Kinh số 85 – Giải Thích Kinh Vương Tử Bodhi

(Bodhirājakumārasuttavaṇṇanā)

Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Vương Tử Bodhi

324. evaṃ V.3.229 me sutanti bodhirājakumārasuttaṃ. tattha kokanadoti kokanadaṃ vuccati padumaṃ. so ca maṅgalapāsādo olokanakapadumaṃ dassetvā kato, tasmā kokanadoti saṅkhaṃ labhi.

324. Kinh Vương Tử Bodhi được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, Kokanado: hoa sen được ngài gọi là Kokanado. Cung điện hạnh phúc đó ngài đã kiến tạo trông giống như hoa sen có thể nhìn thấy được, cho nên được xem là lâu đài Kokanada.

325. yāva pacchimasopānakaḷevarāti ettha pacchimasopānakaḷevaranti paṭhamaṃ sopānaphalakaṃ vuttaṃ. addasā P.3.322 khoti olokanatthaṃyeva dvārakoṭṭhake ṭhito addasa. bhagavā tuṇhī ahosīti “kissa nu kho atthāya rājakumārena ayaṃ mahāsakkāro kato”ti āvajjanto puttapatthanāya katabhāvaṃ aññāsi. so hi rājakumāro aputtako, sutañcānena ahosi — “buddhānaṃ kira adhikāraṃ katvā manasā icchitaṃ labhantī”ti. so — “sacāhaṃ puttaṃ labhissāmi, sammāsambuddho mama celappaṭikaṃ akkamissati. no ce labhissāmi, na akkamissatī”ti patthanaṃ katvā santharāpesi. atha bhagavā “nibbattissati nu kho etassa putto”ti āvajjetvā “na nibbattissatī”ti addasa.

325. Ở đây, ‘những bậc thang thấp nhất’ ngài gọi là bậc thang thấp nhất trong cụm từ ‘cho đến những bậc thang thấp nhất’. Addasā kho (đã nhìn thấy): người đứng ở cánh cổng ra vào để quan sát cũng đã nhìn thấy. bhagavā tuṇhī ahosi (đức Thế Tôn im lặng nhận lời): Đức Thế Tôn suy xét rằng: “Vương tử đã thực hành sự cung kính to lớn này nhằm mục đích gì?” biết rằng thực hành nhằm mục đích để có được đứa con trai, bởi vì vương tử ấy không có con trai, nghe rằng – “Mọi người đã thực hiện hành động hướng thượng cùng chư Phật sẽ đạt được những điều như mong muốn.” Ngài đã thực hiện ước muốn rằng: “Nếu ta sẽ có được đứa con trai thì bậc Chánh đẳng Chánh giác sẽ hãy bước lên tấm vải của ta, còn nếu ta sẽ không được thì ngài sẽ không bước lên” vì thế đã ra lệnh cho trải tấm vải ra sẵn. Tiếp đó đức Thế Tôn suy nghĩ rằng: “Đứa con trai của vị vua này sẽ sanh lên hay không? ngài nhìn thấy rằng “sẽ không sanh”.

pubbe kira so ekasmiṃ dīpe vasamāno samacchandena sakuṇapotake khādi. sacassa mātugāmo aññova bhaveyya, puttaṃ labheyya. ubhohi pana samānacchandehi hutvā pāpakammaṃ kataṃ, tenassa putto na nibbattissatīti aññāsi. dusse pana akkante — “buddhānaṃ adhikāraṃ katvā patthitapatthitaṃ labhantīti loke anussavo, mayā ca mahāabhinīhāro kato, na ca puttaṃ labhāmi, tucchaṃ idaṃ vacanan”ti micchāgahaṇaṃ gaṇheyya.

