Kinh số 83 – Giải Thích Kinh Maghadeva

(Maghadevasuttavaṇṇanā)

Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Maghadeva

308. evaṃ V.3.219 me sutanti maghadevasuttaṃ. tattha maghadevāmbavaneti pubbe maghadevo nāma rājā taṃ ambavanaṃ ropesi. tesu rukkhesu palujjamānesu aparabhāge aññepi rājāno ropesuṃyeva. taṃ pana paṭhamavohāravasena maghadevambavananteva saṅkhaṃ gataṃ. sitaṃ pātvākāsīti sāyanhasamaye vihāracārikaṃ caramāno ramaṇīyaṃ bhūmibhāgaṃ disvā — “vasitapubbaṃ nu kho me imasmiṃ okāse”ti āvajjanto — “pubbe ahaṃ maghadevo nāma rājā hutvā imaṃ ambavanaṃ ropesiṃ, ettheva P.3.310 pabbajitvā cattāro brahmavihāre bhāvetvā brahmaloke nibbattiṃ. taṃ kho panetaṃ kāraṇaṃ bhikkhusaṅghassa apākaṭaṃ, pākaṭaṃ karissāmī”ti aggaggadante dassento sitaṃ pātu akāsi.

308. Kinh Maghadeva được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, maghadevāmbavane (vườn xoài của đức vua Maghadeva): Thuở xưa đức vua tên là Maghadeva truyền lệnh cho trồng một vườn xoài ở nơi đó. Khi những cây đó bị đốn hạ, sau đó những vị vua khác cũng cho trồng lại, khu vườn ấy được xem là Maghadevambava do ảnh hưởng cách gọi ban đầu. sitaṃ pātvākāsi (mỉm cười làm cho hiển lộ): vào buổi chiều đức Thế Tôn trong khi đi dạo quanh các trú xá nhìn thấy một vùng đất có sự đáng thích thú – mới suy tư “Ta đã từng an trú ở nơi này có phải chăng?” mới nhìn thấy rằng: “Thuở xưa ta là vua có tên Maghadeva đã trồng vườn xoài này. Ta đã xuất gia ở trong chỗ này, đã tu tập 4 Phạm trú, hóa sanh vào Phạm thiên giới. Chính nguyên nhân đó không hiển lộ cùng Tăng Chúng, ta sẽ làm cho hiển lộ” trong khi thuyết giảng ở phần đầu rằng: đã làm cho nụ cười trên môi được hiển lộ.

dhammo assa atthīti dhammiko. dhammena rājā jātoti dhammarājā. dhamme ṭhitoti dasakusalakammapathadhamme ṭhito. dhammaṃ caratīti samaṃ carati M.3.214. tatra brāhmaṇagahapatikesūti yopi so pubbarājūhi brāhmaṇānaṃ dinnaparihāro, taṃ ahāpetvā pakatiniyāmeneva adāsi, tathā gahapatikānaṃ. taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ. pakkhassāti iminā pāṭihārikapakkhopi saṅgahito. aṭṭhamīuposathassa hi paccuggamanānuggamanavasena sattamiyañca navamiyañca, cātuddasapannarasānaṃ paccuggamanānuggamanavasena terasiyañca pāṭipade cāti ime divasā pāṭihārikapakkhāti veditabbā. tesupi uposathaṃ upavasi.

Dhammiko (người thực hành đúng Pháp) bởi ý nghĩa rằng có Pháp. Dhammarājā (Pháp vương): với ý nghĩa là làm vua bởi các Pháp. Dhamme ṭhito (được vững trú trong Pháp): Đã được vững trú trong Pháp là mười thập thiện nghiệp đạo. Dhammaṃ carati (thực hành Pháp): thực hành Pháp. Ở đó, brāhmaṇagahapatikesu (giữa các Bà-la-môn và gia chủ): Ngài vẫn duy trì những đặc quyền mà các vị vua trước đây đã ban cho các Bà-la-môn, không làm mất đi mà vẫn ban phát theo đúng quy định thông thường, và cũng như vậy đối với các gia chủ. Điều này được nói đến với ý nghĩa đó. Pakkhassā ngài nhiếp hợp pāṭihārikapakkha vào chung với nhau, bậc trí nên biết rằng những ngày này được gọi là pāṭihārikapakkha bao gồm ngày mồng 7, và ngày mồng 9 do liên quan đến ngày tiếp nhận và ngày gởi đi của ngày trai giới uposatha trong ngày mồng 8 (âm lịch mỗi nửa tháng), ngày 13 và ngày thứ nhất của mỗi nửa tháng theo âm lịch do liên quan đến ngày tiếp nhận và ngày gởi đi của ngày trai giới uposatha trong ngày 14 và ngày 15. Ngài thực hành bát quan trai giới mỗi ngày vào những ngày ấy.

