Kinh số 93 – Giải Thích Kinh Assalāyana

(Assalāyanavaṇṇanā)

Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Assalāyana

401. Evamme sutanti assalāyanasuttaṃ. Tattha nānāvesārajjakānanti aṅgamagadhādīhi nānappakārehi vesārajjehi āgatānaṃ, tesu1 vā raṭṭhesu jātasaṃvaḍḍhānantipi attho. Kenacidevāti yaññupāsanādinā aniyamitakiccena. Cātuvaṇṇinti catuvaṇṇasādhāraṇaṃ. Mayaṃ pana nhānasuddhiyāpi bhāvanāsuddhiyāpi brāhmaṇāva sujjhantīti vadāma, ayuttampi samaṇo gotamo karotīti maññamānā evaṃ cintayiṃsu. Vuttasiroti voropitasiro2.

401. Kinh Assalāyana được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, từ nhiều quốc độ khác nhau bao gồm người đã đến từ nhiều quốc độ khác nhau như xứ Aṅga và xứ Magadha v.v, bằng nhiều cách khác nhau. Hơn nữa, có nghĩa là người đã sanh ra, đã trưởng thành ở những xứ sở đó cũng có. Một số: với phận sự không xác xác định như việc cúng tế v.v. Liên quan đến bốn giai cấp: Điều này phổ biến trong tất cả bốn giai cấp. Nhưng chúng ta (các Bà-la-môn) nói rằng: ‘Chỉ các Bà-la-môn mới được thanh tịnh hóa thông qua nghi lễ tắm rửa và thông qua tu tập thiền định.’ Họ nghĩ như vậy vì cho rằng Sa-môn Gotama đang làm những điều không thích hợp. Cạo tóc: xuống tóc.

Dhammavādīti sabhāvavādī. Duppaṭimantiyāti amhādisehi adhammavādīhi dukkhena paṭimantitabbā honti. Dhammavādino nāma parājayo na sakkā kātunti dasseti. Paribbājakanti pabbajjāvidhānaṃ, tayo vede uggahetvā sabbapacchā pabbajantā yehi mantehi pabbajanti, pabbajitā ca ye mante pariharanti, yaṃ vā ācāraṃ ācaranti, taṃ sabbaṃ bhotā caritaṃ sikkhitaṃ. Tasmā tuyhaṃ parājayo natthi, jayova te bhavissatīti maññantā evamāhaṃsu.

Vị nói đúng Pháp: nói theo đúng thực tính. Rất khó thảo luận: người nói phi Pháp như ta sẽ rất khó có thể thảo luận. Ngài trình bày không thể làm cho vị nói đúng Pháp chiến bại được. Du sĩ ngoại đạo: phương pháp xuất gia. Những Bà-la-môn đó nghĩ rằng: người học ba tập Vệ Đà rồi xuất gia sau những người khác thì xuất bằng chú thuật nào? Và sau khi xuất gia thì được bảo hộ bằng những chú thuật nào? Thực hành những hạnh kiểm nào? Tất cả những điều đó ngài đều đã hành, đã học tập. Vì vậy, không có thất bại cho ngài, chỉ có chiến thắng sẽ đến với ngài – nghĩ như vậy, họ đã nói như thế.

402. Dissante3 kho panāti-ādi tesaṃ laddhibhindanatthaṃ vuttaṃ. Tattha brāhmaṇiyoti brāhmaṇānaṃ puttapaṭilābhatthāya āvāhavivāhavasena kulā ānītā brāhmaṇiyo dissanti. Tā kho panetā aparena samayena utuniyopi honti, sañjātapupphāti attho. Gabbhiniyoti sañjātagabbhā. Vijāyamānāti puttadhītaro janayamānā. Pāyamānāti dārake thaññaṃ pāyantiyo. Yonijāva samānāti brāhmaṇīnaṃ passāvamaggena jātā samānā. Evamāhaṃsūti evaṃ vadanti. Kathaṃ? Brāhmaṇova seṭṭho vaṇṇo -pe- Brahmadāyādāti yadi pana nesaṃ saccavacanaṃ siyā, brāhmaṇīnaṃ kucchi mahābrahmuno uro bhaveyya, brāhmaṇīnaṃ passāvamaggo mahābrāhmuno mukhaṃ bhaveyya, ettāvatā “mayaṃ mahābrahmuno ure vasitvā mukhato nikkhantā”ti vattuṃ mā labhantūti ayaṃ mukhato jātacchedakavādo vutto.

