa theo cách thức như vậy.
447. Adhammacārīti pañca-dussīlyakammāni vā dasa-dussīlyakammāni vā idha adhammo nāma. Upakaḍḍheyyunti pañcavidhabandhanādikammakaraṇatthaṃ taṃ taṃ nirayaṃ kaḍḍheyyuṃ.
447. Vị thực hành Phi Pháp: hành động ác giới là không có ngũ giới, hoặc hành động ác giới là không có thập giới được gọi là Phi Pháp trong trường hợp này. Có thể kéo đi: Có thể kéo đi đến các tầng địa ngục đó đó, vì đã thực hiện 5 loại hình phạt như việc tống giam v.v.
448-453. Dhammacārīti dhammikakasivaṇijjādikammakārī. Paṭikkamantīti osaranti1 parihāyanti. Abhikkamantīti abhisaranti vaḍḍhanti. Seyyoti varataraṃ. Hīneti nihīne lāmake. Kālaṅkato ca sāriputtāti idaṃ Bhagavā “tatrassa gantvā Dhammaṃ desehī”ti adhippāyena theraṃ āha. Theropi taṃkhaṇaṃyeva gantvā mahābrahmuno dhammaṃ desesi, tato paṭṭhāya cātuppadikaṃ gāthaṃ kathentopi catusaccavimuttaṃ nāma na kathesīti.
448-453. Vị thực hành đúng Pháp: Người thường làm những việc làm như việc đồng áng và việc buôn bán v.v, đúng Pháp. Giảm thiểu: làm giảm bớt, làm dịu bớt. Gia tăng: làm xấu thêm, tăng trưởng thêm. Cao thượng: cao thượng hơn. Xấu xa: Suy hoại, thấp hèn. Lời này ‘và này Sariputta, Bà-la-môn đã mệnh chung…’ đức Thế Tôn đã thuyết cho trưởng lão với mong muốn rằng: ‘Ông hãy đi đến nơi đó rồi thuyết giảng Pháp thoại cho Bà-la-môn ấy’. Mặc dầu, trưởng lão cũng đã đến vào lúc đó ngay tức khắc rồi thuyết giảng Giáo pháp cho Đại Phạm thiên, kể từ đó trở đi khi đã nói lên bài kệ bốn câu thì cũng không nói đến sự giải thoát với bốn Chân Lý.
Giải Thích Kinh Dhanañjāni Kết Thúc
1 Sī. – na osaranti