309. devadūtāti devoti maccu, tassa dūtāti devadūtā. sirasmiñhi palitesu pātubhūtesu maccurājassa santike ṭhito viya hoti, tasmā palitāni maccudevassa dūtāti vuccanti. devā viya dūtātipi devadūtā. yathā hi alaṅkatapaṭiyattāya devatāya ākāse ṭhatvā “asukadivase marissatī”ti vutte taṃ tatheva hoti, evaṃ sirasmiṃ palitesu pātubhūtesu devatābyākaraṇasadisameva P.3.311 hoti. tasmā palitāni devasadisā dūtāti vuccanti. visuddhidevānaṃ dūtātipi devadūtā. sabbabodhisattā hi jiṇṇabyādhitamatapabbajite disvāva saṃvegamāpajjitvā nikkhamma pabbajanti. yathāha —

309. Devadūtā (các vị sứ giả của cõi trời): Deva nghĩa là thần chết (maccu), devadūta nghĩa là sứ giả của thần chết. Khi tóc bạc xuất hiện trên đầu, người ta như đang đứng trước mặt Ma Vương. Do đó, tóc bạc được gọi là sứ giả của thần chết. Devadūta còn có nghĩa là sứ giả giống như chư thiên. Ví như khi một vị thiên nhân trang điểm đẹp đẽ, đứng trên hư không báo rằng: “Vào ngày ấy ngươi sẽ chết” thì điều đó chắc chắn xảy ra. Tương tự vậy, khi tóc bạc xuất hiện, đó cũng như lời tiên tri của chư thiên. Do đó, tóc bạc được gọi là sứ giả tương tự như chư thiên. Devadūta còn có nghĩa là sứ giả của các bậc Thanh Tịnh Thiên. Quả thật, tất cả các vị Bồ Tát sau khi nhìn thấy người già, người bệnh, người chết và bậc xuất gia, liền sinh tâm xúc động, từ bỏ gia đình và xuất gia. Như đã nói: –

jiṇṇañca V.3.220 disvā dukhitañca byādhitaṃ,

matañca disvā gatamāyusaṅkhayaṃ.

kāsāyavatthaṃ pabbajitañca disvā,

tasmā ahaṃ pabbajitomhi rājā”ti.

iminā pariyāyena palitāni visuddhidevānaṃ dūtattā devadūtāti vuccanti.

“Sau khi thấy người già, người bệnh khổ đau,

Thấy người chết đã hết tuổi thọ,

Thấy vị xuất gia đắp y cà-sa,

Do vậy, tâu Đại vương, tôi đã xuất gia.”

Theo cách này, tóc bạc được gọi là các vị sứ giả của cõi trời vì chúng là sứ giả của các bậc Thanh Tịnh Thiên.

kappakassa gāmavaraṃ datvāti satasahassuṭṭhānakaṃ jeṭṭhakagāmaṃ datvā. kasmā adāsi? saṃviggamānasattā. tassa hi añjalismiṃ ṭhapitāni palitāni disvāva saṃvego uppajjati. aññāni caturāsītivassasahassāni āyu atthi, evaṃ santepi maccurājassa santike ṭhitaṃ viya attānaṃ maññamāno saṃviggo pabbajjaṃ roceti. tena vuttaṃ —

sire M.3.215 disvāna palitaṃ, maghadevo disampati.

saṃvegaṃ alabhī dhīro, pabbajjaṃ samarocayī”ti.

aparampi vuttaṃ —

uttamaṅgaruhā mayhaṃ, ime jātā vayoharā.

pātubhūtā devadūtā, pabbajjāsamayo mamā”ti.

kappakassa gāmavaraṃ datvā (đức vua đã ban ân huệ một ngôi làng cho người thợ cắt tóc): Đức vua đã ban tặng ngôi làng phồn thịnh nhất, có giá trị bằng trăm ngàn đồng tiền. Vì sao đức vua lại ban thưởng như vậy? Bởi vì tâm ngài đã bị chấn động. Thật vậy, ngài đã sinh tâm xúc động ngay khi nhìn thấy sợi tóc bạc đặt trên bàn tay người thợ, dù tuổi thọ còn đến tám mươi bốn ngàn năm. Mặc dù vậy, ngài tự xem mình như đang đứng trước mặt Ma Vương, tâm bị chấn động và hoan hỷ với ý định xuất gia. Do đó ngài đã nói: –

“Đức vua Maghadeva, bậc trí tuệ
Thấy tóc bạc xuất hiện trên đầu
Tâm sinh xúc động mạnh
Hoan hỷ với ý định xuất gia.”

Và còn nói thêm:

“Những sợi tóc bạc này của ta
Là dấu hiệu tuổi già đã đến
Các sứ giả của cõi trời đã hiện
Đã đến thời ta phải xuất gia.”

purisayugeti vaṃsasambhave purise. kesamassuṃ ohāretvāti tāpasapabbajjaṃ pabbajantāpi hi paṭhamaṃ kesamassuṃ ohāretvā pabbajanti, tato paṭṭhāya vaḍḍhite kese bandhitvā jaṭākalāpadharā hutvā vicaranti. bodhisattopi tāpasapabbajjaṃ pabbaji. pabbajito pana anesanaṃ P.3.312 ananuyuñjitvā rājagehato āhaṭabhikkhāya yāpento brahmavihāraṃ bhāvesi. tasmā so mettāsahagatenātiādi vuttaṃ.

