Kinh số 91 – Giải Thích Kinh Brahmāyu

(Brahmāyusuttavaṇṇanā)

Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Brahmāyu

Brāhmaṇavaggo [Phẩm Bà-la-môn]

383. evaṃ me sutanti brahmāyusuttaṃ. tattha mahatā bhikkhusaṅghena saddhinti mahatāti guṇamahattenapi mahatā, saṅkhyāmahattenapi. so hi bhikkhusaṅghe guṇehipi mahā ahosi appicchatādiguṇasamannāgatattā, saṅkhyāyapi mahā pañcasatasaṅkhyattā. bhikkhūnaṃ saṅghena bhikkhusaṅghena, diṭṭhisīlasāmaññasaṅghātasaṅkhātena samaṇagaṇenāti attho. saddhinti ekato. pañcamattehi bhikkhusatehīti pañca mattā etesanti pañcamattāni. mattāti pamāṇaṃ vuccati, tasmā yathā bhojane mattaññūti vutte bhojane mattaṃ jānāti pamāṇaṃ jānātīti attho hoti, evamidhāpi tesaṃ bhikkhusatānaṃ pañcamattā pañcapamāṇanti evamattho daṭṭhabbo. bhikkhūnaṃ satāni bhikkhusatāni. tehi pañcamattehi bhikkhusatehi.

383. Kinh Brahmāyu được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, từ ‘to lớn’ trong cụm từ mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ (cùng với đại chúng Tỳ khưu) có nghĩa là “lớn lao” cả về ân đức lẫn số lượng. Hội chúng ấy lớn về ân đức vì hội đủ các phẩm chất như thiểu dục, tri túc; lớn về số lượng vì có đến khoảng năm trăm vị. Saddhiṃ: cùng nhau. Pañcamattehi bhikkhusatehi (đại chúng Tỳ khưu khoảng năm trăm vị): Từ “matta” ở đây có nghĩa là “khoảng chừng”, “độ chừng”, dùng để chỉ một con số không chính xác tuyệt đối mà là con số ước lượng tương đối. Ví dụ như trong cụm từ “mattaññū” (người biết chừng mực), nghĩa là người biết giới hạn, biết vừa đủ khi thọ dụng vật thực. Tương tự như thế, ở đây nói “pañcamatta” nghĩa là “độ chừng năm”, tức là khoảng chừng năm trăm vị Tỳ-khưu; không phải là chính xác tuyệt đối năm trăm mà có thể nhiều hoặc ít hơn đôi chút. Như vậy, toàn bộ cụm từ “mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ pañcamattehi bhikkhusatehi” có nghĩa là: “cùng với đại chúng Tỳ-khưu đông đảo, khoảng chừng năm trăm vị, lớn lao cả về phẩm chất và số lượng”.

vīsavassasatikoti vīsādhikavassasatiko. tiṇṇaṃ vedānanti iruveda-yajuveda-sāmavedānaṃ. oṭṭhapahatakaraṇavasena pāraṃ gatoti pāragū. saha nighaṇḍunā ca keṭubhena ca sanighaṇḍukeṭubhānaṃ, nighaṇḍūti nāmanighaṇṭurukkhādīnaṃ vevacanappakāsakaṃ satthaṃ. keṭubhanti kiriyākappavikappo kavīnaṃ upakārāya satthaṃ. saha akkharappabhedena sakkharappabhedānaṃ. akkharappabhedoti sikkhā ca nirutti ca. itihāsapañcamānanti āthabbaṇavedaṃ catutthaṃ katvā “itiha āsa itiha āsā”ti īdisavacanappaṭisaṃyutto purāṇakathāsaṅkhāto itihāso pañcamo etesanti itihāsapañcamā, tesaṃ itihāsapañcamānaṃ. padañca tadavasesañca byākaraṇaṃ adhīyati pavedeti cāti padako veyyākaraṇo.

Vīsavassasatiko: nghĩa là người đã sống một trăm hai mươi tuổi. Tiṇṇaṃ vedānaṃ (của ba tập Vệ Đà): ba bộ sách của Bà-la-môn giáo Iruveda, Yajuveda và Sāmaveda. gọi là pāragū (người đi đến bờ kia): là vì người này đã thông hiểu một cách rành rẽ, lưu loát cả ba bộ kinh Vệ-đà nhờ việc tụng đọc thông thạo, trôi chảy. Sanighaṇḍukeṭubhānaṃ nghĩa là thông suốt cả từ vựng (nighaṇḍu) và nghi thức hay nghi lễ (keṭubha). Trong đó: “Nighaṇḍu” là từ điển hay bộ sách giải thích về các từ đồng nghĩa, các từ vựng chỉ tên gọi cây cối, thiên nhiên v.v. “Keṭubha” là văn bản hướng dẫn nghi lễ, nghi thức, quy định về cách diễn đạt, cách sử dụng từ ngữ sao cho phù hợp, được các nhà thơ, nhà văn sử dụng như một công cụ hỗ trợ diễn đạt văn chương. Saha akkharappabhedena nghĩa là thông suốt cả về ngữ âm và ngữ pháp. Ở đây “akkharappabheda” là sự phân tích, phân loại về âm tiết và ngôn ngữ, bao gồm cả “sikkhā” (âm vận học) và “nirutti” (ngôn ngữ học). Itihāsapañcamānaṃ nghĩa là người thông hiểu cả bộ “Itihāsa”—những câu chuyện cổ xưa, truyền thuyết lịch sử được truyền miệng qua các thế hệ, thường được xếp chung với bốn bộ Vệ-đà (Iruveda, Yajuveda, Sāmaveda và Āthabbaṇaveda) trở thành bộ thứ năm. Như vậy, bộ Itihāsa được coi là bộ thứ năm sau khi tính cả Āthabbaṇaveda là bộ thứ tư. Padako veyyākaraṇo là người thông thạo ngữ pháp, cú pháp và ngữ nghĩa, có khả năng trình bày rõ ràng các từ ngữ, câu cú, và giải thích được những ý nghĩa sâu xa ẩn chứa trong từng câu chữ. 

lokāyataṃ vuccati vitaṇḍavādasatthaṃ. mahāpurisalakkhaṇanti mahāpurisānaṃ buddhādīnaṃ lakkhaṇadīpakaṃ dvādasasahassaganthappamāṇaṃ satthaṃ, yattha soḷasasahassagāthāparimāṇāya buddhamantā nāma ahesuṃ, yesaṃ vasena “iminā lakkhaṇena samannāgatā buddhā nāma honti, iminā paccekabuddhā nāma honti, iminā dve aggasāvakā, asītimahāsāvakā, buddhamātā, buddhapitā, aggupaṭṭhāko, aggupaṭṭhāyikā, rājā cakkavattī”ti ayaṃ viseso ñāyati. anavayoti imesu lokāyatamahāpurisalakkhaṇesu anūno paripūrakārī, avayo na hotīti vuttaṃ hoti. avayo nāma yo tāni atthato ca ganthato ca sandhāretuṃ na sakkoti. assosi khotiādīsu yaṃ vattabbaṃ siyā, taṃ sāleyyakasutte (ma. ni. 1.439 ādayo) vuttameva.

Lokāyataṃ được gọi là luận thuyết thế gian, là môn học chuyên về lý luận ngụy biện, tranh luận. Mahāpurisalakkhaṇaṃ (Kinh điển về ba mươi hai tướng tốt của bậc Đại Nhân) là kinh sách trình bày những đặc điểm đặc biệt của các bậc đại nhân như Đức Phật, gồm khoảng mười hai nghìn quyển. Trong đó riêng phần “buddhamanta” (Phật chú) có khoảng mười sáu nghìn câu kệ, dùng để nhận diện và phân biệt rõ ràng các tướng đặc biệt như: “Người nào có tướng này thì sẽ thành Phật Chánh Đẳng Giác, người nào có tướng kia sẽ là Phật Độc Giác, người nào có tướng nọ sẽ là hai vị Thượng thủ Thinh văn, tám mươi vị Đại Thinh văn, cha của Đức Phật, mẹ của Đức Phật, nam thí chủ hàng đầu, nữ thí chủ hàng đầu, hay vua Chuyển Luân.” Anavayo nghĩa là người thiện xảo, hoàn hảo, trọn vẹn, không thiếu sót. Đây là người có khả năng ghi nhớ và thông suốt trọn vẹn những bộ môn khó như luận thuyết thế gian và kinh điển về ba mươi hai tướng tốt của bậc đại nhân. Người thiếu sót (avayo) nghĩa là người không thể ghi nhớ, không thể hiểu và nắm bắt đầy đủ về ý nghĩa và văn bản của các môn học đó. Câu “assosi kho” (đã nghe rồi…) và những từ tương tự thì cách giải thích đầy đủ đã được nêu rõ trong kinh Sāleyyaka (Trung Bộ Kinh, Majjhima Nikāya 1.439 trở đi).

384. ayaṃ tātāti ayaṃ mahallakatāya gantuṃ asakkonto māṇavaṃ āmantetvā evamāha. apica esa brāhmaṇo cintesi “imasmiṃ loke ‘ahaṃ buddho ahaṃ buddho’ti uggatassa nāmaṃ gahetvā bahū janā vicaranti, tasmā na me anussavamatteneva upasaṅkamituṃ yuttaṃ. ekaccañhi upasaṅkamantassa apakkamanampi garu hoti, anatthopi uppajjati. yaṃnūnāhaṃ mama antevāsikaṃ pesetvā ‘buddho vā no vā’ti jānitvā upasaṅkameyyan”ti tasmā māṇavaṃ āmantetvā “ayaṃ tātā”tiādimāha. taṃ bhavantanti tassa bhavato. tathā santaṃyevāti tathā satoyeva. idañhi itthambhūtākhyānatthe upayogavacanaṃ. yathā kathaṃ panāhaṃ, bhoti ettha kathaṃ panāhaṃ, bho, taṃ bhavantaṃ gotamaṃ jānissāmi, yathā sakkā so ñātuṃ, tathā me ācikkhāti attho. yathāti vā nipātamattamevetaṃ. kathanti ayaṃ ākārapucchā, kenākārenāhaṃ bhavantaṃ gotamaṃ jānissāmīti attho.

384. ayaṃ tātā (này con thân mến): Bà-la-môn ấy tuổi đã già yếu, không thể tự mình đi được, nên mới gọi thanh niên Uttara là học trò của ông đến và nói như vậy. Ngoài ra, vị Bà-la-môn này cũng suy nghĩ: “Trên thế gian này có rất nhiều người đi đây đi đó tự xưng rằng ‘Ta là Phật, ta là Phật’, do đó ta không nên vội tin theo những lời đồn đại. Nếu ta vội vàng đi tìm gặp, lỡ không đúng là bậc giác ngộ thật sự, thì việc bỏ đi sẽ trở thành khó xử, mất mặt, và có thể gặp những bất lợi khác nữa. Do đó, tốt nhất là ta nên sai một người học trò đi trước để kiểm tra xem vị ấy có thật là Đức Phật hay không. Sau khi đã xác nhận chắc chắn rồi, ta sẽ từ từ đến gặp vị ấy sau.” Vì lý do này, ông mới gọi người học trò đến và nói rằng: ‘này con thân mến’. taṃ bhavantaṃ (là thật như thế): bậc tôn kính ấy. Thật sự như thế ấy: Hoàn toàn là như thế. Ở đây, cụm từ “yathā kathaṃ panāhaṃ, bho” nghĩa là: “Thưa thầy, con sẽ nhận biết ngài Gotama bằng cách nào? Xin thầy hãy chỉ rõ cho con cách thức để con có thể biết chắc chắn rằng ‘đây chính là Sa-môn Gotama’.” Từ “kathaṃ” ở đây là câu hỏi về phương thức, hình thức, biểu hiện. Ý nghĩa là: “Con sẽ nhận biết ngài Gotama qua những biểu hiện nào?”

evaṃ vutte kira naṃ upajjhāyo — “kiṃ tvaṃ, tāta, pathaviyaṃ ṭhito pathaviṃ na passāmīti viya candimasūriyānaṃ obhāse ṭhito candimasūriye na passāmīti viya vadasī”tiādīni vatvā jānanākāraṃ dassento āgatāni kho tātātiādimāha. tattha mantesūti vedesu. tathāgato kira uppajjissatīti paṭikacceva suddhāvāsā devā vedesu lakkhaṇāni pakkhipitvā “buddhamantā nāma ete”ti brāhmaṇavesena vede vācenti “tadanusārena mahesakkhā sattā tathāgataṃ jānissantī”ti. tena pubbe vedesu mahāpurisalakkhaṇāni āgacchanti. parinibbute pana tathāgate anukkamena antaradhāyanti, tena etarahi natthi. mahāpurisassāti paṇidhi-samādāna-ñāṇa-karuṇādiguṇamahato purisassa.

Khi người học trò hỏi như vậy xong, vị thầy liền đáp rằng: “Này con thân mến, sao con lại hỏi như thể đứng trên đất mà lại không nhìn thấy đất, đứng dưới ánh sáng của mặt trời, mặt trăng mà lại không thấy mặt trời, mặt trăng vậy?” Ý vị thầy muốn nói rằng, những dấu hiệu để nhận diện một Đức Phật là rất rõ ràng, hiển nhiên, dễ thấy, dễ nhận biết. Sau đó, để giải thích rõ hơn cách nhận diện Đức Phật, vị thầy mới nói tiếp rằng: “āgatāni kho tātā mantesu…” (Này con thân mến, các dấu hiệu ấy đã được ghi rõ trong kinh điển Vệ-đà từ lâu rồi). Thật vậy, khi biết trước Đức Phật (Như Lai) sắp xuất hiện trên thế gian, các vị Chư Thiên ở cõi Tịnh Cư đã sắp xếp đưa các tướng đặc biệt của Ngài vào trong kinh điển Vệ-đà. Sau đó, các vị Chư thiên này giả dạng làm các vị Bà-la-môn để giảng dạy kinh Vệ-đà cho mọi người, nói rằng: “Đây là những Phật chú (buddhamanta). Những người có trí tuệ và quyền lực lớn trong tương lai sẽ nhờ vào các tướng này mà nhận biết được Đức Phật khi Ngài xuất hiện trên thế gian.” Chính vì lý do đó, trước khi Đức Phật xuất hiện, các tướng đặc biệt của bậc Đại nhân (mahāpurisalakkhaṇa) đã được lưu truyền rộng rãi trong kinh Vệ-đà. Nhưng sau khi đức Như Lai nhập Niết-bàn, dần dần các dấu hiệu này cũng biến mất khỏi kinh điển Vệ-đà. Đến thời điểm hiện tại, những dấu hiệu ấy không còn nữa.  Từ “mahāpurisassa” (của bậc Đại nhân) ở đây là chỉ những bậc vĩ đại, cao quý, có nhiều phẩm chất lớn lao như Đức Phật, nhờ công đức phát nguyện, sự thọ trì giới hạnh, trí tuệ, lòng bi mẫn… mà thành tựu các đức tính phi thường ấy.

dveyeva gatiyoti dve eva niṭṭhā. kāmañcāyaṃ gatisaddo — “pañca kho imā, sāriputta, gatiyo”tiādīsu (ma. ni. 1.153) bhavabhede vattati, “gati migānaṃ pavanan”tiādīsu (pari. 339) nivāsaṭṭhāne, “evaṃ adhimattagatimanto”tiādīsu (ma. ni. 1.161) paññāya, “gatigatan”tiādīsu visaṭabhāve, idha pana niṭṭhāyaṃ vattatīti veditabbo. tattha kiñcāpi yehi samannāgato rājā hoti, na teheva buddho hoti, jātisāmaññato pana tāniyeva tānīti vuccanti. tena vuttaṃ — “yehi samannāgatassā”ti. sace agāraṃ ajjhāvasatīti yadi agāre vasati, rājā hoti cakkavattī. catūhi acchariyadhammehi saṅgahavatthūhi ca lokaṃ rañjanato rājā. cakkaratanaṃ vatteti, catūhi sampatticakkehi vatteti, tehi ca paraṃ vatteti, parahitāya ca iriyāpathacakkānaṃ vatto etasmiṃ atthīti cakkavattī. ettha ca rājāti sāmaññaṃ, cakkavattīti visesanaṃ. dhammena caratīti dhammiko, ñāyena samena vattatīti attho. dhammena rajjaṃ labhitvā rājā jātoti dhammarājā. parahitadhammakaraṇena vā dhammiko, attahitadhammakaraṇena dhammarājā.

Dveyeva gatiyo (chỉ có hai con đường): nghĩa là chỉ có hai kết quả, hai đích đến. Thông thường, từ “gati” (con đường) có nhiều nghĩa khác nhau tùy ngữ cảnh. Ví dụ, ở câu “pañca kho imā, sāriputta, gatiyo” (“Này Sāriputta, có năm cõi tái sanh”), từ “gati” chỉ các cảnh giới tái sanh. Trong câu “gati migānaṃ pavanaṃ” (“Khu rừng là nơi cư trú của muôn thú”), “gati” có nghĩa là “nơi cư trú”, “nơi ở”. Trong câu “evaṃ adhimattagatimanto” (“những người thành tựu tuệ giác vượt trội”), “gati” lại chỉ cho trí tuệ. Trong câu “gatigataṃ” thì “gati” mang nghĩa “sự từ bỏ”. Tuy nhiên, ở đây, từ “gati” được dùng với nghĩa “kết quả”, “đích đến cuối cùng”. Ở đây muốn nói rằng, mặc dù các tướng tốt của bậc Đại nhân (mahāpurisalakkhaṇa) là như nhau, nhưng người có đầy đủ các tướng ấy nếu sống đời tại gia thì sẽ trở thành vua Chuyển Luân (cakkavattī); nếu xuất gia thì sẽ trở thành bậc Phật Chánh Đẳng Giác. Vì vậy, Bà-la-môn Brahmāyu mới nói rằng: “yehi samannāgatassa” (“người nào hội đủ các tướng ấy…”). Cụm từ “sace agāraṃ ajjhāvasati” nghĩa là “nếu vị ấy sống tại gia”. Nếu vị ấy sống đời tại gia, sẽ trở thành vua Chuyển Luân (cakkavattī). Từ “rājā” (vua) chỉ người làm cho dân chúng được vui sướng, hạnh phúc nhờ bốn pháp kỳ diệu (acchariya-dhamma) và bốn pháp nhiếp phục (saṅgaha-vatthu). Từ “cakkavattī” (chuyển luân vương) nghĩa là người vận chuyển được bánh xe báu (cakkaratana), người cai trị thiên hạ bằng bốn bánh xe thành tựu (sampatti-cakka), người dẫn dắt dân chúng hướng về lợi ích, người luôn giữ vững oai nghi tế hạnh trong mọi hoạt động (iriyāpatha-cakka). Như vậy, “rājā” (vua) là một danh từ chung, còn “cakkavattī” (chuyển luân vương) là danh từ chỉ tính chất đặc biệt của vị vua này. “Dhammiko” (người sống đúng pháp) nghĩa là người cai trị bằng sự công bằng, chân chánh, hợp đạo lý. “Dhammarājā” (vua pháp) là người có được vương quyền nhờ sống đúng pháp, hoặc người cai trị thiên hạ theo đúng pháp. Có thể hiểu thêm: “dhammiko” là người cai trị đem lại lợi ích cho người khác, “dhammarājā” là người cai trị đem lại lợi ích cho chính mình.

caturantāya issaroti cāturanto, catusamuddantāya catubbidhadīpabhūsitāya ca pathaviyā issaroti attho. ajjhattaṃ kopādipaccatthike bahiddhā ca sabbarājāno vijesīti vijitāvī. janapadatthāvariyappattoti janapade thāvarabhāvaṃ dhuvabhāvaṃ patto, na sakkā kenaci cāletuṃ, janapado vā tamhi thāvariyappatto anussukko sakammanirato acalo asampavedhīti janapadatthāvariyappatto. seyyathidanti nipāto, tassa tāni katamānīti attho. cakkaratanantiādīsu cakkañca taṃ ratijananatthena ratanañcāti cakkaratanaṃ. eseva nayo sabbattha.

Cāturanto” (bậc chúa tể bốn phương) là người làm chủ cả quả địa cầu rộng lớn, có bốn biển lớn làm ranh giới, được trang hoàng bởi bốn châu lục. “Vijitāvī” (người chiến thắng) là người đã chiến thắng tất cả kẻ thù bên trong tâm mình như sân hận, phiền não, và chiến thắng cả các vua chúa bên ngoài. “Janapadatthāvariyappatto” (đạt được sự vững chắc của quốc độ) nghĩa là vị vua đạt được sự ổn định, vững chắc trong vương quốc của mình, không ai có thể làm lay động được. Cũng có nghĩa là toàn thể vương quốc nhờ vị vua ấy mà trở nên ổn định, dân chúng an vui, chuyên tâm làm việc, không bị dao động, bất an. Seyyathidaṃ (đó là những gì): đây là một phân từ, những loại ngọc báu vật của vua Chuyển Luân đó là những loại báu vật nào? Cakkaratanaṃ (bánh xe báu) v.v, được gọi là bánh xe báu bởi thứ đó là bánh xe và được là báu vật bởi ý nghĩa làm cho hoan hỷ. Trong các câu toàn bộ đều như thế.

imesu pana ratanesu ayaṃ cakkavattirājā cakkaratanena ajitaṃ jināti, hatthiassaratanehi vijite yathāsukhaṃ anuvicarati, pariṇāyakaratanena vijitamanurakkhati, sesehi upabhogasukhamanubhavati. paṭhamena cassa ussāhasattiyogo, hatthiassagahapatiratanehi pabhusattiyogo, pacchimena mantasattiyogo suparipuṇṇo hoti, itthimaṇiratanehi tividhasattiyogaphalaṃ. so itthimaṇiratanehi bhogasukhamanubhavati, sesehi issariyasukhaṃ. visesato cassa purimāni tīṇi adosakusalamūlajanitakammānubhāvena sampajjanti, majjhimāni alobhakusalamūlajanitakammānubhāvena, pacchimamekaṃ amohakusalamūlajanitakammānubhāvenāti veditabbaṃ. ayamettha saṅkhepo, vitthāro pana bojjhaṅgasaṃyutte ratanasuttassa (saṃ. ni. 5.222-223) upadesato gahetabbo. apica bālapaṇḍitasuttepi (ma. ni. 3.255) imesaṃ ratanānaṃ uppattikkamena saddhiṃ vaṇṇanā āgamissati.