Đức Phật biết được rằng: đã nghe nói rằng – vào thời quá khứ đức vua cư trú ở trên một hòn đảo và ăn thịt những con chim con với ước muốn đồng đẳng. Nếu người vợ của vị ấy có suy nghĩ khác thì nàng sẽ có một đứa con, nhưng cả hai người đều có ước muốn như nhau, (cả hai) đều đã tạo ác nghiệp, vì thế con của họ sẽ không sanh lên. Nhưng khi chúng ta bước lên tấm vải thì vương tử sẽ hiểu sai rằng: Tin đồn lan truyền khắp thế gian rằng: ‘Những người thực hiện hành động hướng thượng cùng chư Phật, sẽ có được những điều mà bản thân mong muốn. Chính tôi đã thực hiện hành động hướng thượng lớn lao, Chúng tôi cũng không có con. Tin đồn này là không đúng sự thật, (nhưng) ta cũng chẳng có được đứa con nào, những lời nói đó không có thật”.

titthiyāpi — “natthi samaṇānaṃ akattabbaṃ nāma, celappaṭikaṃ maddantā āhiṇḍantī”ti ujjhāyeyyuṃ M.3.223. etarahi ca akkamantesu bahū bhikkhū paracittaviduno, te bhabbaṃ jānitvā akkamissanti, abhabbaṃ jānitvā na akkamissanti. anāgate pana upanissayo mando bhavissati, anāgataṃ na jānissanti.

Thậm chí những kẻ ngoại đạo cũng sẽ khiển trách rằng: “Gọi những điều không nên làm của các Sa-môn không có, nhóm Sa-môn giẫm đạp lên tấm vải đi như vậy. Và khi bước đi vào lúc này, nhiều vị Tỳ khưu biết được tâm của người khác, những vị đó sau khi biết được rằng: nên làm cũng sẽ bước lên, sau khi biết được không nên làm cũng sẽ không bước lên. Trong thời vị lai (các vị Tỳ khưu) sẽ có ít sự nâng đỡ không biết về vị lai.

tesu akkamantesu sace patthitaṃ ijjhissati, iccetaṃ kusalaṃ P.3.323. no ce ijjhissati, — “pubbe bhikkhusaṅghassa abhinīhāraṃ katvā icchiticchitaṃ labhanti, taṃ idāni na labhanti V.3.230. teyeva maññe bhikkhū paṭipattipūrakā ahesuṃ, ime paṭipattiṃ pūretuṃ na sakkontī”ti manussā vippaṭisārino bhavissantīti imehi kāraṇehi bhagavā akkamituṃ anicchanto tuṇhī ahosi. sikkhāpadaṃ paññapesi “na, bhikkhave, celappaṭikā akkamitabbā”ti (cūḷava. 268). maṅgalatthāya paññattaṃ anakkamantesu pana akkamanatthāya anupaññattiṃ ṭhapesi — “gihī, bhikkhave, maṅgalikā, anujānāmi, bhikkhave, gihīnaṃ maṅgalatthāyā”ti (cūḷava. 268).

Khi các vị ấy giẫm lên, nếu điều mong muốn của họ được thành tựu thì gọi là việc tốt, nếu không thành tựu thì đức Phật không muốn bước lên nên ngài giữ im lặng. Vì lý do này mọi người không phải hối tiếc về sau rằng: “Trong quá khứ, mọi người đã thực hiện hành động hướng thượng đến Chư Tăng đã đạt được những điều mình mong muốn, (nhưng) bây giờ việc làm ấy không thể đạt được. Chư Tỳ khưu thực hành một cách hoàn hảo thì rất có thể là những vị Tỳ khưu đó. Những Tỳ khưu này sẽ không thể thực hành điều này một cách hoàn hảo.” Đức Thế Tôn mới chế định học giới như sau: “Này các tỳ khưu, không nên bước lên các tấm thảm trải bằng vải…” (cūḷava. 268)1. Nhưng khi chư Tỳ khưu không vi phạm học giới vì mục đích kiết tường, đức Thế Tôn đã quy định thêm (điều học) cho bước lên tấm vải như sau: “Này các Tỳ khưu, các gia chủ tin vào sự may mắn. Này các Tỳ khưu, ta cho phép bước lên tấm thảm trải bằng vải trong khi được thỉnh cầu để đem lại sự may mắn.” (cūḷava. 268).

