Kinh số 81 – Giải Thích Kinh Ghaṭikāra
(Ghaṭikārasuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Ghaṭikāra
4. Rājavaggo [Phẩm vua]
282. evaṃ V.3.198 M.3.193 me sutanti ghaṭikārasuttaṃ. tattha sitaṃ pātvākāsīti mahāmaggena gacchanto aññataraṃ bhūmippadesaṃ oloketvā — “atthi nu kho mayā cariyaṃ caramānena imasmiṃ ṭhāne nivutthapubban”ti āvajjanto addasa P.3.279 — “kassapabuddhakāle imasmiṃ ṭhāne vegaḷiṅgaṃ nāma gāmanigamo ahosi, ahaṃ tadā jotipālo nāma māṇavo ahosiṃ, mayhaṃ sahāyo ghaṭikāro nāma kumbhakāro ahosi, tena saddhiṃ mayā idha ekaṃ sukāraṇaṃ kataṃ, taṃ bhikkhusaṅghassa apākaṭaṃ paṭicchannaṃ, handa naṃ bhikkhusaṅghassa pākaṭaṃ karomī”ti maggā okkamma aññatarasmiṃ padese ṭhitakova sitapātukammamakāsi, aggaggadante dassetvā mandahasitaṃ hasi. yathā hi lokiyamanussā uraṃ paharantā — “kuhaṃ kuhan”ti hasanti, na evaṃ buddhā, buddhānaṃ pana hasitaṃ haṭṭhapahaṭṭhākāramattameva hoti.
282. Kinh Ghaṭikāra được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, sitaṃ pātvākāsi (một nụ cười trên môi được hiển lộ): Đức Thế Tôn trong lúc đang đi đến Mahāmaggā đã ngắm nhìn một vùng đất, trong khi quán xét lại – “Phải chăng khi ta thực hành các hạnh đã từng an trú ở nơi đây?” ngài đã thấy – “Vào thời kỳ đức Phật Kassapa ở chỗ này là một ngôi làng và thị trấn có tên là Vegaḷiṅga, vào thời gian đó ta là một thanh niên Bà-la-môn tên là Jotipāla, ta có một người bạn hữu là người thợ gốm tên là Ghaṭikāra, ta cùng với Ghaṭikāra ấy đã tạo một nhân lành ở nơi đây, điều tốt lành ấy đã bị che đậy không hiển lộ cùng chúng Tỳ khưu, vậy thì ta sẽ làm cho chuyện này hiển lộ cùng chúng Tỳ khưu” suy nghĩ như vậy rồi rời khỏi đạo lộ đứng ở một nơi nở nụ cười trên môi để hiển lộ, chư Phật mỉm cười rất vi tế chỉ nhìn thấy được phần cuối chân răng, không cười ra tiếng giống như con người ở thế gian cười lớn tiếng cười nghiêng ngả – “ở đâu? ở đâu?” Còn sự cười của chư Phật sẽ hiện hữu chỉ qua biểu hiện hoan hỷ vui mừng mà thôi.
hasitañca nāmetaṃ terasahi somanassasahagatacittehi hoti. tattha lokiyamahājano akusalato catūhi, kāmāvacarakusalato catūhīti aṭṭhahi cittehi hasati, sekkhā akusalato diṭṭhisampayuttāni dve apanetvā chahi cittehi hasanti, khīṇāsavā catūhi sahetukakiriyacittehi ekena ahetukakiriyacittenāti pañcahi cittehi hasanti. tesupi balavārammaṇe āpāthagate dvīhi ñāṇasampayuttacittehi hasanti, dubbalārammaṇe duhetukacittadvayena ca ahetukacittena cāti tīhi cittehi hasanti. imasmiṃ pana ṭhāne kiriyāhetukamanoviññāṇadhātusomanassasahagatacittaṃ bhagavato haṭṭhapahaṭṭhākāramattaṃ hasitaṃ uppādesi.
