Kinh số 87 – Giải Thích Kinh Ái Sanh
(Piyajātikasuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Ái Sanh
353. evaṃ V.3.245 me sutanti piyajātikasuttaṃ. tattha neva kammantā paṭibhantīti na sabbena sabbaṃ paṭibhanti, pakatiniyāmena pana na paṭibhanti. dutiyapadepi eseva nayo. ettha ca na paṭibhātīti na ruccati. āḷāhananti susānaṃ. aññathattanti vivaṇṇatāya aññathābhāvo. indriyāni nāma manoviññeyyā dhammā, patiṭṭhitokāsaṃ pana sandhāya idaṃ vuttaṃ. piyajātikāti piyato jāyanti. piyappabhāvikāti piyato pabhavanti.
353. Kinh Ái Sanh được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, neva kammantā paṭibhanti (việc làm không hiển lộ): Việc làm không được hiển lộ toàn bộ với bất kỳ hình thức nào nữa, tức là không còn hiện hữu theo kế hoạch thông thường. Ngay cả trong câu thứ hai cũng có phương thức ấy. Và ở đây na paṭibhāti (cũng không mong muốn) trong bài kinh này được dịch là không vui thích. Āḷāhanaṃ: nghĩa địa. Aññathattaṃ (tính chất đổi khác): trạng thái đổi khác bởi do có màu da khác thường. Các Pháp cần được biết rõ bởi ý gọi là các giác quan (các quyền). Tuy nhiên, lời này ngài nói liên quan đến khoảng không nơi các quyền đã được thiết lập. Piyajātikā: được sanh ra từ sự thương yêu. Piyappabhāvikā: hiện hữu từ sự yêu thương.
355. sace taṃ, mahārājāti tassa atthaṃ asallakkhayamānāpi satthari saddhāya evaṃ vadati. cara pireti apehi amhākaṃ pare, anajjhattikabhūteti attho. atha vā cara pireti parato gaccha, mā idha tiṭṭhātipi attho.
355. sace taṃ, mahārājā (tâu Đại vương nếu lời đó…): thậm chí xác định ý nghĩa của lời nói đó (lời dạy của đức Phật) mới nói như vậy bằng đức tin đối với bậc Đạo Sư. cara pire (ông hãy tránh mặt): ông hãy lánh đi đường khác, có nghĩa là ông đừng đứng ở chỗ này. hoặc ‘cara pire’ ông hãy tránh đi đường khác, tức là chớ có đứng ở chỗ này.
356. dvidhā M.3.238 chetvāti asinā dve koṭṭhāse karonto chinditvā. attānaṃ P.3.345 upphālesīti teneva asinā attano udaraṃ phālesi. yadi hi tassa sā appiyā bhaveyya, idāni aññaṃ mātugāmaṃ gaṇhissāmīti attānaṃ na ghāteyya. yasmā panassa sā piyā ahosi, tasmā paralokepi tāya saddhiṃ samaṅgibhāvaṃ patthayamāno evamakāsi.
356. Dvidhā chetvā (đã chặt…thành 2 phần): đã chặt thành 2 phần bằng thanh gươm. Nếu như người phụ nữ ấy không phải là nơi yêu của người đàn ông ấy, bấy giờ người đàn ông không nên giết người phụ nữ ấy với suy nghĩ rằng: ta sẽ tìm người phụ nữ khác. Nhưng do người phụ nữ ấy là nơi yêu thương của người đàn ông đó, vì thế để mong muốn chung sống với người nữ ấy ở kiếp sau đã làm như thế.
357. piyā te vajirīti evaṃ kirassā ahosi — “sacāhaṃ, ‘bhūtapubbaṃ, mahārāja, imissāyeva sāvatthiyaṃ aññatarissā itthiyā’tiādikathaṃ katheyyaṃ, ‘ko te evaṃ akāsi, apehi natthi etan’ti maṃ paṭisedheyya, vattamāneneva naṃ saññāpessāmī”ti cintetvā evamāha. vipariṇāmaññathābhāvāti ettha maraṇavasena vipariṇāmo, kenaci saddhiṃ palāyitvā gamanavasena aññathābhāvo veditabbo.
357. Piyā te vajirī (Đại vương có thương công chúa Vajiri của thần thiếp không?): được biết rằng Hoàng hậu có suy nghĩ như vầy – Hoàng hậu đã nói như thế do suy nghĩ rằng – “nếu như ta có thể nói lời nói v.v, thưa Đại vương, chuyện đã từng xảy ra ở ngay chính thành Sāvatthi này, có một nữ nhân khác nữa,’ Đại vương có thể khước từ thần thiếp ‘Ai đã nói lời ấy cùng nàng, hãy rút lại, điều đó hẳn không có’ ta sẽ làm cho ngài hiểu với hiện trạng đang diễn ra ở đó. Vipariṇāmaññathābhāvā (do trạng thái biến hoại và đổi khác) này bậc trí giả nên biết sự biến hoại và đổi khác do sự chết, tức là có bản chất thay đổi, bằng cách trốn thoát và đi với bất kỳ ai.
vāsabhāyāti vāsabhā nāma rañño ekā devī, taṃ sandhāyāha.
Vāsabhāyā (Hoàng hậu Vasabha): Hoàng hậu của một đức vua hồng danh Vāsabhā, ngài nói đề cập đến Hoàng hậu ấy.
piyā V.3.246 te ahanti kasmā sabbapacchā āha? evaṃ kirassā ahosi — “ayaṃ rājā mayhaṃ kupito, sacāhaṃ sabbapaṭhamaṃ ‘piyā te ahan’ti puccheyyaṃ, ‘na me tvaṃ piyā, cara pire’ti vadeyya, evaṃ sante kathā patiṭṭhānaṃ na labhissatī”ti kathāya patiṭṭhānatthaṃ sabbapacchā pucchi. kāsikosalesu chaḍḍitabhāvena vipariṇāmo, paṭirājūnaṃ hatthagamanavasena aññathābhāvo veditabbo.
Piyā te ahaṃ (Đại vương có yêu thương thiếp không?): Vì sao Hoàng hậu lại nói sau tất cả? Được biết rằng sự suy nghĩ này đã có cùng Hoàng hậu ấy mới hỏi ở sau tất cả để cho trở thành chỗ thiết lập của lời nói rằng – “Đức vua này nổi giận với ta, nếu như ta có thể hỏi trước tất cả những ý nghĩa khác (những người khác) rằng: Đại vương có yêu thương thần thiếp không? Đức vua có thể trả lời rằng: Hoàng hậu không phải là nơi yêu thương của trẫm, hãy đi nơi khác, nếu như vậy, lời nói (của ta) sẽ không được thiết lập.” Bậc trí giả nên biết sự biến hoại đổi thay với tính chất người bị vứt bỏ trong xứ Kāsi và xứ Kosala, và với bản chất thay đổi bởi rơi vào tay của những vị vua đối nghịch.
ācamehīti P.3.346 ācamanodakaṃ dehi. ācamitvā hatthapāde dhovitvā mukhaṃ vikkhāletvā satthāraṃ namassitukāmo evamāha. sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
ācamehi (với sự làm sạch): ái khanh hãy mang nước súc miệng đến. Đức vua Pasenadi Kosala đã tẩy trần, đã rửa tay và chân, đã súc rửa miệng, có mong muốn thỉnh mời bậc Đạo Sư nên đã nói như thế. Những từ còn lại trong các câu đều đơn giản.
Giải Thích Kinh Ái Sanh Kết Thúc