Kinh số 90 – Giải Thích Kinh Kaṇṇakatthala
(Kaṇṇakatthalasuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Kaṇṇakatthala
375. evaṃ me sutanti kaṇṇakatthalasuttaṃ. tattha uruññāyanti uruññāti tassa raṭṭhassapi nagarassapi etadeva nāmaṃ, bhagavā uruññānagaraṃ upanissāya viharati. kaṇṇakatthale migadāyeti tassa nagarassa avidūre kaṇṇakatthalaṃ nāma eko ramaṇīyo bhūmibhāgo atthi, so migānaṃ abhayatthāya dinnattā migadāyoti vuccati, tasmiṃ kaṇṇakatthale migadāye. kenacideva karaṇīyenāti na aññena, anantarasutte vuttakaraṇīyeneva. somā ca bhaginī sakulā ca bhaginīti imā dve bhaginiyo rañño pajāpatiyo. bhattābhihāreti bhattaṃ abhiharaṇaṭṭhāne. rañño bhuñjanaṭṭhānañhi sabbāpi orodhā kaṭacchuādīni gahetvā rājānaṃ upaṭṭhātuṃ gacchanti, tāpi tatheva agamaṃsu.
375. Kinh Kaṇṇakatthala được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, uruññāyaṃ: đây là tên của cả đất nước, của cả thành phố đó Uruññā. Đức Thế Tôn an trú gần thành Uruññā. Kaṇṇakatthale migadāye (ở vườn Lộc Uyển tại Kaṇṇakatthala): ở không xa thành phố ấy có một vùng đất xinh xắn tên là Kaṇṇakatthala. Vùng đất ấy họ đều gọi là Migadāya, bởi vì sự bố thí để mang lại sự không sợ hãi cho muôn thú, ở tại vườn Lộc Uyển Kaṇṇakatthala đó. kenacideva karaṇīyenā (vì một công việc cần làm nào đó): Không phải phận sự khác mà chính là phận sự đã được nói ở trong bài Kinh trước đó. Cả hai chị em này là nàng Somā và nàng Sakulā là vợ của đức vua. Bhattābhihāre (ở chỗ thọ dụng vật thực): Ở nơi thọ dụng vật thực. Cũng ở chỗ thọ dụng vật thực của đức vua thì một nàng trong số các nàng cầm lấy cái vá thức ăn v.v, đến dâng cho nhà vua, cả hai nàng ấy đều đã đi làm y như thế.
376. kiṃ pana, mahārājāti kasmā evamāha? rañño garahaparimocanatthaṃ. evañhi parisā cinteyya — “ayaṃ rājā āgacchamānova mātugāmānaṃ sāsanaṃ āroceti, mayaṃ attano dhammatāya bhagavantaṃ daṭṭhuṃ āgatoti maññāma, ayaṃ pana mātugāmānaṃ sāsanaṃ gahetvā āgato, mātugāmadāso maññe, esa pubbepi imināva kāraṇena āgacchatī”ti. pucchito pana so attano āgamanakāraṇaṃ kathessati, evamassa ayaṃ garahā na uppajjissatīti garahamocanatthaṃ evamāha.
376. kiṃ pana, mahārājā (tâu Đại vương có…không?): tại sao lại nói như vậy? (bởi vì) nhằm mục đích tránh khỏi những lời chỉ trích của nhà vua. Bởi vì hội chúng có thể nghĩ như vầy – “Vị vua này khi đến sẽ mang tin tức của những nữ nhân đến thông báo, chúng tôi nghĩ rằng: đến yết kiến đức Thế Tôn theo bản thể tự nhiên của chính mình, nhưng đức vua đã nắm được tin tức của những nữ nhân đến có thể là tỳ nữ của những nữ nhân chăng? Ngay cả trong những lần trước ngài cũng đi đến với lý do này tương tự y như thế.” Hơn nữa, nhà vua khi bị hỏi sẽ nói đến lý do đến của mình, lời chỉ trích này sẽ không khởi lên cùng ngài với biểu hiện như vậy, chính vì thế để thoát khỏi những lời chỉ trích đã nói như thế.