Và sự cười ấy có được do tâm đồng sanh với 13 tâm thọ hỷ. Ở đó, số đông người trong thế gian cười với 8 tâm là với 4 tâm bất thiện và với 4 tâm đại thiện Dục giới. Bậc Hữu học cười với 6 tâm là loại bỏ 2 tâm tương ưng tà kiến phần bất thiện ra. Bậc lậu tận cười với 5 tâm là với 4 tâm tố hữu nhân, và với 1 tâm tố vô nhân, ngay cả những tâm đó khi đối tượng có lực mạnh xuất hiện sẽ cười với 2 tâm tương ưng trí, khi đối tượng yếu ớt xuất hiện sẽ cười bằng 3 tâm là 2 tâm nhị nhân, và với một tâm vô nhân. Nhưng ở trường hợp này tâm đồng sanh với thọ hỷ là ý thức giới ở phần tâm tố vô nhân, gây ra tiếng cười chỉ là biểu hiện hoan hỷ, vui mừng sanh khởi từ hộ kiếp mà thôi.
taṃ V.3.199 panetaṃ hasitaṃ evaṃ appamattakampi therassa pākaṭaṃ ahosi. kathaṃ? tathārūpe hi kāle tathāgatassa catūhi dāṭhāhi catuddīpikamahāmeghamukhato sateratāvijjulatā viya virocamānā mahātālakkhandhapamāṇā rasmivaṭṭiyo P.3.280 uṭṭhahitvā tikkhattuṃ sīsavaraṃ padakkhiṇaṃ katvā M.3.194 dāṭhaggesuyeva antaradhāyanti. tena saññāṇena āyasmā ānando bhagavato pacchato gacchamānopi sitapātubhāvaṃ jānāti.
Hơn nữa, sự vười này đây dầu chỉ chút ít như vậy nhưng cũng xuất hiện nơi trưởng lão. Xuất hiện như thế nào? Thường trong thời gian như thế vòng hào quang ước chừng bằng một cây thốt nốt lớn, ánh sáng lóe lên tựa như có một trăm tia chớp phát ra từ khẩu như thế, giống như một đám mây lớn đổ cơn mưa xuống khắp cả 4 châu lục, từ 4 chiếc răng nhọn của đấng Thập Lực hướng bên phải xoay quanh đỉnh đầu cao quý 3 lần rồi biến mất tại chỗ phần chót răng nhọn. Vì thế trưởng lão Ānanda dù đi theo phía sau của đức Thế Tôn biết được (ngài) mỉm cười bằng dấu hiệu đó.
bhagavantaṃ etadavocāti — “ettha kira kassapo bhagavā bhikkhusaṅghaṃ ovadi, catusaccappakāsanaṃ akāsi, bhagavatopi ettha nisīdituṃ ruciṃ uppādessāmi, evamayaṃ bhūmibhāgo dvīhi buddhehi paribhutto bhavissati, mahājano gandhamālādīhi pūjetvā cetiyaṭṭhānaṃ katvā paricaranto saggamaggaparāyaṇo bhavissatī”ti cintetvā etaṃ “tena hi, bhante,”tiādivacanaṃ avoca.
Ngài Ānanda đã khởi lên suy nghĩ: “Được biết rằng đức Thế Tôn Kassapa ban lời huấn từ đến chư Tăng, đã tuyên thuyết về bốn Chân Lý, ta sẽ làm cho đức Thế Tôn ưa thích ngồi ở đây, vùng đất này là nơi có đến 2 vị Phật sử dụng (an trú), đại chúng sẽ lễ bái với những hương thơm và tràng hòa v.v, sẽ kiến tạo ngôi Bảo điện, sẽ được sanh về thiên giới” như thế đã bạch thế Tôn: “Kính bạch đức Thế Tôn, nếu vậy xin đức Thế Tôn v.v.”