Purisayuge (khi tuổi thọ của loài người còn tồn tại): chỉ những người kế tục dòng dõi. kesamassuṃ ohāretvā: sau khi đã cạo bỏ tóc và râu, ngay cả khi xuất gia làm đạo sĩ, họ cũng phải cạo tóc và râu trước. Sau đó họ để tóc dài và búi lại thành bím tóc của đạo sĩ. Đức Bồ Tát cũng xuất gia làm đạo sĩ. Sau khi xuất gia, ngài không tầm cầu những phương cách sinh sống không chân chánh, chỉ nuôi mạng bằng thức ăn được mang từ hoàng cung và tu tập các Phạm trú. Do đó có câu “ngài với tâm câu hữu với từ…” được nói đến.

kumārakīḷitaṃ kīḷīti aṅkena aṅkaṃ parihariyamāno kīḷi. mālākalāpaṃ viya hi naṃ ukkhipitvāva V.3.221 vicariṃsu. rañño maghadevassa putto … pe … pabbajīti imassa pabbajitadivase pañca maṅgalāni ahesuṃ. maghadevarañño matakabhattaṃ, tassa rañño pabbajitamaṅgalaṃ, tassa puttassa chattussāpanamaṅgalaṃ, tassa puttassa uparajjamaṅgalaṃ, tassa puttassa nāmakaraṇamaṅgalanti ekasmiṃyeva samaye pañca maṅgalāni ahesuṃ, sakalajambudīpatale unnaṅgalamahosi.

kumārakīḷitaṃ kīḷi (đã chơi trò chơi của hoàng tử): các bảo mẫu bế ẵm và chăm sóc hoàng tử. Họ nâng niu hoàng tử như bó hoa quý và đưa đi dạo chơi. rañño maghadevassa putto … pe … pabbaji (con trai của vua maghadeva…đã xuất gia): vào ngày hoàng tử này xuất gia đã phát sanh 5 điều hạnh phúc là Lễ cúng dường thực phẩm cho đức vua Maghadeva
Lễ xuất gia của hoàng tử
Lễ đăng quang của con trai hoàng tử
Lễ phong chức Phó vương cho con trai kế vị
Lễ đặt tên cho hoàng tử mới sinh.
Dân chúng đã tạo năm điều hạnh phúc ngay cùng một lúc, toàn bộ cõi Jambudīpa đã nâng cái cày lên (nghỉ ngơi việc đồng áng).

311. puttapaputtakāti puttā ca puttaputtā cāti evaṃ pavattā tassa paramparā. pacchimako ahosīti pabbajjāpacchimako ahosi. bodhisatto kira brahmaloke nibbatto — “pavattati nu kho taṃ mayā manussaloke nihataṃ kalyāṇavattan”ti āvajjanto addasa — “ettakaṃ addhānaṃ pavattati, idāni na pavattissatī”ti. na kho panāhaṃ mayhaṃ paveṇiyā ucchijjituṃ dassāmīti attano vaṃse jātaraññoyeva aggamahesiyā kucchismiṃ paṭisandhiṃ gahetvā attano vaṃsassa nemiṃ ghaṭento viya nibbatto, tenevassa nimīti nāmaṃ ahosi. iti so pabbajitarājūnaṃ M.3.216 sabbapacchimako hutvā pabbajitoti pabbajjāpacchimako ahosi. guṇehi pana atirekataro. tassa hi sabbarājūhi atirekatarā dve guṇā ahesuṃ P.3.313. catūsu dvāresu satasahassaṃ satasahassaṃ vissajjetvā devasikaṃ dānaṃ adāsi, anuposathikassa ca dassanaṃ nivāresi. anuposathikesu hi rājānaṃ passissāmāti gatesu dovāriko pucchati “tumhe uposathikā no vā”ti. ye anuposathikā honti, te nivāreti “anuposathikānaṃ rājā dassanaṃ na detī”ti. “mayaṃ janapadavāsino kāle bhojanaṃ kuhiṃ labhissāmā”tipi tattha vacanokāso natthi.

311. Puttapaputtakā (các vương tử truyền nối tiếp vua Makhadeva ấy): Sự tiếp nối của hoàng tộc diễn ra như vậy, với các vương tử và vương tôn kế tục nhau. Pacchimako ahosi (đức vua Nimi là vị cuối cùng): Ngài là vị vua cuối cùng xuất gia trong dòng dõi này. Được biết, đức Bồ-tát sau khi hóa sinh vào cõi Phạm thiên đã suy nghĩ: “Phải chăng phận sự tốt đẹp ta đã thiết lập ở thế giới loài người vẫn còn được duy trì?” Khi quán sát, ngài thấy rằng: “Truyền thống này đã duy trì được một thời gian dài, nhưng nay sắp đứt đoạn.” Nghĩ rằng: “Ta không thể để dòng dõi của ta bị diệt vong”, ngài đã nhập thai vào hoàng hậu của một vị vua thuộc dòng dõi của mình, như để nối kết lại bánh xe truyền thừa. Do đó vị ấy được đặt tên là Nimi. Như vậy, ngài là vị vua cuối cùng trong số các vị vua xuất gia. Về phương diện đức hạnh, ngài còn vượt trội hơn các vị tiền nhiệm. Ngài có hai đức hạnh đặc biệt vượt trội hơn tất cả các vị vua: Mỗi ngày bố thí một trăm ngàn đồng tiền tại mỗi cổng trong bốn cổng thành, không tiếp kiến những người không thọ trì bát quan trai giới. Khi có người đến yết kiến vua, người gác cổng sẽ hỏi: “Ngài có thọ trì bát quan trai giới không?” Ai không thọ trì sẽ bị từ chối vào cung, vì vua không tiếp những người không thọ giới. Ở đây không ai có thể viện cớ: “Chúng tôi là dân làng, biết khi nào và ở đâu mới có thể thọ thực?”?

catūsu hi dvāresu rājaṅgaṇe ca anekāni bhattacāṭisahassāni paṭiyattāneva honti. tasmā mahājano icchiticchitaṭṭhāne massuṃ kāretvā nhāyitvā vatthāni parivattetvā yathārucitaṃ bhojanaṃ bhuñjitvā uposathaṅgāni adhiṭṭhāya rañño gehadvāraṃ gacchati. dovārikena “uposathikā tumhe”ti pucchitapucchitā “āma āmā”ti vadanti. tena hi āgacchathāti pavesetvā rañño dasseti. iti imehi dvīhi guṇehi atirekataro ahosi.