326. pacchimaṃ janataṃ tathāgato anukampatīti idaṃ thero vuttesu kāraṇesu tatiyaṃ kāraṇaṃ sandhāyāha. na kho sukhena sukhanti kasmā āha? kāmasukhallikānuyogasaññī hutvā sammāsambuddho na akkami, tasmā ahampi satthārā samānacchando bhavissāmīti maññamāno evamāha.

326. Pacchimaṃ janataṃ tathāgato anukampati2 (Như Lai vì lòng thương tưởng nghĩ đến những người hậu thế): Trưởng lão nói muốn đề cập đến nhân thứ 3 trong số các nhân đã nói. Tại sao ngài nói ‘sự an lạc mà người có thể chứng đắc không phải do sự an lạc’? Ngài nghĩ rằng: có lẽ bậc Chánh đẳng Chánh giác vẫn có tư tưởng trong sự gắn bó với việc say đắm về dục lạc nên mới không bước lên, vì thế ngay cả ta cũng sẽ có mong muốn đồng đẳng với bậc Đạo Sư, nên mới nói như thế.

327. so kho ahantiādi “yāva rattiyā pacchime yāme”ti tāva mahāsaccake (ma. ni. 1.364 ādayo) vuttanayena veditabbaṃ. tato paraṃ yāva pañcavaggiyānaṃ āsavakkhayā pāsarāsisutte (ma. ni. 1.272 ādayo) vuttanayena veditabbaṃ.

327. so kho ahaṃ (khi ta còn trẻ…) v.v, bậc trí nên hiểu theo phương thức đã trình bày trong Kinh Mahāsaccaka (ma. ni. 1.364 ādayo) “cho đến khi vào canh cuối của đêm” sau đó nên hiểu theo phương thức đã được nói trong Kinh Pāsarāsi (ma. ni. 1.272 ādayo) từ sự cận kiệt tất cả lậu hoặc của nhóm năm vị ẩn sĩ.

343. aṅkusagayhe sippeti aṅkusagahaṇasippe. kusalo ahanti cheko ahaṃ. kassa P.3.324 panāyaṃ santike sippaṃ uggaṇhīti? pitu santike, pitāpissa pitu santikeva uggaṇhi. kosambiyaṃ kira parantaparājā nāma rajjaṃ kāresi. rājamahesī garubhārā ākāsatale raññā saddhiṃ bālātapaṃ tappamānā rattakambalaṃ pārupitvā nisinnā hoti, eko hatthiliṅgasakuṇo “maṃsapesī”ti maññamāno gahetvā ākāsaṃ pakkhandi. sā “chaḍḍeyya man”ti bhayena nissaddā ahosi, so taṃ pabbatapāde rukkhaviṭape ṭhapesi. sā pāṇissaraṃ karontī mahāsaddamakāsi. sakuṇo M.3.224 palāyi, tassā tattheva gabbhavuṭṭhānaṃ ahosi. tiyāmarattiṃ deve vassante kambalaṃ pārupitvā nisīdi. tato ca avidūre tāpaso vasati. so tassā saddena aruṇe uggate rukkhamūlaṃ āgato jātiṃ pucchitvā nisseṇiṃ bandhitvā otāretvā attano vasanaṭṭhānaṃ netvā yāguṃ pāyesi. dārakassa meghautuñca pabbatautuñca gahetvā jātattā udenoti nāmaṃ akāsi. tāpaso phalāphalāni āharitvā dvepi jane posesi.