378. abbhudāhāsīti kathesi. sakideva sabbaṃ ussati sabbaṃ dakkhitīti yo ekāvajjanena ekacittena atītānāgatapaccuppannaṃ sabbaṃ ussati vā dakkhiti vā, so natthīti attho. ekena hi cittena atītaṃ sabbaṃ jānissāmīti āvajjitvāpi atītaṃ sabbaṃ jānituṃ na sakkā, ekadesameva jānāti. anāgatapaccuppannaṃ pana tena cittena sabbeneva sabbaṃ na jānātīti. esa nayo itaresu. evaṃ ekacittavasenāyaṃ pañho kathito. heturūpanti hetusabhāvaṃ kāraṇajātikaṃ. saheturūpanti sakāraṇajātikaṃ. samparāyikāhaṃ, bhanteti samparāyaguṇaṃ ahaṃ, bhante, pucchāmi.
378. Abbhudāhāsi dịch là đã nói. Không có một Sa-môn nào hay Bà-la-môn nào có thể biết hoàn toàn và thấy hoàn toàn các Pháp trong một lúc: người nào sẽ biết hoặc sẽ thấy được tất cả các Pháp ở quá khứ, vị lai và hiện tại bằng một sát-na tâm khai môn (āvajjana), với một tâm, với một đổng lực tâm (javana) người ấy hẳn không có. Thật vậy bất kỳ ai dẫu suy nghĩ ta sẽ biết được mọi chuyện ở quá khứ với một tâm, cũng không thể biết được toàn bộ quá khứ, sẽ biết được chỉ trong một ngày mà thôi. Còn ở vị lại và hiện tại cũng sẽ không biết được tất cả mọi chuyện với tâm đó. Trong câu này cũng cách thức ấy. Thuyết về vấn đề này với một tâm duy nhất như vậy. Heturūpaṃ (có nhân duyên): thực tính của nhân, sanh khởi từ nhân. Saheturūpaṃ (liên hệ đến nhân duyên): giống (jāti) của quả có nhân, thực tính làm quả mà vận hành cùng với nhân. samparāyikāhaṃ, bhante (Bạch Thế Tôn, con … về tương lai): Kính bạch đức Thế Tôn, con xin hỏi đến ân đức sẽ có trong tương lai.
379. pañcimānīti imasmiṃ sutte pañca padhāniyaṅgāni lokuttaramissakāni kathitāni. kathinaṅgaṇavāsīcūḷasamuddatthero pana “tumhākaṃ, bhante, kiṃ ruccatī”ti vutte “mayhaṃ lokuttarānevāti ruccatī”ti āha. padhānavemattatanti padhānanānattaṃ. aññādisameva hi puthujjanassa padhānaṃ, aññādisaṃ sotāpannassa, aññādisaṃ sakadāgāmino, aññādisaṃ anāgāmino, aññādisaṃ arahato, aññādisaṃ asītimahāsāvakānaṃ, aññādisaṃ dvinnaṃ aggasāvakānaṃ, aññādisaṃ paccekabuddhānaṃ, aññādisaṃ sabbaññubuddhānaṃ. puthujjanassa padhānaṃ sotāpannassa padhānaṃ na pāpuṇāti … pe … paccekabuddhassa padhānaṃ sabbaññubuddhassa padhānaṃ na pāpuṇāti. imamatthaṃ sandhāya “padhānavemattataṃ vadāmī”ti āha.
379. Pañcimāni (có năm loại): đức Thế Tôn thuyết về chi phần làm chỗ thiết lập của 5 sự tinh cần được hòa trộn với tâm Siêu thế trong bài Kinh này. Nhưng trưởng lão Cūḷasamudda trú ở Kathinaṅgaṇa khi vị ấy hỏi rằng: thưa trưởng lão ngài thích điều gì? (trưởng lão) ta chỉ ưa thích trong Siêu thế. Padhānavemattataṃ là padhānanānattaṃ: sự khác biệt trong tinh cần. Thật vậy, sự tinh cần của phàm nhân là khác, của bậc Thánh Nhập Lưu là khác, của bậc Thánh Nhất Lai là khác, của bậc Thánh Bất Lai là khác, và của bậc Thánh A-ra-hán là khác, của tám mươi vị Đại Thinh văn là khác, của nhị vị Thượng thủ Thinh văn là khác là khác, của đức Phật Độc giác là khác, của bậc Chánh đẳng Chánh giác là khác. Sự tinh cần của phàm nhân không đạt đến sự tinh cần của bậc Thánh Nhập Lưu … sự tinh cần của đức Phật Độc Giác cũng không đạt đến sự tinh cần của bậc Chánh đẳng Chánh giác. Đức Thế Tôn đã nói rằng “Ta nói đến sự sai biệt trong tinh cần” có ý muốn đề cập đến ý nghĩa này.