Bởi vì tại bốn cổng thành và trong khuôn viên hoàng cung đều có hàng ngàn nồi cơm được chuẩn bị sẵn. Do đó, dân chúng có thể đến bất kỳ nơi nào họ muốn để cạo râu, tắm rửa, thay y phục, dùng bữa theo ý thích, rồi phát nguyện thọ trì bát quan trai giới trước khi đến cổng cung điện. Khi người gác cổng hỏi “Các người có thọ giới không?”, họ đều đáp: “Thưa vâng”. Người gác cổng sẽ nói: “Vậy xin mời vào” và dẫn họ vào yết kiến đức vua. Như vậy, ngài đã vượt trội hơn các vị vua khác về hai phương diện này.

312. devānaṃ tāvatiṃsānanti tāvatiṃsabhavane nibbattadevānaṃ. te kira devā videharaṭṭhe mithilanagaravāsino rañño ovāde ṭhatvā pañca sīlāni rakkhitvā uposathakammaṃ katvā tattha nibbattā rañño guṇakathaṃ kathenti. te sandhāya vuttaṃ “devānaṃ tāvatiṃsānan”ti.

312. Devānaṃ tāvatiṃsānaṃ [chư Thiên cõi trời Tāvatiṃsa (Đao Lợi)] : Chư thiên hóa sanh vào cõi trời Tāvatiṃsa. Được biết rằng những vị thiên ấy vững trú trong lời huấn từ của vua vị thọ hưởng hoàng ân ở thành Videharaṭṭha, gìn giữ ngũ giới, thực hành việc làm vào ngày trai giới được hóa sanh vào cõi đó nên đã nói lời tán thán đức hạnh của đức vua. “Chư Thiên cõi trời Tāvatiṃsa” đã được nói đề cập những vị Thiên ấy.

nisinno V.3.222 hotīti pāsādavarassa uparigato dānañca sīlañca upaparikkhamāno nisinno hoti. evaṃ kirassa ahosi — “dānaṃ nu kho mahantaṃ udāhu sīlaṃ, yadi dānaṃ mahantaṃ, ajjhottharitvā dānameva dassāmi. atha sīlaṃ, sīlameva pūrissāmī”ti. tassa “idaṃ mahantaṃ idaṃ mahantan”ti nicchituṃ asakkontasseva sakko gantvā purato pāturahosi. tena vuttaṃ atha kho, ānanda, … pe … sammukhe pāturahosīti. evaṃ kirassa ahosi — “rañño kaṅkhā uppannā, tassa kaṅkhacchedanatthaṃ pañhañca kathessāmi, idhāgamanatthāya paṭiññañca gaṇhissāmī”ti P.3.314. tasmā gantvā sammukhe pāturahosi. rājā adiṭṭhapubbaṃ rūpaṃ disvā bhīto ahosi lomahaṭṭhajāto. atha naṃ sakko — “mā bhāyi, mahārāja, vissattho pañhaṃ puccha, kaṅkhaṃ te paṭivinodessāmī”ti āha.

nisinno hoti (an tọa): đức vua bước lên cung điện cao quý tầng trên, ngồi an tọa quan sát việc bố thí và thọ trì giới. Được biết rằng đức vua có suy nghĩ như vầy: “Việc bố thí có quả báu to lớn hơn hay giới luật có quả báu to lớn hơn? Nếu bố thí có quả báu to lớn hơn, ta sẽ chú tâm chỉ vào việc bố thí. Còn nếu giới luật có quả báu to lớn hơn thì ta sẽ chỉ chuyên tâm vào việc trì giới mà thôi.” Khi ngài không thể tự quyết định được “điều này có quả báu to lớn hơn hay điều kia có quả báu to lớn hơn”, vua trời Sakka đã hiện ra trước mặt ngài. Bởi thế đã nói rằng: “atha kho, ānanda, … pe … sammukhe pāturahosi (rồi này Ananda… đã hiện ra trước mặt vua Nemi).” Được biết rằng vua trời đã suy nghĩ như vầy: “Đức vua đã khởi lên nghi hoặc, để cắt đứt sự nghi hoặc của ngài, ta sẽ giải đáp vấn đề và nhận lời hứa để đưa ngài đến thăm thiên giới.” Bởi thế đã đi đến hiện ra trước mặt vua Nemi. Đức vua sau khi nhìn thấy hình tướng chưa từng thấy của vua trời, đã khởi lên sự sợ hãi, lông tóc dựng ngược. Khi ấy vua trời Sakka nói với vị vua ấy rằng: “Đừng sợ hãi, đại vương, hãy tự tin hỏi vấn đề, ta sẽ giải đáp và phá tan sự nghi hoặc của ngài.”.

rājā M.3.217 — “pucchāmi taṃ mahārāja, sabbabhūtānamissara.

dānaṃ vā brahmacariyaṃ vā, katamaṃ su mahapphalan”ti. —

pañhaṃ pucchi. sakko — “dānaṃ nāma kiṃ, sīlameva guṇavisiṭṭhatāya mahantaṃ. ahañhi pubbe, mahārāja, dasavassasahassāni dasannaṃ jaṭilasahassānaṃ dānaṃ datvā pettivisayato na mutto, sīlavantā pana mayhaṃ dānaṃ bhuñjitvā brahmaloke nibbattā”ti vatvā imā gāthā avoca —

Đức vua Nimi hỏi vấn đề – “Thưa vị chúa tể của tất cả chúng sanh, trẫm xin hỏi ngài điều này. Bố thí hay thực hành Phạm hạnh thì điều nào có quả báo lớn?