283. muṇḍakena samaṇakenāti muṇḍaṃ muṇḍoti, samaṇaṃ vā samaṇoti vattuṃ vaṭṭati, ayaṃ pana aparipakkañāṇattā brāhmaṇakule uggahitavohāravaseneva hīḷento evamāha. sottisināninti sinānatthāya katasottiṃ. sotti nāma kuruvindapāsāṇacuṇṇāni lākhāya bandhitvā kataguḷikakalāpakā vuccati, yaṃ sandhāya — “tena kho pana samayena chabbaggiyā bhikkhū kuruvindakasuttiyā nahāyantī”ti (cūḷava. 243) vuttaṃ. taṃ ubhosu antesu gahetvā sarīraṃ ghaṃsanti. evaṃ sammāti yathā etarahipi manussā “cetiyavandanāya gacchāma, dhammassavanatthāya gacchāmā”ti vuttā ussāhaṃ na karonti, “naṭasamajjādidassanatthāya gacchāmā”ti vuttā pana ekavacaneneva sampaṭicchanti, tatheva P.3.281 sinhāyitunti vutte ekavacanena sampaṭicchanto evamāha.
283. muṇḍakena samaṇakena (bởi Sa-môn trọc đầu): gọi người đầu trọc là người trọc đầu, hoặc gọi là Sa-môn là Sa-môn hẳn thích hợp, hơn nữa Jotipāla này chế giễu bằng những ngôn từ mà bản thân đã học ở dòng dõi Bà-la-môn bởi vì trí tuệ vẫn chưa chín mùi nên mới nói như thế. Sottisināniṃ (đồ chà lưng và bột tắm): bột nghiền làm để tắm rửa được trộn với bột đá màu đỏ cùng với chất kiềm ngài gọi là bột tắm. Trong sự liên hệ đến điều đó ngài đã nói – “Vào lúc bấy giờ, các Tỳ khưu nhóm Lục Sư tắm với bột đá đỏ để dùng để kỳ cọ cơ thể.” (cūḷava. 243). Đôi bạn thân ấy cầm lấy bột đá đỏ dùng để kỳ cọ cơ thể. evaṃ sammā: ngay cả trong hiện tại nhóm người có ai rủ rằng: “chúng ta đi lễ bái Bảo điện, chúng ta đi nghe Pháp” sẽ không tạo sự nhiệt tâm, nhưng bất cứ ai rủ rằng: “chúng ta hãy đi xem ca hát nhảy múa v.v,” sẽ đồng ý chỉ với một lời như thế nào, thì Jotipāla cũng tương tự y như thế khi Ghaṭikāra rủ đi tắm chung cùng đã đồng ý chỉ với một lời, đã đáp lời như vậy.
284. jotipālaṃ māṇavaṃ āmantesīti ekapasse ariyaparihārena paṭhamataraṃ nhāyitvā paccuttaritvā ṭhito tassa mahantena issariyaparihārena nhāyantassa nhānapariyosānaṃ āgametvā taṃ nivatthanivāsanaṃ kese vodake kurumānaṃ āmantesi. ayanti āsannattā dassento āha. ovaṭṭikaṃ vinivaṭṭhetvāti nāgabalo bodhisatto “apehi sammā”ti īsakaṃ parivattamānova tena gahitagahaṇaṃ vissajjāpetvāti attho. kesesu parāmasitvā etadavocāti so kira cintesi — “ayaṃ V.3.200 jotipālo paññavā, sakiṃ dassanaṃ labhamāno tathāgatassa dassanepi pasīdissati, dhammakathāyapi pasīdissati, pasanno ca pasannākāraṃ kātuṃ sakkhissati, mittā nāma etadatthaṃ honti, yaṃkiñci katvā mama sahāyaṃ gahetvā dasabalassa santikaṃ gamissāmī”ti. tasmā naṃ kesesu parāmasitvā etadavoca.