343. aṅkusagayhe sippe: nghề nghiệp của người nắm lấy câu móc. kusalo ahaṃ: Ta là vị khéo léo. Vị vương tử này học nghề nghiệp ở trong trú xứ của ai? Người cha học ở chỗ của ông, vương tử này cũng học ở chỗ của cha. Được biết rằng trong thành phố Kosambī đức vua Parantapa trị vì quốc độ. Hoàng hậu đang mang thai, khi đã ngồi xuống choàng lên tấm vải len được nhuộm đỏ, sưởi ấm dưới ánh nắng nhẹ cùng đức vua ở bên ngoài hoàng cung. Có một con chim Hatthiliṅga tưởng nàng là một miếng thịt, đã xà xuống và cắp hoàng hậu đi trong nanh vuốt của nó rồi bay lên hư không. Hoàng hậu lo sợ rằng nó sẽ vứt bà xuống nên giữ im lặng. Con chim đó đưa bà đến một cành cây ở dưới chân núi. Sau đó bà mới vỗ tay và tạo ra một tiếng động lớn, con chim sợ hãi và bay đi. Hoàng hậu đã hạ sanh một hoàng nhi ở trên chính nhánh cây đó. Khi trời mưa vào ban đêm vào canh thứ ba, hoàng hậu đã đã ngồi xuống sau khi choàng tấm áo len nhuộm đỏ. và ở cái cây chân núi ấy có một vị đạo sĩ sinh sống. Với âm thanh kêu cứu của hoàng hậu vị đạo sĩ đã đi đến gốc cây vào lúc bình minh, hỏi bà về xuất thân, rồi dựng cầu thành để hoàng hậu bước xuống, đưa bà về chỗ trú ẩn của mình, cho uống nước cháo. Do đứa bé đã giữ lấy mùa mưa và thời tiết của núi sanh ra nên mới đặt tên là Udena. Đạo sĩ đã tìm kiếm trái cây mang về để nuôi dưỡng cả hai người.

sā V.3.231 ekadivasaṃ tāpasassa āgamanavelāya paccuggamanaṃ katvā itthikuttaṃ dassetvā tāpasaṃ sīlabhedaṃ āpādesi. tesaṃ ekato vasantānaṃ kāle gacchante parantaparājā kālaṃ akāsi. tāpaso rattibhāge nakkhattaṃ oloketvā rañño matabhāvaṃ ñatvā — “tuyhaṃ rājā mato, putto te kiṃ idha vasituṃ icchati, udāhu pettike rajje chattaṃ ussāpetun”ti pucchi. sā puttassa ādito paṭṭhāya sabbaṃ pavattiṃ ācikkhitvā chattaṃ ussāpetukāmatañcassa ñatvā tāpasassa ārocesi. tāpaso ca hatthiganthasippaṃ jānāti, kutonena laddhaṃ? sakkassa P.3.325 santikā. pubbe kirassa sakko upaṭṭhānaṃ āgantvā “kena kilamathā”ti pucchi. so “hatthiparissayo atthī”ti ārocesi. tassa sakko hatthiganthañceva vīṇakañca datvā “palāpetukāmatāya sati imaṃ tantiṃ vādetvā imaṃ silokaṃ vadeyyātha, pakkositukāmatāya sati imaṃ silokaṃ vadeyyāthā”ti āha. tāpaso taṃ sippaṃ kumārassa adāsi. so ekaṃ vaṭarukkhaṃ abhiruhitvā hatthīsu āgatesu tantiṃ vādetvā silokaṃ vadati, hatthī bhītā palāyiṃsu.

