Kinh số 89 – Giải Thích Kinh Pháp Trang Nghiêm
(Dhammacetiyasuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Pháp Trang Nghiêm
364. evaṃ V.3.249 P.3.348 me sutanti dhammacetiyasuttaṃ. tattha medāḷupanti nāmetaṃ tassa, tassa hi nigamassa medavaṇṇā pāsāṇā kirettha ussannā ahesuṃ, tasmā medāḷupanti saṅkhaṃ gataṃ. senāsanaṃ panettha aniyataṃ, tasmā na taṃ vuttaṃ. nagarakanti evaṃnāmakaṃ sakyānaṃ nigamaṃ. kenacideva karaṇīyenāti na aññena karaṇīyena, ayaṃ pana bandhulasenāpatiṃ saddhiṃ dvattiṃsāya puttehi ekadivaseneva gaṇhathāti āṇāpesi, taṃdivasañcassa bhariyāya mallikāya pañcahi bhikkhusatehi saddhiṃ bhagavā nimantito, buddhappamukhe bhikkhusaṅghe gharaṃ āgantvā nisinnamatte “senāpati kālaṅkato”ti sāsanaṃ āharitvā mallikāya adaṃsu. sā paṇṇaṃ gahetvā mukhasāsanaṃ pucchi. “raññā ayye senāpati saddhiṃ dvattiṃsāya puttehi ekappahāreneva gahāpito”ti ārocesuṃ. mahājanagataṃ mā karitthāti ovaṭṭikāya paṇṇaṃ katvā bhikkhusaṅghaṃ parivisi. tasmiṃ samaye ekā sappicāṭi nīharitā, sā ummāre āhacca bhinnā, taṃ apanetvā aññaṃ āharāpetvā bhikkhusaṅghaṃ parivisi.
364. Kinh Pháp Trang Nghiêm được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, medāḷupaṃ:là tên gọi thị trấn ấy. Được biết rằng thị trấn đó có một tảng đá có màu sắc tựa như mỡ đặc xuất hiện dày đặc ở nơi đó, cho nên được xem là Medāḷupa. Lại nữa, trú xứ ở thị trấn ấy cũng không chắc chắn, cho nên mới không được nhắc đến. Nagarakaṃ: một thị trấn của vua Sakya có tên như vậy. Kenacideva karaṇīyenā (vì một công việc cần làm nào đó): Không phải công việc nào khác, nhưng đức vua Pasenadi Kosala này đã truyền lệnh rằng: Các người hãy bắt Tướng quân Bandhula cùng với 32 người con của vị ấy cho bằng được trong vòng một ngày. Cũng trong chính ngày hôm ấy phu nhân Mallikā thê tử của Tướng quân Bandhula ấy thỉnh mời đức Phật cùng với 500 vị Tỳ khưu, Tăng chúng có đức Phật là vị cầm đầu đi đến tư gia (của Mallikā) sau khi an toạ, vị cận vệ cũng mang chiếu thư về: ‘Tướng quân Bandhula tử trận’ đến cho bà Mallikā. Sau khi bà nhận được chiếu thư đã hỏi rằng: tin lành (hay tin dữ). (Cận vệ) đã trình sự việc: “Vua đã ra lệnh cho bắt giữ Tướng quân cùng với 32 vị công tử hành quyết cùng lúc thưa bà”. Bà nói rằng: Ngươi chớ có tiết lộ chuyện này đến đại chúng, rồi lấy chiếu thư bỏ vào túi nhỏ mang đi, rồi cúng dường vật thực đến Tăng chúng. Vào lúc đó, người đầy tớ bưng một lọ bơ lỏng đến (vô tình) cái lọ bơ lỏng đụng vào ngạch cửa làm vỡ chiếc lọ, (bà) đã ra lệnh cho mang một lọ khác đến cúng dường cho Chư tăng.