Trong số các báu vật này, vua Chuyển Luân sử dụng bánh xe báu (cakkaratana) để chinh phục và mở rộng những vùng đất chưa được chinh phục. Sau khi chiếm được các vùng đất rồi, vua sẽ dùng voi báu (hatthiratana) và ngựa báu (assaratana) để đi lại, tuần du các nơi trong vương quốc một cách thoải mái, dễ dàng. Vua dùng vị tướng quân báu (pariṇāyakaratana) để bảo vệ và giữ gìn an ninh cho đất nước đã chiếm được. Còn các báu vật còn lại thì vua dùng để thọ hưởng sự an lạc và hạnh phúc do oai lực của chúng mang lại. Trong số các báu vật này, bánh xe báu là tượng trưng cho sức mạnh của sự nỗ lực, tinh tấn (ussāhasatti). Voi báu, ngựa báu và gia chủ báu tượng trưng cho sức mạnh của sự làm chủ, cai trị (pabhusatti). Vị tướng quân báu tượng trưng cho sức mạnh của trí tuệ, sự thiện xảo, khôn ngoan (mantasatti). Còn hai báu vật cuối cùng (ngọc nữ báu và ngọc như ý báu) là quả kết tinh từ ba loại sức mạnh nói trên, đem đến sự hưởng thụ sung túc và hạnh phúc. Như vậy, vua Chuyển Luân tận hưởng sự thoải mái, sung sướng về vật chất với hai báu vật cuối cùng (ngọc nữ báu và ngọc như ý báu), và hưởng thụ oai lực, quyền uy với các báu vật còn lại. Ngoài ra, cần biết thêm rằng: Ba báu vật đầu tiên (bánh xe báu, voi báu, ngựa báu) phát sinh nhờ năng lực của những thiện nghiệp xuất phát từ căn lành vô sân (adosakusalamūla). Ba báu vật tiếp theo (gia chủ báu, tướng quân báu, ngọc nữ báu) phát sinh nhờ năng lực của những thiện nghiệp xuất phát từ căn lành vô tham (alobhakusalamūla). Báu vật cuối cùng (ngọc như ý báu) phát sinh nhờ năng lực của những thiện nghiệp xuất phát từ căn lành vô si (amohakusalamūla).Trên đây chỉ là phần tóm tắt về các báu vật của vua Chuyển Luân. Về nội dung chi tiết và đầy đủ hơn, nên tham khảo thêm trong bài Kinh Ratana thuộc Tương Ưng Bộ, chương Giác Chi (Saṃyutta Nikāya 5.222-223). Ngoài ra, trong bài Kinh Bālapaṇḍita (Trung Bộ Kinh, Majjhima Nikāya 3.255) cũng sẽ trình bày giải thích về các loại báu vật này cùng trình tự xuất hiện của chúng một cách cụ thể hơn.

parosahassanti atirekasahassaṃ. sūrāti abhīrukajātikā. vīraṅgarūpāti devaputtasadisakāyā, evaṃ tāva eke vaṇṇayanti, ayaṃ panettha sabhāvo — vīrāti uttamasūrā vuccanti. vīrānaṃ aṅgaṃ vīraṅgaṃ, vīrakāraṇaṃ vīriyanti vuttaṃ hoti. vīraṅgaṃ rūpaṃ etesanti vīraṅgarūpā, vīriyamayasarīrā viyāti vuttaṃ hoti. parasenappamaddanāti sace paṭimukhaṃ tiṭṭheyya parasenā, taṃ maddituṃ samatthāti adhippāyo. dhammenāti “pāṇo na hantabbo”tiādinā pañcasīladhammena.

Parosahassaṃ: dịch là nhiều hơn nghìn. Sūrā: vị có xuất thân của người dũng cảm. vīraṅgarūpā (có vóc dáng anh hùng): có vóc dáng tựa như vị Thiên tử. Thầy của một nhóm đã giải thích trước như vậy, nhưng trong vấn đề này có thực tính như sau – vīrā: ngài nói rằng có sự dũng cảm gan da tột bậc. Đức hạnh của vị dũng cảm gan dạ, gọi là vīraṅgaṃ: ngài nói rằng nguyên nhân của người dũng cảm gan dạ gọi là sự tinh tấn, gọi là ‘có vóc dáng anh hùng’ bởi ý nghĩa rằng có vóc dáng dũng mãnh gan dạ, ngài giải thích rằng có vóc dáng thành tựu với sự dũng cảm gan dạ. Parasenappamaddanā (có khả năng tiêu diệt quân đội của kẻ thù): nếu như binh lính của kẻ thù đứng đối diện ở trước mặt (thì vị ấy) cũng có khả năng tiêu diệt đội quân ấy. Dhammenā (theo Giáo Pháp): Theo Giáo Pháp là ngũ giới có lời như sau “không sát sanh” v.v.

arahaṃ hoti sammāsambuddho loke vivaṭṭacchadoti ettha rāgadosamohamānadiṭṭhiavijjāduccaritachadanehi sattahi paṭicchanne kilesandhakāraloke taṃ chadanaṃ vivaṭṭetvā samantato sañjātāloko hutvā ṭhitoti vivaṭṭacchado. tattha paṭhamena padena pūjārahatā, dutiyena tassā hetu yasmā sammāsambuddhoti, tatiyena buddhattahetubhūtā vivaṭṭacchadatā vuttāti veditabbā. atha vā vivaṭṭo ca vicchado cāti vivaṭṭacchado, vaṭṭarahito chadanarahito cāti vuttaṃ hoti. tena arahaṃ vaṭṭābhāvena, sammāsambuddho chadanābhāvenāti evaṃ purimapadadvayasseva hetudvayaṃ vuttaṃ hoti. dutiyavesārajjena cettha purimasiddhi, paṭhamena dutiyasiddhi, tatiyacatutthehi tatiyasiddhi hoti. purimañca dhammacakkhuṃ, dutiyaṃ buddhacakkhuṃ, tatiyaṃ samantacakkhuṃ sādhetītipi veditabbaṃ. tvaṃ mantānaṃ paṭiggahetāti imināssa sūrabhāvaṃ janeti.

Arahaṃ hoti sammāsambuddho loke vivaṭṭacchado (vị này sẽ chứng đạt quả vị A-ra-hán, Chánh đẳng Chánh giác có ‘màn che’1 đã được mở ra ở đời): Màn che (chadana) ở đây được hiểu là các phiền não như tham ái, sân hận, si mê, ngã mạn, tà kiến, vô minh và những ác nghiệp, tà hạnh. Những phiền não này được ví như bảy tấm màn che phủ kín, khiến thế gian chìm trong bóng tối của vô minh. Bậc Chánh Đẳng Giác xuất hiện ở đời, phá bỏ hoàn toàn những màn che ấy, đem ánh sáng trí tuệ lan tỏa khắp nơi, nên gọi là “vivaṭṭacchado” (người đã mở tung màn che). Cụ thể hơn, trong câu này, ba từ ngữ “arahaṃ”, “sammāsambuddho”, và “vivaṭṭacchado” có ý nghĩa như sau: “Arahaṃ” (bậc A-la-hán) nghĩa là người xứng đáng được kính lễ, cung kính, cúng dường. “Sammāsambuddho” (bậc Chánh Đẳng Giác) giải thích nguyên nhân vì sao vị ấy xứng đáng được kính lễ: bởi vì vị ấy đã tự mình giác ngộ hoàn toàn, viên mãn, không nhờ ai chỉ dạy. “Vivaṭṭacchado” (người mở tung màn che) giải thích nguyên nhân vì sao vị ấy trở thành một bậc hoàn toàn giác ngộ: bởi vì vị ấy đã phá bỏ màn che phiền não che phủ thế gian. Cũng có một cách giải thích khác rằng “vivaṭṭacchado” nghĩa là người đã hoàn toàn rời khỏi vòng luân hồi (vaṭṭa) và không còn bị phiền não che đậy (chadana). Như vậy: “Arahaṃ” là người không còn luân hồi nữa (đạt đến Niết-bàn). “Sammāsambuddho” là người không còn bị phiền não che đậy nữa (hoàn toàn giác ngộ). Cách giải thích này cũng làm rõ hai lý do vì sao Đức Phật được gọi là bậc A-la-hán và bậc Chánh Đẳng Giác. Ngoài ra, ba từ ngữ này cũng liên quan đến các loại trí tuệ đặc biệt của Đức Phật: Từ “arahaṃ” liên quan đến trí vô úy thứ hai, đưa đến sự thành tựu Pháp nhãn (dhammacakkhu). Từ “sammāsambuddho” liên quan đến trí vô úy thứ nhất, đưa đến sự thành tựu Phật nhãn (buddhacakkhu). Từ “vivaṭṭacchado” liên quan đến trí vô úy thứ ba và thứ tư, đưa đến sự thành tựu toàn tri (samantacakkhu – trí tuệ biết rõ tất cả). Câu “tvaṃ mantānaṃ paṭiggahetā” (con là người học tập chú thuật), được nói ra nhằm làm khởi lên sự dũng mãnh, mạnh mẽ nơi người thanh niên ấy, khích lệ anh ta vững tin và quyết tâm hơn.

385. sopi tāya ācariyakathāya lakkhaṇesu vigatasammoho ekobhāsajāto viya buddhamante sampassamāno evaṃ, bhoti āha. tassattho — yathā, bho, maṃ tvaṃ vadasi, evaṃ karissāmīti. samannesīti gavesi, ekaṃ dveti vā gaṇayanto samānayi. addasā khoti kathaṃ addasa? buddhānañhi nisinnānaṃ vā nipannānaṃ vā koci lakkhaṇaṃ pariyesituṃ na sakkoti, ṭhitānaṃ pana caṅkamantānaṃ vā sakkoti. tasmā lakkhaṇapariyesanatthaṃ āgataṃ disvā buddhā uṭṭhāyāsanā tiṭṭhanti vā caṅkamaṃ vā adhiṭṭhahanti. iti lakkhaṇadassanānurūpe iriyāpathe vattamānassa addasa. yebhuyyenāti pāyena, bahukāni addasa, appāni na addasāti attho. tato yāni na addasa, tesaṃ dīpanatthaṃ vuttaṃ ṭhapetvā dveti.

385. Mặc dù thanh niên Uttara đã thoát khỏi sự si ám trong các trạng thái theo lời của vị thầy đó, quan sát Phật chú giống như ánh sáng được sanh ra là một, (vị ấy) đã nói rằng ‘như vậy thưa ngài’. Ý nghĩa của câu đó như sau – “thưa thầy, con sẽ thực hiện như vậy, theo như lời thầy đã dặn dò.’ Samannesi (quan sát): cố tìm, hơn nữa quan sát tính đếm một, hai. addasā kho (đã nhìn thấy): đã nhìn thấy như thế nào? Bất cứ ai cũng không thể tìm kiếm được tướng của đức Phật đang ngồi hoặc đang nằm, nhưng khi đang đứng hoặc đang đi thì có thể. Cho nên, chư Phật trong khi nhìn thấy người đi đến để quan sát tướng thì mới đứng dậy từ chỗ ngồi, đứng hay phát nguyện đi kinh hành. Thanh niên Uttara đã nhìn thấy tướng của ngài, vị trong oai nghi thích hợp để thấy được tướng đang hiện hữu là như thế. Yebhuyyenā (hầu hết): phần nhiều, đã nhìn thấy nhiều tướng, không phải nhìn thấy ít. Sau đó, không nhìn thấy được tướng nào đã nói rằng ‘ngoại trừ hai tướng’ để trình bày 2 tướng ấy.

kaṅkhatīti “aho vata passeyyan”ti patthanaṃ uppādeti. vicikicchatīti tato tato tāni vicinanto kicchati na sakkoti daṭṭhuṃ. nādhimuccatīti tāya vicikicchāya sanniṭṭhānaṃ na gacchati. na sampasīdatīti tato “paripuṇṇalakkhaṇo ayan”ti bhagavati pasādaṃ nāpajjati. kaṅkhāya vā dubbalā vimati vuttā, vicikicchāya majjhimā, anadhimuccanatāya balavatī, asampasādena tehi tīhi dhammehi cittassa kālussiyabhāvo. kosohiteti vatthikosena paṭicchanne. vatthaguyheti aṅgajāte. bhagavato hi vāraṇasseva kosohitavatthaguyhaṃ suvaṇṇavaṇṇaṃ padumagabbhasamānaṃ, taṃ so vatthapaṭicchannattā, antomukhagatāya ca jivhāya pahūtabhāvaṃ asallakkhento tesu dvīsu lakkhaṇesu kaṅkhī ahosi vicikicchī.

Kaṅkhati (phân vân): Thanh niên Uttara khởi lên sự ước muốn rằng ‘Ồ ta có thể nhìn thấy (2 tướng nữa)’. Vicikicchati (hoài nghi): khi chọn lựa những tướng đó từ những tướng ấy thật khó khăn, không thể nhìn thấy được. Nādhimuccati (chưa xác quyết): không đưa đến quyết định do sự hoài nghi ấy. na sampasīdati (chưa hài lòng): do chưa xác nhận đầy đủ các tướng, nên anh ta chưa khởi được lòng tin tưởng hoàn toàn rằng Đức Thế Tôn thực sự là người hội đủ trọn vẹn tất cả các tướng tốt của một bậc Đại nhân. Hoặc có cách giải thích khác như sau: “Kaṅkhā” là trạng thái phân vân, nghi ngờ nhẹ (yếu). “Vicikicchā” là trạng thái nghi ngờ mức trung bình. “Anadhimuccanatā” là trạng thái nghi ngờ mạnh mẽ hơn, chưa thể quyết định được rõ ràng. “Asampasāda” là trạng thái tâm chưa thể sanh lòng tin tưởng, hài lòng, khiến tâm bị u ám, không sáng rõ do ảnh hưởng của ba trạng thái nghi ngờ trên. Kosohite: là được che đậy lại bởi lớp vỏ bọc bằng da. Vatthaguyhe: là dương vật (nam căn). Thật vậy, nam căn của Đức Thế Tôn có màu sắc như vàng ròng, được ẩn kín tựa như nằm bên trong một búp sen, hình dáng tương tự như nam căn của loài voi đực được khéo léo che đậy. Thanh niên Uttara không thể nhìn thấy được tướng này do đã được y phục che kín. Tương tự, tướng lưỡi rộng dài của Đức Thế Tôn cũng không thể quan sát được rõ ràng vì lưỡi thường nằm ẩn bên trong miệng. Do không thể nhận rõ hai tướng được che kín này, nên thanh niên Uttara mới sanh tâm nghi ngờ, phân vân và hoài nghi đối với hai tướng đó.

atha kho bhagavāti atha bhagavā cintesi — “sacāhaṃ imassa etāni dve lakkhaṇāni na dassessāmi, nikkaṅkho na bhavissati. etassa kaṅkhāya sati ācariyopissa nikkaṅkho na bhavissati, atha maṃ dassanāya na āgamissati, anāgato dhammaṃ na sossati, dhammaṃ asuṇanto tīṇi sāmaññaphalāni na sacchikarissati. etasmiṃ pana nikkaṅkhe ācariyopissa nikkaṅkho maṃ upasaṅkamitvā dhammaṃ sutvā tīṇi sāmaññaphalāni sacchikarissati. etadatthaṃyeva ca mayā pāramiyo pūritā. dassessāmissa tāni lakkhaṇānī”ti.

Atha kho bhagavā (khi ấy đức Thế Tôn): khi ấy đức Thế Tôn suy nghĩ rằng – “Nếu như ta không để lộ 2 tướng này cho thanh niên Uttara này, thì thanh niên ấy sẽ không hết sự nghi hoặc, khi anh ta có sự nghi hoặc thì ngay cả thầy của anh ta cũng không hết nghi hoặc, khi đó anh ta sẽ không đến tìm kiếm ta, khi không đến thì sẽ không thể lắng nghe Giáo Pháp, khi không được lắng nghe Giáo Pháp thì không thể tác chứng được 3 quả vị của Sa-môn, nhưng khi thanh niên ấy đã hết nghi hoặc, thì cả thầy của anh ta cũng hết nghi hoặc (sẽ) đến tìm gặp ta, sau khi lắng nghe Giáo Pháp cũng sẽ tác chứng được 3 Quả. Hơn nữa, ta thực hành ba-la-mật cũng vì lợi ích như thế. Ta sẽ thể hiện những tướng đó đến thanh niên Uttara”.

tathārūpaṃ iddhābhisaṅkhāramakāsi. kathaṃrūpaṃ? kimettha aññena vattabbaṃ? vuttametaṃ nāgasenatthereneva milindaraññā puṭṭhena —

Tathārūpaṃ iddhābhisaṅkhāramakāsi (khi đó đức Thế Tôn đã thể hiện thần thông…): thể hiện có sắc (hình tướng) thế nào? Ở đây, người khác có thể nói ra sao? Lời ấy trưởng lão Nāgasela đã được đức vua Milinda hỏi (và) đã được giải đáp rồi.

āha ca dukkaraṃ, bhante nāgasena, bhagavatā katanti. kiṃ mahārājāti? mahājanena hirikaraṇokāsaṃ brahmāyubrāhmaṇassa ca antevāsiuttarassa ca bāvariyassa antevāsīnaṃ soḷasabrāhmaṇānañca selassa ca brāhmaṇassa antevāsīnaṃ tisatamāṇavānañca dassesi, bhanteti. na, mahārāja, bhagavā guyhaṃ dasseti, chāyaṃ bhagavā dasseti, iddhiyā abhisaṅkharitvā nivāsananivatthaṃ kāyabandhanabaddhaṃ cīvarapārutaṃ chāyārūpakamattaṃ dassesi mahārājāti. chāyaṃ diṭṭhe sati diṭṭhoyeva. nanu, bhanteti? tiṭṭhatetaṃ, mahārāja, hadayarūpaṃ disvā bujjhanakasatto bhaveyya, hadayamaṃsaṃ nīharitvā dasseyya sammāsambuddhoti. kallosi, bhante nāgasenāti.

Thưa đại đức Nāgasena, đức Thế Tôn đã làm điều khó làm. Thưa Đại vương, làm điều gì? – Thưa đại đức, đức Thế Tôn đã tạo cơ hội khiến cho đại chúng phải xấu hổ cùng thanh niên Uttara học trò của Bà-la-môn Brahmāyu, cùng nhóm 16 vị Bà-la-môn là học trò của Bāvarī, và cùng 300 thanh niên là học trò của Bà-la-môn Sela nữa. – Tâu Đại vương, đức Thế Tôn không hiển lộ nam căn đâu chỉ hiển lộ cái bóng, tức là ngài thị hiện bằng thần thông, rồi chỉ để hiện lộ hình tướng bằng cái bóng bên trong nội y đã được buộc dây thắt lưng rồi đắp y vai trái. – Trong khi nhìn thấy cái bóng cũng được xem là đã thấy nam căn không phải sao? – Điều đó hãy gác qua một bên trước đã, tâu Đại vương mọi người chúng ta phải nhìn vào tâm, sau khi nhìn nhìn thấy đã giác ngộ, bậc Chánh đẳng Chánh giác cũng cần lấy quả tim ra để biểu lộ chăng? – Thưa đại đức Nāgasena, ngài thật tài giỏi.

ninnāmetvāti nīharitvā. anumasīti kathinasūciṃ viya katvā anumajji. tathā karaṇena cettha mudubhāvo, kaṇṇasotānumasanena dīghabhāvo, nāsikasotānumasanena tanubhāvo, nalāṭacchādanena puthulabhāvo pakāsitoti veditabbo. ubhopi kaṇṇasotānītiādīsu cettha buddhānaṃ kaṇṇasotesu malaṃ vā jallikā vā natthi, dhovitvā ṭhapitarajatapanāḷikā viya honti, tathā nāsikasotesu, tānipi hi suparikammakatakañcanapanāḷikā viya ca maṇipanāḷikā viya ca honti. tasmā jivhaṃ nīharitvā kathinasūciṃ viya katvā mukhapariyante upasaṃharanto dakkhiṇakaṇṇasotaṃ pavesetvā tato nīharitvā vāmakaṇṇasotaṃ pavesesi, tato nīharitvā dakkhiṇanāsikasotaṃ pavesetvā tato nīharitvā vāmanāsikasotaṃ pavesesi, tato nīharitvā puthulabhāvaṃ dassento rattavalāhakena aḍḍhacandaṃ viya ca suvaṇṇapattaṃ viya ca rattakambalapaṭalena vijjujotasadisāya jivhāya ke valakappaṃ nalāṭamaṇḍalaṃ paṭicchādesi.