Một ngày nọ, hoàng hậu đã thực hiện việc đi ra đón vị đạo sĩ khi vị ấy quay trở về, đã biểu lộ những cử chỉ của người nữ khiến cho vị đạo sĩ vi phạm giới luật. Khi những người ấy sống chung với nhau, thời gian trôi qua vua Parantapa đã băng hà, vị đạo sĩ đã quan sát các vì tình tú vào ban đêm biết được rằng đức vua đã băng hà, mới hỏi rằng: “Đức vua ngài đã băng hà, mong muốn để cho hoàng tử của nàng sống ở nơi này chăng? hay là cho (vị ấy) nâng lên cây lọng trắng kế thừa vương vị của cha mình”. Hoàng hậu đã kể lại chuyện đã xảy ra từ đầu cho hoàng tử biết rằng: Hoàng tử cần phải nâng lên cây lọng trắng để kế thừa vương vị của cha mới nói với vị đạo sĩ. Và vị đạo sĩ biết được môn học bắt voi. Môn học này vị đạo sĩ biết được từ đâu? Ta có được từ trú xứ của vua trời Sakka. Được biết rằng trong quá khứ vua trời Sakka đã đến phụng sự vị đạo sĩ ấy hỏi rằng: “ngài có bị mệt nhọc bởi chuyện gì?” Vị đạo sĩ đáp “có sự nguy hiểm liên quan đến voi”. Vua trời Sakka ban cho môn học bắt voi và đàn luýt đến vị đạo sĩ ấy, đã nói rằng: “Khi muốn con voi chạy đi hãy gẩy sợi dây này rồi hãy đọc lên câu thơ này, khi muốn cho con voi chạy lại hãy đọc lên câu kệ này này.” Vị đạo sĩ đã dạy môn học đó cho hoàng tử. Hoàng tử leo lên một cây đa khi các con voi chayj đến đã gảy đàn luýt (và) đã đọc lên câu kệ, các con voi đã bỏ chạy.

so sippassa ānubhāvaṃ ñatvā punadivase pakkosanasippaṃ payojesi. jeṭṭhakahatthī āgantvā khandhaṃ upanāmesi. so tassa khandhagato yuddhasamatthe taruṇahatthī uccinitvā kambalañca muddikañca gahetvā mātāpitaro vanditvā nikkhanto anupubbena taṃ taṃ gāmaṃ pavisitvā — “ahaṃ rañño putto, sampattiṃ atthikā āgacchantū”ti janasaṅgahaṃ katvā nagaraṃ parivāretvā — “ahaṃ rañño putto, mayhaṃ chattaṃ dethā”ti asaddahantānaṃ kambalañca muddikañca dassetvā chattaṃ ussāpesi. so hatthivittako hutvā “asukaṭṭhāne sundaro hatthī atthī”ti vutte gantvā gaṇhāti. caṇḍapajjoto M.3.225 “tassa santike sippaṃ gaṇhissāmī”ti kaṭṭhahatthiṃ payojetvā tassa anto yodhe nisīdāpetvā taṃ hatthiṃ gahaṇatthāya āgataṃ gaṇhitvā tassa santike sippaṃ gahaṇatthāya dhītaraṃ uyyojesi. so tāya saddhiṃ saṃvāsaṃ kappetvā taṃ gahetvā attano nagaraṃyeva agamāsi. tassā kucchiyaṃ uppanno ayaṃ bodhirājakumāro attano pitu santike sippaṃ uggaṇhi.

Hoàng tử sau khi biết được oai lực của môn học, vào ngày hôm sau đã bắt tay vào môn học gọi voi. Con voi đầu đàn đến cúi đầu đi đến gần. Hoàng tử bước lên cổ voi rồi chọn con voi trẻ đủ sức để chiến đấu, mang theo tấm áo len được nhuộm đỏ và dấu niêm (chiếc nhẫn) đến đảnh lễ mẹ và cha rồi ra đi theo tuần tự, vào ngôi làng đó, tập hợp mọi người nói rằng: “Ta là hoàng tử, con trai của đức vua, mong muốn tài sản mới đi đến” đã đi xung quanh thành phố thông báo rằng: “Ta là hoàng tử, con trai của đức vua, các khanh hãy giao cây lọng trắng cho ta”, khi bọn họ không tin tưởng thì hoàng tử đã đưa ra tấm vải len được nhuộm đỏ và dấu niêm (chiếc nhẫn) đã nâng lên cây lọng trắng kế thừa vương vị. Vị vua ấy chỉ chú tâm đến voi, khi họ nói rằng: “Ở nơi đó có con voi tuyệt đẹp” ngài sẽ đi đến đó để bắt. Đức vua Caṇḍapajjota suy nghĩ rằng: “Ta sẽ học nghề ở chỗ của đức vua Udena ấy” mới ra lệnh cho lắp ráp con voi bằng gỗ, sắp đặt cho binh lính ngồi bên trong các con voi gỗ đó, khi đức vua ấy vừa đến để bắt voi, thì vị ấy cũng sẽ bị bắt, đưa công chúa đi để học nghề bắt voi ở trong trú xứ của vua. Vua Udena ấy cũng đã sống chung với công chúa ấy, rồi (cả hai) cùng nhau rời khỏi thành phố của vị ấy. Vương tử Bodhi đã hạ sanh vào thai bào của công chúa nên mới được học nghề nghiệp trong trú xứ của cha ngài.