284. jotipālaṃ māṇavaṃ āmantesi (thợ gốm Ghaṭikara đã gọi thanh niên Jotipāla): thợ gốm Ghaṭikara đã tắm gội với việc bảo vệ tốt đẹp ở một bên rồi bước lên trước đứng đợi, khi Jotipāla tắm xong với việc bảo vệ như người có nhiều quyền hạn to lớn, cho đến khi tắm xong rồi gọi Jotipāla mặc y phục, đang làm cho khô tóc. Ghaṭikara khi hướng dẫn mới nói “đây” do thanh niên Jotipāla ở gần. ovaṭṭikaṃ vinivaṭṭhetvā (sau khi gỡ thoát cổ áo): Bồ-tát có sức mạnh tựa như Long Tượng hơi nghiêng người nói rằng: Bạn ơi, hãy lui lại để cho thợ gốm Ghaṭikāra buông tay ra ở chỗ đã nắm. kesesu parāmasitvā etadavocā (sau khi nắm lấy tóc đã nói lời như này) được biết rằng Ghaṭikara ấy nghĩ như sau – “thanh niên Jotipāla này là người có trí tuệ, khi nhìn thấy một lần duy nhất sẽ tịnh tín trong việc nhìn thấy đấng Thập Lực, sẽ tịnh tín trong Giáo Pháp, thông thường người đã tịnh tín có thể tạo ra biểu hiện tịnh tín, được gọi là bạn là mục đích của việc này, ta sẽ làm bất kỳ điều nào, túm lấy bạn đi đến trú xứ của đấng Thập Lực cho bằng được mới túm lấy thanh niên Jotipāla ở tóc rồi nói lời ấy.
ittarajaccoti M.3.195 aññajātiko, mayā saddhiṃ asamānajātiko, lāmakajātikoti attho. na vatidanti idaṃ amhākaṃ gamanaṃ na vata orakaṃ bhavissati na khuddakaṃ, mahantaṃ bhavissati. ayañhi na attano thāmena gaṇhi, satthu thāmena gaṇhīti gahaṇasmiṃyeva niṭṭhaṃ agamāsi. yāvatādohipīti ettha dokārahikārapikārā nipātā, yāvatuparimanti attho. idaṃ vuttaṃ hoti — “vācāya ālapanaṃ ovaṭṭikāya gahaṇañca atikkamitvā yāva kesaggahaṇampi tattha gamanatthaṃ payogo kattabbo”ti.
Ittarajacco (thợ gốm Ghatikara tuy sanh thuộc hạ cấp): Ghaṭikāra thuộc dòng dõi khác, có dòng giống không đồng đắng với ta, tức là thuộc dòng dõi thấp. na vatidaṃ (chắc việc này không phải là tầm thường): đi đến sự chấp thuận trong việc nắm lấy tóc của ta, việc nắm lấy ta này quả thật không phải là việc nắm lấy thấp hèn, không phải việc nắm lấy tầm thường, sẽ trở thành việc nắm lấy to lớn, là thợ gốm Ghaṭikāra này không phải nắm lấy bằng sức mạnh của mình (mà) nắm lấy bằng sức mạnh của bậc Đạo Sư. Từ ‘da’ từ ‘hi’ và từ ‘pi’ trong từ yāvatādohipi này là phân từ, nghĩa là có thật sự là cần thiết không? lời này được giải thích rằng – “Cuộc trò chuyện bằng lời nói và việc nắm lấy ở thắt lưng đến túm lấy tóc (thợ gốm Ghaṭikāra) cần tạo sự cố gắng để nắm lấy trong câu đó”.
285. dhammiyā P.3.282 kathāyāti idha satipaṭilābhatthāya pubbenivāsapaṭisaṃyuttā dhammī kathā veditabbā. tassa hi bhagavā, — “jotipāla, tvaṃ na lāmakaṭṭhānaṃ otiṇṇasatto, mahābodhipallaṅke pana sabbaññutaññāṇaṃ patthetvā otiṇṇosi, tādisassa nāma pamādavihāro na yutto”tiādinā nayena satipaṭilābhāya dhammaṃ kathesi. parasamuddavāsītherā pana vadanti — “jotipāla, yathā ahaṃ dasapāramiyo pūretvā sabbaññutaññāṇaṃ paṭivijjhitvā vīsatisahassabhikkhuparivāro loke vicarāmi, evamevaṃ tvampi dasapāramiyo pūretvā sabbaññutaññāṇaṃ paṭivijjhitvā samaṇagaṇaparivāro loke vicarissasi. evarūpena nāma tayā pamādaṃ āpajjituṃ na yuttan”ti yathāssa pabbajjāya cittaṃ namati, evaṃ kāmesu ādīnavaṃ nekkhamme ca ānisaṃsaṃ kathesīti.
