Kinh số 96 – Giải Thích Kinh Esukārī
(Esukārīsuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Esukārī
437. Evamme sutanti esukārīsuttaṃ. Tattha bilaṃ olaggeyyunti koṭṭhāsaṃ laggāpeyyuṃ, iminā satthadhammaṃ nāma dasseti. Satthavāho kira mahākantāraṃ paṭipanno antarāmagge goṇe mate maṃsaṃ gahetvā sabbesaṃ satthikānaṃ “idaṃ khāditvā ettakaṃ mūlaṃ dātabban”ti koṭṭhāsaṃ olaggeti, gomaṃsaṃ nāma khādantāpi atthi akhādantāpi, mūlaṃ dātuṃ sakkontāpi asakkontāpi. Satthavāho yena mūlena goṇo gahito, tassa nikkhamanatthaṃ sabbesaṃ balakkārena koṭṭhāsaṃ datvā mūlaṃ gaṇhāti, ayaṃ satthadhammo. Evameva brāhmaṇāpi lokassa paṭiññaṃ aggahetvā attanova dhammatāya catasso pāricariyā paññāpentīti dassetuṃ evameva khotiādimāha. Pāpiyo assāti pāpaṃ1 assa. Seyyo assāti hitaṃ assa. Athavā pāpiyoti pāpako lāmako attabhāvo assa. Seyyoti seṭṭho uttamo. Seyyaṃsoti seyyo. Uccākulīnatāti uccākulīnattena seyyo. Pāpiyaṃsoti pāpiyo. Uccākulīnatā ca dvīsu kulesu vaḍḍheti2 khattiyakule brāhmaṇakule ca, uḷāravaṇṇatā tīsu. Vessopi hi uḷāravaṇṇo hoti. Uḷārabhogatā catūsupi. Suddopi hi antamaso caṇḍālopi uḷārabhogo hotiyeva.
437. Kinh Esukārī được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, có thể để máng thòng xuống một một phần: có thể máng thòng xuống một phần, để trình bày về Pháp của người thương buôn. Tương truyền rằng người chỉ đạo đoàn xe đi đến những đại hiểm lộ, khi những con bò chết ở giữa đường thì mang thịt nó lại treo vào cỗ xe một phần để dành cho những ai cần thịt toàn bộ rằng: “Bất cứ ai ăn thịt này hãy trả số tiền bằng chừng này”, thường người ăn được thịt bò cũng có, người không ăn được cũng có, người có khả năng chi trả cũng có, người không có khả năng chi trả cũng có. Người chỉ đạo đoàn xe mua bò với giá nào thì đưa ra (bán với) mức giá đó nên mới tự tiện chia phần cho tất cả mọi người chỉ lấy lại vốn liếng, đây là Pháp của người thương buôn. Để trình bày rằng ngay cả những Bà-la-môn đó cũng tương tự như thế, đã giữ lấy điều thú nhận của nhân loại rồi chế định bốn loại phụng sự theo bản thể tự nhiên của chính mình đã nói rằng: “Cũng tương tự như vậy…”. Có lẽ xấu hơn: Có thể trở nên vô cùng thấp kém. Có lẽ tốt hơn: Có thể có lợi ích. Hơn nữa, ‘ác xấu’ có thể có bản ngã xấu xa, tồi tệ. Tốt đẹp: cao cả, cao thượng. Cao cả là cao cả hơn. Bởi sinh ra trong gia đình cao quý: cao cả bởi tính chất sinh ra trong gia đình quyền quý. Vô cùng xấu xa: hèn hạ. Tính chất người được sinh ra trong gia đình cao quý phải trong 2 gia đình là ở gia đình Sát-đế-lỵ, hoặc ở gia đình Bà-la-môn. Tính chất người có giai cấp cao quý phải ở trong cả ba gia đình. Bởi vì ngày cả giai cấp thương buôn trở thành giai cấp cao quý được. Tính chất người có nhiều tài sản phải ở trong cả 4 gia đình, Bởi vì ngay cả giai cấp nô lệ ở cuối cùng thậm chí người hạ tiện cũng trở thành người có nhiều tài sản tương tự.
440. Bhikkhācariyanti koṭidhanenapi hi brāhmaṇena bhikkhā caritabbāva, porāṇakabrāhmaṇā asītikoṭidhanāpi ekavelaṃ bhikkhaṃ caranti. Kasmā? Duggatakāle carantānaṃ idāni bhikkhaṃ carituṃ āraddhāti garahā na bhavissatīti. Atimaññamānoti yo bhikkhācariyavaṃsaṃ haritvā sattajīvakasikammavaṇijjādīhi jīvikaṃ kappeti, ayaṃ atimaññati nāma. Gopo vāti yathā gopako attanā rakkhitabbaṃ bhaṇḍaṃ thenento akiccakārī hoti, evanti attho. Iminā nayena sabbavāresu attho veditabbo. Asitabyābhaṅginti tiṇalāyanāsitañceva kājañca. Anussaratoti yattha jāto, tasmiṃ porāṇe mātāpettike kulavaṃse anussariyamāneti attho. Sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
440. Đi trì bình khất thực: bởi Bà-la-môn dầu có tài sản cả koṭi cũng cần phải đi khất thực. Một Bà-la-môn từ thời cổ xưa, dẫu cho có tài sản trị giá tám mươi koṭi vẫn đi khất thực một thời gian. Tại sao? Điều đáng phàn nàn rằng: bây giờ bắt đầu đi khất thực, sẽ không có cùng các Bà-la-môn thời cổ xưa thời kỳ khốn khổ. Khinh thường: Bà-la-môn đã từ bỏ gia tộc để đi khất thực, nuôi mạng bằng nghề buôn bán vũ khí, làm nông nghiệp, và thương buôn v.v, đây gọi là khinh thường. Như người chăn bò: giống như người chăn bò lấy của mà bản thân cần phải gìn giữ, là người thực hiện điều không phải nhiệm vụ v.v. Nên biết ý nghĩa toàn phần theo cách này. Lưỡi liềm và đòn gánh: Lưỡi liềm để cắt cỏ và đòn gánh. Nhớ đến: Nhớ đến gia thuở xưa của mẹ và cha mà bản thân đã sinh ra. Từ còn lại trong các câu đều đơn giản.
Giải Thích Kinh Esukārī Kết Thúc.
1 Syā. Ka. – atipāpaṃ
2 Syā. Ka. – vaṭṭati