402. Cũng … có hiện hữu như vậy v.v, ngài đã nói để phá tan học thuyết của những Bà-la-môn ấy. Ở đó, những nữ Bà-la-môn bao gồm những ai nhìn thấy nữ Bà-la-môn được đưa từ dòng tộc lại để cho con trai của Bà-la-môn (cưới hỏi) bằng việc rước dâu và đưa dâu, nhưng những người nữ ấy sau một thời gian có kinh nguyệt, tức là tới thời kỳ kinh nguyệt. Có mang thai: thụ thai. Có sinh con: sinh con trai, con gái. Cho con bú sữa: cho con bú sữa. Sanh con từ tử cung: sinh con tử cung của nữ Bà-la-môn. Đã nói như vậy: đã nói như thế. Nói như thế nào? Chỉ có giai cấp Bà-la-môn là tối thượng -nt- là con cháu thừa tự Phạm thiên: Nếu như lời nói của những người ấy có thể trở thành sự thật, bụng của nữ Bà-la-môn cũng có thể trở thành ngực của Đại Phạm thiên. Tử cung của nữ Bà-la-môn cũng có thể trở thành miệng của Đại Phạm thiên. Chỉ bấy nhiêu chúng ta chớ nên nói rằng: “Đã cư trú ở ngực của Đại Phạm thiên, đã đi ra khỏi từ miệng của Đại Phạm thiên” (vì thế) đã nói lời cắt đứt học thuyết sinh ra từ miệng (Phạm thiên).

403. Ayyo hutvā dāso hoti, dāso hutvā ayyo hotīti brāhmaṇo sabhariyo vaṇijjaṃ payojento Yonakaraṭṭhaṃ vā Kambojaraṭṭhaṃ vā gantvā kālaṃ karoti, tassa gehe vayappatte putte asati brāhmaṇī dāsena vā kammakarena vā saddhiṃ saṃvāsaṃ kappeti. Ekasmiṃ dārake jāte so puriso dāsova hoti, tassa jātadārakova pana4 dāyajjasāmiko hoti. Mātito suddho pitito asuddho so vaṇijjaṃ payojento Majjhimapadesaṃ gantvā brāhmaṇadārikaṃ gahetvā tassā kucchismiṃ puttaṃ paṭilabhati, sopi mātitova suddho hoti pitito asuddho. Evaṃ brāhmaṇasamayasmiṃyeva jātisambhedo hotīti dassanatthametaṃ vuttaṃ. Kiṃ balaṃ, ko assāsoti yattha tumhe dāsā hontā sabbeva dāsā hotha, ayyā hontā sabbeva ayyā hotha, ettha vo ko thāmo, ko avassayo, ye5 brāhmaṇova seṭṭho vaṇṇoti vadathāti dīpeti.