285. dhammiyā kathāyā (bằng Pháp thoại): Nên biết Pháp thoại có liên quan đến Túc Mạng Trí đưa đến sự thành tựu niệm ở đây. Đức Thế Tôn thuyết Pháp thoại đưa đến sự thành tựu niệm theo cách sau – “Này Jotipāla, bản thân của ông không phải chúng sanh bị hạ xuống vị trí thấp kém, nhưng ông ước muốn Trí tuệ Toàn giác truyền thừa ở dưới cội Đại thọ Bồ đề, thông thường người như ông không nên sống với sự xao lãng như vậy.” Còn phía trưởng lão cư trú ở bờ biển bên kia đã nói rằng: đức Thế Tôn đã thuyết Pháp thoại như sau – “Này Jotipāla, ta thực hành 10 Pháp ba-la-mật giác ngộ Toàn giác trí, có hai mươi nghìn vị Tỳ khưu vây quanh, di du hành trong thế gian bằng cách nào, ngay cả bản thân cũng hãy thực hành 10 Pháp ba-la-mật thấu triệt Trí tuệ Toàn giác, có hội chúng Sa-môn làm tùy tùng, sẽ du hành trong thế gian bằng cách tương tự y như thế, bằng hình thức như thât không thích hợp để sống xao lãng” tâm của Jotipāla ấy hướng đến việc xuất gia bằng cách nào, cũng giảng dạy đến lỗi lầm trong các dục và lợi ích của việc xuất ly bằng cách ấy.
286. alattha kho, ānanda, … pe … pabbajjaṃ alattha upasampadanti pabbajitvā kimakāsi? yaṃ bodhisattehi kattabbaṃ. bodhisattā hi buddhānaṃ sammukhe pabbajanti. pabbajitvā ca pana ittarasattā viya patitasiṅgā na honti, catupārisuddhisīle pana supatiṭṭhāya tepiṭakaṃ buddhavacanaṃ uggaṇhitvā terasa dhutaṅgāni samādāya araññaṃ pavisitvā gatapaccāgatavattaṃ pūrayamānā V.3.201 samaṇadhammaṃ karontā vipassanaṃ vaḍḍhetvā yāva anulomañāṇaṃ āhacca tiṭṭhanti, maggaphalatthaṃ vāyāmaṃ na karonti. jotipālopi tatheva akāsi.
286. alattha kho, ānanda, … pe … pabbajjaṃ alattha upasampadaṃ (này Ānanda, thanh niên Jotipāla…đã được xuất gia thọ cụ túc giới): Thanh niên Jotipāla đã xuất gia đã thực hành như thế nào? điều gì cần phải làm bởi đức Bồ-tát? Thông thường Bồ tát xuất gia ở trước mặt của chư Phật, cũng vậy sau khi xuất gia vị ây sẽ không như con bò vứt bỏ cặp sừng (không chùn bước) giống như những chúng sanh khác, vững trú trong tứ thanh tịnh giới rồi học tập Phật ngôn là Tam Tạng, thọ trì 13 hạnh đầu đà, đi vào rừng thực hành gatavatta và paccāgatavatta (đời sống ẩn cư), thực hành Sa-môn Pháp và tu tập Minh sát cho đến Trí Thuận Dòng mới dừng lại, không thực hành sự tinh tấn để đạt đến Đạo và Quả, ngay kể Jotipāla cũng đã thực hành tương tự như thế.
287. aḍḍhamāsupasampanneti kuladārakañhi pabbājetvā aḍḍhamāsampi avasitvā gate mātāpitūnaṃ soko na P.3.283 vūpasammati, sopi pattacīvaraggahaṇaṃ M.3.196 na jānāti, daharabhikkhusāmaṇerehi saddhiṃ vissāso na uppajjati, therehi saddhiṃ sineho na patiṭṭhāti, gatagataṭṭhāne anabhirati uppajjati. ettakaṃ pana kālaṃ nivāse sati mātāpitaro passituṃ labhanti. tena tesaṃ soko tanubhāvaṃ gacchati, pattacīvaraggahaṇaṃ jānāti, sāmaṇeradaharabhikkhūhi saddhiṃ vissāso jāyati, therehi saddhiṃ sineho patiṭṭhāti, gatagataṭṭhāne abhiramati, na ukkaṇṭhati. tasmā ettakaṃ vasituṃ vaṭṭatīti aḍḍhamāsaṃ vasitvā pakkāmi.