satthā katabhattakicco kathāsamuṭṭhāpanatthaṃ — “sappicāṭiyā bhinnapaccayā na cintetabban”ti āha. tasmiṃ samaye mallikā paṇṇaṃ nīharitvā P.3.349 bhagavato purato ṭhapetvā — “bhagavā imaṃ dvattiṃsāya puttehi saddhiṃ senāpatino matasāsanaṃ, ahaṃ etampi na cintayāmi, sappicāṭipaccayā kiṃ cinteyyāmī”ti āha. bhagavā — “mallike, mā cintayi, anamatagge saṃsāre nāma vattamānānaṃ hoti etan”ti aniccatādipaṭisaṃyuttaṃ dhammakathaṃ katvā agamāsi. mallikā dvattiṃsasuṇisāyo pakkosāpetvā ovādaṃ adāsi. rājā mallikaṃ pakkosāpetvā “senāpatino amhākaṃ antare M.3.241 bhinnadoso atthi natthī”ti pucchi. natthi sāmīti. so tassā vacanena tassa niddosabhāvaṃ ñatvā vippaṭisārī balavadomanassaṃ uppādesi. so — “evarūpaṃ nāma adosakārakaṃ maṃ sambhāvayitvā āgataṃ sahāyakaṃ vināsesin”ti tato paṭṭhāya pāsāde vā nāṭakesu vā rajjasukhesu vā cittassādaṃ alabhamāno tattha tattha vicarituṃ āraddho. etadeva kiccaṃ ahosi. idaṃ sandhāya vuttaṃ “kenacideva karaṇīyenā”ti.
Sau khi thọ dụng vật thực hoàn tất, bậc Đạo Sư đã nói rằng: “Bà tín nữ không nên suy nghĩ vì cái lọ bơ lỏng bị vỡ” để tạo lập kệ ngôn. Trong lúc ấy, bà Mallikā mới mang chiếu thư ra đặt ở trước mặt của đức Thế Tôn rồi nói rằng: “kính bạch đức Tôn, đây là tin tức về các chết của Tướng quân cùng với 32 đứa con (của con), con còn không nghĩ đến chuyện ấy thì xá gì cái lọ bơ lỏng bị vỡ.” – Đức Thế Tôn đã thuyết vấn đề Pháp có liên đến (Tam Tướng) có sự vô thường v.v, “Này Mallikā, đừng suy nghĩ (quá nhiều), trong vòng tử sanh luân hồi mà bất kỳ ai cũng không thể biết được điểm bắt đầu và điểm kết thúc đang vận hành như thế rồi ngài ra về.” Bà Mallikā cho gọi 32 đứa con dâu đến dạy bảo. Vua cho truyền bà Mallikā đến diện kiến rồi hỏi rằng: “Giữa Tướng quân với trẫm có những mối chia rẽ (điều đó) có hay không?” – Không có thưa bệ hạ. Đức vua biết rằng: Tướng quân ấy không mắc vào bất kỳ sai phạm nào theo lời của nàng, thế nên vị ấy đã khởi lên cảm thọ khổ ưu vô cùng dữ dội. Đức vua nghĩ rằng – “Trẫm đã đưa một trung thần hết lòng trung thành với trẫm, thực hiện những điều không thể tìm thấy lỗi lầm bằng hình thức như thế đến chỗ hủy diệt.” Khởi sự từ đó, (đức vua) cũng không được thoải mái ở trong Hoàng cung, hoặc ở nơi các vũ công, hoặc sự an lạc với vương vị, bắt đầu đi quanh quẩn ở chỗ này chỗ nọ. Chính phận sự này đã có muốn đề cập đến chuyện này đã nói rằng: “vì một công việc cần làm nào đó”.
dīghaṃ V.3.250 kārāyananti dīghakārāyano nāma bandhulasenāpatissa bhāgineyyo “etassa me mātulo adosakārako nikkāraṇena ghātito”ti raññā senāpatiṭṭhāne ṭhapito. taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ. mahaccā rājānubhāvenāti mahatā rājānubhāvena P.3.350, dharaṇitalaṃ bhindanto viya sāgaraṃ parivattento viya vicittavesasobhena mahatā balakāyenāti attho. pāsādikānīti dassaneneva saha rañjanakāni. pasādanīyānīti tasseva vevacanaṃ. atha vā pāsādikānīti pasādajanakāni. appasaddānīti nissaddāni. appanigghosānīti avibhāvitatthena nigghosena rahitāni. vijanavātānīti vigatajanavātāni. manussarāhasseyyakānīti manussānaṃ rahassakammānucchavikāni, rahassamantaṃ mantentānaṃ anurūpānīti attho. paṭisallānasāruppānīti nilīyanabhāvassa ekībhāvassa anucchavikāni. yattha sudaṃ mayanti na tena tattha bhagavā payirupāsitapubbo, tādisesu pana payirupāsitapubbo, tasmā yādisesu sudaṃ mayanti ayamettha attho.