Ninnāmetvā: đã nhe lưỡi ra. Anumasi (đã liếm): đã liếm xuôi liếm ngược giống như xỏ chỉ may y Kathina. Cũng trong câu đó nên biết rằng tuyên bố tính chất mềm bằng việc thực hiện như thế, tính chất dài bằng việc sờ đến chạm đến hai lỗ tai, tính chất mỏng bằng việc sờ đến chạm đến hai lỗ mũi, tính chất rộng lớn bởi che phủ khắp cả vầng trán. Và ở đây, ubhopi kaṇṇasotānī (hai lỗ tai) v.v, không có tạp chất hay chất bẩn ở trong lỗ của đức Phật, tựa như ống bằng bạc mà vị ấy rửa sạch rồi đặt vào. Ở trong lỗ mũi cũng tương tự y như vậy. Thậm chí những lỗ đó giống như ống bằng vàng được vị ấy chuẩn bị kỹ lưỡng và giống như ống bằng ngọc ma-ni. Vì thế, mới nhe lưỡi ra, cuộn tròn vào tới tận cùng miệng lên phía trên đã thực hiện tựa như mũi kim may y Kathina, (lưỡi) chạm đến lỗ tai bên phải, lấy (lưỡi) ra khỏi lỗ tai bên phải ấy; (lưỡi) chạm đến lỗ tai bên trái, lấy (lưỡi) ra khỏi lỗ tai bên trái; (lưỡi) chạm đến lỗ mũi bên phải, lấy ra khỏi lỗ mũi bên phải; (lưỡi) chạm đến lỗ mũi bên trái, khi lấy (lưỡi) ra khỏi lỗ mũi bên trái, để hiển lộ tính chất rộng lớn mới che phủ khắp cả vầng trán bằng lưỡi, giống như ánh sáng rực rỡ bị che đậy bằng tấm vải kambala được nhuộm đỏ, tựa như vầng trăng khuyết bị áng mây hồng phủ lên và tựa như cái mâm vàng.

yaṃnūnāhanti kasmā cintesi? ahañhi mahāpurisalakkhaṇāni samannesitvā gato “diṭṭhāni te, tāta, mahāpurisalakkhaṇānī”ti ācariyena pucchito “āma, ācariyā”ti vattuṃ sakkhissāmi. sace pana maṃ “kiriyākaraṇamassa kīdisan”ti pucchissati, taṃ vattuṃ na sakkhissāmi, na jānāmīti vutte pana ācariyo kujjhissati “nanu tvaṃ mayā sabbampetaṃ jānanatthāya pesito, kasmā ajānitvā āgatosī”ti, tasmā yannūnāhanti cintetvā anubandhi. bhagavā nhānaṭṭhānaṃ mukhadhovanaṭṭhānaṃ sarīrapaṭijagganaṭṭhānaṃ rājarājamahāmattādīnaṃ orodhehi saddhiṃ parivāretvā nisinnaṭṭhānanti imāni cattāri ṭhānāni ṭhapetvā sesaṭṭhānesu antamaso ekagandhakuṭiyampi okāsamakāsi.

Yaṃnūnāhaṃ: (Ta nên làm thế nào đây?): Vì lý do gì mà thanh niên Uttara suy nghĩ như vậy? Thanh niên Uttara nghĩ rằng: “Ta đã quan sát các tướng của bậc Đại nhân. Khi trở về, nếu thầy ta hỏi: ‘Này con, con đã nhìn thấy đủ các tướng của bậc Đại nhân rồi phải không?’, ta có thể trả lời rằng: ‘Dạ, con đã thấy rồi, thưa thầy.’ Nhưng nếu thầy ta lại hỏi thêm: ‘Vậy cách cư xử, hành vi, tác phong của vị ấy ra sao?’, thì ta sẽ không thể trả lời được. Nếu ta đáp ‘con không rõ’, chắc chắn thầy ta sẽ nổi giận và trách mắng rằng: ‘Ta gửi con đi là để tìm hiểu kỹ càng, tại sao con lại trở về mà không biết rõ những điều đó?’.” Nghĩ như vậy nên anh quyết định đi theo đức Thế Tôn để quan sát kỹ hơn nữa. Đức Thế Tôn đã tạo điều kiện cho Uttara có thể quan sát mọi nơi mọi lúc, ngoại trừ bốn chỗ: (1) nơi tắm gội, (2) nơi súc miệng, (3) nơi vệ sinh thân thể, và (4) nơi đức Thế Tôn ngồi với các nữ nhân trong hoàng cung và các quan đại thần. Còn tất cả các nơi khác, ngay cả trong Hương Thất (gandhakuṭī), đức Thế Tôn đều cho phép thanh niên Uttara được vào quan sát.

gacchante gacchante kāle — “ayaṃ kira brahmāyubrāhmaṇassa māṇavo uttaro nāma ‘buddho vā no vā’ti tathāgatassa buddhabhāvaṃ vīmaṃsanto carati, buddhavīmaṃsako nāmāyan”ti pākaṭo jāto. yamhi yamhi ṭhāne buddhā vasanti, pañca kiccāni katāneva honti, tāni heṭṭhā dassitāneva. tattha pacchābhattaṃ alaṅkatadhammāsane nisīditvā dantakhacitaṃ cittabījaniṃ gahetvā mahājanassa dhammaṃ desente bhagavati uttaropi avidūre nisīdati. dhammassavanapariyosāne saddhā manussā svātanāya bhagavantaṃ nimantetvā māṇavampi upasaṅkamitvā evaṃ vadanti — “tāta, amhehi bhagavā nimantito, tvampi bhagavatā saddhiṃ āgantvā amhākaṃ gehe bhattaṃ gaṇheyyāsī”ti. punadivase tathāgato bhikkhusaṅghaparivuto gāmaṃ pavisati, uttaropi padavāre padavāre pariggaṇhanto padānupadiko anubandhati. kulagehaṃ paviṭṭhakāle dakkhiṇodakaggahaṇaṃ ādiṃ katvā sabbaṃ olokento nisīdati. bhattakiccāvasāne tathāgatassa pattaṃ bhūmiyaṃ ṭhapetvā nisinnakāle māṇavakassa pātarāsabhattaṃ sajjenti. so ekamante nisinno bhuñjitvā puna āgantvā satthu santike ṭhatvā bhattānumodanaṃ sutvā bhagavatā saddhiṃyeva vihāraṃ gacchati.

Thời gian dần trôi qua, người ta bắt đầu truyền tai nhau rằng: “Thanh niên Uttara, môn đệ của Bà-la-môn Brahmāyu, đang theo sát đức Như Lai để tìm hiểu xem Ngài có thực sự là bậc Chánh Đẳng Giác hay không. Anh ta được gọi là người đang tìm hiểu về Đức Phật.”Ở bất cứ nơi nào chư Phật an trú, năm phận sự hằng ngày đều được thực hiện chu đáo (những phận sự này đã được giải thích trước đây). Trong các hoạt động đó, sau khi thọ trai xong, đức Thế Tôn thường ngồi trên pháp tọa đã được trang hoàng, cầm chiếc quạt bằng ngà voi tinh xảo, giảng pháp cho đại chúng. Uttara cũng ngồi gần đó, chăm chú quan sát.Khi bài pháp kết thúc, những người có đức tin thường thỉnh mời đức Thế Tôn ngày hôm sau đến nhà thọ trai. Họ cũng đến mời Uttara và nói rằng: “Này bạn trẻ, chúng tôi đã thỉnh mời đức Thế Tôn. Bạn cũng hãy đến nhà chúng tôi dùng bữa cùng với Ngài nhé.”Ngày hôm sau, đức Thế Tôn cùng với Tăng đoàn đi vào làng để thọ trai. Uttara cũng đi theo ngay phía sau, quan sát cẩn thận từng bước chân của Ngài. Khi vào nhà gia chủ, Uttara ngồi một bên quan sát kỹ từng cử chỉ, hành động của Phật, từ lúc gia chủ dâng nước làm lễ rửa tay cho đến khi kết thúc bữa ăn. Sau khi đức Thế Tôn dùng bữa xong và đặt bình bát xuống đất, mọi người mới chuẩn bị thức ăn cho Uttara. Uttara ngồi ăn riêng một chỗ, dùng bữa xong, anh tiến đến đứng gần đức Thế Tôn, lắng nghe lời thuyết giảng tùy hỷ vật thực cúng dường (bhattānumodanā). Sau đó, anh cùng đức Thế Tôn trở về tịnh xá.

tattha bhagavā bhikkhūnaṃ bhattakiccapariyosānaṃ āgamento gandhamaṇḍalamāḷe nisīdati. bhikkhūhi bhattakiccaṃ katvā pattacīvaraṃ paṭisāmetvā āgamma vanditvā kāle ārocite bhagavā gandhakuṭiṃ pavisati, māṇavopi bhagavatā saddhiṃyeva gacchati. bhagavā parivāretvā āgataṃ bhikkhusaṅghaṃ gandhakuṭippamukhe ṭhito ovaditvā uyyojetvā gandhakuṭiṃ pavisati, māṇavopi pavisati. bhagavā khuddakamañce appamattakaṃ kālaṃ nisīdati, māṇavopi avidūre olokento nisīdati. bhagavā muhuttaṃ nisīditvā sīsokkamanaṃ dasseti, — “bhoto gotamassa vihāravelā bhavissatī”ti māṇavo gandhakuṭidvāraṃ pidahanto nikkhamitvā ekamantaṃ nisīdati. manussā purebhattaṃ dānaṃ datvā bhuttapātarāsā samādinnauposathaṅgā suddhuttarāsaṅgā mālāgandhādihatthā dhammaṃ suṇissāmāti vihāraṃ āgacchanti, cakkavattino khandhāvāraṭṭhānaṃ viya hoti.

Về đến tịnh xá, Đức Thế Tôn chờ cho chư Tăng hoàn tất việc độ thực, rồi Ngài ngồi nghỉ tại hội trường Gandhamaṇḍala. Sau khi chư Tăng đã dùng bữa xong, thu dọn y bát, đến đảnh lễ Đức Thế Tôn và báo giờ nghỉ, Ngài đứng dậy đi vào hương thất. Uttara cũng đi theo Ngài.Trước cửa hương thất, Đức Thế Tôn đứng lại giáo huấn ngắn gọn cho chư Tăng đang đứng chờ, rồi cho phép chư Tăng giải tán. Sau đó, Ngài đi vào hương thất, Uttara cũng vào theo. Đức Thế Tôn ngồi xuống chiếc giường nhỏ một lúc, Uttara ngồi cách đó không xa quan sát Ngài. Khi Đức Thế Tôn cúi đầu xuống một chút, Uttara hiểu rằng: “Đây là thời gian nghỉ ngơi của Ngài Gotama.” Anh ta liền đóng cửa hương thất, đi ra ngoài, ngồi chờ một bên.Lúc này, dân chúng đã cúng dường buổi sáng hôm trước, dùng bữa sáng xong, thọ trì Bát quan trai giới, mặc y phục sạch sẽ, tay cầm hoa thơm và hương liệu, đến tịnh xá để nghe pháp. Khung cảnh lúc đó trang nghiêm, đông đảo giống như nơi hạ trại của vị vua Chuyển Luân.

bhagavā muhuttaṃ sīhaseyyaṃ kappetvā vuṭṭhāya pubbabhāgena paricchinditvā samāpattiṃ samāpajjati. samāpattito vuṭṭhāya mahājanassa āgatabhāvaṃ ñatvā gandhakuṭito nikkhamma mahājanaparivuto gandhamaṇḍalamāḷaṃ gantvā paññattavarabuddhāsanagato parisāya dhammaṃ deseti. māṇavopi avidūre nisīditvā — “kiṃ nu kho samaṇo gotamo gehassitavasena parisaṃ ussādento vā apasādento vā dhammaṃ deseti, udāhu no”ti akkharakkharaṃ padaṃ padaṃ pariggaṇhāti. bhagavā tathāvidhaṃ kathaṃ akathetvāva kālaṃ ñatvā desanaṃ niṭṭhāpesi. māṇavo iminā niyāmena pariggaṇhanto satta māse ekato vicaritvā bhagavato kāyadvārādīsu aṇumattampi avakkhalitaṃ na addasa. anacchariyañcetaṃ, yaṃ buddhabhūtassa manussabhūto māṇavo na passeyya, yassa bodhisattabhūtassa chabbassāni padhānabhūmiyaṃ amanussabhūto māro devaputto gehassitavitakkamattampi adisvā buddhabhūtaṃ ekasaṃvaccharaṃ anubandhitvā kiñci apassanto —

Sau khi nghỉ ngơi một lát trong tư thế nằm như sư tử, Đức Thế Tôn ngồi dậy, nhập vào thiền định trong chốc lát. Xuất khỏi thiền định, thấy đại chúng đã tụ hội đông đủ, Ngài ra khỏi hương thất, đi vào hội trường Gandhamaṇḍala, ngồi trên pháp tòa cao quý đã được chuẩn bị sẵn, rồi bắt đầu thuyết pháp cho đại chúng. Trong khi đó, Uttara ngồi cách đó không xa, lắng nghe kỹ lưỡng từng chữ từng câu, với ý nghĩ: “Không biết Sa-môn Gotama có thuyết pháp để lấy lòng hoặc làm mất lòng thính chúng nhằm mục đích lợi ích thế tục nào hay không?” Nhưng Đức Thế Tôn hoàn toàn không giảng dạy theo cách như thế. Sau khi thấy đúng thời điểm, Ngài kết thúc bài pháp thoại. Cứ theo trình tự này, Uttara đã theo sát Đức Thế Tôn trong suốt bảy tháng liền, quan sát kỹ lưỡng từng lời nói, cử chỉ, hành động của Ngài. Suốt bảy tháng đó, Uttara không hề nhìn thấy bất kỳ một lỗi nhỏ nào nơi thân, khẩu, ý của Đức Thế Tôn. Điều này cũng không có gì đáng ngạc nhiên. Ngay cả Ma vương (Ác-ma thiên tử), là bậc phi nhân, khi Bồ-tát thực hành khổ hạnh sáu năm, cũng không thể tìm thấy dù chỉ một suy nghĩ nhỏ liên quan đến dục lạc thế gian. Rồi sau khi Bồ-tát đã thành đạo, Ma vương lại theo dõi Ngài suốt cả một năm nữa, cũng không thể tìm thấy bất kỳ lỗi lầm nào nơi Ngài. Huống hồ gì một thanh niên phàm tục như Uttara trong thời gian ngắn bảy tháng mà có thể tìm ra lỗi lầm nơi Đức Phật—điều này là không thể xảy ra.

satta vassāni bhagavantaṃ, anubandhiṃ padāpadaṃ.

otāraṃ nādhigacchissaṃ, sambuddhassa satīmato”ti. (su. ni. 448) —

ādigāthāyo vatvā pakkāmi. tato māṇavo cintesi — “ahaṃ bhavantaṃ gotamaṃ satta māse anubandhamāno kiñci vajjaṃ na passāmi. sace panāhaṃ aññepi satta māse satta vā vassāni vassasataṃ vā vassasahassaṃ vā anubandheyyaṃ, nevassa vajjaṃ passeyyaṃ. ācariyo kho panassa me mahallako, yogakkhemaṃ nāma na sakkā jānituṃ. samaṇassa gotamassa sabhāvaguṇeneva buddhabhāvaṃ vatvā mayhaṃ ācariyassa ārocessāmī”ti bhagavantaṃ āpucchitvā bhikkhusaṅghaṃ vanditvā nikkhami.

Bảy năm ta đi theo từng bước chân của đức Thế Tôn.

Không tìm thấy lỗi lầm của bậc Chánh đẳng Chánh giác vị có niệm.

Sau khi đọc lên bài kệ này, Ác-ma thiên tử liền rời đi.

Khi ấy, thanh niên Uttara suy nghĩ: “Ta đã đi theo quan sát ngài Gotama suốt bảy tháng mà không hề thấy được lỗi lầm nào, dù là nhỏ nhất. Cho dù ta có tiếp tục theo dõi thêm bảy tháng nữa, hoặc bảy năm, hoặc thậm chí một trăm năm hay một ngàn năm nữa, chắc chắn ta cũng không thể nào tìm được lỗi lầm nào nơi ngài. Nhưng vị thầy của ta hiện đã già yếu, việc sống còn của thầy rất khó đoán trước, không thể biết chắc thầy còn sống được bao lâu nữa. Vì vậy, ta nên sớm trở về để trình bày với thầy rằng: ‘Chính nhờ quan sát kỹ lưỡng phẩm chất tốt đẹp, thanh tịnh, không tỳ vết nơi Sa-môn Gotama, nên con khẳng định ngài thực sự là bậc Phật.’ Ta sẽ trình bày rõ ràng điều này cho thầy của ta nghe.” rồi chào từ biệt đức Thế Tôn, đảnh lễ Tăng chúng rồi rời đi.

ācariyassa santikañca pana gantvā — “kacci, tāta uttara, taṃ bhavantaṃ gotamaṃ tathāsantaṃyeva saddo abbhuggato”ti pucchito, “ācariya, kiṃ vadesi? cakkavāḷaṃ atisambādhaṃ, bhavaggaṃ atinīcaṃ, tassa hi, bhoto gotamassa ākāsaṃ viya apariyanto guṇagaṇo. tathāsantaṃyeva, bho, taṃ bhavantaṃ gotaman”tiādīni vatvā yathādiṭṭhāni dvattiṃsamahāpurisalakkhaṇāni paṭipāṭiyā ācikkhitvā kiriyasamācāraṃ ācikkhi. tena vuttaṃ — “atha kho uttaro māṇavo … pe … ediso ca ediso ca bhavaṃ gotamo tato ca bhiyyo”ti.

Như thế thanh niên Uttara đã trở về trú xứ của thầy, bị thầy hỏi rằng –- “Này Uttara thân mến, có phải tiếng đồn về tôn giả Gotama là có thật như thế phải không?” mới nói rằng: “thưa thầy, thầy nói gì vậy? vũ trụ thật quá chật chội, sanh hữu tột cùng cũng quá thấp, sự tích trữ nhiều đức lành của ngài Gotama ấy không có giới hạn tựa như hư không, thưa thầy tiếng đồn về ngài Gotama ấy là có thật như thế v.v,” mới nói về ba mươi hai tướng của bậc Đại nhân theo cách đã nhìn thấy theo thứ tự, rồi nói đến kiriya-samācāra. Do đó đã nói rằng — “Khi ấy, thanh niên Uttara … ngài Gotama là như thế, là như thế và hơn thế nữa.”

386. tattha suppatiṭṭhitapādoti yathā hi aññesaṃ bhūmiyaṃ pādaṃ ṭhapentānaṃ aggatalaṃ vā paṇhi vā passaṃ vā paṭhamaṃ phusati, vemajjhaṃ vā pana chiddaṃ hoti, ukkhipantānampi aggatalādīsu ekakoṭṭhāsova paṭhamaṃ uṭṭhahati, na evaṃ tassa. tassa pana suvaṇṇapādukatalaṃ viya ekappahāreneva sakalaṃ pādatalaṃ bhūmiṃ phusati, bhūmito uṭṭhahati. tasmā “suppatiṭṭhitapādo kho pana so bhavaṃ gotamo”ti vadati.

386. Ở đó, suppatiṭṭhitapādo (có lòng bàn chân bằng phẳng): Thông thường, khi người khác đặt chân xuống đất thì hoặc đầu ngón chân, hoặc gót chân, hoặc cạnh bên của bàn chân sẽ chạm xuống trước, còn phần giữa của bàn chân thường hơi lõm, không tiếp xúc đều đất; khi nhấc chân lên cũng vậy, một phần nào đó (ngón chân hay gót chân) sẽ nhấc lên trước tiên. Nhưng bàn chân của Đức Phật thì không như thế. Khi Ngài đặt chân xuống hoặc nhấc chân lên, toàn bộ lòng bàn chân Ngài đồng thời tiếp xúc mặt đất cùng một lúc, hoàn toàn bằng phẳng, giống như mặt đất được trải bằng một tấm thảm vàng. Vì lý do này, người ta nói rằng: “Ngài Gotama là bậc có bàn chân bằng phẳng một cách hoàn hảo.”

tatridaṃ bhagavato suppatiṭṭhitapādatāya — sacepi hi bhagavā anekasataporisaṃ narakaṃ akkamissāmīti pādaṃ nīharati, tāvadeva ninnaṭṭhānaṃ vātapūritaṃ viya kammārabhastaṃ unnamitvā pathavīsamaṃ hoti, unnataṭṭhānampi anto pavisati. dūre akkamissāmīti abhinīharantassa sineruppamāṇopi pabbato seditavettaṅkuro viya namitvā pādasamīpaṃ āgacchati. tathā hissa yamakapāṭihāriyaṃ katvā yugandharapabbataṃ akkamissāmīti pāde abhinīharato pabbato namitvā pādasamīpaṃ āgato, so taṃ akkamitvā dutiyapādena tāvatiṃsabhavanaṃ akkami. na hi cakkalakkhaṇena patiṭṭhātabbaṭṭhānaṃ visamaṃ bhavituṃ sakkoti. khāṇu vā kaṇḍako vā sakkharakathalā vā uccārapassāvo vā kheḷasiṅghāṇikādīni vā purimatarāva apagacchanti, tattha tattheva ca pathaviṃ pavisanti. tathāgatassa hi sīlatejena paññātejena dhammatejena dasannaṃ pāramīnaṃ ānubhāvena ayaṃ mahāpathavī samā mudu pupphābhikiṇṇā hoti. tatra tathāgato samaṃ pādaṃ nikkhipati, samaṃ uddharati, sabbāvantehi pādatalehi bhūmiṃ phusati.

