Kinh số 88 – Giải Thích Kinh Bāhitika
(Bāhitakasuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Bāhitika
358. evaṃ V.3.247 me sutanti bāhitikasuttaṃ. tattha ekapuṇḍarīkaṃ nāganti evaṃnāmakaṃ hatthiṃ. tassa kira phāsukānaṃ upari tālaphalamattaṃ paṇḍaraṭṭhānaṃ atthi M.3.239, tenassa ekapuṇḍarīkoti nāmaṃ akaṃsu. sirivaḍḍhaṃ mahāmattanti paccekahatthiṃ abhiruhitvā kathāphāsukatthaṃ saddhiṃ gacchantaṃ evaṃnāmakaṃ mahāmattaṃ. āyasmānoti ettha noti pucchāya nipāto. mahāmatto therassa saṅghāṭipattadhāraṇākāraṃ sallakkhetvā “evaṃ, mahārājā”ti āha.
358. Kinh Bāhitika được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, ekapuṇḍarīkaṃ nāgaṃ (con voi tên là Ekapuṇḍarīka): Con voi có tên như vậy. Được biết rằng phía trên phần xương sườn của long tượng ấy có màu trắng to bằng quả thốt nốt, bởi thế (họ) mới đặt tên cho long tượng ấy là Ekapuṇḍarīka. Sirivaḍḍhaṃ mahāmattaṃ (vị đại thần tên Sirivaḍḍhaṃ): Vị quan đại thần có tên như vậy, bước lên một giống con voi riêng biệt khác cùng đi để trò chuyện được thuận tiện. Từ ‘no’ trong từ ‘āyasmāno’ này là phân từ được sử dụng để hỏi. Quan đại thần đã quan sát hành động mang thượng y và bình bát của trưởng lão, mới tâu rằng: “Tâu đại vương, như vậy…”
359. opārambhoti upārambhaṃ dosaṃ āropanāraho. kiṃ pucchāmīti rājā pucchati. sundarivatthusmiṃ uppannamidaṃ suttaṃ, taṃ pucchāmīti pucchati. yañhi mayaṃ, bhanteti, bhante, yaṃ mayaṃ viññūhīti idaṃ padaṃ gahetvā pañhena paripūretuṃ nāsakkhimhā, taṃ kāraṇaṃ āyasmatā evaṃ vadantena paripūritaṃ.
359. Opārambho (có thể quở trách): đáng khiển trách, là xứng đáng để buộc tội. Đức vua hỏi rằng: ‘trẫm sẽ hỏi như thế nào’. Đức vua hỏi rằng: bài kinh này xuất hiện trong câu chuyện tuyệt đẹp, ta sẽ hỏi câu chuyện đó. yañhi mayaṃ, bhante (thưa ngài, điều mà trẫm…): Kính bạch ngài, tất cả chúng tôi không thể giữ lấy câu: “điều mà Sa-môn Bà-la-môn biết rõ” này nào cho được đầy đủ trong một câu hỏi, lý do đó, tôn giả Ānanda đã nói như vầy một cách đầy đủ.
360. akusaloti akosallasambhūto. sāvajjoti P.3.347 sadoso. sabyābajjhoti sadukkho. dukkhavipākoti idha nissandavipāko kathito. tassāti tassa evaṃ attabyābādhādīnaṃ atthāya pavattakāyasamācārassa.
360. Akusalo (bất thiện): khởi lên bởi sự không khéo léo. Sāvajjo (có lỗi lầm): có lỗi lầm. Sabyābajjho (có sự hãm hại): vận hành bởi khổ đau. Dukkhavipāko (có khổ là kết quả): ngài nói đến kết quả được chảy ra. Tassa (thân hành đó): Thân hành đó được vận hành vì mục đích của sự hãm hại chính mình v.v, như đã được trình bày.
sabbākusaladhammapahīno kho, mahārāja, tathāgato kusaladhammasamannāgatoti ettha sabbesaṃyeva akusalānaṃ dhammānaṃ pahānaṃ vaṇṇetīti. āma vaṇṇetīti vutte yathā pucchā, tathā attho vutto bhaveyya. evaṃ byākaraṇaṃ pana na bhāriyaṃ. appahīnākusalopi hi pahānaṃ vaṇṇeyya, bhagavā pana pahīnākusalatāya yathākārī tathāvādīti dassetuṃ evaṃ byākāsi. sukkapakkhepi eseva nayo.
Thưa Đại vương, Như Lai đã đoạn trừ tất cả bất thiện pháp và thành tựu các thiện pháp: (hỏi rằng) tán thán việc dứt trừ hết thảy các bất thiện pháp phải chăng? Khi ngài Ānanda nói rằng ‘thưa Đại vương, được tán thán’ câu hỏi có bởi cách nào, có thể ngài đã nói ý nghĩa với cách ấy. Hơn nữa, trả lời như vậy không thể trở thành gánh nặng bởi vì người vẫn chưa dứt trừ bất thiện, cũng nên tán thán việc dứt trừ, hơn nữa để trình bảy rằng: đức Thế Tôn đã thực hành như thế nào, thì cũng nói như thế ấy, bởi vì đã dứt trừ bất thiện, nên mới nói như thế. Ngay cả phần Pháp trắng cũng có cách thức tương tự.
362. bāhitikāti bāhitiraṭṭhe uṭṭhitavatthassetaṃ nāmaṃ. soḷasasamā āyāmenāti āyāmena samasoḷasahatthā. aṭṭhasamā vitthārenāti vitthārena samāṭṭhahatthā.
362. Bāhitikā: đây là tên gọi của một loại vải được sản xuất ở trong thành Bāhiti. soḷasasamā āyāmenā (dài mười sáu khuỷu tay): dài khoảng mười sáu khuỷu tay. aṭṭhasamā vitthārena: chiều rộng khoảng tám khuỷu tay.
363. bhagavato V.3.248 pādāsīti bhagavato niyyātesi. datvā ca pana gandhakuṭiyaṃ vitānaṃ katvā bandhi. tato paṭṭhāya gandhakuṭi bhiyyosomattāya M.3.240 sobhi. sesaṃ sabbattha uttānameva. neyyapuggalassa pana vasena ayaṃ desanā niṭṭhitāti.
363. Đã cúng dường (tấm vải Bāhitikā) đến đức Thế Tôn: Đã cúng dường đến đức Thế Tôn. Và hơn nữa, sau khi đã cúng dường đã buộc lại làm thành mái che ở Gandhakuṭi. Từ đó Gandhakuṭi càng trở nên xinh đẹp hơn mong đợi. Từ còn lại ở các câu đều đơn giản. Hơn nữa, Pháp thoại này kết thúc bởi năng lực của hạng người cần được dẫn dắt.
Giải Thích Kinh Bāhitika Kết Thúc