379. dantakāraṇaṃ gaccheyyunti yaṃ akūṭakaraṇaṃ, anavacchindanaṃ, dhurassa acchindananti dantesu kāraṇaṃ dissati, taṃ kāraṇaṃ upagaccheyyunti attho. dantabhūminti dantehi gantabbabhūmiṃ. assaddhotiādīsu puthujjanasotāpannasakadāgāmianāgāmino cattāropi assaddhā nāma. puthujjano hi sotāpannassa saddhaṃ appattoti assaddho, sotāpanno sakadāgāmissa, sakadāgāmī anāgāmissa, anāgāmī arahato saddhaṃ appattoti assaddho, ābādho arahatopi uppajjatīti pañcapi bahvābādhā nāma honti. ariyasāvakassa pana saṭho māyāvīti nāmaṃ natthi. teneva thero — “pañca padhāniyaṅgāni lokuttarāni kathitānīti mayhaṃ ruccatī”ti āha. assakhaḷuṅkasuttante pana — “tayo ca, bhikkhave, assakhaḷuṅke tayo ca purisakhaḷuṅke desessāmī”ti (a. ni. 3.141) ettha ariyasāvakassāpi sambodhināmaṃ āgataṃ, tassa vasena lokuttaramissakā kathitāti vuttaṃ. puthujjano pana sotāpattimaggavīriyaṃ asampatto … pe … anāgāmī arahattamaggavīriyaṃ asampattoti kusītopi assaddho viya cattārova honti, tathā duppañño.
dantakāraṇaṃ gaccheyyuṃ (có thể đạt đến nhân của chúng sanh đã được rèn luyện): Trong số tất cả sự rèn luyện có sự rèn luyện không gian lận, không để cho đâm thủng, không để cho từ bỏ bổn phận, có thể đạt đến nhân đó. Dantabhūmiṃ (cõi của chúng sanh đã được rèn luyện): nên đi đến cõi chúng sanh đã được rèn luyện. Kể cả bốn hạng người là phàm nhân, bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai, bậc Thánh Bất Lai được gọi là không có đức tin trong câu ‘người không có đức tin’ v.v. Thật vậy, phàm nhân gọi là không có đức tin bởi vì không đạt đến đức tin của bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhập Lưu…của bậc Thánh Nhất Lai, bậc Thánh Nhất Lai…của bậc Thánh Bất Lai, bậc Thánh Bất Lai gọi là không có đức tin bởi vì vẫn chưa đạt đến đức tin của bậc Thánh A-ra-hán, sự bệnh tật sanh lên ngay cả bậc Thánh A-ra-hán, chính vì thế cả năm loại bệnh tật được gọi là có nhiều chứng bệnh. Bậc Thánh Thinh văn không gọi là người khoe khoang hay dối trá. Chính vì thế trưởng lão đã nói rằng: “Ta ưa thích thuyết chi phần của năm tinh cần hòa trộn với pháp Siêu thế.” Còn trong bài Kinh Assakhaḷuṅka thuyết rằng: “Này các Tỳ khưu, Ta sẽ giảng về ba loại ngựa chưa được điều phục và Ta sẽ giảng về ba hạng người chưa được điều phục” (a. ni. 3.141) ở đây được gọi là sự giác ngộ chân chánh kể bậc Thánh Thinh văn cũng đã được nói như vậy, với mãnh lực của hạng phàm nhân ấy v.v, đã nói rằng hòa trộn với Siêu thế. Hơn nữa, hạng phàm nhân không đạt đến trọn vẹn sự tinh tấn trong Nhập Lưu Đạo … bậc Thánh Bất Lai không đạt đến trọn vẹn sự tinh tấn trong A-ra-hán Đạo. Ngay cả hàng người lười biếng cũng có bốn tương tự giống như người không có đức tin. Hạng người có trí tuệ kém cũng tương tự.