403. Sau khi làm chủ nhân, lại trở thành đầy tớ; sau khi làm đầy tớ, lại trở thành chủ nhân: Bà-la-môn cùng với vợ mình đã đi đến xứ Yonaka và xứ Kamboja để áp dụng việc buôn bán, tạo thời cơ, khi đến tuổi trưởng thành ở trong nhà không có con cái, nữ Bà-la-môn sinh hoạt chung với người nô lệ hoặc người lao động. Đã hạ sinh một đứa bé trai, người đàn ông ấy chính là nô lệ. Đứa bé trai được sinh ra từ người ấy trở thành chủ ở hữu thừa kế khối tài sản. Thanh tịnh từ mẹ, không thanh tịnh từ cha, người đàn ông đó áp dụng việc buôn bán đã đi đến trung tâm đất nước đem theo con gái của Bà-la-môn cùng đi, có được một đứa con trai ở trong bụng nàng ấy, dẫu vậy thì đứa con trai ấy cũng được thanh tịnh từ mẹ, không thanh tịnh từ cha. Với biểu hiện như vậy, sự hòa trộn bởi sự sanh có trong học thuyết của Bà-la-môn ấy, để trình bày ý nghĩa như đã nói này mới nói lời ấy. Cái gì là sức mạnh, cái gì là sự chắc chắn: Ngài chỉ ra rằng ở nơi nào các ông là nô lệ, thì tất cả đều là nô lệ, nơi nào các ông là chủ, thì tất cả đều là chủ – trong trường hợp này, đâu là sức mạnh của các ông, đâu là chỗ dựa của các ông, những người nói rằng ‘chỉ có Bà-la-môn là giai cấp tối thượng’.

404. Khattiyova nu khotiādayo suttacchedakavādā nāma honti.

404. Chỉ có người Sát-đế-lỵ v.v.: được gọi là lời nói cắt đứt phần trắng (giai cấp).

408. Idāni cātuvaṇṇiṃ suddhiṃ dassento idha rājātiādimāha. Sāpānadoṇiyāti sunakhānaṃ pivanadoṇiyā. Aggikaraṇīyanti sītavinodanaandhakāravidhamanabhattapacanādiaggikiccaṃ. Ettha assalāyanāti ettha sabbasmiṃ aggikiccaṃ karonto.

408. Bây giờ khi thuyết giảng sự thanh tịnh về bốn giai cấp, đã nói rằng ‘Ở đây, nếu có vua v.v.Máng chó ăn: máng thức uống dành cho chó. Công việc do lửa đem lại: chức năng của ngọn lửa làm dịu cái lạnh, xua tan bóng tối, dùng để nấu cơm. Ở đây, này Assalāyanā: Ở đây người thực hiện công việc bằng ngọn lửa trong tất cả mọi phận sự như vậy.

409 Idāni yadetaṃ brāhmaṇā cātuvaṇṇisuddhīti vadanti, ettha cātuvaṇṇāti niyamo natthi. Pañcamo hi pādasikavaṇṇopi6 atthīti saṅkhittena tesaṃ vāde dosadassanatthaṃ idha khattiyakumāroti-ādimāha. Tattha amutra ca panesānanti amusmiṃ ca pana purimanaye etesānaṃ7 māṇavakānaṃ kiñci nānākaraṇaṃ na passāmīti vadati. Nānākaraṇaṃ pana tesampi atthiyeva. Khattiyakumārassa hi brāhmaṇakaññāya uppanno khattiyapādasiko nāma, itaro brāhmaṇapādasiko nāma, ete hīnajātimāṇavakā.

409. Bây giờ, điều mà các Bà-la-môn nói về sự thanh tịnh của bốn giai cấp, ở đây không có sự xác định rõ ràng về bốn giai cấp đó. Bởi vì thực sự có giai cấp thứ năm, đó là giai cấp lai. Để chỉ ra khuyết điểm trong lời nói của họ một cách vắn tắt, đức Thế Tôn đã nói: ‘Ở đây một nam tử Sát-đế-lỵ…’ v.v… Trong đoạn đó, với câu ‘nhưng ở cách thức ban đầu của họ‘, Ngài nói rằng: ‘Trong cách thức ban đầu kia, ta không thấy có sự khác biệt nào giữa những thanh niên này’. Tuy nhiên, những người đó thực sự có sự khác biệt. Vì người sinh ra từ một nam tử Sát-đế-lỵ với một nữ Bà-la-môn được gọi là con lai Sát-đế-lỵ, còn người kia được gọi là con lai Bà-la-môn – những người này là những thanh niên thuộc chủng tộc thấp kém.