dīghaṃ kārāyanaṃ (tên là Dīgha Kārāyana): Dīgha Kārāyana là cháu của Tướng quan Bandhula nghĩ rằng: “Đức vua đã giết bác cua ta, vị đã không gây ra bất cứ lỗi lầm bởi không có lý do” mà đức vua đã phong tước vụ Tướng quân. Lời đó ngài nói liên quan đến vấn đề này. mahaccā rājānubhāvena: với uy quyền của vua chúa. Có nghĩa là với đội quân binh vô cùng nguy nga với hình tướng đa dạng cứ như thể bề mặt quả địa cầu bị phá hủy, tựa như biển cả chuyển mình. Pāsādikāni (đáng tịnh tín): làm cho khởi lên sự tính tín cùng với đáng được nhìn thấy. Pasādanīyāni: là một từ đồng nghĩa với từ đó (tịnh tín), hơn nữa, Pāsādikāni bao gồm đáng nhìn. Pasādanīyāni bao gồm làm sanh khởi lòng thành tín. Appasaddāni là ít âm thanh. Appanigghosāni: ít tiếng ồn, do ý nghĩa rằng: không hiện hữu. Vijanavātāni (tránh xa chỗ người đi tới lui): tách biệt sự di chuyển qua lại của dân chúng. Manussarāhasseyyakāni: Thuận tiện cho việc làm có thể thực hiện nơi kín của loài người, bởi ý nghĩa thích hợp cho người thảo luận để tìm kiếm điều bí mật. Paṭisallānasāruppāni (thích hợp làm chỗ thiền tịnh): Thích hợp tính chất làm nơi để con người thiền tịnh là trạng thái độc cư. yattha sudaṃ mayaṃ (chính tại ở chỗ này): Đức Thế Tôn chưa từng đi đến nơi đó, ở trong lời này có ý nghĩa như sau: đức Thế Tôn nên đi vào nơi như thế ấy, bởi vì nơi đó là nơi làm cho tất cả chúng ta có sự an lạc.
atthi, mahārājāti paṇḍito senāpati “rājā bhagavantaṃ mamāyatī”ti jānāti, so sace maṃ rājā “kahaṃ bhagavā”ti vadeyya, adandhāyantena ācikkhituṃ yuttanti carapurise payojetvā bhagavato nivāsanaṭṭhānaṃ ñatvāva viharati. tasmā evamāha. ārāmaṃ pāvisīti bahinigame khandhāvāraṃ bandhāpetvā kārāyanena saddhiṃ pāvisi.
atthi, mahārājā (có, thưa Đại vương…): Tướng quân là bậc hiền trí biết rằng: “đức vua tôn kính đức Thế Tôn,” Vị ấy đã gửi một thám tử cho đến khi biết trú xứ của đức Thế Tôn với suy nghĩ rằng: “nếu như đức vua hỏi ta ‘đức Thế Tôn an trú ở đâu?’ sẽ trả lời không vội vã, cho nên mới nói như thế. Ārāmaṃ pāvisi (đi đến vườn thượng uyển): đã cho dựng lều trại ở bên ngoài thị trấn, ngài đi vào với tướng quân Kārāyana.
366. vihāroti gandhakuṭiṃ sandhāyāhaṃsu. āḷindanti P.3.351 pamukhaṃ. ukkāsitvāti ukkāsitasaddaṃ katvā. aggaḷanti kavāṭaṃ. ākoṭehīti agganakhena īsakaṃ kuñcikacchiddasamīpe koṭehīti vuttaṃ hoti. dvāraṃ kira atiupari amanussā, atiheṭṭhā dīghajātikā koṭenti. tathā akoṭetvā M.3.242 majjhe chiddasamīpe koṭetabbaṃ, idaṃ dvārakoṭṭakavattanti dīpentā vadanti. tatthevāti bhikkhūhi vuttaṭṭhāneyeva. khaggañca uṇhīsañcāti desanāmattametaṃ,
366. Ngài đã nói rằng ‘vihāro, trú xứ’ đề cập đến Hương Thất. āḷindaṃ (đằng hắng) nghĩa là thềm nhà. Ukkāsitvā là tạo ra tiếng đằng hắng. Aggaḷaṃ (cánh cửa) là gõ vào cánh cửa. Ākoṭehi (gõ): ngài nói để giải thích rằng hãy gõ vào gần ổ khóa cửa từ từ bằng đầu móng tay. Được biết rằng những phi nhân gõ cửa (ở chỗ) quá cao, còn Dīgha Kārāyana thì gõ quá thấp, nên ngài mới gõ như vậy, là gõ ở gần chính giữa, đây cũng cách ứng xử trong việc gõ cửa mà các bậc tiền bối đã thể hiện. Tattheva là ở nơi mà chư Tỳ khưu đã nói. Khaggañca uṇhīsañcā (thanh gươm và vương miện): đây chỉ là cuộc đàm thoại.