344. padhāniyaṅgānīti padhānaṃ vuccati padahanabhāvo, padhānamassa atthīti padhāniyo. padhāniyassa bhikkhuno aṅgānīti padhāniyaṅgāni. saddhoti saddhāya samannāgato. sā panesā P.3.326 āgamanasaddhā V.3.232 adhigamasaddhā okappanasaddhā pasādasaddhāti catubbidhā. tattha sabbaññubodhisattānaṃ saddhā abhinīhārato paṭṭhāya āgatattā āgamanasaddhā nāma. ariyasāvakānaṃ paṭivedhena adhigatattā adhigamasaddhā nāma. buddho dhammo saṅghoti vutte acalabhāvena okappanaṃ okappanasaddhā nāma. pasāduppatti pasādasaddhā nāma, idha pana okappanasaddhā adhippetā. bodhinti catumaggañāṇaṃ. taṃ suppaṭividdhaṃ tathāgatenāti saddahati, desanāsīsameva cetaṃ, iminā pana aṅgena tīsupi ratanesu saddhā adhippetā. yassa hi buddhādīsu pasādo balavā, tassa padhānaṃ vīriyaṃ ijjhati.

padhāniyaṅgāni (chi phần của vị Tỳ khưu có sự tinh tấn): bản thể cố gắng ngài gọi là sự tinh tấn. Sự tinh tấn của vị Tỳ khưu ấy tồn tại, nhân đó vị Tỳ khưu ấy gọi là người có sự tinh tấn. Chi phần của Tỳ khưu vị có sự tinh tấn, nhân đó gọi là chi phần của vị Tỳ khưu có sự tinh tấn. Saddho (người có đức tin): người hội đủ với đức tin. Đức tin đó có bốn loại là āgamanasaddhā (đức tin vào Giáo Pháp), adhigamasaddhā (đức tin do chứng đạt), okappanasaddhā (đức tin nhờ kiên định) pasādasaddhā (đức tin trong sạch). Ở đó, đức tin của Bồ tát Chánh đẳng Chánh giác gọi là āgamana-saddhā bởi đã đến khởi sự bắt đầu từ nguyện vọng, gọi là adhigama-saddhā do đã chứng ngộ bởi việc thấu triệt của chư Thánh Thinh văn đệ tử. Đức tin vững vàng không bị lay động khi nói về đức Phật, Giáo Pháp, và Chư Tăng đây gọi là okappana-saddhā. Đức tin sanh khởi do lòng tịnh tín gọi là pasāda-saddhā. Hơn nữa, ở đây muốn đề cập đến okappana-saddhā (đức tin nhờ kiên định). Bodhiṃ (tuệ giác ngộ) bao gồm bốn Đạo tuệ. Con người tin rằng Như Lai đã khéo léo thấu triệt bốn Đạo tuệ đó, và đó là đỉnh cao (cứu cánh) của chính Pháp thoại, niềm tin vào Tam Bảo muốn đề cập đến chi phần này. Bởi vì người nào có đức tin trong sạch nơi đức Phật v.v, mãnh liệt thì sự nỗ lực tinh tấn của người ấy sẽ thành tựu.