Về điểm đặc biệt trong việc Đức Thế Tôn có bàn chân bằng phẳng này còn có điều đáng kinh ngạc hơn nữa như sau: giả sử Đức Thế Tôn bước chân ra với ý nghĩ rằng: “Ta sẽ bước xuống một vực sâu hàng trăm người đứng chồng lên nhau,” thì ngay lập tức chỗ đất lõm thấp ấy được nâng cao lên ngang bằng mặt đất, giống như một ống thổi của người thợ rèn được bơm đầy hơi căng lên bằng phẳng. Ngược lại, nếu Ngài muốn đặt chân lên một nơi rất xa, thì dù nơi ấy có là ngọn núi cao ngang núi Tu-di (Sineru), ngọn núi ấy cũng sẽ nghiêng mình xuống gần sát chân Ngài, tựa như cành dây mây mềm mại đã được ngâm nước uốn cong xuống. Điều này thật sự đã xảy ra khi Đức Phật thể hiện Song thông thần biến (Yamakapāṭihāriya): Khi Ngài muốn đặt chân lên núi Yugandhara, ngọn núi ấy đã cúi xuống gần chân Ngài. Sau khi bước lên đỉnh núi ấy, Ngài lại bước bước tiếp theo lên cung trời Đạo Lợi (Tāvatiṃsa). Vì dấu hiệu bánh xe (cakkalakkhaṇa) dưới lòng bàn chân của Đức Thế Tôn không thể nào đặt xuống nơi gồ ghề, không bằng phẳng được. Ngoài ra, nếu nơi nào Đức Thế Tôn muốn đặt chân có những vật như gốc cây, gai nhọn, sỏi đá, đất bẩn, phân tiểu, nước bọt, nước mũi… thì tất cả những vật ấy đều lập tức tự động biến mất hoặc chìm sâu xuống đất ngay tại nơi đó. Thật vậy, nhờ năng lực giới hạnh, năng lực trí tuệ, năng lực của Chánh pháp, nhờ sức mạnh từ mười pháp Ba-la-mật (Pāramī) viên mãn của Đức Như Lai, nên đại địa này trở nên bằng phẳng, mềm mại, sạch sẽ và được phủ đầy hoa thơm. Vì thế, Đức Thế Tôn bước chân xuống đều đặn, nhấc chân lên đều đặn, toàn bộ lòng bàn chân Ngài luôn tiếp xúc đất một cách đồng đều, hoàn hảo.

cakkānīti dvīsu pādesu dve cakkāni. tesaṃ arā ca nemi ca nābhi ca pāḷiyaṃ vuttāva. sabbākāraparipūrānīti iminā pana ayaṃ viseso veditabbo — tesaṃ kira cakkānaṃ pādatalassa majjhe nābhi dissati, nābhiparicchinnā vaṭṭalekhā dissati, nābhimukhaparikkhepapaṭṭo dissati, panāḷimukhaṃ dissati, arā dissanti, aresu vaṭṭalekhā dissanti, nemī dissanti, nemimaṇikā dissanti. idaṃ tāva pāḷiāgatameva.

cakkāni (hình bánh xe): nghĩa là “hình bánh xe”: Dưới mỗi lòng bàn chân của Đức Phật đều có một hình bánh xe rõ ràng. Trong Chánh văn (Pāḷi) đã nói rằng bánh xe ấy có đầy đủ các bộ phận như vành xe (nemi), căm xe (arā), trục xe (nābhi).
Cụm từ “sabbākāraparipūrāni” nghĩa là “có đầy đủ tất cả các bộ phận hoàn chỉnh”. Ở đây cần biết thêm một số điểm đặc biệt rõ ràng hơn như sau: Bánh xe ở giữa lòng bàn chân Đức Phật hiển hiện rất rõ nét với đầy đủ các chi tiết:
_ Giữa lòng bàn chân hiện rõ hình trục xe (nābhi).
_ Xung quanh trục xe có những đường tròn rõ rệt bao quanh trục.
_ Tiếp đến là một vòng tròn lớn bao quanh toàn bộ trục xe.
_ Có hình miệng ống rõ nét ở giữa (panāḷimukha).
_ Có các căm xe (arā) tỏa ra từ trung tâm.
_ Có các đường nét tròn nhỏ nằm trên từng căm xe.
_ Có vành bánh xe (nemi) bao quanh bên ngoài.
_ Trên vành bánh xe còn có những họa tiết như các viên ngọc nhỏ kết thành chuỗi vòng quanh (nemimaṇikā).
Tất cả những điểm này đều có trong phần Chánh văn Pāḷi trước đó.

sambahulavāro pana anāgato, so evaṃ daṭṭhabbo — satti siri vaccho nandi sovattiko vaṭaṃsako vaḍḍhamānakaṃ macchayugalaṃ bhaddapīṭhaṃ aṅkusaṃ tomaro pāsādo toraṇaṃ setacchattaṃ khaggo tālavaṇṭaṃ morahatthako vāḷabījanī uṇhīsaṃ patto maṇi kusumadāmaṃ nīluppalaṃ rattuppalaṃ setuppalaṃ padumaṃ puṇḍarīkaṃ puṇṇaghaṭo puṇṇapāti samuddo cakkavāḷo himavā sineru candimasūriyā nakkhattāni cattāro mahādīpā dveparittadīpasahassāni, antamaso cakkavattirañño parisaṃ upādāya sabbo cakkalakkhaṇasseva parivāro.

Ngoài ra, còn nhiều họa tiết, hình ảnh rất đa dạng khác chưa được đề cập ở trên. Những hình ảnh này cũng xuất hiện đầy đủ rõ ràng bên trong hình bánh xe dưới lòng bàn chân Đức Phật. Các hình ảnh đó như sau:
Hình cây giáo (satti)
Hình cái gương (siri)
Hình con bê (vaccha)
Hình con bò đực (nandi)
Hình cái roi uốn cong (sovattika)
Hình vòng hoa trang sức (vaṭaṃsaka)
Hình hoa nhài (vaḍḍhamānaka)
Hình đôi cá (macchayugala)
Hình chiếc ghế phước lành (bhaddapīṭha)
Hình móc câu điều phục voi (aṅkusa)
Hình ngọn lao (tomara)
Hình cung điện (pāsāda)
Hình cổng chào (toraṇa)
Hình lọng trắng (setacchatta)
Hình thanh kiếm (khagga)
Hình quạt lá thốt nốt (tālavaṇṭa)
Hình quạt lông công (morahatthaka)
Hình quạt lông bò Tây Tạng (vāḷabījanī)
Hình khăn đội đầu (uṇhīsa)
Hình bình bát (patta)
Hình viên ngọc quý (maṇi)
Hình tràng hoa (kusumadāma)
Hình hoa súng xanh (nīluppala)
Hình hoa súng đỏ (rattuppala)
Hình hoa súng trắng (setuppala)
Hình hoa sen hồng (paduma)
Hình hoa sen trắng (puṇḍarīka)
Hình bình đầy nước (puṇṇaghaṭa)
Hình khay đầy nước (puṇṇapāti)
Hình đại dương (samudda)
Hình núi vòng quanh thế giới (cakkavāḷa)
Hình núi Tuyết Sơn (himavā)
Hình núi Tu-di (Sineru)
Hình mặt trăng (candima)
Hình mặt trời (suriya)
Hình các chòm sao (nakkhattāni)
Hình bốn châu lục lớn (cattāro mahādīpā)
Hình hai nghìn tiểu châu lục nhỏ (dve parittadīpasahassāni)
Thậm chí toàn bộ hình ảnh đoàn tùy tùng của vua Chuyển Luân cũng được khắc họa đầy đủ rõ ràng trong họa tiết bánh xe này. Như vậy, tất cả những hình ảnh, chi tiết đó đều là đoàn tùy tùng, phụ trợ của “dấu hiệu bánh xe” (cakkalakkhaṇa) dưới lòng bàn chân Đức Phật.

āyatapaṇhīti dīghapaṇhi, paripuṇṇapaṇhīti attho. yathā hi aññesaṃ aggapādo dīgho hoti, paṇhimatthake jaṅghā patiṭṭhāti, paṇhi tacchetvā ṭhapitā viya hoti, na evaṃ tathāgatassa. tathāgatassa pana catūsu koṭṭhāsesu dve koṭṭhāsā aggapādo hoti, tatiye koṭṭhāse jaṅghā patiṭṭhāti, catutthe koṭṭhāse āraggena vaṭṭetvā ṭhapitā viya rattakambale geṇḍukasadisā paṇhi hoti.

Āyatapaṇhi (có gót chân thon dài): Nghĩa là Đức Thế Tôn có gót chân dài, đầy đặn và cân đối. Thông thường, người khác có bàn chân với phần ngón chân khá dài, còn phần gót chân ngắn và hơi lõm, khiến cho xương ống chân đặt ngay sát trên phần cuối gót chân. Nhìn vào gót chân của người thường, ta thấy như thể được cắt ngắn hoặc bị đẽo gọt. Nhưng bàn chân của Đức Như Lai thì không như vậy. Bàn chân Ngài chia đều thành bốn phần cân đối: hai phần đầu là ngón chân, phần thứ ba là phần giữa bàn chân (nơi ống chân đặt lên), còn phần thứ tư là gót chân tròn đầy, đều đặn, trông như một quả cầu bằng vải len đỏ được cuộn tròn kỹ lưỡng và gắn chắc vào cuối bàn chân. Như vậy, gót chân của Đức Như Lai vừa tròn đầy, vừa dài và cân đối hoàn hảo.

dīghaṅgulīti yathā aññesaṃ kāci aṅguli dīghā hoti, kāci rassā, na evaṃ tathāgatassa. tathāgatassa pana makkaṭasseva dīghahatthapādaṅguliyo mūle thūlā anupubbena gantvā agge tanukā niyyāsatelena madditvā vaṭṭitaharitālavaṭṭisadisā honti. tena vuttaṃ “dīghaṅgulī”ti.

Dīghaṅgulī (các ngón tay-chân dài): Ở người bình thường, các ngón tay ngón chân thường không cân đối, có ngón dài, có ngón ngắn khác nhau. Nhưng các ngón tay và ngón chân của Đức Như Lai không như vậy. Các ngón ấy đều đặn, dài, thon đẹp, cân đối với nhau, hơi đầy đặn ở phần gốc rồi dần dần trở nên thanh mảnh về phía đầu ngón. Các ngón tay và chân của Ngài đẹp hoàn hảo, giống như những cây nến tinh tế được nhào nặn kỹ càng với dầu nhựa cây quý, tạo nên vẻ đẹp thanh tú, cân xứng hoàn toàn. Vì lý do ấy, Ngài được mô tả là “người có các ngón tay-chân dài, thon đẹp.”

mudutalunahatthapādoti sappimaṇḍe osādetvā ṭhapitaṃ satavāravihatakappāsapaṭalaṃ viya mudū, jātamattakumārassa viya ca niccakālaṃ talunā ca hatthapādā assāti mudutalunahatthapādo.

Mudutalunahatthapādo (có lòng bàn tay và bàn chân mềm mại): Lòng bàn tay và lòng bàn chân của Đức Thế Tôn luôn mềm mại đặc biệt, tựa như một miếng bông vải thượng hạng đã được vò nhàu hàng trăm lần, rồi đem ngâm vào bơ lỏng tinh khiết cho thật mềm mại. Bàn tay và bàn chân Ngài lúc nào cũng mềm mại, mịn màng như bàn tay bàn chân của một trẻ sơ sinh mới chào đời.

jālahatthapādoti na cammena paṭibaddhāṅgulantaro. ediso hi phaṇahatthako purisadosena upahato pabbajjampi na labhati. tathāgatassa pana catasso hatthaṅguliyo pañcapi pādaṅguliyo ekappamāṇā honti, tāsaṃ ekappamāṇattāya yavalakkhaṇaṃ aññamaññaṃ paṭivijjhitvā tiṭṭhati. athassa hatthapādā kusalena vaḍḍhakinā yojitajālavātapānasadisā honti. tena vuttaṃ “jālahatthapādo”ti.

Lòng bàn tay và lòng bàn chân có màng da lưới: Ở đây, không phải nói rằng các ngón tay ngón chân của Đức Như Lai bị dính liền vào nhau hoàn toàn bởi lớp da thịt (nếu như thế sẽ là khuyết tật, không được phép xuất gia). Trái lại, ý nghĩa là thế này: cả bốn ngón tay (trừ ngón cái) và cả năm ngón chân của Đức Thế Tôn đều có chiều dài và kích cỡ bằng nhau hoàn toàn. Vì chúng đều nhau hoàn hảo như vậy, giữa các ngón tay-chân của Ngài có những đường nét, đường vân rõ nét, đẹp đẽ tạo thành hình dạng như những hạt lúa mạch sắp đặt đối xứng, cân xứng hoàn hảo. Nhìn vào bàn tay và bàn chân của Đức Như Lai, người ta liên tưởng đến những tấm lưới mỏng tinh xảo được một người thợ mộc tài hoa căng đều và cân đối trên khung cửa sổ. Chính vì sự cân đối hoàn hảo và các đường nét đẹp như thế, người ta gọi Ngài là “bậc có bàn tay bàn chân với màng da lưới (jālahatthapādo).”.

uddhaṃ patiṭṭhitagopphakattā ussaṅkhā pādā assāti ussaṅkhapādo. aññesañhi piṭṭhipāde gopphakā honti. tena tesaṃ pādā āṇibaddhā viya thaddhā honti, na yathāsukhaṃ parivattanti, gacchantānaṃ pādatalāni na dissanti. tathāgatassa pana abhiruhitvā upari gopphakā patiṭṭhahanti. tenassa nābhito paṭṭhāya uparimakāyo nāvāya ṭhapitasuvaṇṇapaṭimā viya niccalo hoti, adhokāyova iñjati. sukhena pādā parivattanti. puratopi pacchatopi ubhayapassesupi ṭhatvā passantānaṃ pādatalāni paññāyanti, na hatthīnaṃ viya pacchatoyeva.

Có mắt cá tròn như vỏ con sò: Ở người bình thường, mắt cá chân nằm sát gần mu bàn chân, khiến bàn chân bị cứng, khó cử động linh hoạt, giống như bị đóng chặt vào một cái nêm, khi bước đi không thấy rõ lòng bàn chân. Còn mắt cá chân của Đức Như Lai thì cao lên hẳn phía trên, rõ ràng và thanh thoát, khiến bàn chân mềm mại, cong lên nhẹ nhàng, tự nhiên như vỏ con sò úp ngược. Nhờ vậy bàn chân của Ngài chuyển động dễ dàng, linh hoạt. Khi bước đi, phần thân trên của Ngài từ vùng thắt lưng trở lên hoàn toàn không dao động, giống như một pho tượng vàng đặt trên chiếc thuyền, chỉ có phần thân dưới chuyển động nhẹ nhàng. Bàn chân Ngài bước đi rất thoải mái và linh hoạt. Người đứng quan sát từ mọi hướng (từ trước, từ sau hay từ hai bên) đều có thể nhìn thấy rõ lòng bàn chân Ngài. Khác với loài voi, chỉ có thể nhìn thấy lòng bàn chân từ phía sau.

eṇijaṅghoti eṇimigasadisajaṅgho maṃsussadena paripuṇṇajaṅgho, na ekato baddhapiṇḍikamaṃso, samantato samasaṇṭhitena maṃsena parikkhittāhi suvaṭṭitāhi sāligabbhasadisāhi jaṅghāhi samannāgatoti attho.

Có ống chân như ống chân con sơn dương: Bắp chân của Đức Như Lai đầy đặn, tròn đều, cân đối hoàn hảo như bắp chân của loài sơn dương. Điều này nghĩa là bắp chân Ngài có phần thịt tròn đầy, phân bố đều đặn, chứ không phải phần thịt bị dồn, vón cục sang một bên như người thường. Hai bắp chân của Ngài tròn trịa, cân đối, đẹp như bông lúa mạch chín đều đặn, tròn đầy, săn chắc và cân xứng khắp mọi phía.

anonamantoti anamanto. etenassa akhujjāvāmanabhāvo dīpito. avasesajanā hi khujjā vā honti vāmanā vā, khujjānaṃ uparimakāyo aparipuṇṇo hoti, vāmanānaṃ heṭṭhimakāyo. te aparipuṇṇakāyattā na sakkonti anonamantā jaṇṇukāni parimajjituṃ. tathāgato pana paripuṇṇaubhayakāyattā sakkoti.

Anonamanto (có thân hình cân xứng, thẳng đứng, không gù, không cúi gập xuống):
Từ này nghĩa là thân hình Đức Như Lai hoàn toàn cân đối, thẳng đứng một cách tự nhiên. Ngài không có dáng người gù lưng hay thấp lùn. Người gù là người có phần thân trên không cân đối, người lùn là người có phần thân dưới thiếu cân đối. Vì thân thể không cân đối, những người ấy không thể đứng thẳng tự nhiên mà luôn phải cúi xuống, hoặc khó khăn khi cúi xuống để chạm tay vào đầu gối. Nhưng Đức Như Lai thì cả phần thân trên lẫn thân dưới đều hoàn chỉnh, cân đối, hài hòa. Ngài có thể dễ dàng đứng thẳng tự nhiên, cũng dễ dàng cúi xuống chạm tay vào đầu gối mà không gặp bất cứ trở ngại nào.

usabhavāraṇādīnaṃ viya suvaṇṇapadumakaṇṇikasadise kose ohitaṃ paṭicchannaṃ vatthaguyhaṃ assāti kosohitavatthaguyho. vatthaguyhanti vatthena gūhitabbaṃ aṅgajātaṃ vuccati.

Kosohitavatthaguyho (nam căn ẩn kín, được bọc lại tự nhiên):
Nam căn (bộ phận sinh dục nam) của Đức Như Lai được giấu kín, tự nhiên ẩn vào bên trong cơ thể, được che phủ bởi một lớp da tinh tế, tương tự như bộ phận sinh dục của một con bò mộng hoặc voi chúa được giấu kín bên trong lớp vỏ bọc tự nhiên. Vì vậy, nam căn của Ngài không hề lộ ra ngoài, mà kín đáo và tế nhị, như được đặt bên trong một búp sen vàng khép kín trang nhã.

suvaṇṇavaṇṇoti jātihiṅgulakena majjitvā dīpidāṭhāya ghaṃsitvā gerukaparikammaṃ katvā ṭhapitaghanasuvaṇṇarūpakasadisoti attho. etenassa ghanasiniddhasaṇhasarīrataṃ dassetvā chavivaṇṇadassanatthaṃ kañcanasannibhattacoti vuttaṃ, purimassa vā vevacanameva etaṃ.

Có màu da tựa như vàng: Làn da của Đức Như Lai có sắc vàng sáng rực rỡ, giống như một khối vàng đặc quý giá, đã được người thợ kim hoàn khéo léo tô điểm bằng màu đỏ son tự nhiên, đánh bóng bằng chiếc răng nanh hổ, rồi phủ nhẹ lớp bột màu đỏ (geruka) lên, khiến cho khối vàng ấy thêm phần sáng bóng, rực rỡ và tinh tế. Từ này chỉ rõ sắc thân của Đức Như Lai vô cùng hoàn hảo, mềm mại, mịn màng, sáng đẹp, tựa như một khối vàng ròng quý giá, rực rỡ ánh sáng.

rajojallanti rajo vā malaṃ vā. na upalimpatīti na laggati, padumapalāsato udakabindu viya vivaṭṭati. hatthadhovanapādadhovanādīni pana utuggahaṇatthāya ceva dāyakānaṃ puññaphalatthāya ca buddhā karonti, vattasīsenāpi ca karontiyeva. senāsanaṃ pavisantena hi bhikkhunā pāde dhovitvā pavisitabbanti vuttametaṃ.

Bụi bẩn gồm bụi hoặc chất bẩn. Không dính vào: không bám vào, lăn tròn giống như những giọt nước lăn tròn từ lá sen. Mặc dầu vậy, chư Phật cũng rửa tay và chân v.v, vì mục đích xác định thời tiết (nóng và lạnh) và vì quả phước cho những thí chủ, và thực hiện cũng chỉ vì bổn phận. Thường vị tỳ khưu đi vào chỗ trú ngụ cần phải rửa chân rồi mới đi vào, ngài nói đến điều này.

uddhaggalomoti āvaṭṭapariyosāne uddhaggāni hutvā mukhasobhaṃ ullokayamānāni viya ṭhitāni lomāni assāti uddhaggalomo.

Có lông mọc xoáy tròn thẳng lên: bậc Đại Nhân có lông mọc thẳng lên bởi lông của ngài có phần ngọn mềm mại nhô lên, ở ngọn tóc xoắn tròn theo phía hữu, xếp đặt ngay ngắn, đẹp đẽ, như thể đang vươn lên để tôn thêm vẻ đẹp rạng rỡ trên gương mặt Ngài.

brahmujugattoti brahmā viya ujugatto, ujumeva uggatadīghasarīro. yebhuyyena hi sattā khandhe kaṭiyaṃ jāṇūsūti tīsu ṭhānesu namanti. te kaṭiyaṃ namantā pacchato namanti, itaresu dvīsu ṭhānesu purato. dīghasarīrā paneke passavaṅkā honti, eke mukhaṃ unnāmetvā nakkhattāni gaṇayantā viya caranti, eke appamaṃsalohitā sūlasadisā honti, pavedhamānā gacchanti. tathāgato pana ujumeva uggantvā dīghappamāṇo devanagare ussitasuvaṇṇatoraṇaṃ viya hoti.

Có thân hình cao thẳng như Phạm Thiên: Từ này chỉ thân hình Đức Như Lai cao lớn, thẳng đứng và cân đối hoàn hảo như thân hình của vị trời Phạm Thiên. Thật vậy, đa phần chúng sanh khi đứng hoặc đi lại thường bị cong người tại ba vị trí: cổ, thắt lưng và đầu gối. Khi cong ở vùng thắt lưng thì thân sẽ nghiêng về phía sau, còn nếu cong ở cổ và đầu gối thì thân sẽ nghiêng về phía trước. Một số người cao lớn nhưng cột sống lại cong vẹo sang một bên. Một số người dáng đi ngửa cổ lên trời, như thể đang nhìn và đếm các vì sao. Một số người lại quá gầy yếu, thân thể khô gầy như cây lao, khi đi thì thân thể run rẩy. Đức Như Lai thì không như thế. Ngài có thân hình hoàn toàn cân đối, thẳng đứng tự nhiên, cao lớn đẹp đẽ như một cổng chào bằng vàng được dựng lên trang nghiêm, vững chãi tại thành phố chư thiên.

sattussadoti dve hatthapiṭṭhiyo dve pādapiṭṭhiyo dve aṃsakūṭāni khandhoti imesu sattasu ṭhānesu paripuṇṇamaṃsussado assāti sattussado. aññesaṃ pana hatthapādapiṭṭhīsu nhārujālā paññāyanti, aṃsakūṭakhandhesu aṭṭhikoṭiyo, te manussapetā viya khāyanti, na tathāgato. tathāgato pana sattasu ṭhānesu paripuṇṇamaṃsussadattā nigūḷhanhārujālehi hatthapiṭṭhādīhi vaṭṭetvā ṭhapitasuvaṇṇavaṇṇāliṅgasadisena khandhena silārūpakaṃ viya cittakammarūpakaṃ viya ca khāyati.