vālabījanimuṇhīsaṃ, khaggaṃ chattañcupāhanaṃ.
oruyha rājā yānamhā, ṭhapayitvā paṭicchadanti. —
āgatāni pana pañcapi rājakakudhabhaṇḍāni adāsi. kasmā pana adāsīti. atigaruno sammāsambuddhassa V.3.251 santikaṃ uddhatavesena gantuṃ na yuttanti ca, ekakova upasaṅkamitvā attano rucivasena sammodissāmi cāti. pañcasu hi rājakakudhabhaṇḍesu nivattitesu tvaṃ nivattāti vattabbaṃ na hoti, sabbe sayameva nivattanti. iti imehi dvīhi kāraṇehi adāsi. rahāyatīti rahassaṃ karoti nigūhati. ayaṃ kirassa adhippāyo “pubbepi ayaṃ rājā samaṇena gotamena saddhiṃ catukkaṇṇamantaṃ mantetvā mayhaṃ mātulaṃ saddhiṃ dvattiṃsāya puttehi gaṇhāpesi, idānipi catukkaṇṇamantaṃ mantetukāmo, kacci nu kho maṃ gaṇhāpessatī”ti. evaṃ kopavasenassa etadahosi.
Đức vua đã trao năm biểu trưng và y phục (của ngài đến Dīgha Kārāyana) là quạt lông đuôi bò, vương miện, cây gươm, lọng che, và đôi hài.
Sau khi bước xuống từ cỗ xe, đức vua đã để lại áo khoác ngoài. —
Và tại sao đức vua lại trao (năm biểu trưng và y phục của ngài đến Tướng quân)? Bởi vì không thích hợp đi vào trú xứ của bậc Chánh đẳng Chánh giác, bậc tôn kính tối thượng với hình tướng cao quý và nghĩ rằng: chỉ đến gặp một mình đức Phật để đàm luận theo ý muốn của ngài. Hơn nữa trong năm biểu trưng và y phục của ngài được trao trở lại thì cũng không nên nói rằng: Ngài hãy trở về. Tất cả đều tự quay trở lại. Đức vua đã trao lại (năm biểu trưng và y phục của ngài) với 2 lý do như đã nói đến như vầy. Rahāyati (muốn đi một mình): hành động bí mật, là che giấu. Được biết rằng Tướng quân mong muốn như vầy rằng vị vua này trước đây cũng hỏi ý kiến về catukkaṇṇamanta với Sa-môn Gotama, rồi cho bắt giữ bác của ta cùng với 32 đứa cháu trai, ngay cả lần này chắc có lẽ (đức vua) cũng hỏi ý kiến về catukkaṇṇamanta để ra lệnh bắt ta nữa phải chăng? Vị Tướng quân đã có suy nghĩ như vậy bởi do mãnh lực của lòng thù hận.
Vivari P.3.352 bhagavā dvāranti na bhagavā uṭṭhāya dvāraṃ vivari, vivaratūti pana hatthaṃ pasāresi. tato — “bhagavā tumhehi anekesu kappakoṭīsu dānaṃ dadamānehi na sahatthā dvāravivaraṇakammaṃ katan”ti sayameva dvāraṃ vivaṭaṃ. taṃ pana yasmā bhagavato manena vivaṭaṃ, tasmā “vivari bhagavā dvāran”ti vattuṃ vaṭṭati. vihāraṃ pavisitvāti gandhakuṭiṃ pavisitvā. tasmiṃ pana paviṭṭhamatteyeva kārāyano pañca rājakakudhabhaṇḍāni gahetvā khandhāvāraṃ gantvā viṭaṭūbhaṃ āmantesi “chattaṃ samma ussāpehī”ti. mayhaṃ pitā kiṃ gatoti? pitaraṃ mā puccha, sace tvaṃ na ussāpesi, taṃ gaṇhitvā ahaṃ ussāpemīti. “ussāpemi sammā”ti sampaṭicchi. kārāyano rañño ekaṃ assañca asiñca ekameva ca paricārikaṃ itthiṃ ṭhapetvā — “sace rājā jīvitena atthiko, mā āgacchatū”ti viṭaṭūbhassa chattaṃ ussāpetvā taṃ gahetvā sāvatthimeva gato.