appābādhoti arogo. appātaṅkoti niddukkho. samavepākiniyāti samavipācaniyā. gahaṇiyāti kammajatejodhātuyā. nātisītāya nāccuṇhāyāti atisītagahaṇiko hi sītabhīrū hoti, accuṇhagahaṇiko uṇhabhīrū, tesaṃ padhānaṃ na ijjhati. majjhimagahaṇikassa ijjhati. tenāha “majjhimāya padhānakkhamāyā”ti. yathābhūtaṃ attānaṃ āvikattāti yathābhūtaṃ attano aguṇaṃ pakāsetā. udayatthagāminiyāti udayañca atthañca gantuṃ paricchindituṃ samatthāya, etena paññāsalakkhaṇapariggāhikaṃ udayabbayañāṇaṃ vuttaṃ. ariyāyāti parisuddhāya. nibbedhikāyāti anibbiddhapubbe lobhakkhandhādayo nibbijjhituṃ samatthāya. sammādukkhakkhayagāminiyāti P.3.327 tadaṅgavasena kilesānaṃ pahīnattā yaṃ dukkhaṃ khīyati, tassa dukkhassa khayagāminiyā. iti sabbehipi imehi padehi vipassanāpaññāva kathitā. duppaññassa hi padhānaṃ na ijjhati. imāni ca pañca padhāniyaṅgāni lokiyāneva veditabbāni.

Appābādho (sự ít bệnh): sự không có bệnh. Appātaṅko (ít não): sự không có khổ đau. Samavepākiniyā (với bộ tiêu hóa được điều hòa): có kết quả đồng đẳng. Gahaṇiyā (Hỏa giới): Nguyên tố lửa sanh lên từ nghiệp. nātisītāya nāccuṇhāyā (không quá lạnh cũng không quá nóng): bởi vì người có nguyên tố lửa quá lạnh cũng sợ hãi sự lạnh, người có nguyên tố lửa quá nóng cũng sợ hãi sự nóng. Sự tinh tấn của hạng người ấy sẽ không thành tựu. Thành tựu đối với hạng người có nguyên tố trung bình, vì thế ngài đã nói rằng “thực hành trung đạo phù hợp với sự tinh tấn”. yathābhūtaṃ attānaṃ āvikattā (biểu lộ bản thân đúng theo thực thể): Tuyên bố lỗi làm không phải đức hạnh của chính mình theo đúng thực thế. Udayatthagāminiyā (có tuệ hướng đến sự sanh và sự diệt): có khả năng để đạt đến là xác định đến sự sanh và sự diệt. Với lời này ngài nói đến trí về sự sanh diệt để xác định năm mươi tướng trạng. Ariyāyā (thánh nhân): sự thanh tịnh. Nibbedhikāya (khả năng đoạn diệt phiền não): có thể thấu triệt tham uẩn v.v, trong thời quá khứ. Sammādukkhakkhayagāminiyā (dẫn đến việc cạn kiệt hoàn toàn của khổ): Dẫn đến sự cạn kiệt hoàn toàn của khổ do đã dứt trừ mọi phiền não bằng sự từ bỏ do thay thế. Là như thế, với những câu này, toàn bộ chỉ thuyết về Minh sát tuệ. Thật vậy, sự tinh tấn không thành tựu đối với người có tuệ kém cỏi. Và hơn nữa, với lời này nên biết rằng chi phần của vị Tỳ khưu có sự tinh tấn cả năm hoàn toàn đều là Hiệp thế.

345. sāyamanusiṭṭho M.3.226 pāto visesaṃ adhigamissatīti atthaṅgate sūriye anusiṭṭho aruṇuggamane visesaṃ adhigamissati. pātamanusiṭṭho sāyanti aruṇuggamane anusiṭṭho sūriyatthaṅgamanavelāyaṃ. ayañca pana desanā neyyapuggalavasena vuttā. dandhapañño hi neyyapuggalo sattahi divasehi arahattaṃ pāpuṇāti, tikkhapañño ekadivasena, sesadivase majjhimapaññāvasena veditabbaṃ. aho buddho aho dhammo aho dhammassa svākkhātatāti yasmā buddhadhammānaṃ uḷāratāya dhammassa ca svākkhātatāya pāto kammaṭṭhānaṃ kathāpetvā sāyaṃ arahattaṃ pāpuṇāti, tasmā pasaṃsanto evamāha. yatra hi nāmāti vimhayatthe nipāto.