287. Aḍḍhamāsupasampanne (sau khi thọ cụ túc giới khoảng nửa tháng): đức Thế Tôn đã cho đứa trẻ của dòng tộc được xuất gia, không cư trú dù chỉ nửa tháng đã rời đi, sự buồn rầu của mẹ và cha vẫn không được nguôi ngoai, vị ấy không biết việc mang bát và y phục, sự làm quen với Tỳ khưu trẻ và các vị Sa-di vẫn chưa xảy ra, mối quan hệ với các vị trưởng lão vẫn chưa ổn định, vẫn không khởi lên sự hoan hỷ ở nơi đã đi qua. Nhưng khi sống suốt khoảng thời gian có chừng ấy, mẹ và cha cũng đã nhìn thấy, do đó sự sầu muộn của mẹ và cha cũng dịu đi, biết được việc mang bát và đắp y, khởi lên sự thân mật với các vị Sa-di và các Tỳ khưu trẻ, mới quan hệ với các vị trưởng lão cũng trở nên ổn định, ở những nơi đã đi qua, có sự hoan hỷ, không bất mãn. Do đó, đức Thế Tôn Kassapa cư trú hết nửa tháng rồi rời đi.
paṇḍupuṭakassa sālinoti puṭake katvā sukkhāpitassa rattasālino. tassa kira sālino vappakālato paṭṭhāya ayaṃ parihāro — kedārā suparikammakatā honti, tattha bījāni patiṭṭhāpetvā gandhodakena siñciṃsu, vappakāle vitānaṃ viya upari vatthakilañjaṃ bandhitvā paripakkakāle vīhisīsāni chinditvā muṭṭhimatte puṭake katvā yottabaddhe vehāsaṃyeva sukkhāpetvā gandhacuṇṇāni attharitvā koṭṭhakesu pūretvā tatiye vasse vivariṃsu. evaṃ tivassaṃ parivutthassa sugandharattasālino apagatakāḷake suparisuddhe taṇḍule gahetvā khajjakavikatimpi bhattampi paṭiyādiyiṃsu. taṃ sandhāya vuttaṃ paṇītaṃ khādanīyaṃ bhojanīyaṃ … pe … kālaṃ ārocāpesīti.
paṇḍupuṭakassa sālino (có gạo sālī đỏ và mềm): có gạo sālī màu đỏ được nấu chín, được làm mềm. Được biết rằng gạo sālī ấy kể từ khi gieo hạt có sự chăm sóc như vầy: ruộng lúa phải được chuẩn bị kỹ lưỡng, lấy hạt giống đặt ở nơi đó, tưới với nước thơm. Vào thời gian gieo hạt buộc tấm chiếu có tấm vải ở phía trên, tựa như mái che, khi lúa chín đến mùa thu hoạch bó lại thành từng bó, buộc sợi dây treo phơi ở chỗ khô ráo, rải rắc bột thơm đầy kho cất giữ rồi mở ra sau mỗi ba năm. Gạo Sālī đỏ có hương thơm được cất giữ đến 3 năm như vậy, đã giữ lại hạt gạo nguyên chất, không có lẫn hạt đen, có thể bày biện nhiều thức ăn loại mềm khác, kể cả thức ăn loại cứng. Ngài muốn đề cập đến lời đó mới nơi rằng: “cho bày biện các món ăn thượng vị loại cứng và loại mềm, … rồi cho người thông báo thời giờ.”