vivari bhagavā dvāraṃ (đức Thế Tôn mở cửa): đức Thế Tôn đã không đứng dậy mở cửa, nhưng ngài dơ cánh tay ra nói rằng hãy mở ra. Từ đó cánh cửa tự động ở ra “kính bạch đức Thế Tôn, ngài khi bố thí trong kappakoṭi không phải ích, không từng tạo nghiệp là việc ngăn cánh cửa bằng cánh tay của ngà.” Cánh cửa ấy đã mở ra bởi cánh tay của đức Thế Tôn, bởi thế nên nói rằng “đức Thế Tôn đã mở cánh cửa”. vihāraṃ pavisitvā (ngài bước vào căn nhà): đã bước vào Hương Thất. Khi đức vua vừa bước vào thì tướng quân Kārāyana đã lấy năm biểu trưng và y phục quay trở lại lều (và) cho truyền Viṭaṭūbha đến nói rằng “ngày bạn yêu quý hãy nâng cây lọng lên”. Viṭaṭūbha hỏi rằng: “Phụ thân của tôi đã đi rồi phải không? – đừng hỏi đến phụ thân (của bạn) nếu bạn không nâng lên thì tôi sẽ tự mình nâng cây lọng lên. – Viṭaṭūbha mới nói răng: – này bạn, tôi sẽ tự mình nâng lên. Tướng quân Kārāyana đã bỏ lại một con ngựa cho đức vua, một thanh gươm, một vũ công rồi ra lệnh rằng: Nếu đức vua muốn giữ mạng thì đừng đi theo, rồi nâng cây lọng đưa Viṭaṭūbha, rồi dẫn Viṭaṭūbha ấy tiến thẳng vào thành Sāvatthi.
367. dhammanvayoti M.3.243 paccakkhañāṇasaṅkhātassa dhammassa anunayo anumānaṃ, anubuddhīti attho. idāni yenassa dhammanvayena “sammāsambuddho bhagavā”tiādi hoti, taṃ dassetuṃ idha panāhaṃ, bhantetiādimāha. tattha āpāṇakoṭikanti pāṇoti jīvitaṃ, taṃ mariyādaṃ anto karitvā, maraṇasamayepi carantiyeva, taṃ na vītikkamantīti vuttaṃ hoti. “apāṇakoṭikan”tipi pāṭho, ājīvitapariyantanti attho. yathā P.3.353 ekacce jīvitahetu atikkamantā pāṇakoṭikaṃ katvā caranti, na evanti attho. ayampi kho me, bhanteti buddhasubuddhatāya dhammasvākkhātatāya saṅghasuppaṭipannatāya ca etaṃ evaṃ hoti, evañhi me, bhante, ayaṃ bhagavati dhammanvayo hotīti dīpeti. eseva nayo sabbattha.
367. Dhammanvayo (có lòng tịnh tín trong Giáo Pháp): có nghĩa là đã biết rõ theo, là sự suy luận, là hiểu được Pháp, được xem là paccakkhañāṇa1. “Đức Thế Tôn, bậc Chánh đẳng Chánh giác” như thế v.v, có cùng đức vua ấy với sự hiểu biết theo Pháp nào để trình bày sự hiểu biết theo Pháp đó đã nói rằng “idha panāhaṃ, bhante (còn ở đây, bạch Thế Tôn…)”. Ở đó, āpāṇakoṭikaṃ (cho đến hơi thở cuối cùng): mạng sống gọi là hơi thở, đã tạo ranh giới của mạng sống có hơi thở là tận cùng ấy đặt ở bên trong, ngay cả vào thời điểm sắp lâm chung cũng vẫn đi du hành, ngài nói rằng không thể vượt qua khỏi hơi thở ấy. Pāḷī ‘apāṇakoṭikaṃ’ như vầy cũng có, có nghĩa là có sự sống (hơi thở) là nơi cuối cùng. Có nghĩa là một số người đang vượt qua không thực hành sự sống có hơi thở là điểm cuối cùng đi du hanh do nhân mạng sống như thế nào, chư Tỳ khưu không như thế ấy. ayampi kho me, bhante (kính thưa đức Thế Tôn, chính điều này…của trẫm): các nhà Chú giải sư trình bày rằng: câu này là như thế này bởi vì đức Phật đã khéo giác ngộ, Chánh Pháp được đức Thế Tôn khéo thuyết và Chư Tăng là những vị đã khéo thực hành, kính bạch đức Thế Tôn, lòng tịnh tín đối với Pháp, đối với đức Thế Tôn của trẫm này là như vậy. Trong các câu cũng có cách thức như thế.