Thân thể có bảy chỗ tròn đầy: Đức Như Lai có bảy chỗ trên thân thể tròn đầy, đầy đặn và cân xứng, đó là: hai mu bàn tay, hai mu bàn chân, hai bờ vai và phần cổ. Ở người bình thường, tại những vị trí này thường lộ rõ các gân máu, gân thịt, hoặc nhô lên các đầu xương, làm mất thẩm mỹ, nhìn giống như thân hình loài ngạ quỷ. Nhưng ở Đức Như Lai thì không như thế. Tại bảy chỗ này, thịt của Ngài đầy đặn, mềm mại, tròn đều, che phủ hoàn toàn các đường gân, mạch máu và xương. Vì thế, mu bàn tay, mu bàn chân, hai vai và cổ của Ngài đều tròn đầy, cân đối hoàn hảo. Đặc biệt, phần cổ của Ngài tròn trịa, cân đối và đẹp tuyệt vời, giống như một chiếc trống vàng tròn đầy, sáng bóng. Nhờ sự tròn đầy tại bảy nơi này, thân thể Đức Như Lai xuất hiện trước mắt người khác đẹp hoàn hảo như một pho tượng bằng đá quý được điêu khắc khéo léo, hoặc như một bức chân dung tuyệt mỹ do một họa sĩ tài ba tạo nên.

sīhassa pubbaddhaṃ viya kāyo assāti sīhapubbaddhakāyo. sīhassa hi puratthimakāyova paripuṇṇo hoti, pacchimakāyo aparipuṇṇo. tathāgatassa pana sīhassa pubbaddhakāyova sabbo kāyo paripuṇṇo. sopi sīhasseva na tattha tattha vinatunnatādivasena dussaṇṭhita-visaṇṭhito, dīghayuttaṭhāne pana dīgho, rassakisathūlānuvaṭṭitayuttaṭṭhānesu tathāvidhova hoti. vuttañhetaṃ —

Sīhapubbaddhakāyo (có thân hình đầy đặn như nửa thân trước của sư tử):
Đức Như Lai có thân hình đầy đặn, vạm vỡ, cân đối và uy nghiêm giống như nửa thân trước của loài sư tử. Thông thường, loài sư tử chỉ có phần thân trước (vai, ngực) to lớn, đầy đặn và mạnh mẽ, còn nửa thân sau thì kém đầy đặn hơn. Nhưng Đức Như Lai thì toàn bộ thân thể đều đầy đặn, vững chãi, cân đối hoàn hảo giống như phần thân trước của sư tử.
Ngoài ra, thân thể Đức Như Lai tuy đầy đặn nhưng không thô kệch, không có chỗ nào bị lồi lõm, mất cân xứng; trái lại rất cân đối, hài hòa: chỗ nào cần dài thì dài, chỗ nào cần ngắn thì ngắn, chỗ nào cần rắn chắc thì rắn chắc, chỗ nào cần thon gọn thì thon gọn, chỗ nào cần tròn đầy thì tròn đầy đúng mức. Vì thế có lời nói rằng —

manāpiye ca kho, bhikkhave, kammavipāke paccupaṭṭhite yehi aṅgehi dīghehi sobhati, tāni aṅgāni dīghāni saṇṭhahanti. yehi aṅgehi rassehi sobhati, tāni aṅgāni rassāni saṇṭhahanti. yehi aṅgehi thūlehi sobhati, tāni aṅgāni thūlāni saṇṭhahanti. yehi aṅgehi kisehi sobhati, tāni aṅgāni kisāni saṇṭhahanti. yehi aṅgehi vaṭṭehi sobhati, tāni aṅgāni vaṭṭāni saṇṭhahantī”ti.

“Này các Tỳ khưu, khi quả báo tốt đẹp của nghiệp thiện hiển lộ, những bộ phận nào cần dài để thân hình đẹp thì chúng sẽ dài thích hợp; bộ phận nào cần ngắn thì chúng sẽ ngắn thích hợp; bộ phận nào cần rắn chắc thì rắn chắc thích hợp; bộ phận nào nên thon gọn thì sẽ thon gọn thích hợp; bộ phận nào cần tròn đầy thì chúng sẽ tròn đầy thích hợp.”

iti nānācittena puññacittena cittito dasahi pāramīhi sajjito tathāgatassa attabhāvo, tassa loke sabbasippino vā iddhimanto vā paṭirūpakampi kātuṃ na sakkonti.

Như thế, thân tướng Đức Như Lai được thành tựu bởi vô số thiện nghiệp, được tô điểm bởi mười pháp Ba-la-mật mà Ngài đã tích lũy vô lượng kiếp. Do đó, tất cả các nghệ nhân hay các vị thần thông có năng lực phi thường trên thế gian này cũng không thể tạo ra được một hình tướng nào tương tự với thân tướng hoàn hảo của Đức Như Lai.

citantaraṃsoti antaraṃsaṃ vuccati dvinnaṃ koṭṭānamantaraṃ, taṃ citaṃ paripuṇṇamassāti citantaraṃso. aññesañhi taṃ ṭhānaṃ ninnaṃ hoti, dve piṭṭhikoṭṭā pāṭiyekkaṃ paññāyanti. tathāgatassa pana kaṭito paṭṭhāya maṃsapaṭalaṃ yāva khandhā uggamma samussitasuvaṇṇaphalakaṃ viya piṭṭhiṃ chādetvā patiṭṭhitaṃ.

Có khoảng giữa hai vai đầy đặn: Khoảng giữa hai vai (phần lưng trên) của Đức Như Lai đầy đặn, cân đối và bằng phẳng. Thông thường, ở người khác phần lưng trên thường bị trũng xuống, hai bên bả vai và xương vai lộ rõ, khiến thân hình không đẹp. Nhưng ở Đức Như Lai, lớp thịt đầy đặn từ eo trở lên phủ kín phần lưng trên, che phủ hoàn toàn vai và xương bả vai, tạo thành một mặt phẳng đều đặn, đầy đặn, vững chãi, giống như một tấm bảng bằng vàng được nâng lên đặt trang nghiêm phía sau.

nigrodhaparimaṇḍaloti nigrodho viya parimaṇḍalo. yathā paṇṇāsahatthatāya vā satahatthatāya vā samakkhandhasākho nigrodho dīghatopi vitthāratopi ekappamāṇova hoti, evaṃ kāyatopi byāmatopi ekappamāṇo. yathā aññesaṃ kāyo vā dīgho hoti byāmo vā, na evaṃ visamappamāṇoti attho. Teneva “yāvatakvassa kāyo”tiādi vuttaṃ. tattha yāvatako assāti yāvatakvassa.

Có thân thể tròn đều như cây Nigrodha: Đức Như Lai có thân hình cân xứng hoàn hảo, chiều cao thân và chiều rộng (sải tay) bằng nhau, giống như cây Nigrodha (cây đa) có kích thước chiều cao và chiều rộng đều bằng nhau (ví dụ cao 50 hoặc 100 hắc tay thì chiều rộng cũng bằng như vậy). Trong khi thân hình người thường thì chiều cao và chiều rộng (sải tay) không cân xứng, có sự chênh lệch. Đức Như Lai không như thế; thân Ngài hoàn toàn cân đối, hài hòa cả chiều cao lẫn chiều rộng. Bởi thế ngài đã nói rằng “thân của vị này cao chừng nào thì sải tay của vị này chừng ấy…” Ở đó, từ ‘yāvatakvassa’ chia thành ‘yāvatako assā’.

samavaṭṭakkhandhoti samavaṭṭitakkhandho. yathā eke koñcā viya bakā viya varāhā viya ca dīghagalā vaṅkagalā puthulagalā ca honti, kathanakāle sirājālaṃ paññāyati, mando saro nikkhamati, na evaṃ tassa. tathāgatassa pana suvaṭṭitasuvaṇṇāliṅgasadiso khandho hoti, kathanakāle sirājālaṃ na paññāyati, meghassa viya gajjato saro mahā hoti.

Samavaṭṭakkhandho (có cổ tròn đều): Một số người có cổ dài, cổ cong hay cổ quá lớn, khiến lúc nói chuyện thì các sợi gân nổi rõ, giọng nói yếu ớt, phát âm chậm chạp, mất thẩm mỹ, giống như cổ con diệc, con sếu, con lợn v.v. Nhưng cổ của Đức Như Lai thì không như vậy. Cổ của Ngài tròn đầy, cân đối hoàn hảo, mềm mại và đẹp tuyệt vời như một chiếc trống bằng vàng được tiện tròn và đánh bóng kỹ lưỡng. Khi Đức Như Lai nói chuyện, không có bất kỳ gân nào nổi lên, và giọng nói vang vọng, rõ ràng, mạnh mẽ, uy nghiêm như tiếng sấm rền.

rasaggasaggīti ettha rasaṃ gasantīti rasaggasā, rasaharaṇīnametaṃ adhivacanaṃ, tā aggā assāti rasaggasaggī. tathāgatassa hi satta rasaharaṇisahassāni uddhaggāni hutvā gīvāyameva paṭimukkāni. tilaphalamattopi āhāro jivhagge ṭhapito sabbaṃ kāyaṃ anupharati, teneva mahāpadhānaṃ padahantassa ekataṇḍulādīhipi kāḷāyayūsapasatenāpi kāyassa yāpanaṃ ahosi. aññesaṃ pana tathā abhāvā na sakalakāyaṃ ojā pharati, tena te bahvābādhā honti. idaṃ lakkhaṇaṃ appābādhatāsaṅkhātassa nissandaphalassa vasena pākaṭaṃ hoti.

Rasaggasaggī (có vị giác vô cùng sắc bén): “Rasaggasaggī” nghĩa là người có khả năng cảm nhận vị giác vô cùng sắc bén, vượt trội hẳn người thường. Đức Như Lai có các dây thần kinh vị giác hoạt động vô cùng hoàn hảo và nhạy bén. Được biết rằng Ngài có đến bảy ngàn dây thần kinh vị giác nằm ở đầu lưỡi, tất cả đều kết nối thẳng đến vùng cổ họng. Nhờ vậy, dù chỉ tiếp nhận một lượng nhỏ thức ăn bằng hạt mè đặt trên đầu lưỡi, Ngài cũng có thể hấp thu và chuyển hóa ngay lập tức dinh dưỡng khắp toàn thân. Chính vì lý do này, trong thời gian thực hành khổ hạnh cực độ, Đức Bồ-tát có thể duy trì sự sống của cơ thể chỉ bằng một hạt cơm hoặc một chút nhỏ cháo đậu đen mà thôi. Ngược lại, người bình thường không có khả năng như vậy, chất dinh dưỡng không thể chuyển hóa đầy đủ khắp cơ thể, nên họ thường dễ mắc nhiều căn bệnh khác nhau. Chính nhờ khả năng hấp thu dinh dưỡng tuyệt vời này mà Đức Như Lai có thân thể ít bệnh, khỏe mạnh dài lâu.

sīhasseva hanu assāti sīhahanu. tattha sīhassa heṭṭhimahanumeva paripuṇṇaṃ hoti, na uparimaṃ. tathāgatassa pana sīhassa heṭṭhimaṃ viya dvepi paripuṇṇāni dvādasiyaṃ pakkhassa candasadisāni honti.

Sīhahanu (có hai hàm đầy đặn và cân đối như hàm sư tử) “Sīhahanu” có nghĩa là có hai hàm (trên và dưới) đầy đặn, vững chắc và cân đối như hàm của một con sư tử chúa. Thông thường, loài sư tử chỉ có hàm dưới tròn đầy, hàm trên thì không đầy đặn bằng. Nhưng Đức Như Lai thì cả hai hàm đều đầy đặn, vững chắc và cân đối như hàm dưới của sư tử chúa, hoặc đẹp hoàn hảo như mặt trăng ngày thứ 12 của nửa tháng sáng (thượng huyền).

cattālīsadantotiādīsu uparimahanuke patiṭṭhitā vīsati, heṭṭhime vīsatīti cattālīsa dantā assāti cattālīsadanto. aññesañhi paripuṇṇadantānampi dvattiṃsa dantā honti, tathāgatassa cattālīsaṃ.

Cattālīsadanto (có bốn mươi chiếc răng) v.v, gọi là có bốn mươi chiếc răng bởi ý nghĩa có hai mươi chiếc răng ở hàm trên (và) hai mươi chiếc răng ở hàm dưới. Còn của những người khác mặc dù đầy đủ cũng chỉ có 32 chiếc răng, còn của đấng Như Lai có bốn mươi chiếc răng.

aññesañca keci dantā uccā keci nīcāti visamā honti, tathāgatassa pana ayapaṭṭachinnasaṅkhapaṭalaṃ viya samā.

Của những người khác có răng không đều nhau, (tức là) một số có răng dài, một số lại có răng ngắn. Còn của đấng Như Lai đều đặn tựa như vỏ ốc đã được khéo đánh bóng.

aññesaṃ kumbhīlānaṃ viya dantā viraḷā honti, macchamaṃsādīni khādantānaṃ dantantaraṃ pūrati. tathāgatassa pana kanakalatāya samussāpitavajirapanti viya aviraḷā tulikāya dassitaparicchedā viya dantā honti.

Bên cạnh đó, răng của người thường thường mọc thưa như răng cá sấu; khi ăn thịt cá, thức ăn dễ dính vào các kẽ răng. Ngược lại, răng Đức Như Lai mọc khít nhau hoàn hảo, không có khe hở, tựa như một hàng kim cương quý giá được sắp xếp ngay ngắn trên một sợi dây vàng, hoặc giống như được vẽ nét rõ ràng bằng chiếc bút tinh xảo.

susukkadāṭhoti aññesañca pūtidantā uṭṭhahanti, tena kāci dāṭhā kāḷāpi vivaṇṇāpi honti. tathāgato susukkadāṭho osadhitārakampi atikkamma virocamānāya pabhāya samannāgatadāṭho, tena vuttaṃ “susukkadāṭho”ti.

Susukkadāṭho (có răng nhọn trắng đẹp): Thông thường, răng của người bình thường dễ bị ố vàng, hư hỏng hoặc đen xỉn. Nhưng răng của Đức Như Lai luôn trắng sáng, đẹp tuyệt vời, thậm chí còn sáng rực rỡ hơn cả ánh sáng của sao Osadhī (một ngôi sao nổi bật về độ sáng). Vì thế Đức Như Lai có đặc điểm là “bậc có răng nanh trắng sáng đẹp đẽ.”

pahūtajivhoti aññesaṃ jivhā thūlāpi hoti kisāpi rassāpi thaddhāpi visamāpi, tathāgatassa pana mudu dīghā puthulā vaṇṇasampannā hoti. so taṃ lakkhaṇaṃ pariyesituṃ āgatānaṃ kaṅkhāvinodanatthaṃ mudukattā taṃ jivhaṃ kathinasūciṃ viya vaṭṭetvā ubho nāsikasotāni parāmasati, dīghattā ubho kaṇṇasotāni parāmasati, puthulattā kesantapariyosānaṃ kevalampi nalāṭaṃ paṭicchādeti. evaṃ tassā mududīghaputhulabhāvaṃ pakāsento kaṅkhaṃ vinodeti. evaṃ tilakkhaṇasampannaṃ jivhaṃ sandhāya “pahūtajivho”ti vuttaṃ.

Pahūtajivho (có tướng lưỡi rộng, dài và mềm): “Pahūtajivho” nghĩa là Đức Như Lai có tướng lưỡi rộng, dài và mềm mại hoàn hảo. Thông thường, lưỡi của người thường hoặc quá dày, hoặc quá mỏng, hoặc ngắn, cứng, thiếu cân đối. Nhưng lưỡi của Đức Như Lai thì mềm mại, dài và rộng, màu sắc tươi đẹp hoàn hảo.
Để xóa tan hoài nghi của những người đến xem tướng, Đức Như Lai đôi khi thể hiện đặc điểm tuyệt vời của chiếc lưỡi bằng cách: do lưỡi mềm mại, Ngài có thể dễ dàng cuộn lại như cây kim mềm để chạm vào cả hai lỗ mũi; do lưỡi dài, Ngài có thể đưa lên chạm đến cả hai lỗ tai; và do lưỡi rộng, Ngài có thể che phủ hết cả phần trán lên đến tận mép tóc. Với ba đặc tính đặc biệt này (mềm mại, dài, và rộng), Đức Như Lai được gọi là “bậc có lưỡi rộng, dài và mềm mại hoàn hảo.”

brahmassaroti aññe chinnassarāpi bhinnassarāpi kākassarāpi honti, tathāgato pana mahābrahmuno sarasadisena sarena samannāgato. mahābrahmuno hi pittasemhehi apalibuddhattā saro visuddho hoti. tathāgatenāpi katakammaṃ vatthuṃ sodheti, vatthussa suddhattā nābhito paṭṭhāya samuṭṭhahanto saro visuddho aṭṭhaṅgasamannāgatova samuṭṭhāti. karaviko viya bhaṇatīti karavikabhāṇī, mattakaravikarutamañjughosoti attho.

Brahmassaro (có âm thanh của Phạm Thiên): Người bình thường có giọng nói khi thì ngắt quãng, khi thì khàn đục, khi thì the thé khó nghe như tiếng quạ. Nhưng Đức Như Lai thì sở hữu giọng nói trong trẻo, rõ ràng, hoàn hảo, giống như giọng nói của vị Đại Phạm Thiên. Vì giọng nói của Đại Phạm Thiên hoàn toàn trong trẻo, không bị ngăn trở bởi mật, đờm hay các chất nhầy. Tương tự như vậy, do năng lực nghiệp thiện vô cùng thanh tịnh trong vô lượng kiếp, bộ phận phát âm của Đức Như Lai luôn được thanh lọc, trong sạch hoàn toàn. Vì thế, khi Đức Như Lai cất tiếng nói, âm thanh phát ra từ sâu trong bụng, đi qua vùng ngực và cổ họng, hội đủ tám yếu tố hoàn hảo, nên vô cùng trong trẻo, rõ ràng, vang xa, dễ nghe và thanh thoát tuyệt vời. Đức Như Lai còn được gọi là Karavikabhāṇī nghĩa là có giọng nói êm dịu, ngọt ngào như tiếng hót của loài chim karavika.

tatridaṃ karavikarutassa mañjutāya — karavikasakuṇe kira madhurarasaṃ ambapakkaṃ mukhatuṇḍakena paharitvā paggharitaṃ rasaṃ sāyitvā pakkhena tālaṃ datvā vikūjamāne catuppadādīni mattāni viya laḷituṃ ārabhanti. gocarappasutāpi catuppadā mukhagatānipi tiṇāni chaḍḍetvā taṃ saddaṃ suṇanti, vāḷamigā khuddakamige anubandhamānā ukkhittapādaṃ anukkhipitvāva tiṭṭhanti, anubaddhamigāpi maraṇabhayaṃ hitvāpi tiṭṭhanti, ākāse pakkhandapakkhinopi pakkhe pasāretvā tiṭṭhanti, udake macchāpi kaṇṇapaṭalaṃ apphoṭentā taṃ saddaṃ suṇamānāva tiṭṭhanti. evaṃ mañjurutā karavikā.

Về sự ngọt ngào tuyệt vời trong tiếng hót của loài chim karavika, kinh văn có giải thích minh họa như sau:
Tương truyền rằng, khi loài chim karavika dùng mỏ của mình mổ vào quả xoài chín mọng có vị ngọt ngào, sau khi thưởng thức vị ngọt chảy ra từ quả xoài, chim karavika liền vỗ cánh theo nhịp điệu rồi cất tiếng hót du dương, êm đềm, say đắm lòng người. Khi ấy, tất cả các loài thú bốn chân đang gặm cỏ cũng vứt bỏ cỏ trong miệng để lắng nghe tiếng hót ấy. Những loài thú dữ đang mải mê rượt đuổi con mồi cũng phải dừng chân đứng yên, thậm chí con vật bị truy đuổi cũng quên đi nỗi sợ chết mà dừng lại để nghe. Những đàn chim đang bay trên không trung, khi nghe tiếng chim karavika cũng dang rộng đôi cánh đứng yên giữa trời không di chuyển. Những đàn cá bơi lội dưới nước, đang quẫy đuôi vùng vẫy cũng ngưng bơi, đứng yên lắng nghe tiếng hót tuyệt vời ấy. Âm thanh loài chim karavika ngọt ngào, say đắm lòng người đến mức như vậy.

asandhimittāpi dhammāsokassa devī — “atthi nu kho, bhante, buddhasaddena sadiso kassaci saddo”ti saṅghaṃ pucchi. atthi karavikasakuṇassāti. kuhiṃ, bhante, sakuṇāti? himavanteti. sā rājānaṃ āha, — “deva, karavikasakuṇaṃ daṭṭhukāmā”ti. rājā “imasmiṃ pañjare nisīditvā karaviko āgacchatū”ti suvaṇṇapañjaraṃ vissajjesi. pañjaro gantvā ekassa karavikassa purato aṭṭhāsi. so “rājāṇāya āgato pañjaro, na sakkā agantun”ti tattha nisīdi. pañjaro āgantvā rañño puratova aṭṭhāsi. karavikaṃ saddaṃ kārāpetuṃ na sakkonti. atha rājā “kathaṃ bhaṇe ime saddaṃ karontī”ti āha? ñātake disvā devāti. atha naṃ rājā ādāsehi parikkhipāpesi. so attanova chāyaṃ disvā “ñātakā me āgatā”ti maññamāno pakkhena tāḷaṃ datvā mañjussarena maṇivaṃsaṃ dhamamāno viya viravi. sakalanagare manussā mattā viya laḷiṃsu. asandhimittā cintesi — “imassa tāva tiracchānassa evaṃ madhuro saddo, kīdiso nu kho sabbaññutaññāṇasirippattassa bhagavato ahosī”ti pītiṃ uppādetvā taṃ pītiṃ avijahitvā sattahi jaṅghasatehi saddhiṃ sotāpattiphale patiṭṭhāsi. evaṃ madhuro karavikasaddo. tato satabhāgena sahassabhāgena ca madhurataro tathāgatassa saddo, loke pana karavikato aññassa madhurarassa abhāvato “karavikabhāṇī”ti vuttaṃ.