288. adhivuṭṭho meti kiṃ sandhāya vadati? vegaḷiṅgato P.3.284 nikkhamanakāle ghaṭikāro attano santike vassāvāsaṃ vasanatthāya paṭiññaṃ aggahesi, taṃ sandhāya vadati. ahudeva aññathattaṃ ahu domanassanti temāsaṃ dānaṃ dātuṃ, dhammañca sotuṃ, iminā ca niyāmena vīsati bhikkhusahassāni paṭijaggituṃ nālatthanti alābhaṃ ārabbha cittaññathattaṃ cittadomanassaṃ ahosi, na tathāgataṃ ārabbha. kasmā? sotāpannattā. so kira pubbe brāhmaṇabhatto ahosi. athekasmiṃ samaye paccante kupite vūpasamanatthaṃ gacchanto uracchadaṃ nāma dhītaramāha — “amma amhākaṃ deve mā pamajjī”ti. brāhmaṇā taṃ rājadhītaraṃ disvā visaññino ahesuṃ. ke ime cāti V.3.202 vutte tumhākaṃ bhūmidevāti. bhūmidevā nāma evarūpā hontīti niṭṭhubhitvā pāsādaṃ abhiruhi. sā ekadivasaṃ vīthiṃ olokentī ṭhitā kassapassa bhagavato aggasāvakaṃ disvā pakkosāpetvā M.3.197 piṇḍapātaṃ datvā anumodanaṃ suṇamānāyeva sotāpannā hutvā “aññepi bhikkhū atthī”ti pucchitvā “satthā vīsatiyā bhikkhusahassehi saddhiṃ isipatane vasatī”ti ca sutvā nimantetvā dānaṃ adāsi.
288. Adhivuṭṭho me: đức Thế Tôn Kassapa nói liên quan đến điều gì? Trong thời gian ngài rời khỏi Vegaḷiṅga thì Ghaṭakāra đã giữ lấy lời hứa nhằm mục đích để ngài an trú vào mùa mưa ở trong trú xứ của mình, được nói liên quan đến an trú mùa mưa ấy. Ahudeva aññathattaṃ ahu domanassaṃ (cảm thấy thất vọng, ưu phiền): Đức vua Kikikāsi đề cập đến sự không có lợi đắc, cảm thấy thất vọng, có tâm sầu ưu (rằng) ta đã không được cúng dường vật phẩm suốt ba tháng mùa mưa, và không được lắng nghe Giáo Pháp, và không được trong nom săn sóc chư Tỳ khưu hai mươi nghìn vị theo cách thức này. Không liên quan đến đấng Như Lai. Tại sao? Bởi Ngài là bậc thánh Nhập Lưu. Được biết rằng trước kia đức vua Kikikāsi ấy tôn kính Bà-la-môn, vào thời gian sau đó khi biên thùy tăng lên (ngài) đi đến sự an tĩnh nên mới bảo công chúa tên là Uracchada: “này con yêu, con chớ xao lãng đối với vị Thiên nhân của ta.” Các Bà-la-môn nhìn thấy công chúa đã trở nên không có ý thức, các vệ quân khi được nàng hỏi: “Những người này là ai, đã đáp rằng là chư thiên địa cầu”. Công chúa đã hỏi rằng gọi là chư thiên địa cầu thì ra có hình tướng như vầy rồi nàng bước lên cung điện. Một ngày nọ nàng đứng nhìn ra đại lộ, đã nhìn thấy vị đệ nhất Thinh văn của đức Thế Tôn tên là Kassapa, nàng ra lệnh cho mời vị trưởng lão đến cúng dường đồ ăn khất thực, sau khi nghe lời tùy hỷ đã trở thành vị Nhập Lưu, nàng đã hỏi rằng: “Vẫn còn có các Tỳ khưu khác nữa phải chăng?” đã nghe rằng: “Bậc Đạo Sư cùng với hai mươi nghìn vị Tỳ khưu nữa đang an trú ở trong rừng Isipatana” nên (nàng) đã đi thỉnh mời rồi cúng dường.
rājā paccantaṃ vūpasametvā āgato. atha naṃ paṭhamatarameva brāhmaṇā āgantvā dhītu avaṇṇaṃ vatvā paribhindiṃsu. rājā pana dhītu jātakāleyeva varaṃ adāsi. tassā “satta divasāni rajjaṃ dātabban”ti varaṃ gaṇhiṃsu. athassā rājā satta divasāni rajjaṃ niyyātesi. sā satthāraṃ bhojayamānā rājānaṃ pakkosāpetvā bahisāṇiyaṃ nisīdāpesi. rājā satthu anumodanaṃ sutvāva sotāpanno jāto. sotāpannassa ca nāma tathāgataṃ ārabbha āghāto natthi. tena vuttaṃ — “na tathāgataṃ ārabbhā”ti.