369. na V.3.252 viya maññe cakkhuṃ bandhanteti cakkhuṃ abandhante viya. apāsādikañhi disvā puna olokanakiccaṃ na hoti, tasmā so cakkhuṃ na bandhati nāma. pāsādikaṃ disvā punappunaṃ olokanakiccaṃ hoti, tasmā so cakkhuṃ bandhati nāma. ime ca apāsādikā, tasmā evamāha. bandhukarogo noti kularogo. amhākaṃ kule jātā evarūpā hontīti vadanti. uḷāranti mahesakkhaṃ. pubbenāparanti pubbato aparaṃ visesaṃ. tattha kasiṇaparikammaṃ katvā samāpattiṃ nibbattento uḷāraṃ pubbe visesaṃ sañjānāti nāma, samāpattiṃ padaṭṭhānaṃ katvā vipassanaṃ vaḍḍhetvā arahattaṃ gaṇhanto uḷāraṃ pubbato aparaṃ visesaṃ sañjānāti nāma.
369. na viya maññe cakkhuṃ bandhante (có vẻ như không dính líu con mắt): Giống như không trói buộc con mắt. Bởi vì sau khi nhìn không đáng tin tưởng, không thực hiện nhiệm vụ trong việc quan sát nữa, vì thế vị ấy mới gọi là không trói buộc con mắt. Còn sau khi nhìn thấy đáng tin tưởng rồi thực hành phận sự trong việc thường xuyên quan sát, vì thế vị ấy gọi là trói buộc con mắt. Cũng những vị này là người không đáng tin tưởng, cho nên đức vua đã nói như vậy. Bandhukarogo (chúng tôi bị bệnh gia truyền): chính chúng tôi có bệnh gia truyền. Các thầy đã nói rằng: có bệnh như thế đã phát sanh ở trong dòng tộc của tất cả chúng tôi. Uḷāraṃ (cao quý): có quyền lực lớn. Pubbenāparaṃ (khác so với trước đây): đặc biệt cao quý khác so với trước đây, là đã thực hiện sự chuẩn bị đề mục biến xứ thiền định đến khi sanh khởi thiền chứng gọi là hiểu biết rộng, là (Pháp) đặc biệt cao quý hơn trước hơn trước trong lời ấy. Thực hành thiền chứng trở thành nền tảng tu tập Minh sát, nắm lấy quả vị A-ra-hán gọi là biết rộng, là (Pháp) đặc biệt cao quý hơn trước.
370. ghātetāyaṃ vā ghātetunti ghātetabbayuttakaṃ ghātetuṃ. jāpetāyaṃ vā jāpetunti dhanena vā jāpetabbayuttakaṃ jāpetuṃ jānituṃ adhanaṃ kātuṃ. pabbājetāyaṃ vā pabbājetunti raṭṭhato vā pabbājetabbayuttakaṃ pabbājetuṃ.
370. ghātetāyaṃ vā ghātetuṃ: có thể hành quyết những ai đáng bị hành quyết. jāpetāyaṃ vā jāpetuṃ: sẽ tịch thu tài sản của người đáng bị tịch thu, làm cho suy thoái không có tài sản. pabbājetāyaṃ vā pabbājetuṃ: trục xuất những ai đáng bị trục xuất ra khỏi quốc độ.
373. isidattapurāṇāti P.3.354 isidatto ca purāṇo ca. tesu eko brahmacārī, eko sadārasantuṭṭho. mamabhattāti mama santakaṃ bhattaṃ M.3.244 etesanti mamabhattā. mamayānāti mama santakaṃ yānaṃ etesanti mamayānā. jīvikāya dātāti jīvitavuttiṃ dātā. vīmaṃsamānoti upaparikkhamāno. tadā kira rājā niddaṃ anokkantova okkanto viya hutvā nipajji. atha te thapatayo “katarasmiṃ disābhāge bhagavā”ti pucchitvā “asukasmiṃ nāmā”ti sutvā mantayiṃsu — “yena sammāsambuddho, tena sīse kate rājā pādato hoti. yena rājā, tena sīse kate satthā pādato hoti, kiṃ karissāmā”ti? tato nesaṃ etadahosi — “rājā kuppamāno yaṃ amhākaṃ deti, taṃ acchindeyya. na kho pana mayaṃ sakkoma jānamānā satthāraṃ pādato kātun”ti rājānaṃ pādato katvā nipajjiṃsu. taṃ sandhāya ayaṃ rājā evamāha.