Evaṃ pañcamassa vaṇṇassa atthitāya cātuvaṇṇisuddhīti etesaṃ vāde dosaṃ dassetvā idāni puna cātuvaṇṇisuddhiyaṃ otārento8 taṃ kiṃ maññasītiyaññabhatte. Tattha saddheti matakabhatte. Thālipāketi paṇṇākārabhatte. Yaññeti aññeti. Pāhuneti āgantukānaṃ katabhatte. Kiṃ hīti kiṃ mahapphalaṃ bhavissati, no bhavissatīti dīpeti.

Đức Thế Tôn khi thuyết giảng về lỗi lầm về học thuyết của những Bà-la-môn này rằng: sự thanh tịnh liên quan đến bốn giai cấp bởi vẫn có giai cấp thứ năm như vầy, bây giờ khi thâm nhập vào sự thanh tịnh liên quan đến bốn giai cấp mới nói rằng: Ông nghĩ thế nào? v.v. Ở đó, việc chuẩn bị đồ cúng của người có đức tin: các đồ ăn cúng cho người chết. Việc chuẩn bị lễ vật là một tặng phẩm: các món ăn để biếu tặng. các món ăn trong các lễ tế đàn: các vật phẩm để tế đàn. Các đồ ăn đãi khách: các món ăn để đãi khách. Điều gì vậy: để trình bày rằng điều nào sẽ có nhiều kết quả và sẽ không có nhiều kết quả.

410 Bhūtapubbanti assalāyana pubbe mayi jātiyā hīnatare tumhe seṭṭhatarā samānāpi mayā jātivāde pañhaṃ puṭṭhā sampādetuṃ nāsakkhittha, idāni tumhe hīnatarā hutvā mayā seṭṭhatarena buddhānaṃ sake jātivāde pañhaṃ puṭṭhā kiṃ sampādessatha, na ettha cintā kātabbāti māṇavaṃ upatthambhento imaṃ desanaṃ ārabhi. Tattha asito kāḷako. Devaloti tassa nāmaṃ, ayameva bhagavā tena samayena, paṭaliyoti9 gaṇaṅgaṇaupāhanā. Patthaṇḍileti paṇṇasālāpariveṇe. Ko nu khoti kahaṃ nu kho. Gāmaṇḍalarūpo viyāti gāmadārakarūpo viya. So khvāhaṃ bho homīti bho ahaṃ so asitadevalo homīti vadati. Tadā kira mahāsatto Koṇḍadamako hutvā vicarati. Abhivādetuṃ upakkamiṃsūti vandituṃ upakkamaṃ akaṃsu. Tato paṭṭhāya ca10 vassasatikatāpasopi tadahujātaṃ brāhmaṇakumāraṃ avandanto koṇḍito sukoṇḍito11 hoti,

410. Chuyện từng xảy ra trước đó: Này Assalāyana, thuở xưa khi ta thấp kém hơn về sanh chủng và ông tối thượng hơn, ông cũng không thể giải quyết được câu hỏi về học thuyết sanh chủng mà ta đã hỏi. Bây giờ, khi ông thấp kém hơn và ta tối thượng hơn, liệu ông có thể giải quyết được câu hỏi về học thuyết sanh chủng của chư Phật không? Không cần phải suy nghĩ về vấn đề này. Để trợ giúp thanh niên ấy, Ngài đã bắt đầu bài thuyết giảng này. Ở đó, asito: dịch là đen. Devalo: là tên của vị ẩn sĩ ấy, vào thời đó cũng chính là đức Phật này. Hai lớp: đôi dép hai lớp. Am thất bằng lá: trong khu vực am thất bằng lá. Những (tôn giả ẩn sĩ Bà-la-môn) này đi đâu?: ở chỗ nào vậy? giống như một đứa trẻ trong làng: giống như một đứa bé trai ở làng. Thưa các ngài, là tôi ẩn sĩ Asita Devala: Đức Thế Tôn đã nói rằng: ta là Asita Devala. Được biết rằng: vào thời gian ấy bậc Đại Nhân đi du hành để điều phục những người chưa được điều phục. Cùng nhau đi vào kiếm…để đảnh lễ: đã thể hiện sự nỗ lực để đảnh lễ. Và kể từ đó ngay cả vị ẩn sĩ có tuổi thọ một trăm năm tuổi cũng không đảnh lễ nam tử Bà-la-môn đã hạ sinh vào ngày hôm ấy, [vị ẩn sĩ] là người đã điều phục, đã khéo điều phục.