Câu chuyện minh họa về âm thanh tuyệt vời của chim karavika:
Ngay cả Hoàng hậu Asandhimittā, vợ vua Dhammāsoka, cũng từng hỏi chư Tăng rằng:
— “Bạch chư Tôn giả, liệu trên thế gian này còn ai có giọng nói tương tự như giọng nói của Đức Phật không?”
Chư Tăng đáp: — “Có loài chim karavika.”
Hoàng hậu hỏi tiếp: — “Bạch Tôn giả, loài chim ấy cư trú ở đâu?”
Chư Tăng đáp rằng: — “Chim ấy sống ở vùng núi Himalaya.”
Nghe vậy, Hoàng hậu thưa với vua Dhammāsoka: — “Tâu Đại vương, thiếp rất mong được tận mắt nhìn thấy loài chim karavika ấy.” Vua liền ra lệnh làm ngay một cái lồng bằng vàng, rồi truyền lệnh rằng: “Hãy để loài chim karavika bay vào trong lồng này.” Lập tức, cái lồng vàng ấy bay thẳng đến trước mặt con chim karavika. Chim nghĩ rằng: “Lồng này đến theo lệnh vua, ta không thể không đi.” Rồi chim bay vào ngồi yên trong lồng. Lồng ấy liền bay trở về trước mặt nhà vua. Khi đó, không ai biết cách làm chim hót lên. Đức vua bèn hỏi các quan đại thần: “Này các khanh, làm thế nào để chim này hót được?” Các quan trả lời: “Muôn tâu Đại vương, loài chim này chỉ hót khi nhìn thấy đồng loại của chúng.” Nghe vậy, nhà vua ra lệnh đặt những tấm gương sáng xung quanh chiếc lồng. Chim karavika nhìn thấy bóng mình trong gương, tưởng rằng đồng loại đã đến, liền vỗ cánh tạo nhịp điệu rồi cất lên tiếng hót du dương ngọt ngào, êm ái như một nghệ sĩ tài ba đang thổi sáo ngọc. Khi nghe tiếng hót ấy, toàn bộ người dân trong kinh thành đều say mê, ngây ngất như chìm trong cơn say.
Khi ấy, Hoàng hậu Asandhimittā suy nghĩ: “Ngay cả một loài súc sanh như chim karavika mà giọng nói còn ngọt ngào, tuyệt vời đến như vậy, thì âm thanh giọng nói của Đức Thế Tôn, bậc đã chứng đạt trí tuệ Toàn giác, sẽ còn ngọt ngào, tuyệt mỹ đến mức độ nào nữa?” Nghĩ vậy, hoàng hậu phát khởi niềm hoan hỷ sâu sắc, nhờ niềm hoan hỷ ấy không rời bỏ, hoàng hậu và bảy trăm nữ tỳ tùy tùng đều chứng đạt quả vị Nhập Lưu (Sotāpanna). Tiếng hót của loài chim karavika ngọt ngào, kỳ diệu đến như thế. Nhưng giọng nói của Đức Như Lai còn ngọt ngào, trong trẻo, vi diệu hơn cả trăm lần, ngàn lần như vậy. Tuy nhiên, vì ở thế gian này không tìm được bất kỳ âm thanh nào ngọt ngào hơn âm thanh của chim karavika, nên Đức Thế Tôn được gọi là “Karavikabhāṇī” — “Người có giọng nói ngọt ngào như chim karavika.”

abhinīlanettoti na sakalanīlanettova, nīlayuttaṭṭhāne panassa umāpupphasadisena ativisuddhena nīlavaṇṇena samannāgatāni akkhīni honti. pītayuttaṭṭhāne kaṇikārapupphasadisena pītavaṇṇena, lohitayuttaṭṭhāne bandhujīvakapupphasadisena lohitavaṇṇena, setayuttaṭṭhāne osadhitārakasadisena setavaṇṇena, kāḷayuttaṭṭhāne addāriṭṭhakasadisena kāḷavaṇṇena samannāgatāni suvaṇṇavimāne ugghāṭitamaṇisīhapañjarasadisāni khāyanti.

Abhinīlanetto (có hai mắt màu xanh đậm): đôi mắt của ngài không hoàn toàn có màu xanh đậm. Nhưng đôi mắt của ngài phối hợp với màu xanh đậm ở nơi cần xanh, (và) vô cùng trong sáng tựa như màu hoa của cây bông vải. với màu vàng tựa như màu hoa của cây hoa kaṇikāra ở vị trí nên màu vàng, với màu đỏ tựa như màu hoa Bandhujīvaka ở vị trí nên đỏ, với màu trắng tựa như ngôi sao osadhī (ngôi sao sáng nhất trong các vì sao), phối hợp với màu đen tựa như màu trái addāriṭṭhaka ở vị trí nên đen, hiện ra tựa như khung cửa sổ có họa tiết hình con sư tử bằng ngọc được treo ở Thiên cung bằng vàng.

gopakhumoti ettha pakhumanti sakalaṃ cakkhubhaṇḍaṃ adhippetaṃ. taṃ kāḷavacchakassa bahaladhātukaṃ hoti, rattavacchakassa vippasannaṃ, taṃmuhuttajātarattavacchasadisacakkhubhaṇḍoti attho. aññesañhi akkhibhaṇḍā aparipuṇṇā honti, hatthimūsikakākādīnaṃ akkhisadisehi viniggatehi gambhīrehipi akkhīhi samannāgatā honti. tathāgatassa pana dhovitvā majjitvā ṭhapitamaṇiguḷikā viya mudu-siniddhanīla-sukhuma-pakhumācitāni akkhīni.

Từ “pakhuma” ở đây muốn nói đến toàn bộ cấu trúc đôi mắt (cả mi mắt và lông mi). Đôi mắt của Đức Như Lai đẹp trong trẻo, tinh khiết, dịu dàng, hoàn hảo như mắt của một chú bê non vừa mới được sinh ra. Thật vậy, mắt của những chú bê mới sinh có đặc tính hoàn toàn trong sáng, tinh khiết, dịu dàng và đầy đặn. Còn người bình thường thì đôi mắt thường thiếu cân đối, hoặc là quá sâu hoặc quá lồi, có khi trông giống như mắt của loài voi, loài chuột hay loài quạ. Nhưng đôi mắt của Đức Như Lai thì đầy đặn, cân đối, sáng trong và tinh khiết, được điểm tô bởi hàng lông mi mềm mại, mịn màng, tinh tế, đen huyền đẹp đẽ, tựa như hai viên ngọc mani quý giá đã được rửa sạch sẽ, đánh bóng kỹ càng.

uṇṇāti uṇṇalomaṃ. bhamukantareti dvinnaṃ bhamukānaṃ vemajjhe nāsikamatthakeyeva jātā. uggantvā pana nalāṭamajjhajātā. odātāti parisuddhā osadhitārakavaṇṇā. mudūti sappimaṇḍe osādetvā ṭhapitasatavāravihatakappāsapaṭalasadisā. tūlasannibhāti simbalitūlalatātūlasamānā, ayamassā odātatāya upamā. sā panesā koṭiyaṃ gahetvā ākaḍḍhiyamānā upaḍḍhabāhuppamāṇā hoti, vissaṭṭhā dakkhiṇāvaṭṭavasena āvaṭṭitvā uddhaggā hutvā santiṭṭhati, suvaṇṇaphalakamajjhe ṭhapitarajatapupphuḷakā viya suvaṇṇaghaṭato nikkhamamānā khīradhārā viya aruṇappabhārañjite gamanatale osadhitārakā viya ca atimanoharāya siriyā virocati.

Uṇṇā (có sợi lông trắng giữa hai lông mày): “Uṇṇā” nghĩa là sợi lông trắng nằm giữa hai lông mày. Sợi lông này mọc lên ngay giữa hai chân mày, ở phía trên mũi, tại chính giữa trán. Sợi lông này có đặc tính:
Odātā“: màu trắng trong tinh khiết như ánh sáng ngôi sao Osadhī.
“Mudu”: rất mềm mại, mịn màng như một sợi bông đã được nhào nặn hàng trăm lần và nhúng vào bơ tinh khiết.
“Tūlasannibhā”: mềm mại, nhẹ nhàng tựa như bông gòn hay bông latā trắng muốt.
Khi sợi lông này được kéo giãn ra hết cỡ thì có độ dài đến khoảng nửa cánh tay. Khi buông ra, sợi lông này lập tức cuộn tròn lại theo chiều kim đồng hồ và phần đầu hướng lên trên, tươi sáng, rực rỡ, đẹp tuyệt vời, như một ngôi sao bạc quý giá được đặt ngay giữa một chiếc đĩa vàng, hoặc như dòng sữa trắng ngần chảy ra từ chiếc bình vàng, hay như ánh sáng dịu dàng của ngôi sao Osadhī chiếu rọi giữa bầu trời lúc bình minh
.

uṇhīsasīsoti idaṃ paripuṇṇanalāṭatañceva paripuṇṇasīsatañcāti dve atthavase paṭicca vuttaṃ. tathāgatassa hi dakkhiṇakaṇṇacūḷikato paṭṭhāya maṃsapaṭalaṃ uṭṭhahitvā sakalaṃ nalāṭaṃ chādayamānaṃ pūrayamānaṃ gantvā vāmakaṇṇacūḷikāya patiṭṭhitaṃ, rañño baddhauṇhīsapaṭṭo viya virocati. pacchimabhavikabodhisattānaṃ kira imaṃ lakkhaṇaṃ viditvā rājūnaṃ uṇhīsapaṭṭaṃ akaṃsu, ayaṃ tāva eko attho. aññe pana janā aparipuṇṇasīsā honti, keci kappasīsā, keci phalasīsā, keci aṭṭhisīsā, keci tumbasīsā, keci pabbhārasīsā. tathāgatassa pana āraggena vaṭṭetvā ṭhapitaṃ viya suparipuṇṇaṃ udakapupphuḷasadisaṃ sīsaṃ hoti. tattha purimanayena uṇhīsaveṭhitasīso viyāti uṇhīsasīso. dutiyanayena uṇhīsaṃ viya sabbattha parimaṇḍalasīsoti uṇhīsasīso.

Uṇhīsasīso (có cái đầu tròn được quấn xung quanh tợ như được trang điểm bởi lớp vải lụa bao quanh đầu): “Uṇhīsasīso” nói lên hai ý nghĩa đặc biệt: có vầng trán tròn đầy hoàn hảo và có đầu tròn đầy viên mãn.
Về ý nghĩa thứ nhất: Đức Như Lai có lớp thịt đầy đặn, tròn đều bao phủ khắp vầng trán, kéo dài từ chân tóc bên tai phải qua hết vầng trán sang chân tóc bên tai trái, tạo thành một vòng cung hoàn hảo, đẹp như chiếc khăn vấn đầu quý giá mà các vị vua thường đội để điểm trang. Tương truyền rằng, các hiền nhân xưa kia biết được đặc điểm tuyệt vời này của Đức Bồ-tát trong kiếp cuối cùng, nên mới sáng tạo ra kiểu khăn vấn đầu đặc biệt để các vị vua đội lên đầu, mô phỏng theo vẻ đẹp trên đầu của Đức Như Lai.
Về ý nghĩa thứ hai: thông thường, đầu của người bình thường không đầy đặn, cân đối, mà có các hình dạng như đầu khỉ, đầu quả cây, đầu như khúc xương, đầu như trái bầu, đầu như dốc núi nhô ra hoặc lõm vào. Còn đầu của Đức Như Lai thì hoàn toàn đầy đặn, đẹp đẽ, cân đối và tròn đều hoàn hảo như một bong bóng nước tinh khiết, tựa như được tiện tròn một cách tinh xảo bằng mũi dao sắc bén. Chính vì vậy, Đức Như Lai được gọi là người có đầu tròn đầy hoàn hảo như thể được quấn khăn (Uṇhīsasīso).

imāni pana mahāpurisalakkhaṇāni kammaṃ kammasarikkhakaṃ lakkhaṇaṃ lakkhaṇānisaṃsanti ime cattāro koṭṭhāse ekekasmiṃ lakkhaṇe dassetvā kathitāni sukathitāni honti. tasmā bhagavatā lakkhaṇasutte (dī. ni. 3.200-202) vuttāni imāni kammādīni dassetvā kathetabbāni. suttavasena vinicchituṃ asakkontena sumaṅgalavilāsiniyā dīghanikāyaṭṭhakathāya tasseva suttassa vaṇṇanāya vuttanayena gahetabbāni.

Các Đại nhân tướng được trình bày rõ ràng qua bốn phương diện: nghiệp quá khứ, quả tương xứng với nghiệp, đặc điểm của tướng, và lợi ích (ân đức) của từng tướng. Cả bốn phương diện này đều đã được Đức Thế Tôn trình bày một cách đầy đủ, chi tiết, rõ ràng trong bài kinh “Lakkhaṇa Sutta” (Kinh Tướng) thuộc Trường Bộ Kinh (Dīgha Nikāya). Vì vậy, khi muốn hiểu rõ các đại nhân tướng này một cách đầy đủ mà không thể tự lý giải trực tiếp từ kinh văn gốc, người học nên tham khảo thêm Chú giải “Sumaṅgalavilāsinī” (Chú giải Trường Bộ Kinh), để nắm được cặn kẽ những lời giải thích chính xác, rõ ràng, chi tiết theo truyền thống Chú giải.

imehi kho, bho, so bhavaṃ gotamoti, bho ācariya, imehi dvattiṃsamahāpurisalakkhaṇehi so bhavaṃ gotamo samannāgato devanagare samussitaratanavicittaṃ suvaṇṇatoraṇaṃ viya yojanasatubbedho sabbapāliphullo pāricchattako viya selantaramhi supupphitasālarukkho viya tārāgaṇapaṭimaṇḍitagaganatalamiva ca attano sirivibhavena lokaṃ ālokaṃ kurumāno viya caratīti imatthampi dīpetvā kiriyācāraṃ ācikkhituṃ gacchanto kho panātiādimāha.

imehi kho, bho, so bhavaṃ gotamo (Kinh thưa thầy, ngài Gotama ấy hội đủ…này): Thanh niên Uttara đã nói rằng: ‘Khi Tôn giả Gotama bước đi’ để trình bày ý nghĩa này, nói đến hành động và phẩm hạnh như sau: Thưa thầy, ngài Gotama ấy hội tụ đầy đủ với ba mươi hai Đại nhân tướng này, đi du hành như thể một cột trụ bằng vàng được trang hoàng với những viên ngọc quý được mọi người dựng lên ở trong thành phố chư Thiên, tựa như cây pāricchattaka có hoa nở rộ toàn thân cao đến một trăm do-tuần, tựa như cây sāla có hoa nở rộ ở giữa núi, tựa như bầu trời được tô điểm bởi những vì tinh tú, giống như làm cho thế gian trở nên chói sáng bởi sự thịnh vượng và sự vinh quang của chính ngài.

387. dakkhiṇenāti buddhānañhi ṭhatvā vā nisīditvā vā nipajjitvā vā gamanaṃ abhinīharantānaṃ dakkhiṇapādova purato hoti. satatapāṭihāriyaṃ kiretaṃ. nātidūre pādaṃ uddharatīti taṃ dakkhiṇapādaṃ na atidūre ṭhapessāmīti uddharati. atidūrañhi abhihariyamāne dakkhiṇapādena vāmapādo ākaḍḍhiyamāno gaccheyya, dakkhiṇapādopi dūraṃ gantuṃ na sakkuṇeyya, āsanneyeva patiṭṭhaheyya, evaṃ sati padavicchedo nāma hoti. dakkhiṇapāde pana pamāṇeneva uddhate vāmapādopi pamāṇeneva uddhariyati, pamāṇena uddhato patiṭṭhahantopi pamāṇeyeva patiṭṭhāti. evamanena tathāgatassa dakkhiṇapādakiccaṃ vāmapādena niyamitaṃ, vāmapādakiccaṃ dakkhiṇapādena niyamitanti veditabbaṃ.

387. Dakkhiṇena (bên phải): khi chư Phật đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, khi bước đi thì luôn bước chân phải trước. Được biết rằng đây là pāṭihāriya (điều kỳ diệu) với bảy phần. nātidūre pādaṃ uddharati (không nhấc bước chân lên quá cao): nhấc bàn chân phải ấy nghĩ rằng: sẽ không đặt xuống quá xa, tức là bước chân phải không quá xa (vì) chân trái sẽ bị kéo theo, thậm chí chân phải cũng không thể đi xa được, chỉ có thể đặt ở gần nhau, nếu như vậy được gọi là sự gián đoạn bước đi. Khi bước đi vừa đủ thì khi đặt xuống cũng đặt xuống vừa đủ tương tự. Với việc bước đi như vậy, nhiệm vụ của bàn chân phải của đấng Như Lai được kiểm soát bởi bàn chân trái, nhiệm vụ của bàn chân trái cũng được kiểm soát bởi bàn chân phải, bậc trí nên biết như vậy.

nātisīghanti divā vihārabhattatthāya gacchanto bhikkhu viya na atisīghaṃ gacchati. nātisaṇikanti yathā pacchato āgacchanto okāsaṃ na labhati, evaṃ na atisaṇikaṃ gacchati. adduvena adduvanti jaṇṇukena jaṇṇukaṃ, na satthiṃ unnāmetīti gambhīre udake gacchanto viya na ūruṃ unnāmeti. na onāmetīti rukkhasākhāchedanadaṇḍaṅkusapādo viya na pacchato osakkāpeti. na sannāmetīti obaddhānābaddhaṭṭhānehi pādaṃ koṭṭento viya na thaddhaṃ karoti. na vināmetīti yantarūpakaṃ kīḷāpento viya na ito cito ca cāleti. adharakāyovāti heṭṭhimakāyova iñjati, uparimakāyo nāvāya ṭhapitasuvaṇṇapaṭimā viya niccalo hoti. dūre ṭhatvā olokento hi buddhānaṃ ṭhitabhāvaṃ vā gamanabhāvaṃ vā na jānāti. kāyabalenāti bāhā khipanto sarīrato sedehi muccantehi na kāyabalena gacchati. sabbakāyenevāti gīvaṃ aparivattetvā rāhulovāde vuttanāgāpalokitavaseneva apaloketi.

Nātisīghaṃ (không bước quá nhanh): Không bước quá nhanh giống như một vị Tỳ khưu đang đi nhận thức ăn trong tịnh xá vào lúc thời gian đến gần3. Nātisaṇikaṃ (Không bước quá chậm): Ngài cũng không đi quá chậm đến mức người đi phía sau không thể có chỗ bước tới hay phải dừng lại chờ đợi. adduvena adduvaṃ (mắt cá chân…với mắt cá chân): mắt cá chân không va chạm với mắt cá chân, đầu gối không va chạm với đầu gối. na satthiṃ unnāmeti (không co bắp vế lên): không nâng bắp vế lên cao giống như đi trong dòng nước sâu. na onāmeti (không duỗi bắp vế xuống): không duỗi bắp vế về phía trước, cũng giống như duỗi chân về phía sau của người chặt cây. na sannāmeti (Không bước chân một cách cứng nhắc): Ngài không bước chân một cách cứng nhắc, gượng ép, như người phải đi vào những nơi chật hẹp, bị bó buộc. na vināmeti (không lắc lư): Ngài không lắc lư thân thể, không nghiêng bên này bên kia như hình nộm máy móc, không dao động hay rung lắc khi bước đi.. Adharakāyovā4 (phần thân trên): chỉ có phần thân dưới hông di chuyển, phần thân trên không chuyển động giống như pho tượng bằng vàng được đặt ở trên thuyền. Khi con người đứng quan sát ở một nơi xa sẽ không biết được chư Phật đang đứng hoặc đang đi. Kāyabalena (với sức mạnh của thân): Ngài bước đi nhẹ nhàng, uyển chuyển, không phải dùng sức lực mạnh từ cơ thể, không phải vung mạnh hai tay hoặc làm thân thể toát mồ hôi khi di chuyển. Sabbakāyenevā (hoặc với toàn thân): Khi nhìn sang bên hay nhìn ra sau, Ngài không xoay cổ một cách thô tháo. Thay vào đó, Đức Như Lai xoay chuyển toàn thân một cách nhẹ nhàng, uy nghiêm, thanh thoát, giống như cách nhìn của con voi chúa (Long Tượng) được Đức Phật giảng trong bài kinh giáo giới Rahula (Rāhulovāda Sutta).

na uddhantiādīsu nakkhattāni gaṇento viya na uddhaṃ ulloketi, naṭṭhaṃ kākaṇikaṃ vā māsakaṃ vā pariyesanto viya na adho oloketi, na hatthiassādayo passanto viya ito cito ca vipekkhamāno gacchati. yugamattanti navavidatthimatte cakkhūni ṭhapetvā gacchanto yugamattaṃ pekkhati nāma, bhagavāpi yuge yutto sudantāajānīyo viya ettakaṃ passanto gacchati. tato cassa uttarīti yugamattato paraṃ na passatīti na vattabbo. na hi kuṭṭaṃ vā kavāṭaṃ vā gaccho vā latā vā āvarituṃ sakkoti, atha khvassa anāvaraṇañāṇassa anekāni cakkavāḷasahassāni ekaṅgaṇāneva honti.