373. Isidattapurāṇā là Isidatto và Purāṇo, trong số 2 người ấy, một người Thực hành phạm hạnh, người còn lại tự bằng lòng với vợ mình. Mamabhattā (đang ăn cơm của trẫm): gọi là thức ăn của trẫm bởi ý nghĩa thức ăn thuộc sở hữu của trẫm, có cho những người ấy. Mamayānā (sử dụng xe của trẫm): gọi là xe cộ của trẫm với ý nghĩa xe cộ thuộc sở hữu của trẫm. jīvikāya dātā (sinh sống do ta cho): là người ban cho sự sống. Vīmaṃsamān (trong khi suy xét) là trong khi khảo sát. Được biết rằng trong thời gian đó đức vua không nằm ngủ chút nào, ngài nằm xuống như đang ngủ. Khi ấy ngài hỏi những người thợ mộc ấy: “đức Thế Tôn an trú ở hướng nào?” khi ấy đã được nghe rằng: “ở hướng đằng kia” mới hội ý rằng: “khi chúng ta xoay đầu về hướng bậc Chánh đẳng Chánh giác an trú, xoay chân hướng này, nếu như bậc Đạo Sư xoay đầu về hướng mà đức vua đang an trú, xoay chân hướng này thì chúng ta sẽ làm như thế nào?” Từ đó những người thọ mộc mới nghĩ rằng: “đức vua sẽ không hài lòng, ngài đã từng ban cho chúng ta những thứ nào, có thể sẽ cắt bỏ những thứ ấy. Những người thợ mộc nói rằng: ‘chúng ta không thể xoay chân về hướng bậc Đạo Sư, nên đã xoay chân về hướng của đức vua rồi mới nằm xuống. Đức vua này muốn đề cập đến câu này nên đã nói như thế.
374. pakkāmīti gandhakuṭito nikkhamitvā kārāyanassa ṭhitaṭṭhānaṃ gato, taṃ tattha adisvā khandhāvāraṭṭhānaṃ gato, tatthāpi aññaṃ adisvā taṃ itthiṃ pucchi. sā sabbaṃ pavattiṃ ācikkhi. rājā — “na idāni mayā ekakena tattha gantabbaṃ, rājagahaṃ gantvā bhāgineyyena saddhiṃ āgantvā mayhaṃ rajjaṃ gaṇhissāmī”ti rājagahaṃ gacchanto antarāmagge kaṇājakabhattañceva V.3.253 bhuñji, bahalaudakañca pivi. tassa sukhumālapakatikassa āhāro na sammā pariṇāmi. so rājagahaṃ pāpuṇantopi vikāle dvāresu pihitesu P.3.355 pāpuṇi. “ajja sālāyaṃ sayitvā sve mayhaṃ bhāgineyyaṃ passissāmī”ti bahinagare sālāya nipajji. tassa rattibhāge uṭṭhānāni pavattiṃsu, katipayavāre bahi nikkhami.
374. pakkāmi (sẽ rời khỏi): đức vua đã rời khỏi Hương Thất đi đến chỗ Tướng quân Kārāyana, không nhìn thấy vị ấy ở nơi đó, mới đi đến lều trại chỗ nghỉ ngơi của binh lính. Thậm chí ở chỗ đó cũng không nhìn thấy bất cứ ai, ngài mới hỏi người nữ ấy, người nữ ấy mới tâu lại toàn bộ sự việc đến đức vua biết. Đức vua nghĩ rằng: “bây giờ ta không nên đi vào thành (Sāvatthi) một mình, ta sẽ đi đến thành Rājagaha, trở về với cháu trai, để giành lại vương quyền của ta” trong khi đi đến thành Rājagaha ngài đã thọ dụng cháo được nấu bằng gạo tấm, uống nước đục ở giữa đường. Món ăn của ngài thường là những món cao lương mỹ vị, không dễ tiêu hóa, mặc dù ngài đã đến thành Rājagaha vào lúc sái thời, đến lúc cổng thành đã đóng. Ngài suy nghĩ rằng “đêm nay ta sẽ ngủ ở cái chòi này, vào ngày mai sẽ đi tìm cháu trai của ta” ngài đã nằm ngủ ở cái chòi ở bên ngoài thành. Ngài đứng dậy suốt đêm để đi ra bên ngoài nhiều lần.