evaṃ panettha opammasaṃsandanaṃ veditabbaṃ — adantahatthiādayo viya hi maggapadhānarahito puggalo. dantahatthiādayo viya maggapadhānavā. yathā adantā hatthiādayo kūṭākāraṃ akatvā avicchinditvā dhuraṃ apātetvā dantagamanaṃ vā gantuṃ dantabhūmiṃ vā pattuṃ na sakkonti, evamevaṃ maggapadhānarahito maggapadhānavatā pattabbaṃ pāpuṇituṃ nibbattetabbaṃ guṇaṃ nibbattetuṃ na sakkoti. yathā pana dantahatthiādayo kūṭākāraṃ akatvā avicchinditvā dhuraṃ apātetvā dantagamanaṃ vā gantuṃ dantabhūmiṃ vā pattuṃ sakkonti, evamevaṃ maggapadhānavā maggapadhānavatā pattabbaṃ pāpuṇituṃ nibbattetabbaṃ guṇaṃ nibbattetuṃ sakkoti. idaṃ vuttaṃ hoti — “sotāpattimaggapadhānavā sotāpattimaggapadhānavatā pattokāsaṃ pāpuṇituṃ nibbattetabbaṃ guṇaṃ nibbattetuṃ sakkoti … pe … arahattamaggapadhānavā arahattamaggapadhānavatā pattokāsaṃ pāpuṇituṃ nibbattetabbaṃ guṇaṃ nibbattetuṃ sakkotī”ti.
Hơn nữa, nên biết việc so sánh bằng ví dụ trong phần Pháp đen với câu sau – giống như voi không được huấn luyện v.v, và phần Pháp trắng với câu rằng – giống như voi đã được huấn luyện, hạng người không có đạo làm trưởng giống như voi không được huấn luyện, hạng người có đạo làm trưởng giống như voi được huấn luyện. Voi v.v, chưa được huấn luyện không thể không làm, không ngăn chặn biểu hiện giả dối, bỏ chạy, từ bỏ phận sự đi đến thuần hóa có thể đi đến, hoặc mức độ thuần hóa có thể đạt đến như thế nào, thì tương tự y như thế người không có đạo làm trưởng cũng không thể chứng đắc ân đức mà vị có đạo làm trưởng có thể chứng đắc (hoặc) có thể làm cho sanh khởi. Hơn nữa, voi v.v, đã huấn luyện không thực hiện các dấu hiệu giả dối, không bỏ chạy, không từ bỏ phận sự, có thể đi đến sự thuần hóa có thể đi, hoặc mức độ thần hóa có thể đạt đến như thế nào, tương tự y như vậy người có đạo làm trưởng cũng có thể chứng đắc, có thể làm cho những ân đức mà người có đạo làm trưởng có thể làm cho sanh khởi được sanh khởi. Điều này đã được nói rằng – “vị có Nhập Lưu đạo làm trưởng có thể đạt đến khoảng trống mà vị có Nhập Lưu đạo làm trưởng đã đạt đến, để những ân đức mà vị có Nhập Lưu đạo làm trưởng có thể làm cho sanh khởi được sanh khởi…vị có A-ra-hán đạo làm trưởng có thể đạt đến khoảng trống mà vị có A-ra-hán đạo làm trưởng đã đạt đến, để những ân đức mà vị có A-ra-hán đạo làm trưởng có thể làm cho sanh khởi được sanh khởi.”
380. sammappadhānāti maggapadhānena sammappadhānā. na kiñci nānākaraṇaṃ vadāmi yadidaṃ vimuttiyā vimuttinti yaṃ ekassa phalavimuttiyā itarassa phalavimuttiṃ ārabbha nānākaraṇaṃ vattabbaṃ siyā, taṃ na kiñci vadāmīti attho. acciyā vā accinti acciyā vā accimhi. sesapadadvayepi eseva nayo, bhummatthe hi etaṃ upayogavacanaṃ. kiṃ pana tvaṃ, mahārājāti, mahārāja, kiṃ tvaṃ? “santi devā cātumahārājikā, santi devā tāvatiṃsā … pe … santi devā paranimmitavasavattino, santi devā tatuttarin”ti evaṃ devānaṃ atthibhāvaṃ na jānāsi, yena evaṃ vadesīti. tato atthibhāvaṃ jānāmi, manussalokaṃ pana āgacchanti nāgacchantīti idaṃ pucchanto yadi vā te, bhantetiādimāha. sabyābajjhāti sadukkhā, samucchedappahānena appahīnacetasikadukkhā. āgantāroti upapattivasena āgantāro. abyābajjhāti samucchinnadukkhā. anāgantāroti upapattivasena anāgantāro.