Vua trời đã đáp rằng: “Gọi là bố thí, có quả báu to lớn thế nào? Chính giới hạnh mới có quả báu to lớn hơn bởi vì đức hạnh là tối thượng. Thưa đại vương, ngay cả ta trong thời quá khứ đã bố thí lễ vật đến mười nghìn vị đạo sĩ tóc bện suốt mười nghìn năm mà vẫn không thoát khỏi cảnh giới ngạ quỷ. Nhưng những người có giới, sau khi thọ dụng vật thí của ta, đã được hóa sanh vào Phạm thiên giới.” Rồi ngài nói lên kệ ngôn –

hīnena brahmacariyena, khattiye upapajjati.

majjhimena ca devattaṃ, uttamena visujjhati.

na hete sulabhā kāyā, yācayogena kenaci.

ye kāye upapajjanti, anāgārā tapassino”ti. (jā. 2.22.429-430).

evaṃ V.3.223 rañño kaṅkhaṃ vinodetvā devalokagamanāya paṭiññāgahaṇatthaṃ lābhā te mahārājātiādimāha. tattha avikampamānoti abhāyamāno. adhivāsesīti ahaṃ mahājanaṃ kusalaṃ samādapemi, puññavantānaṃ pana vasanaṭṭhānaṃ disvā āgatena manussapathe sukhaṃ kathetuṃ hotīti adhivāsesi.

“Với Phạm hạnh bậc thấp, được sanh vào dòng Sát-đế-lỵ
Với Phạm hạnh bậc trung, được sanh làm chư thiên
Với Phạm hạnh bậc cao, đạt được sự thanh tịnh
Những cảnh giới cao này không dễ đạt được
Chỉ bằng việc bố thí đơn thuần
Chỉ những vị xuất gia, tu khổ hạnh
Mới được sanh vào những cảnh giới ấy.”
(jā. 2.22.429-430).

Sau khi đã xua tan sự nghi ngờ của đức vua như vậy, để giữ lời hứa đưa vua đến thăm thiên giới, mới nói rằng: “tâu đại vương, thật hạnh phúc thay cho đại vương” v.v, Ở đó, avikampamāno (chớ có lưỡng lự): không sợ hãi. Adhivāsesi (im lặng nhận lời): đức vua im lặng nhận lời với suy nghĩ như sau: “Ta thường khuyến khích dân chúng tạo thiện pháp. Nay sau khi đã được thấy chỗ trú ngụ của những người có nhiều phước báu, khi trở về cõi người ta sẽ có thể thuận tiện kể lại những điều đã thấy.”

313. evaṃ bhaddantavāti evaṃ hotu bhaddakaṃ tava vacananti vatvā. yojetvāti ekasmiṃyeva yuge sahassāssājānīye P.3.315 yojetvā. tesaṃ pana pāṭiyekkaṃ yojanakiccaṃ natthi, manaṃ āgamma yuttāyeva honti. so pana dibbaratho diyaḍḍhayojanasatiko hoti, naddhito paṭṭhāya rathasīsaṃ paññāsayojanāni, akkhabandho paṇṇāsayojanāni, akkhabandhato paṭṭhāya pacchābhāgo paṇṇāsayojanāni, sabbo sattavaṇṇaratanamayo. devaloko nāma uddhaṃ, manussaloko adho, tasmā heṭṭhāmukhaṃ rathaṃ pesesīti na sallakkhetabbaṃ.

evaṃ bhaddantavā (thưa vâng, thiên chủ): “Thưa vâng, thiên chủ”: Thiên tử Mātali đã thưa rằng “Lời nói của ngài là điều tốt lành, mong điều ấy hãy trở thành như thế.” “Đã thắng cỗ xe”: nghĩa là đã thắng một ngàn con ngựa thuần chủng vào cùng một ách. Tuy nhiên không cần phải buộc ách từng con ngựa riêng lẻ, mà chúng được buộc ách hoàn toàn bằng năng lực của tâm. Cỗ xe thiên giới dài một trăm năm mươi do-tuần, từ sợi dây buộc đến đầu xe 50 do-tuần, phần trục xe 50 do-tuần, phần sau từ trục xe 50 do-tuần, toàn bộ được trang hoàng bằng bảy loại ngọc báu. Cõi trời ở phía trên, cõi người ở phía dưới, do đó không thể xác định được cách đánh xe từ trên xuống dưới như thế nào.

yathā pana pakatimaggaṃ peseti, evameva manussānaṃ sāyamāsabhatte niṭṭhite candena saddhiṃ yuganaddhaṃ katvā pesesi, yamakacandā uṭṭhitā viya ahesuṃ. mahājano disvā “yamakacandā uggatā”ti āha. āgacchante āgacchante na yamakacandā, ekaṃ vimānaṃ, na vimānaṃ, eko rathoti. rathopi āgacchanto āgacchanto M.3.218 pakatirathappamāṇova, assāpi pakatiassappamāṇāva ahesuṃ. evaṃ rathaṃ āharitvā rañño pāsādaṃ padakkhiṇaṃ katvā pācīnasīhapañjaraṭṭhāne rathaṃ nivattetvā āgatamaggābhimukhaṃ katvā sīhapañjare ṭhatvāva ārohanasajjaṃ ṭhapesi.