tato paṭṭhāya padasā gantuṃ asakkonto tassā itthiyā aṅke nipajjitvā balavapaccūse kālamakāsi. sā tassa matabhāvaṃ ñatvā — “dvīsu rajjesu rajjaṃ kāretvā idāni parassa bahinagare anāthasālāya anāthakālakiriyaṃ katvā nipanno mayhaṃ sāmi kosalarājā”tiādīni vadamānā uccāsaddena paridevituṃ ārabhi. manussā sutvā rañño ārocesuṃ. rājā āgantvā disvā sañjānitvā āgatakāraṇaṃ ñatvā mahāparihārena sarīrakiccaṃ karitvā “viṭaṭūbhaṃ gaṇhissāmī”ti bheriṃ carāpetvā balakāyaṃ sannipātesi. amaccā pādesu patitvā — “sace, deva, tumhākaṃ mātulo arogo assa, tumhākaṃ gantuṃ yuttaṃ bhaveyya, idāni pana viṭaṭūbhopi tumhe M.3.245 nissāya chattaṃ ussāpetuṃ arahatiyevā”ti saññāpetvā nivāresuṃ.
Kể từ đó ngài cũng không thể bước đi bằng đôi chân của mình nữa, đã nằm lên trên bắp chân của người nữa ấy, khi trời gần sáng thì ngài băng hà. Người nữ ấy biết rằng đức vua đã băng hà cũng bắt đầu than van khóc lóc ầm ĩ rằng: “bây giờ đức vua Kosala phu quân của ta thọ hưởng vương quyền trong cả hai quốc độ, đến nằm ngủ đã băng hà như người khốn khổ ở cái chòi của người không nơi nương tựa ở ngoài thành của người khác v.v.” Mọi người nghe tin đã đến thông báo cho nhà vua. Đức vua đã đến, đã thấy, đã nhận diện được, đã biết được lý do mà ngài đến, sắp xếp cử hành mai táng một cách long trọng, cho quân lính đánh trống để thông báo rằng: “Ta sẽ bắt vua Viṭaṭūbha” tập hợp binh lính chuẩn bị sẵn sàng. Các quan đại thần cùng nhau đến quỳ dưới đôi bàn chân tâu rằng: “Tâu bệ hạ, nếu như vua bác của ngài không có bệnh, ngài nên đi, nhưng bây giờ ngay trong khi vua Viṭaṭūbha thích hợp nâng cây lọng trắng lên do nương nhờ hoàn toàn vào ngài” khi đã thuyết phục (các vị) đã ngăn cản.
dhammacetiyānīti dhammassa cittīkāravacanāni. tīsu hi ratanesu yattha katthaci cittīkāre kate sabbattha katoyeva hoti, tasmā bhagavati cittīkāre kate dhammopi katova hotīti bhagavā “dhammacetiyānī”ti āha. ādibrahmacariyakānīti maggabrahmacariyassa ādibhūtāni, pubbabhāgapaṭipattibhūtānīti attho. sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
dhammacetiyāni (Pháp trang nghiêm): là lời nói thể hiện sự tôn kính Giáo Pháp. Thật vậy, khi thể hiện sự tôn kính đối với Pháp Bảo một trong ba ngôi báu cũng chính là thể hiện sự tôn kính hoàn toàn vào các ngôi báu. Bởi thế khi thể hiện sự tôn kính đối với đức Thế Tôn cũng chính là thể hiện sự tôn kính đối với Giáo Pháp, chính vì thế đức Thế Tôn đã thuyết “Pháp trang nghiêm”. Ādibrahmacariyakāni (khởi đầu của Phạm hạnh): đây là khởi đầu của con đường thực hành Phạm hạnh, tức là pháp hành ở phần khởi đầu (pubbabhāgapaṭipattibhūta). Từ còn lại trong các câu đều đơn giản.
Giải Thích Kinh Pháp Trang Nghiêm Kết Thúc.
1Paccakkhañāṇa là trí tuệ trực tiếp biết rõ nhân duyên sanh khởi của mỗi Danh pháp, mỗi Sắc pháp bên trong của mình.