Na uddhaṃ (không…ở trên): không ngửa nhìn lên trên như đang đếm các chòm sao, không cúi xuống thấp như đang tìm kiếm đồng tiền kākaṇi hoặc đồng tiền māsaka bị mất, không ngó chỗ này chỗ nọ giống như nhìn voi và ngựa v.v. Yugamattaṃ (bề dài một cái cày): khi bước đi đặt tầm nhìn khoảng 9 gang tay được gọi là đặt tầm nhìn khoảng một cái cày. Dù đức Thế Tôn bước đi đặt tầm nhìn có sự ước chừng chừng ấy tựa như loài vật thuần chủng đã khéo huấn luyện được lồng cái ách vào. Tato cassa uttari (xa hơn): Tuy nhiên, không nên hiểu nhầm rằng Đức Như Lai chỉ có thể nhìn thấy trong khoảng cách một cái ách mà thôi, không thể nhìn xa hơn. Thật ra không phải vậy. Bởi vì đối với trí tuệ vô ngại của Đức Như Lai, không có bất kỳ vật chướng ngại nào—như bức tường, cánh cửa, cây cối hay các loại dây leo—có thể che chắn hoặc ngăn trở tầm nhìn được. Thậm chí, hàng ngàn thế giới (cakkavāḷa) bao la vô tận, đối với trí tuệ vô ngại của Ngài, cũng rõ ràng sáng tỏ dễ dàng như thể đang quan sát trong lòng bàn tay mở rộng vậy.

antaragharanti heṭṭhā mahāsakuludāyisutte indakhīlato paṭṭhāya antaragharaṃ, idha gharaummārato paṭṭhāya veditabbaṃ. na kāyantiādi pakatīriyapatheneva pavisatīti dassanatthaṃ vuttaṃ. daliddamanussānaṃ nīcagharakaṃ pavisantepi hi tathāgate chadanaṃ vā uggacchati, pathavī vā ogacchati, bhagavā pana pakatigamaneneva gacchati. nātidūreti atidūre parivattantena hi ekaṃ dve padavāre piṭṭhibhāgena gantvā nisīditabbaṃ hoti. nāccāsanneti accāsanne parivattantena ekaṃ dve padavāre purato gantvā nisīditabbaṃ hoti. tasmā yasmiṃ padavāre ṭhitena purato vā pacchato vā agantvā nisīditabbaṃ hoti, tattha parivattati.

Antaragharaṃ (khi đi vào trong nhà): nên biết bắt đầu từ cột trụ đá gọi là trong làng, ở phần sau của bài kinh Mahāsakuludāyi, còn ở đây nên biết từ ngưỡng cửa gọi là trong nhà. na kāyaṃ (không chấp lấy thân) v.v, ngài nói để trình bày rằng: đi vào bằng chính những oai nghi bình thường. Khi đấng Như Lai đi vào nhà nhỏ của những người nghèo thì mái nhà bỗng cao lên, mặt đất sẽ hạ xuống. Hơn nữa, đức Thế Tôn bước đi với chính sự đi thông thường. Nātidūre (không quá xa): ở chỗ quá xa ngài sẽ quay người lại phía sau bước một bước hoặc hai bước rồi mới từ từ ngồi xuống. Ở chỗ quá gần ngài cũng bước về phía trước một hoặc hai bước rồi mới từ từ ngồi xuống. Bởi thế, khi đứng ở bước chân nào ngài đều tiến về phía trước hoặc lui về phía sau mới ngồi xuống, rồi thay đổi bước chân ấy.

pāṇināti kaṭivātābādhiko viya na āsanaṃ hatthehi gahetvā nisīdati. pakkhipatīti yo kiñci kammaṃ katvā kīḷanto ṭhitakova patati, yopi orimaṃ aṅgaṃ nissāya nisinno ghaṃsanto yāva pārimaṅgā gacchati, pārimaṅgaṃ vā nissāya nisinno tatheva yāva orimaṅgā āgacchati, sabbo so āsane kāyaṃ pakkhipati nāma. bhagavā pana evaṃ akatvā āsanassa majjhe olambakaṃ dhārento viya tūlapicuṃ ṭhapento viya saṇikaṃ nisīdati. hatthakukkuccanti pattamukhavaṭṭiyaṃ udakabinduṭhapanaṃ makkhikabījaniyā paṇṇacchedanaphālanādi hatthena asaṃyatakaraṇaṃ. pādakukkuccanti pādena bhūmighaṃsanādi asaṃyatakaraṇaṃ.

Pāṇinā (cánh tay): không sử dụng tay nắm lấy tọa cụ ngồi giống như người bệnh động kinh. Pakkhipati (dựa vào): hạng người nào làm bất kỳ công việc gì cảm thấy mệt mỏi đến nỗi ngã xuống cả khi đứng, dầu cho người ấy ngồi dựa vào chi trước, ngả người cho đến chi sau, hoặc ngồi dựa chi sau sau rồi cúi người như thế cho đến chi trước thì toàn bộ đó gọi là dựa thân vào các chi. Còn đức Thế Tôn không làm như thế, ngài ngồi như đang bảo vệ đồ vật được treo ở chính giữa tọa cụ, như thể đặt sợi vải bông mềm mại xuống. Hatthakukkuccaṃ (không rung tay): (dùng tay để lau chùi những giọt nước ở thành bình bát, là việc thực hành không thu thúc, (dùng tay) quạt những con côn trùng, dùng tay phủi lỗ tai v.v. Pādakukkuccaṃ (không rung chân): việc không thu thúc bàn chân chẳng hạn dùng chân lau sàn nhà v.v.

na chambhatīti na bhāyati. na kampatīti na osīdati. na vedhatīti na calati. na paritassatīti bhayaparitassanāyapi taṇhāparitassanāyapi na paritassati. ekacco hi dhammakathādīnaṃ atthāya āgantvā manussesu vanditvā ṭhitesu “sakkhissāmi nu kho tesaṃ cittaṃ gaṇhanto dhammaṃ vā kathetuṃ, pañhaṃ vā pucchito vissajjetuṃ, bhattānumodanaṃ vā kātun”ti bhayaparitassanāya paritassati. ekacco “manāpā nu kho me yāgu āgacchissati, manāpaṃ antarakhajjakan”ti vā taṇhāparitassanāya paritassati. tadubhayampi tassa natthīti na paritassati. vivekāvaṭṭoti viveke nibbāne āvaṭṭamānaso hutvā. vivekavattotipi pāṭho, vivekavattayutto hutvāti attho. vivekavattaṃ nāma katabhattakiccassa bhikkhuno divāvihāre samathavipassanāvasena mūlakammaṭṭhānaṃ gahetvā pallaṅkaṃ ābhujitvā nisīdanaṃ. evaṃ nisinnassa hi iriyāpatho upasanto hoti.

Na chambhati: không sợ hãi. Na kampati: không run rẩy. Na vedhati: không dao động. Na paritassati: không hoảng hốt, chính bởi sự hoảng hốt do sợ hãi, chính sự hoảng hốt do tham ái, là một số vị Tỳ khưu hoảng hốt bởi sự hoảng hốt do sự sợ hãi rằng: khi nhóm người đến vì lợi ích của Pháp thoại v.v, sau khi đảnh lễ rồi đứng “Phải chăng ta sẽ có thể lấy lòng của những người ấy rồi thuyết Pháp? hoặc khi bị hỏi mới trả lời vấn đề? hoặc sẽ có thể thể hiện sự tùy hỷ?” Một số vị Tỳ khưu nghĩ rằng: “Phải chăng món cháo đáng vừa lòng sẽ (cúng dường) đến ta? hoặc vật thực mềm vừa lòng sẽ (cúng dường) đến ta” hoặc sự hoảng hốt bởi sự hoảng hốt do tham ái. Cả hai sự hoảng hốt ấy không có nơi ngài Gotama. Vì thế ngài Gotama không hoảng hốt. Vivekavatto (luân chuyển trong sự viễn ly):nghĩa là người có tâm luôn hướng về sự viễn ly (viveka), tức là Niết-bàn (nibbāna). Cũng có cách đọc khác là vivekavatto, nghĩa là người thực hành hạnh viễn ly. Vivekavatta là hạnh độc cư của vị tỳ-kheo sau khi thọ thực xong, vào thời gian nghỉ ban ngày (divāvihāra), vị ấy ngồi kiết già, an trú tâm vào đề mục thiền căn bản (mūlakammaṭṭhāna) để thực hành thiền chỉ (samatha) và thiền quán (vipassanā). Khi ngồi như vậy, thân tâm của vị ấy trở nên an tịnh.”

na pattaṃ unnāmetītiādīsu ekacco pattamukhavaṭṭiyā udakadānaṃ āharanto viya pattaṃ unnāmeti, eko pādapiṭṭhiyaṃ ṭhapento viya onāmeti, eko baddhaṃ katvā gaṇhāti, eko ito cito ca phandāpeti, evaṃ akatvā ubhohi hatthehi gahetvā īsakaṃ nāmetvā udakaṃ paṭiggaṇhātīti attho. na samparivattakanti parivattetvā paṭhamameva pattapiṭṭhiṃ na dhovati. nātidūreti yathā nisinnāsanato dūre patati, na evaṃ chaḍḍeti. nāccāsanneti pādamūleyeva na chaḍḍeti. vicchaḍḍayamānoti vikiranto, yathā paṭiggāhako temati, na evaṃ chaḍḍeti.

Na pattaṃ unnāmeti (không đưa bình bát lên) v.v, Có một số vị tỳ kheo khi nhận nước thì nâng bình bát lên cao giống như đưa miệng bát ra để hứng nước; có vị thì hạ bình bát xuống thấp như thể đặt lên mu bàn chân; có vị thì cầm bình bát ghì sát vào người; có vị thì cầm bình bát lắc qua lắc lại. Ý ở đây là không làm những điều như vậy, mà phải dùng cả hai tay nâng bình bát, hơi nghiêng nhẹ xuống để nhận nước. Na samparivattakaṃ: Không xoay tròn bình bát, không rửa mặt sau bình bát trước. Nātidūre (không quá xa): không đổ nước rửa bát rớt xuống quá xa từ tọa cụ để ngồi như vậy. Không quá gần: không đổ bỏ (nước rửa bát) ở cả nơi quá gần. Vicchaḍḍayamāno (không vẩy nước cùng khắp): nghĩa là làm văng tung tóe, tức là không được đổ nước một cách bừa bãi khiến cho người đứng nhận nước bị ướt.

nātithokanti yathā ekacco pāpiccho appicchataṃ dassento muṭṭhimattameva gaṇhāti, na evaṃ. atibahunti yāpanamattato atirekaṃ. byañjanamattāyāti byañjanassa mattā nāma odanato catuttho bhāgo. ekacco hi bhatte manāpe bhattaṃ bahuṃ gaṇhāti, byañjane manāpe byañjanaṃ bahuṃ. satthā pana tathā na gaṇhāti. na ca byañjanenāti amanāpañhi byañjanaṃ ṭhapetvā bhattameva bhuñjanto, bhattaṃ vā ṭhapetvā byañjanameva khādanto byañjanena ālopaṃ atināmeti nāma. satthā ekantarikaṃ byañjanaṃ gaṇhāti, bhattampi byañjanampi ekatova niṭṭhanti. dvattikkhattunti tathāgatassa hi puthujivhāya dantānaṃ upanītabhojanaṃ dvattikkhattuṃ dantehi phuṭṭhamattameva saṇhakaraṇīyapiṭṭhavilepanaṃ viya hoti, tasmā evamāha. na mukhe avasiṭṭhāti pokkharapatte patitaudakabindu viya vinivattitvā paragalameva yāti, tasmā avasiṭṭhā na hoti. rasapaṭisaṃvedīti madhuratittakadukādirasaṃ jānāti. buddhānañhi antamaso pānīyepi dibbojā pakkhittāva hoti, tena nesaṃ sabbattheva raso pākaṭo hoti, rasagedho pana natthi.

Nātithokaṃ (không quá ít): Nghĩa là không lấy thức ăn quá ít giống như một số người có tâm xấu nhưng lại giả vờ làm người ít muốn (thiểu dục), chỉ lấy một lượng nhỏ cỡ một nắm tay để tạo ấn tượng tốt. Đức Thế Tôn không làm như vậy. Atibahuṃ (không quá nhiều): (không) nhận quá nhiều (vừa đủ) để nuôi dưỡng bản thân. Byañjanamattāyā [ăn đồ ăn vừa phải (với cơm)]: Mức độ vừa đủ về thức ăn (byañjana) là khoảng một phần tư lượng cơm. Có một số người khi gặp cơm ngon thì lấy thật nhiều cơm, khi gặp món ăn ngon thì lấy thật nhiều món ăn. Đức Thế Tôn thì không lấy thức ăn theo cách như thế. na ca byañjanena: Nghĩa là không ăn cơm mà bỏ món ăn (byañjana) vì không ngon, hay không ăn món ăn mà bỏ cơm, tức không ăn theo kiểu lựa chọn miếng ngon mà bỏ qua miếng khác. Đức Thế Tôn dùng món ăn và cơm xen kẽ nhau, và kết thúc bữa ăn với cả hai món cơm và thức ăn cùng lúc. Dvattikkhattuṃ (hai ba lần): vật thực ở tướng lưỡi lớn của đấng Như Lai được đưa vào, giống như phết với bột đã được làm mềm mịn đủ để hàm răng nhai nghiền 2-3 lần. Vì thế ngài đã nói như vậy. Na mukhe avasiṭṭhā (không có … còn lại ở cổ): Khi nuốt thức ăn vào, thức ăn trôi xuống cổ họng dễ dàng, không lưu lại trong miệng, giống như giọt nước rơi xuống lá sen rồi lập tức trôi tuột đi, vì vậy không còn sót lại thức ăn trong miệng. Rasapaṭisaṃvedi (có sự nhận biết về mùi vị): Có nghĩa là Ngài nhận biết rõ các vị ngọt, đắng, cay… Đối với chư Phật, ngay cả nước uống thông thường cũng như đã được thêm vào những vị ngon tuyệt diệu của cõi trời. Vì thế chư Phật luôn cảm nhận rõ ràng mùi vị trong tất cả các món ăn, nhưng các ngài hoàn toàn không có lòng tham đắm vào các mùi vị đó.

aṭṭhaṅgasamannāgatanti “neva davāyā”ti vuttehi aṭṭhahi aṅgehi samannāgataṃ. visuddhimagge panassa vinicchayo āgatoti sabbāsavasutte vuttametaṃ. hatthesu dhotesūti satthā kiṃ karoti? paṭhamaṃ pattassa gahaṇaṭṭhānaṃ dhovati. tattha pattaṃ gahetvā sukhumajālahatthaṃ pesetvā dve vāre sañcāreti. ettāvatā pokkharapatte patitaudakaṃ viya vinivattitvā gacchati. na ca anatthikoti yathā ekacco pattaṃ ādhārake ṭhapetvā patte udakaṃ na puñchati, raje patante ajjhupekkhati, na evaṃ karoti. na ca ativelānurakkhīti yathā ekacco pamāṇātikkantaṃ ārakkhaṃ ṭhapeti, bhuñjitvā vā patte udakaṃ puñchitvā cīvarabhogantaraṃ pavesetvā pattaṃ udarena akkamitvā gaṇhāti, na evaṃ karoti.

Aṭṭhaṅgasamannāgataṃ (có đầy đủ tám đức tánh): nghĩa là hội đủ tám yếu tố đã được nói đến trong câu kinh “neva davāya” (“không thọ dụng vì vui chơi” v.v.). Sự giải thích về điều này có trong bộ Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga), và điều này cũng được đề cập trong kinh Sabbāsava (Tất Cả Lậu Hoặc). Hatthesu dhotesu (khi rửa tay): Đức Thế Tôn làm như thế nào? Trước tiên, Ngài rửa sạch phần tay cầm của bình bát. Ngài cầm bình bát ở vị trí đó, đưa bàn tay mềm mại qua lại hai lần. Chỉ bằng cách làm như vậy, nước và thức ăn còn sót lại đều trôi đi hết, giống như giọt nước rơi khỏi lá sen vậy. Na ca anatthiko (không phải không nghĩ đến bình bát): Có những vị tỳ khưu sau khi đặt bình bát lên đế thì không lau nước đọng lại trên bình, cứ bỏ mặc để bụi bẩn rơi vào cũng không quan tâm. Đức Thế Tôn không làm như vậy. Na ca ativelānurakkhī (cũng không quá lo cho bình bát): Có một số vị tỳ khưu lại quá lo lắng giữ gìn bình bát, sau khi dùng xong lau thật kỹ rồi đem nhét vào bên trong y, ôm sát bình bát vào bụng mà đi. Đức Thế Tôn cũng không làm như vậy.

na ca anumodanassāti yo hi bhuttamattova dārakesu bhattatthāya rodantesu chātajjhattesu manussesu bhuñjitvā anāgatesveva anumodanaṃ ārabhati, tato sabbakammāni chaḍḍetvā ekacce āgacchanti, ekacce anāgatāva honti, ayaṃ kālaṃ atināmeti. yopi manussesu āgantvā anumodanatthāya vanditvā nisinnesu anumodanaṃ akatvāva “kathaṃ tissa, kathaṃ phussa, kathaṃ sumana, kathaṃ tisse, kathaṃ phusse, kathaṃ sumane, kaccittha arogā, sassaṃ sampannan”tiādiṃ pāṭiyekkaṃ kathaṃ samuṭṭhāpeti, ayaṃ anumodanassa kālaṃ atināmeti, manussānaṃ pana okāsaṃ ñatvā āyācitakāle karonto nātināmeti nāma, satthā tathā karoti.

Na ca anumodanassa (không trì hoãn quá mức trong việc nói lời tùy hỷ): Có vị tỳ khưu sau khi thọ thực xong, mặc dù nhiều trẻ nhỏ khóc lóc vì đói, nhiều người đang chờ ăn chưa đến, nhưng vị ấy vẫn bắt đầu ngay lời tùy hỷ. Vì vậy, có người phải bỏ dở công việc để chạy đến nghe, có người lại đến không kịp. Làm như thế gọi là làm quá thời gian nói lời tùy hỷ.
Lại có những vị khác, khi mọi người đã đến đông đủ, đảnh lễ ngồi xuống để nghe lời tùy hỷ, thì lại không nói lời tùy hỷ ngay, mà nói những chuyện riêng lẻ như: “Tissa khỏe không? Phussa khỏe không? Sumana ra sao? Tissa thế nào, Phussa thế nào? Mọi người có mạnh khỏe không? Mùa màng tốt đẹp chứ?” v.v… Làm như vậy cũng gọi là kéo dài quá mức thời gian nói lời tùy hỷ.
Còn đối với người biết rõ thời gian, chờ đợi mọi người đã tập trung đầy đủ, khi họ đã sẵn sàng và thỉnh cầu, lúc ấy mới nói lời tùy hỷ thì không gọi là kéo dài thời gian. Đức Thế Tôn làm như vậy.

na taṃ bhattanti kiṃ bhattaṃ nāmetaṃ uttaṇḍulaṃ atikilinnantiādīni vatvā na garahati. na aññaṃ bhattanti svātanāya vā punadivasāya vā bhattaṃ uppādessāmīti hi anumodanaṃ karonto aññaṃ bhattaṃ paṭikaṅkhati. yo vā — “yāva mātugāmānaṃ bhattaṃ paccati, tāva anumodanaṃ karissāmi, atha me anumodanāvasāne attano pakkabhattatopi thokaṃ dassantī”ti anumodanaṃ vaḍḍheti, ayampi paṭikaṅkhati nāma. satthā na evaṃ karoti. na ca muccitukāmoti ekacco hi paṭisaṃmuñcitvā gacchati, vegena anubandhitabbo hoti. satthā pana na evaṃ gacchati, parisāya majjhe ṭhitova gacchati. accukkaṭṭhanti yo hi yāva hanukaṭṭhito ukkhipitvā pārupati, tassa accukkaṭṭhaṃ nāma hoti. yo yāva gopphakā otāretvāva pārupati, tassa accukkaṭṭhaṃ hoti. yopi ubhato ukkhipitvā udaraṃ vivaritvā yāti, tassapi accukkaṭṭhaṃ hoti. yo ekaṃsaṃ katvā thanaṃ vivaritvā yāti, tassapi accukkaṭṭhaṃ. satthā taṃ sabbaṃ na karoti.

na taṃ bhattaṃ (không chỉ trích bữa ăn): không nói lời chỉ trích thức ăn rằng: gạo gì đây? thật khó nhai, nấu cơm còn sống. Na aññaṃ bhattaṃ (không mong bữa ăn khác): Có vị tỳ khưu khi nói lời tùy hỷ, có ý nghĩ rằng: “Ta nói lời tùy hỷ để ngày mai hay ngày kia họ lại dâng cho ta bữa ăn nữa.” Hoặc có vị nghĩ rằng: “Ta sẽ kéo dài lời tùy hỷ cho đến khi các bà nội trợ nấu cơm xong, rồi sau khi ta kết thúc lời tùy hỷ, họ sẽ cho ta thêm ít cơm mới nấu.” Những người làm như vậy gọi là mong cầu bữa ăn khác. Đức Thế Tôn không làm như thế. Na ca muccitukāmo (không muốn vội vàng rời khỏi hội chúng): Một số vị khi xong phận sự thì vội vàng rời khỏi hội chúng, khiến những người khác phải vội vã chạy theo phía sau. Đức Thế Tôn không đi như vậy, Ngài luôn đi một cách thong thả giữa hội chúng. Accukkaṭṭhaṃ (đắp y quá cao): Vị nào đắp y kéo lên tận cằm thì gọi là quá cao. Hoặc có vị đắp y buông xuống tận mắt cá chân cũng là quá dài. Hoặc có vị kéo cả hai bên lên cao, để lộ bụng cũng gọi là quá cao. Hoặc vị nào khoác y trễ một bên vai làm hở ngực cũng gọi là quá cao. Đức Thế Tôn không làm những điều ấy.

allīnanti yathā aññesaṃ sedena tintaṃ allīyati, na evaṃ satthu. apakaṭṭhanti khalisāṭako viya kāyato muccitvāpi na tiṭṭhati. vātoti verambhavātopi uṭṭhahitvā cāletuṃ na sakkoti. pādamaṇḍanānuyoganti iṭṭhakāya ghaṃsanādīhi pādasobhānuyogaṃ. pakkhāletvāti pādeneva pādaṃ dhovitvā. so neva attabyābādhāyātiādīni na pubbenivāsacetopariyañāṇānaṃ atthitāya vadati, iriyāpathasantataṃ pana disvā anumānena vadati. dhammanti pariyattidhammaṃ. na ussādetīti kiṃ mahāraṭṭhika, kiṃ mahākuṭumbikātiādīni vatvā gehassitavasena na ussādeti. na apasādetīti “kiṃ, upāsaka, kathaṃ te vihāramaggo ñāto? kiṃ bhayena nāgacchasi? na hi bhikkhū kiñci acchinditvā gaṇhanti, mā bhāyī”ti vā “kiṃ tuyhaṃ evaṃ macchariyajīvitaṃ nāmā”ti vā ādīni vatvā gehassitapemena na apasādeti.