Sammappadhānā (có sự tinh cần chân chánh): chân chánh tinh cần bởi đạo làm trưởng. Câu này ta nói không có sự khác biệt gì về phương diện giải thoát đối với giải thoát, nghĩa là sự khác biệt liên quan đến quả giải thoát người ngoài ra với quả giải thoát của một người nên nói nào, ta không nói đến sự khác biệt nên nói ấy như thế nào, tức là ta nói rằng ‘không có sự khác biệt’. Acciyā vā acciṃ (giữa ngọn lửa với ngọn lửa): giữa ngọn lửa với ngọn lửa. Ngay cả trong 2 câu còn lại cũng có phương thức tương tự. Acciṃ này là đối cách được sử dụng với ý nghĩa của cách thứ bảy (định sở cách). kiṃ pana tvaṃ, mahārājā (thưa Đại vương, do nhân gì Đại vương…): Này Đại vương ngài không biết hay sao? Chư thiên có hiện hữu như vầy là có Chư thiên cõi Tứ đại Thiên vương, có Chư thiên cõi trời Đao Lợi…có Chư thiên cõi trời Tha hóa Tự tại, có Chư thiên ở những cõi trời cao hơn nữa, ngài thuyết như vậy vì sao? Từ đó đức vua khi hỏi lời này rằng: Trẫm biết rằng có, nhưng tất cả Chư thiên đến thế giới nhân loại hay không đến thế giới nhân loại? nên đã nói rằng: “yadi vā te, bhante (kính bạch đức Thế Tôn nếu Chư thiên có thật…)” Sabyābajjhā (có sự tổn thương): có khổ đau, tức là vẫn chưa dứt trừ khổ ở nơi tâm bằng sự dứt trừ hoàn toàn. Āgantāro (những người đi đến): những người đi đến do mãnh lực của sự sanh. Abyābajjhā (không có sự tổn hại): cắt đứt sự khổ đau hoàn toàn. Anāgantāro (những người không đến): những người không đi đến do mãnh lực của sự sanh.
381. pahotīti sakkoti. rājā hi puññavantampi lābhasakkārasampannaṃ yathā na koci upasaṅkamati, evaṃ karonto tamhā ṭhānā cāvetuṃ sakkoti. taṃ apuññavantampi sakalagāmaṃ piṇḍāya caritvā yāpanamattaṃ alabhantaṃ yathā lābhasakkārasampanno hoti, evaṃ karonto tamhā ṭhānā cāvetuṃ sakkoti. brahmacariyavantampi itthīhi saddhiṃ sampayojetvā sīlavināsaṃ pāpento balakkārena vā uppabbājento tamhā ṭhānā cāvetuṃ sakkoti. abrahmacariyavantampi sampannakāmaguṇaṃ amaccaṃ bandhanāgāraṃ pavesetvā itthīnaṃ mukhampi passituṃ adento tamhā ṭhānā cāveti nāma. raṭṭhato pana yaṃ icchati, taṃ pabbājeti nāma.