345. sāyamanusiṭṭho M.3.226 pāto visesaṃ adhigamissati (Như Lai giảng dạy vào buổi chiều chứng đắc ân đức cao thượng vào buổi sáng): giảng dạy vào buổi chiều, chứng đắc ân đức cao thượng vào buổi sáng. nghĩa là khi mặt trời lặng ở hướng tây cũng giảng dậy khi bình minh ló dạng cũng chứng đắc ăn đức cao thượng. pātamanusiṭṭho sāyaṃ (Như Lai giảng dạy vào buổi sáng … vào buổi chiều): Khi bình minh ló dạng cũng giảng dạy vào lúc mặt trời lặng cũng chứng đắc ân đức cao thượng. cũng vậy Pháp thoại này ngài đã nói với năng lực của hạng người cần được dẫn dắt. Thật vậy, hạng người cần được hướng dẫn mặc dầu có trí tuệ kém cỏi cũng (có thể) chứng đắc được A-ra-hán với bảy ngày. Có trí tuệ sắc bén (chứng đắc) với một ngày duy nhất, nên biết những lời còn lại với lực của trí tuệ trung bình. aho buddho aho dhammo aho dhammassa svākkhātatā (đức Phật có ân đức thật phi thường, Giáo Pháp có ân đực thật phi thường, Chư Tăng có ân đức thật phi thường): Vị Tỳ khưu để cho vị thầy nói về nghiệp xứ (đề mục thiền) vào buổi sáng, vào buổi chiều chứng đắc A-ra-hán, do bản thể Pháp của chư Phật có ân đức cao thượng và bản thể Pháp mà đức Phật đã khéo thuyết giảng, vì thế khi tán dương đã nói như thế. yatra hi nāmā chỉ là phân từ được dùng với ý nghĩa thật vi diệu.

346. kucchimatīti V.3.233 āpannasattā. yo me ayaṃ, bhante, kucchigatoti kiṃ panevaṃ saraṇaṃ gahitaṃ hotīti. na hoti. acittakasaraṇagamanaṃ nāma natthi, ārakkho panassa paccupaṭṭhitova hoti. atha naṃ yadā mahallakakāle mātāpitaro, — “tāta, kucchigatameva taṃ saraṇaṃ gaṇhāpayimhā”ti sārenti, so ca sallakkhetvā “ahaṃ saraṇaṃ gato upāsako”ti satiṃ uppādeti, tadā saraṇaṃ gahitaṃ nāma hoti. sesaṃ sabbattha uttānamevāti.

Kucchimati (mang thai): chúng sanh gần sắp chết. yo me ayaṃ, bhante, kucchigato (thưa ngài, đứa con ở trong bụng của con…): chỗ quy y giữ lấy bằng biểu hiện như vậy chăng? Không phải. Thông thường việc đi đến nương nhờ bởi vô tâm (điều này) không có. Còn việc bảo hộ sẽ hiện hữu riêng biệt. Sau đó mẹ và cha đã nhắc nhở đứa con trai ấy để nhớ được rằng – “này con yêu, trong khi ở trong bụng mẹ thì con cũng đã quy y, đến khi trưởng thành và đứa bé trai ấy cũng đã xác định được” làm cho niệm sanh khởi rằng: “ta là cận sự nam đã đến quy y như vậy” trong thời gian nào, thì trong thời gian ấy gọi là đi đến quy y. Từ còn lại trong các câu đều đơn giản.

Giải Thích Kinh Vương Tử Bodhi Kết Thúc

1 …vị nào bước lên thì phạm tội dukkaṭa.

2 Bản tiếng thái: pacchimaṃ khantaṃ tathāgato apaloketi