Giống như cách điều khiển xe trên đường bình thường, sau khi mọi người dùng cơm tối xong, ngài cho xe đi song song với mặt trăng. Trông giống như có hai mặt trăng xuất hiện. Đại chúng nhìn thấy liền nói rằng: “Có hai mặt trăng đã mọc!” Khi xe đến gần hơn, họ nói: “Không phải hai mặt trăng, mà là một cung điện cõi trời… không, không phải cung điện, mà là một cỗ xe!” Khi cỗ xe đến gần hơn nữa, nó hiện ra với kích thước như một cỗ xe bình thường, và những con ngựa cũng hiện ra với kích thước như ngựa thường. Sau khi mang xe đến, đi vòng quanh cung điện của đức vua theo chiều bên phải, quay xe lại ở cửa sổ lớn phía đông, hướng về phía đường đã đến, dừng xe ở cạnh cửa sổ, sẵn sàng cho việc bước lên.

abhiruha mahārājāti rājā — “dibbayānaṃ me laddhan”ti na tāvadeva abhiruhi, nāgarānaṃ pana ovādaṃ adāsi “passatha tātā, yaṃ me sakkena devaraññā dibbaratho pesito, so ca kho na jātigottaṃ vā kulappadesaṃ vā paṭicca pesito, mayhaṃ P.3.316 pana sīlācāraguṇe pasīditvā pesito. sace tumhepi sīlaṃ rakkhissatha, tumhākampi pesessati, evaṃ rakkhituṃ yuttaṃ nāmetaṃ sīlaṃ. nāhaṃ devalokaṃ gantvā cirāyissāmi, appamattā hothā”ti mahājanaṃ ovaditvā pañcasu sīlesu patiṭṭhāpetvā rathaṃ abhiruhi. tato mātali saṅgāhako “ahampi mahārājassa mamānucchavikaṃ karissāmī”ti ākāsamhi dve magge dassetvā apica mahārājātiādimāha.

Đức vua không vội bước lên ngay khi nghĩ rằng: “Ta đã được thiên xa”, mà trước tiên ban lời giáo huấn đến dân chúng kinh thành: “Này thần dân, hãy nhìn xem! Vua trời Sakka đã gửi thiên xa đến đón ta. Ngài gửi xe đến không phải vì dòng dõi, gia tộc hay vương quốc của ta, mà vì ngài hoan hỷ với đức hạnh và việc thực hành giới của ta. Nếu các ngươi cũng gìn giữ giới hạnh, ngài cũng sẽ gửi xe đến cho các ngươi. Đây chính là giới đáng được gìn giữ như thế. Ta sẽ không ở lâu trong thế giới chư thiên, các ngươi chớ có phóng dật.” Sau khi giáo huấn thần dân và an trú họ trong năm giới, đức vua mới bước lên thiên xa. Lúc ấy, Mātali người đánh xe nghĩ rằng: “Ta cũng sẽ làm điều thích hợp với đại vương”, nên đã cho thấy hai con đường trên không trung và thưa rằng: “Tâu đại vương…”

tattha V.3.224 katamenāti, mahārāja, imesu maggesu eko nirayaṃ gacchati, eko devalokaṃ, tesu taṃ katamena nemi. yenāti yena maggena gantvā yattha pāpakammantā pāpakānaṃ kammānaṃ vipākaṃ paṭisaṃvediyanti, taṃ ṭhānaṃ sakkā hoti passitunti attho. dutiyapadepi eseva nayo. jātakepi —

kena taṃ nemi maggena, rājaseṭṭha disampati.

yena vā pāpakammantā, puññakammā ca ye narā”ti. (jā. 2.22.450) —

gāthāya ayamevattho. tenevāha —

niraye tāva passāmi, āvāse pāpakamminaṃ.

ṭhānāni luddakammānaṃ, dussīlānañca yā gatī”ti. (jā. 2.22.451).

Ở đó, katamenā (bằng đường nào?), tâu bệ hạ, trong số hai con đường, một đường đi địa ngục, còn đường còn lại đi đến thiên giới, thần sẽ đưa bệ hạ đi con đường nào trong hai con đường đó. Yena (bằng con đường nào): con đường mà khi đi theo đó, trẫm có thể nhìn thấy tất cả chúng sanh đã tạo ác nghiệp sẽ thọ lãnh quả của ác nghiệp đó. Đối với câu thứ hai cũng có ý nghĩa tương tự như vậy. Ý nghĩa này cũng được thể hiện trong kệ ngôn trong Bổn Sanh như sau –

Tâu chúa thượng, tâu vị chúa tể một phương, thần sẽ đưa bệ hạ đi theo con đường nào, theo con đường những chúng sanh đã tạo nghiệp ác hay những chúng sanh đã tạo nghiệp thiện?” (jā. 2.22.450) Vì thế đức vua Nimi đã nói –

“Hãy để trẫm nhìn thấy các cõi địa ngục,
Nơi trú xứ của những kẻ tạo ác nghiệp,
Những cảnh giới dành cho những người tạo nghiệp hung ác,
Và nơi đến của những kẻ phá giới.” (jā. 2.22.451).