381. Pahoti: có thể. Thật vậy đức vua đạt đến sự thành tựu về lợi đắc và sự cung kính thậm chí (những vị) có phước báu mà không có bất kỳ ai có thể đến gần, như vậy trong lúc đang làm (vị ấy) có thể (đánh đuổi hay trục xuất) ra khỏi chỗ ấy. Thậm chí những vị không có phước báu đó, (vì miếng ăn) những người thời không được đạt được một chút ít gì sau khi đi bộ hành để khất thực để duy trì cơ thể đúng như cách người đã thành tựu đầy đủ sự cung kính và lợi đắc, như vậy trong lúc đang làm (vị ấy) có thể (đánh đuổi hay trục xuất) ra khỏi chỗ ấy. Liên kết lại ngay cả vi có Phạm hạnh cùng với nữ nhân để đưa đến giới hạnh bị hủy hoại, cho hoàn tục bằng hình thức thô bạo, (vị ấy) có thể (đánh đuổi hay trục xuất) ra khỏi chỗ ấy. Không cho viên quan đại thần được đầy đủ ngũ dục, thậm chí không được thực hành Phạm hạnh cho vào ngục tù, không cho nhìn thấy kể cả khuôn mặt của những người nữ gọi là (đánh đuổi hay trục xuất) ra khỏi chỗ ấy. Hơn nữa khi di chuyển khỏi đất nước gọi là trục xuất theo ý muốn.
dassanāyapi nappahontīti kāmāvacare tāva abyābajjhe deve sabyābajjhā devā cakkhuviññāṇadassanāyapi nappahonti. kasmā? arahato tattha ṭhānābhāvato. rūpāvacare pana ekavimānasmiṃyeva tiṭṭhanti ca nisīdanti cāti cakkhuviññāṇadassanāya pahonti, etehi diṭṭhaṃ pana sallakkhitaṃ paṭividdhaṃ lakkhaṇaṃ daṭṭhuṃ sallakkhituṃ paṭivijjhituṃ na sakkontīti ñāṇacakkhunā dassanāya nappahonti, uparideve ca cakkhuviññāṇadassanenāpīti.
dassanāyapi nappahonti (không có thể thấy được): Chư thiên có não hại tâm không thể dẫu để nhìn thấy được bằng nhãn thức mà Chư thiên không có khổ ở cõi Dục giới trước. Tại sao? Bởi vì không có vị trí ở trong cõi đó phù hợp. Nhưng có thế để nhìn thấy bằng nhãn thức mà Chư thiên Sắc giới đang đứng, và đang ngồi ở ngay tại thiên cung. Những không thể để nhìn thấy, để xác định, để thấu triệt tướng trạng nơi những Chư thiên này đã nhìn thấy, đã xác định, đã thấy triệt. Không thể để nhìn thầy bằng nhãn thức. Và cả không thể để nhìn thấy Chư thiên ở cõi cao hơn bằng việc nhìn với nhãn thức.
382. ko nāmo ayaṃ, bhanteti rājā theraṃ jānantopi ajānanto viya pucchati. kasmā? pasaṃsitukāmatāya. ānandarūpoti ānandasabhāvo. brahmapucchāpi vuttanayeneva veditabbā. atha kho aññataro purisoti sā kira kathā viṭaṭūbheneva kathitā, te “tayā kathitā, tayā kathitā”ti kupitā aññamaññaṃ imasmiṃyeva ṭhāne attano attano balakāyaṃ uṭṭhāpetvā kalahampi kareyyunti nivāraṇatthaṃ so rājapuriso etadavoca. sesaṃ sabbattha uttānameva. ayaṃ pana desanā neyyapuggalassa vasena niṭṭhitāti.
382. Ko nāmo ayaṃ, bhante (bạch đức Thế Tôn, Tỳ khưu ấy tên gọi là gì?): đức vua dẫu biết được trưởng lão cũng vẫn hỏi như không biết. Tại sao? Bởi vì là vị muốn được khen ngợi. Ānandarūpo (thực tính đáng hoan hỷ): thực tính đáng hoan hỷ. Thậm chí hỏi đến Phạm thiên cũng nên hiểu theo cách thức như đã được trình bày. Atha kho aññataro puriso (rồi từ đó có một người…): được biết rằng lời nói ấy chính Viṭaṭūbha đã nói, dân chúng giận dữ nói rằng “ngài đã nói rồi, ngài đã nói rồi” mới cho quân lính của mình đứng dậy tạo ra cuộc tranh cãi lẫn nhau ở ngay tại nơi đó. Vệ quân ấy đã nói lời ấy để ngăn chặn lại. Từ còn lại trong các câu đều đơn giản. Lại nữa, Pháp thoại này kết thúc với mãnh lực của hạng người cần được dẫn dắt.
Giải Thích Kinh Kaṇṇakatthala Kết Thúc