Allīnaṃ (y không dính sát thân): Y của một số vị khác bám dính sát vào thân vì ướt đẫm mồ hôi; nhưng y phục của Đức Thế Tôn không dính sát vào thân như vậy. Apakaṭṭhaṃ (y không bị tuột khỏi thân): y của Đức Thế Tôn không bị tuột, không bị trượt khỏi thân như tấm vải trơn nhẵn khó giữ. Vāto (gió thổi): Dù cho cơn gió mạnh như gió Verambha nổi lên cũng không thể làm lay động được y phục của Đức Thế Tôn. Pādamaṇḍanānuyogaṃ (không trang điểm đôi chân): Không trang điểm làm đẹp đôi chân bằng cách chà xát chân cho bóng sáng bằng viên gạch hay vật dụng khác. Pakkhāletvā (rửa chân sạch sẽ): Rửa chân này bằng chân kia (dùng hai chân cọ xát với nhau để rửa sạch). So neva attabyābādhāya… (Ngài không nói điều gì để tự làm hại mình v.v.): Những điều này không phải do Đức Thế Tôn biết nhờ Thiên nhãn thông hay Túc mạng trí, mà do quan sát các oai nghi an tịnh của Ngài mà người ta suy đoán và nói ra như vậy. Dhammaṃ (giáo pháp): Ở đây chỉ cho pháp học (pariyatti-dhamma). Na ussādeti (không ca ngợi, tâng bốc quá mức): Không ca ngợi, tâng bốc gia chủ bằng những lời thế tục kiểu như: “Ồ ngài là đại phú hộ, ngài là bậc vương giả quyền quý v.v…” Na apasādeti (không làm mất lòng hay trách móc người khác): Không làm mất lòng gia chủ bằng những lời trách móc kiểu như: “Này cư sĩ, nay ông mới biết đường đến chùa sao? Hay ông sợ điều gì mà không đến? Các vị tỳ khưu đâu có lấy đồ của ai, đừng lo sợ như thế,” hoặc những lời như: “Sao ông sống keo kiệt như vậy?” Đức Thế Tôn không dùng những lời trách móc vì tình cảm thế tục như thế.

vissaṭṭhoti siniddho apalibuddho. viññeyyoti viññāpanīyo pākaṭo, vissaṭṭhattāyeva cesa viññeyyo hoti. mañjūti madhuro. savanīyoti sotasukho, madhurattāyeva cesa savanīyo hoti. bindūti sampiṇḍito. avisārīti avisaṭo, binduttāyeva cesa avisārī hoti. gambhīroti gambhīrasamuṭṭhito. ninnādīti ninnādavā, gambhīrattāyeva cesa ninnādī hoti. yathāparisanti cakkavāḷapariyantampi ekābaddhaparisaṃ viññāpeti. bahiddhāti aṅgulimattampi parisato bahiddhā na gacchati. tasmā? so evarūpo madhurassaro akāraṇā mā nassīti. iti bhagavato ghoso parisāya matthakeneva carati.

Vissaṭṭho (lưu loát): Âm thanh rõ ràng, mạch lạc, không vấp váp. Viññeyyo (có thể hiểu được): Có thể nhận biết dễ dàng, dễ hiểu. Do sự lưu loát nên âm thanh ấy trở nên dễ nhận biết. Mañjū (dịu dàng): êm dịu. Savanīyo (dễ nghe): Khiến người nghe cảm thấy dễ chịu, thích nghe. Do tính chất dịu dàng nên âm thanh ấy trở nên dễ nghe. Bindu (chắc nịch): Âm thanh rõ nét, cô đọng, không rời rạc. Avisārī: không bị loãng, Âm thanh không bị phân tán. Do tính chất cô đọng nên âm thanh ấy không bị loãng. Gambhīro (sâu sắc): Âm thanh phát xuất từ nơi sâu thẳm, trầm lắng. Ninnādī (vang dội): Có sự vang vọng, ngân vang. Do phát xuất từ nơi sâu lắng nên âm thanh ấy có sự vang dội. Yathāparisaṃ (phù hợp với hội chúng): Âm thanh của Đức Phật được phát ra vừa đủ cho hội chúng đang nghe, dù là hội chúng đông đảo kéo dài tới tận cùng thế giới cũng có thể nghe rõ và hiểu được. Bahiddhā (không thoát ra bên ngoài): Âm thanh của Ngài không vượt ra ngoài phạm vi của hội chúng, dù chỉ bằng khoảng cách nhỏ như đầu ngón tay. Vì sao? Vì âm thanh tuyệt vời như thế không bao giờ phát ra vô ích. Âm thanh của Đức Thế Tôn chỉ lan truyền vừa đủ trên đầu hội chúng mà thôi.

avalokayamānāti sirasmiṃ añjaliṃ ṭhapetvā bhagavantaṃ olokentāva paccosakkitvā dassanavijahanaṭṭhāne vanditvā gacchanti. avijahitattāti yo hi kathaṃ sutvā vuṭṭhito aññaṃ diṭṭhasutādikaṃ kathaṃ kathento gacchati, esa sabhāvena vijahati nāma. yo pana sutadhammakathāya vaṇṇaṃ kathentova gacchati, ayaṃ na vijahati nāma, evaṃ avijahantabhāvena pakkamanti. gacchantanti rajjuyantavasena ratanasattubbedhaṃ suvaṇṇagghikaṃ viya gacchantaṃ. addasāma ṭhitanti samussitakañcanapabbataṃ viya ṭhitaṃ addasāma. tato ca bhiyyoti vitthāretvā guṇe kathetuṃ asakkonto avasese guṇe saṃkhipitvā kalāpaṃ viya suttakabaddhaṃ viya ca katvā vissajjento evamāha. ayamettha adhippāyo — mayā kathitaguṇehi akathitāva bahutarā. mahāpathavimahāsamuddādayo viya hi tassa bhoto anantā appameyyā guṇā ākāsamiva vitthāritāti.

Avalokayamānā (vẫn quay nhìn lại): Mọi người sau khi chắp tay cung kính trên đầu, vừa đi vừa ngoái nhìn Đức Phật, rồi lui dần ra ngoài, đến chỗ không còn nhìn thấy được nữa thì đảnh lễ rồi mới rời đi. Avijahitattā (không muốn rời đi): Người nào sau khi nghe pháp xong đứng dậy ra về mà chuyển sang nói những chuyện khác không liên quan đến pháp vừa nghe, người này gọi là đã từ bỏ pháp. Nhưng người nào ra về mà vẫn tiếp tục nói lời ca ngợi, tán thán những điều vừa được nghe, người ấy gọi là không từ bỏ giáo pháp. Hội chúng rời đi trong trạng thái không từ bỏ giáo pháp như vậy. Gacchantaṃ (ngài bước đi): Đức Thế Tôn bước đi an ổn, vững chãi như một khối vàng đặc được điều khiển bởi sợi dây đo chuẩn xác. Addasāma ṭhitaṃ (Chúng con thấy Ngài đứng): Chúng con nhìn thấy Đức Gotama đứng vững chãi, trang nghiêm như một ngọn núi bằng vàng sáng rực vừa được dựng lên. tato ca bhiyyo (còn nhiều hơn như vậy nữa): Vì không thể kể hết mọi ân đức của Ngài một cách chi tiết, nên người nói chỉ nêu tóm lược lại tất cả các ân đức còn lại, giống như gom các mũi tên vào một bao, hay như bó gọn tất cả thành một cuộn chỉ rồi mới nói ra. Ý nghĩa ở đây là: “Những ân đức của Ngài chưa được con nói ra còn nhiều gấp bội những gì con đã nói. Quả thật, ân đức của Ngài rộng lớn vô biên, vô lượng, tựa như đại địa, đại dương không thể đo lường, trải rộng khắp cả hư không.”

390. appaṭisaṃviditoti aviññātāagamano. pabbajite upasaṅkamantena hi cīvaraparikammādisamaye vā ekaṃ nivāsetvā sarīrabhañjanasamaye vā upasaṅkamitvā tatova paṭinivattitabbaṃ hoti, paṭisanthāramattampi na jāyati. puretaraṃ pana okāse kārite divāṭṭhānaṃ sammajjitvā cīvaraṃ pārupitvā bhikkhu vivitte ṭhāne nisīdati, taṃ āgantvā passantā dassanenapi pasīdanti, paṭisanthāro jāyati, pañhabyākaraṇaṃ vā dhammakathā vā labbhati. tasmā paṇḍitā okāsaṃ kārenti. so ca nesaṃ aññataro, tenassa etadahosi. jiṇṇo vuḍḍhoti attano uggatabhāvaṃ akathetvā kasmā evamāha? buddhā nāma anuddayasampannā honti, mahallakabhāvaṃ ñatvā sīghaṃ okāsaṃ karissatīti evamāha.

390. Appaṭisaṃvidito: Khi muốn đến gặp một vị xuất gia, nếu gặp lúc vị ấy đang bận vá y phục, hoặc đang mặc duy nhất một tấm y trong lúc cạo tóc, thì người đến phải lập tức quay về, không thể tiếp chuyện được. Thậm chí cả việc chào hỏi cũng không diễn ra. Nhưng nếu trước đó đã báo trước, thì vị tỳ khưu ấy đã quét dọn chỗ nghỉ ngơi ban ngày, khoác y đầy đủ, ngồi đợi sẵn ở nơi thanh vắng yên tĩnh. Khi ấy, người đến gặp sẽ phát sinh hoan hỷ ngay từ cái nhìn đầu tiên, việc chào hỏi cũng tự nhiên diễn ra, nhờ vậy sẽ có cơ hội đặt câu hỏi, nhận được sự giải đáp và nghe pháp thoại. Do đó, các bậc trí khi đến gặp người khác luôn báo trước để tạo thuận lợi như vậy. Bà-la-môn Brahmāyu là một trong số những người trí ấy, nên đã suy nghĩ như vậy.
Vì sao ông không nói đến địa vị cao quý của mình mà lại nói “tôi là người già yếu, tuổi tác đã cao”? Bởi vì ông nghĩ rằng: “Chư Phật vốn là những bậc đầy lòng từ bi thương xót, khi nghe nói đến người già yếu cao niên, các ngài sẽ nhanh chóng dành thời gian tiếp chuyện.” Vì lý do đó, ông đã nói như vậy.

391. oramiya okāsamakāsīti vegena uṭṭhāya dvidhā bhijjitvā okāsamakāsi.

391. oramiya okāsamakāsi (liền đứng dậy nhường chỗ): Khi nghe vậy, hội chúng lập tức đứng dậy, chia ra làm hai bên để dành chỗ cho ông ấy bước vào.

ye meti ye mayā. nārīsamānasavhayāti nārīsamānanāmaṃ itthiliṅgaṃ, tena avhātabbāti nārīsamānasavhayā, itthiliṅgena vattabbāti vohārakusalatāya evaṃ vadati. pahūtajivhoti puthulajivho. ninnāmayetanti nīhara etaṃ.

Ye me: nghĩa tương đương với ye mayā (những điều được tôi…). Nārīsamānasavhayā: nghĩa là có tên gọi tương đương với nữ tính (nārī). Đây là cách gọi theo giống cái (itthiliṅga). Vì khéo léo về cách sử dụng từ ngữ (vohārakusala), nên ông đã dùng cách diễn đạt như vậy. Pahūtajivho: có nghĩa là người có lưỡi lớn, rộng. Ninnāmayetaṃ: xin ngài hãy thể hiện đưa tướng đó ra.

393. kevalīti sakalaguṇasampanno.

394. paccabhāsīti ekappahārena pucchite aṭṭha pañhe byākaronto patiabhāsi. yo vedīti yo vidati jānāti, yassa pubbenivāso pākaṭo. saggāpāyañca passatīti dibbacakkhuñāṇaṃ kathitaṃ. jātikkhayaṃ pattoti arahattaṃ patto. abhiññā vositoti taṃ arahattaṃ abhijānitvā vosito vosānappatto. munīti arahattañāṇamoneyyena samannāgato.

393. Kevalī (viên mãn): viên mãn với toàn bộ đức hạnh.

394. Paccabhāsi (đã hỏi): nghĩa là khi được hỏi tám câu hỏi, Đức Thế Tôn đã trả lời trọn vẹn ngay trong một lần. Yo vedī (người biết rõ): nghĩa là người biết rõ, người thấy rõ các đời sống quá khứ (túc mạng minh). Saggāpāyañca passati (thấy rõ cõi trời và cõi khổ): nói đến thiên nhãn minh (dibbacakkhuñāṇa). Jātikkhayaṃ patto (đạt đến chấm dứt tái sinh): nghĩa là đã chứng đắc quả vị A-la-hán, đã đoạn tận sinh tử luân hồi.Abhiññā vosito (đã hoàn tất thắng trí): vị đã hoàn tất mọi phận sự do chứng đắc quả A-la-hán, tức là hoàn toàn viên mãn, không còn gì phải làm nữa. Munī: (bậc trí tuệ, bậc thánh tịch mặc): là bậc thành tựu trí tuệ giải thoát của quả vị A-la-hán.

visuddhanti paṇḍaraṃ. muttaṃ rāgehīti kilesarāgehi muttaṃ. pahīnajātimaraṇoti jātikkhayappattattā pahīnajātiko, jātipahāneneva pahīnamaraṇo. brahmacariyassa kevalīti yaṃ brahmacariyassa kevalī sakalabhāvo, tena samannāgato, sakalacatumaggabrahmacariyavāsoti attho. pāragū sabbadhammānanti sabbesaṃ lokiyalokuttaradhammānaṃ abhiññāya pāraṃ gato, sabbadhamme abhijānitvā ṭhitoti attho. pāragūti vā ettāvatā pariññāpāragū pañcannaṃ khandhānaṃ, pahānapāragū sabbakilesānaṃ, bhāvanāpāragū catunnaṃ maggānaṃ, sacchikiriyāpāragū nirodhassa, samāpattipāragū sabbasamāpattīnanti ayamattho vutto. puna sabbadhammānanti iminā abhiññāpāragū vuttoti. buddho tādī pavuccatīti tādiso chahi ākārehi pāraṃ gato sabbākārena catunnaṃ saccānaṃ buddhattā buddhoti pavuccatīti.

Visuddhaṃ (thanh tịnh): trong sạch, thuần khiết. Muttaṃ rāgehi (thoát khỏi mọi tham ái): đã hoàn toàn thoát khỏi tất cả phiền não và tham ái.Pahīnajātimaraṇo (đã dứt trừ sinh tử): do đã chấm dứt tái sinh (jāti), nên cũng đã đoạn tận cái chết (maraṇa). Brahmacariyassa kevalī (viên mãn phạm hạnh): người viên mãn trọn vẹn phạm hạnh, đã thực hành đầy đủ phạm hạnh trong cả bốn Thánh đạo (tứ đạo). Pāragū sabbadhammānaṃ [người đi đến bờ kia (do việc biết rõ) tất cả các pháp]: (người đã đi đến bờ kia đối với tất cả pháp): Người đã đạt đến bờ giác ngộ bằng sự hiểu biết toàn diện tất cả pháp thế gian và xuất thế gian. Cụ thể hơn, chữ “pāragū” (đi đến bờ kia) ở đây bao gồm:
_ Đã đi đến bờ kia của sự liễu tri (pariññā) đối với năm thủ uẩn.
_ Đã đi đến bờ kia của sự đoạn tận (pahāna) đối với tất cả phiền não.
_ Đã đi đến bờ kia của sự tu tập (bhāvanā) đối với bốn Thánh đạo.
_ Đã đi đến bờ kia của sự chứng ngộ (sacchikiriyā) đối với Niết Bàn.
_ Đã đi đến bờ kia của sự chứng đạt (samāpatti) đối với mọi tầng thiền định.
Bằng câu “pāragū sabbadhammānaṃ” này, ý nghĩa còn bao hàm cả sự viên mãn về trí tuệ hiểu rõ tất cả pháp (abhiññā-pāragū).

 Buddho tādī pavuccati (bậc trí đã nói hạng người như vậy là đức Phật): Một bậc như vậy, viên mãn trong cả sáu phương diện vừa nói trên, bậc ấy đã giác ngộ hoàn toàn cả bốn Thánh đế, nên được gọi là “Buddha” (Đức Phật).

kiṃ pana ettāvatā sabbe pañhā vissajjitā hontīti? āma vissajjitā, cittaṃ visuddhaṃ jānāti, muttaṃ rāgehīti iminā tāva bāhitapāpattā brāhmaṇoti paṭhamapañho vissajjito hoti. pāragūti iminā vedehi gatattā vedagūti dutiyapañho vissajjito hoti. pubbenivāsantiādīhi imāsaṃ tissannaṃ vijjānaṃ atthitāya tevijjoti tatiyapañho vissajjito hoti. muttaṃ rāgehi sabbasoti imināva nissaṭattā pāpadhammānaṃ sottiyoti catutthapañho vissajjito hoti. jātikkhayaṃ pattoti iminā pana arahattasseva vuttattā pañcamapañho vissajjito hoti. vositoti ca brahmacariyassa kevalīti ca imehi chaṭṭhapañho vissajjito hoti. abhiññā vosito munīti iminā sattamapañho vissajjito hoti. pāragū sabbadhammānaṃ, buddho tādī pavuccatīti iminā aṭṭhamapañho vissajjito hoti.

Câu hỏi: Phải chăng chỉ với chừng ấy lời mà tất cả tám câu hỏi đã được giải đáp?
Đáp: Đúng vậy, tất cả đều đã được giải đáp đầy đủ như sau:
Câu hỏi thứ nhất (Bà-la-môn): Đã giải đáp bằng câu “muttaṃ rāgehi” (thoát khỏi tham ái), tức là vị ấy đã đoạn tận mọi ác pháp, nên gọi là Bà-la-môn đích thực.
Câu hỏi thứ hai (Vedagū – thông đạt Vệ-đà): Đã giải đáp bằng chữ “Pāragū” (đi đến bờ kia), tức là vị ấy đã hoàn tất mọi sự hiểu biết (veda), cho nên gọi là Vedagū.
Câu hỏi thứ ba (Tevijja – ba minh): Đã giải đáp bằng các từ “pubbenivāsa” (túc mạng minh), “saggāpāyaṃ passati” (thiên nhãn minh), và “jātikkhayaṃ patto” (lậu tận minh), chứng tỏ vị ấy có đầy đủ ba minh (tevijjā).
Câu hỏi thứ tư (Sotthiya – người an ổn): Đã giải đáp bằng “muttaṃ rāgehi sabbaso” (hoàn toàn thoát khỏi tham ái), nghĩa là đã đoạn tận các ác pháp, nên vị ấy là người hoàn toàn an ổn (sotthiya).
Câu hỏi thứ năm (A-la-hán): Đã giải đáp bằng câu “jātikkhayaṃ patto” (chấm dứt tái sinh), nghĩa là vị ấy đã chứng quả A-la-hán, đoạn tận luân hồi sinh tử.
Câu hỏi thứ sáu (phạm hạnh viên mãn): Đã giải đáp bằng hai từ “vosito” (đã hoàn tất) và “brahmacariyassa kevalī” (viên mãn phạm hạnh).
Câu hỏi thứ bảy (Muni – bậc trí tịch mặc): Đã giải đáp bằng cụm từ “abhiññā vosito munī” (bậc muni đã hoàn thành thắng trí).
Câu hỏi thứ tám (Buddha – Đức Phật): Đã giải đáp bằng câu “pāragū sabbadhammānaṃ, buddho tādī pavuccati” (người đã đi đến bờ kia về tất cả pháp, bậc trí gọi người như vậy là Đức Phật).

Như vậy, Đức Thế Tôn đã trả lời trọn vẹn cả tám câu hỏi chỉ trong một lời đáp đầy đủ như trên.

395. dānakathantiādīni heṭṭhā sutte vitthāritāneva. paccapādīti paṭipajji. dhammassānudhammanti imasmiṃ sutte dhammo nāma arahattamaggo, anudhammo nāma heṭṭhimā tayo maggā tīṇi ca sāmaññaphalāni, tāni paṭipāṭiyā paṭilabhīti attho. na ca maṃ dhammādhikaraṇaṃ vihesesīti mañca dhammakāraṇā na kilamesi, na punappunaṃ kathāpesīti vuttaṃ hoti. sesaṃ sabbattha uttānameva. tattha parinibbāyīti pana padena desanāya arahatteneva kūṭaṃ gahitanti.

395. Dānakathaṃ” (thuyết về bố thí) v.v… đã được giải thích chi tiết trong bài kinh trước. “Paccapādi” nghĩa là đã thực hành, đã bước vào con đường (tu tập). “Dhammassānudhammaṃ” (Pháp tuần tự theo Pháp): Trong bài kinh này, “Pháp” (dhamma) là chỉ Đạo quả A-la-hán; còn “tuần tự theo Pháp” (anudhamma) là chỉ ba Đạo thấp hơn (Dự lưu đạo, Nhất lai đạo, Bất lai đạo) cùng ba quả vị Sa-môn tương ứng. Ý nghĩa là vị ấy chứng đắc tuần tự các Đạo và Quả như vậy. “Na ca maṃ dhammādhikaraṇaṃ vihesesī” (không làm phiền ta với các tranh luận về pháp): Tức là không gây phiền hà, không làm ta mệt mỏi bởi các tranh luận, kiện cáo về Chánh pháp; nghĩa là không khiến ta phải giảng giải hay lặp đi lặp lại nhiều lần nữa. Các từ còn lại đều đã rõ nghĩa. tattha parinibbāyī (sẽ viên tịch Nibbāna ở tại cõi ấy): nghĩa là trong đoạn văn này, từ “parinibbāyī” dùng để chỉ rằng vị ấy đã đạt đến đỉnh điểm của bài pháp, thông qua việc chứng quả vị A-la-hán.

Giải Thích Kinh Brahmāyu Kết Thúc

​​

1 phiền não

2 Cây đa, hay cây bàng.

3 ṭīkā upakaṭṭhāya velāyaṃ

4 aḍḍhakāyova