ubhayeneva maṃ mātali nehīti mātali dvīhi maggehi maṃ nehi, ahaṃ nirayaṃ passitukāmo devalokampīti. paṭhamaṃ katamena nemīti. paṭhamaṃ nirayamaggena nehīti. tato mātali attano ānubhāvena rājānaṃ pañcadasa mahāniraye dassesi. vitthārakathā panettha —

dassesi M.3.219 P.3.317 mātali rañño, duggaṃ vetaraṇiṃ nadiṃ.

kuthitaṃ khārasaṃyuttaṃ, tattaṃ aggisikhūpaman”ti. (jā. 2.22.452) —

jātake vuttanayena veditabbā.

ubhayeneva maṃ (hãy đưa trẫm đi đến cả 2 con đường): Này Mātāli, khanh hãy đưa trẫm đi đến cả 2 con đường, trẫm muốn nhìn thấy địa ngục, và ngay cả thế giới chư Thiên trẫm cũng muốn nhìn thấy. Thần sẽ đưa bệ hạ đi đến con đường nào trước? Hãy đưa trẫm đi (tham quan) địa ngục trước. Sau đó Mātali đã trình bày về 15 hầm Đại địa ngục cho đức vua bằng oai lực của mình. Ở đây kệ ngôn được nói chi tiết nên biết theo phương thức đã được trình bày trong Bổn Sanh như sau –

Thiên tử Mātali đã chỉ cho đức vua nhìn thấy địa ngục Vetaraṇī vượt qua vô cùng khó khăn, đang sôi sục, có chứa chất kiềm (gây bỏng), đỏ rực, tương tự như ngọn lửa. (jā. 2.22.452)

nirayaṃ dassetvā rathaṃ nivattetvā devalokābhimukhaṃ gantvā bīraṇīdevadhītāya soṇadinnadevaputtassa gaṇadevaputtānañca vimānāni dassento devalokaṃ nesi. tatrāpi vitthārakathā —

yadi te sutā bīraṇī jīvaloke, āmāyadāsī ahu brāhmaṇassa.

sā pattakāle atithiṃ viditvā, mātāva V.3.225 puttaṃ sakimābhinandī.

saṃyamā saṃvibhāgā ca, sā vimānasmi modatī”ti. (jā. 2.22.507) —

jātake vuttanayeneva veditabbā.

Mātali khi trình bày về địa ngục cũng quay xe lại và hướng về phía thiên giới, khi nói về tất cả các Thiên cung của Thiên nữ tên Bīraṇī và cùng hội chúng Thiên tử có thiên tử tên là Soṇadinna làm trưởng mới đưa (đức vua) đi lên thiên giới. Ngay chính trong câu đó cũng nên biết ý nghĩa lời nói chi tiết theo cách thức như đã nói trong Bổn Sanh như sau –

“Nếu ngài đã từng nghe về Bīraṇī khi còn ở nhân gian:
Nàng vốn là nữ tỳ sinh ra trong nhà một Bà-la-môn.
Nàng biết cách tiếp đón khách đúng thời,
Như mẹ hân hoan đón con từ xa trở về.
Do giới hạnh và lòng rộng lượng bố thí,
Giờ đây nàng hưởng phước nơi thiên cung.””
(jā. 2.22.507).

evaṃ gacchato pana tassa rathanemi vaṭṭiyā cittakūṭadvārakoṭṭhakassa ummāre pahatamatteva devanagare kolāhalaṃ ahosi. sakkaṃ devarājānaṃ ekakaṃyeva ohāya devasaṅgho mahāsattaṃ paccuggamanamakāsi, taṃ devatānaṃ ādaraṃ disvā sakko cittaṃ sandhāretuṃ asakkonto — “abhirama, mahārāja, devesu devānubhāvenā”ti āha. evaṃ kirassa ahosi — “ayaṃ rājā ajja āgantvā ekadivaseneva devagaṇaṃ attano abhimukhamakāsi. sace ekaṃ dve divase vasissati, na maṃ devā olokessantī”ti. so usūyamāno, “mahārāja, tuyhaṃ imasmiṃ devaloke vasituṃ puññaṃ natthi, aññesaṃ puññena vasāhī”ti iminā adhippāyena evamāha. bodhisatto — “nāsakkhi jarasakko manaṃ sandhāretuṃ, paraṃ nissāya laddhaṃ kho pana yācitvā laddhabhaṇḍakaṃ P.3.318 viya hotī”ti paṭikkhipanto alaṃ mārisātiādimāha. jātakepi vuttaṃ —