411. Janikā mātāti yāya tumhe janitā12, sā vo janikā mātā. Janikā mātūti janikāya mātuyā. Yo janakoti yo janako pitā. “yo janiko pitāteva” vā pāṭho.

411. Janikā mātā: Người nữ nào đã sinh ra các ông, người nữ đó là mẹ đẻ của các ông. Janikā mātu: của người mẹ sanh ra. Yo janako: người nam nào là cha đẻ. Cũng có cách đọc là ‘yo janiko pitā’ (người nam nào là cha sinh ra).

Asitenāti pañcābhiññena asitena Devalena isinā imaṃ gandhabbapañhaṃ puṭṭhā na sampāyissanti. Yesanti yesaṃ sattannaṃ isīnaṃ. Na Puṇṇo dabbigāhoti tesaṃ sattannaṃ isīnaṃ dabbiṃ gahetvā paṇṇaṃ pacitvā dāyako Puṇṇo nāma eko ahosi, so dabbigahaṇasippaṃ jānāti. Tvaṃ ācariyako tesaṃ puṇṇopi na hoti, tena ñātaṃ dabbigahaṇasippamattampi na jānāsīti. Sesaṃ sabbattha uttānamevāti.

Asitena: ẩn sĩ Devala vị đắc được năm loại thần thông đã hỏi vấn về Gandhabba này rồi giải quyết không được. Yesaṃ: cả bảy vị ẩn sĩ nào? Puṇṇa không có thầy, là người cầm cái vá: Một thanh niên Bà-la-môn tên là Puṇṇa cầm lấy cái vá nướng trái cây cho cả bảy vị ẩn sĩ ấy. Puṇṇa ấy biết được nghệ thuật cầm vá nhưng Puṇṇa không phải là thầy của những vị ẩn sĩ đó, ngài thậm chí không biết nghệ thuật là việc cầm vá mà Puṇṇa ấy đã được biết. Từ còn lại trong các câu đều đơn giản.

Ayaṃ pana assalāyano saddho ahosi pasanno, attano antonivesaneyeva cetiyaṃ kāresi. Yāvajjadivasā assalāyanavaṃse jātā nivesanaṃ kāretvā antonivesane cetiyaṃ karontevāti.

Hơn nữa, Bà-la-môn Assalāyana này là người có đức tin, có lòng tịnh tín, nên đã xây dựng một bảo tháp ngay trong nhà của mình. Cho đến ngày nay, những người sinh ra trong dòng họ Assalāyana khi xây nhà đều xây dựng một bảo tháp bên trong nhà của họ.

Giải Thích Kinh Assalāyana Kết Thúc

1 Sī. – tesu tesu

2 Cha. Ma. – vāpitasiro

3 Sī. syā. kaṃ. pī. – dissanti

4 jātadārakena

5 Cha.Ma. – yaṃ

6 Sī., ka. – pārasakavaṇṇopi

7 Sī, Syā, Ka – etesaṃ

8 Cha. Ma. – ovadanto

9 Syā. – agaliyoti, Sī – Aṭaliyoti

10 Ka. – ca-saddo na dissati

11 Sī. – koṭṭhito sukoṭṭhito

12 Sī, Syā – Yā sā tumhe janikā