Khi Bồ tát đang đi như vậy thì ngay khi bánh xe chạm vào ngưỡng cửa của cổng Cittakūṭa, kinh thành chư thiên liền náo động, chư Thiên đã bỏ vua trời Sakka lại chỉ còn một mình ngài, đi đến tiếp rước bậc Đại Nhân. Vua trời Sakka thấy sự tôn kính của chư thiên đối với bậc Đại Nhân, trong khi không thể kiềm chế được tâm đã nói rằng – “Tâu đại vương, xin ngài hãy thỏa thích trong các thế giới chư Thiên bằng oai lực của chư Thiên”. – Được biết rằng Vua trời Sakka có suy nghĩ như vầy – “Vị vua này sẽ đến vào ngày hôm nay, khiến cho chư Thiên ở trước mặt của mình, chỉ một ngày duy nhất, nếu như an trú qua một ngày, hai ngày thì chư Thiên sẽ không quan tâm đến ta nữa.” Vị ấy có lòng ghen tị mới nói như thế với mong muốn này rằng: “Tâu đại vương, ngài không có đủ phước báu để ở tại thiên giới này, xin ngài hãy an trú bằng phước báu của nhóm khác.” Bồ tát trong khi khước từ với ý nghĩ như sau: “Thiên chủ già, tâm không thể nhẫn chịu được do nương vào người khác, nhưng giống như vật dụng có được do được ban phát (từ người khác), nên đã nói rằng: “Xin đừng, thưa ngài…” Ngay cả trong Bổn Sanh ngài cũng đã nói rằng –

yathā yācitakaṃ yānaṃ, yathā yācitakaṃ dhanaṃ.

evaṃsampadameve taṃ, yaṃ parato dānapaccayā.

na cāhametamicchāmi, yaṃ parato dānapaccayā”ti. (jā. 2.22.585-586) —

“Như xe cộ vay mượn,
Như của cải vay mượn,
Cũng vậy, mọi thành tựu,
Do ân huệ người khác.
Ta không muốn điều gì,
Do ân huệ người ban.”
(jā. 2.22.585-586) —

sabbaṃ M.3.220 vattabbaṃ. bodhisatto pana manussattabhāvena kativāre devalokaṃ gatoti. cattāro — mandhāturājakāle sādhinarājakāle guttilavīṇāvādakakāle nimimahārājakāleti. so mandhātukāle devaloke asaṅkhyeyyaṃ kālaṃ vasi, tasmiñhi vasamāneyeva chattiṃsa sakkā caviṃsu. sādhinarājakāle sattāhaṃ vasi, manussagaṇanāya satta vassasatāni honti. guttilavīṇāvādakakāle ca nimirājakāle ca muhuttamattaṃ vasi, manussagaṇanāya satta divasāni honti.

Nên nói tất cả mọi câu chuyện. Lại nữa Bồ tát đi đến thế giới chư thiên với sắc thân của loài người bao nhiêu lần? Bốn lần là vào thời kỳ (sanh ra) làm vua Mandhātu, vào thời kỳ (sanh ra) làm vua Sādhina, vào thời kỳ (sanh ra) trở thành Bà-la-môn Guttilavīṇāvādaka, và vào thời kỳ (sanh ra) làm đại vương Nimi. Vào thời kỳ (sanh ra) làm vua Mandhātu ngài đã an trú ở thế giới chư Thiên hết tuổi thọ một a-tăng-kỳ kiếp, khi ngài an trú ở thế giới chư Thiên ấy vua trời Sakka đã thay đổi 36 vị. Vào thời gian làm vua Sādhina đã an trú một tuần lễ theo cách tính thời gian của cõi người là bảy trăm năm. Vào thời gian làm Bà-la-môn Guttilavīṇāvādaka và vào thời gian làm đại vương Nimi đã an trú chỉ trong chốc lát (nếu) tính theo (thời gian) ở cõi người là bảy ngày.

314. tattheva V.3.226 mithilaṃ paṭinesīti paṭinetvā pakatisirigabbheyeva patiṭṭhāpesi.

314. tattheva mithilaṃ paṭinesi (đưa vua Nemi trở về thành Mithilā ở chính cõi nhân loại ấy): Mātali đã đưa đức vua trở về và đặt ngài vào cung điện như cũ.

315. kaḷārajanakoti tassa nāmaṃ. kaḷāradantatāya pana kaḷārajanakoti vutto. na so agārasmā anagāriyaṃ pabbajīti ettakamattameva na akāsi, sesaṃ sabbaṃ pākatikameva ahosi.

315. Kaḷārajanako là tên của vị hoàng tử ấy. Hơn nữa, mọi người đã nói rằng Kaḷārajanaka vì có răng không đều. Vị ấy không từ bỏ gia đình để sống cuộc sống không gia đình để đi xuất gia. Những điều còn lại đều diễn ra như bình thường.

316. samucchedo hotīti ettha kalyāṇavattaṃ ko samucchindati, kena samucchinnaṃ, ko pavatteti, kena pavattitaṃ nāma hotīti ayaṃ vibhāgo veditabbo. tattha sīlavā bhikkhu P.3.319 “na sakkā mayā arahattaṃ laddhun”ti vīriyaṃ akaronto samucchindati. dussīlena samucchinnaṃ nāma hoti. satta sekhā pavattenti. khīṇāsavena pavattitaṃ nāma hoti. sesaṃ sabbattha uttānamevāti.

316. samucchedo hoti (làm cho đứt đoạn): ở đây cần hiểu sự phân tích như sau: ai cắt đứt phận sự tốt đẹp? Do ai mà nó bị cắt đứt? Ai duy trì nó? Do ai mà nó được duy trì?

Trong trường hợp này:

Vị tỳ khưu có giới đang tự cắt đứt khi không tinh tấn do nghĩ rằng “ta không thể đạt được quả vị A-la-hán”
[Phận sự tốt đẹp] được gọi là bị cắt đứt bởi người phá giới
Bảy bậc Hữu học duy trì nó
[Phận sự tốt đẹp] được gọi là được duy trì bởi bậc lậu tận

Từ còn lại trong các câu đều đơn giản.

Giải Thích Kinh Maghadeva Kết Thúc