Đức vua cuối cùng đã quay trở về sau khi trấn an được vùng lãnh thổ (ở biên thùy). Khi đó các Bà-la-môn đã đến diện kiến đức vua trước, nói những lời chỉ trích đến công chúa để tạo mối chia rẽ. Nhưng đức vua đã ban phước lành vào lúc công chúa chào đời. Tất cả thân quyến đều xin ban phước lành đến cho nàng “(xin cho nàng) được vương quyền bảy ngày”. Khi ấy đức vua đã trao tài sản cho công chúa hết toàn bộ 7 ngày. Công chúa cúng dường vật thực đến bậc Đạo Sư được thọ hưởng tùy ý, cho mời đức vua ngồi ở bên ngoài rèm, trong khi đức vua nghe lời tùy hỷ của bậc Đạo Sư cũng đã trở thành vị thánh Nhập Lưu. Thường bậc thánh Nhập Lưu không có sự sân hận liên quan đến đấng Như Lai. Vì thế ngài đã nói rằng: “Sự thất vọng, sự ưu phiền không liên quan đến đấng Như Lai”.
yaṃ icchati taṃ haratūti so kira bhājanāni pacitvā kayavikkayaṃ P.3.285 na karoti, evaṃ pana vatvā dārutthāya vā mattikatthāya vā palālatthāya vā araññaṃ gacchati. mahājanā “ghaṭikārena bhājanāni pakkānī”ti sutvā parisuddhataṇḍulaloṇadadhitelaphāṇitādīni gahetvā āgacchanti. sace bhājanaṃ mahagghaṃ hoti, mūlaṃ appaṃ, yaṃ vā taṃ vā datvā gaṇhāmāti taṃ na gaṇhanti. dhammiko vāṇijo mātāpitaro paṭijaggati, sammāsambuddhaṃ upaṭṭhahati, bahu no akusalaṃ bhavissatīti puna gantvā mūlaṃ āharanti. sace pana bhājanaṃ appagghaṃ hoti, ābhataṃ mūlaṃ bahu, dhammiko vāṇijo, amhākaṃ puññaṃ bhavissatīti yathābhataṃ gharasāmikā viya sādhukaṃ paṭisāmetvā gacchanti. evaṃguṇo pana kasmā na pabbajatīti. rañño vacanapathaṃ pacchindanto andhe jiṇṇe mātāpitaro posetīti āha.
yaṃ icchati taṃ haratu (hãy mang đi những thứ cần thiết): được biết rằng người thợ gốm Ghaṭikāra làm các bình đựng, không làm các việc mua và bán. Sau khi nói như vậy rồi đi vào rừng để tìm kiếm củi, để tìm kiếm đất, và để tìm kiếm lá cây. Đại chúng nghe rằng “người thợ gốm Ghaṭikāra đã làm xong những bình đựng” đã mang gạo, muối, sữa đặc, dầu ăn và mật mía loại tốt đến, nếu bình đựng có giá trị cao, có giá trị thấp thì sẽ cho những thứ này hoặc thứ kia phù hợp rồi mới đem đi, vì thế đại chúng không mang các bình đựng đó đi mà mang lại những bình có giá trị nữa bởi nghĩ rằng: người thợ gốm Ghaṭikāra là người thương buôn thực hành theo Chánh Pháp, phụng dưỡng mẹ và cha, phụng sự bậc Chánh đẳng Chánh giác, bất thiện sẽ có nơi vị ấy nhiều. Nhưng nếu bình đựng có giá trị thấp, giá trị mà vị ấy mang lại nhiều, sẽ giúp gìn giữ được giá trị mà (vị ấy) mang lại giống như người chủ nhà đang đi suy nghĩ rằng: thợ gốm Ghaṭikāra là người thương buôn thực hành theo Chánh Pháp, sẽ là (ruộng) phước của chúng ta. Đức Thế Tôn Kassapa trong khi cắt đứt kim khẩu của đức vua rằng: người thợ gốm Ghaṭikāra có đức hạnh như vậy, do nhân gì lại không xuất gia? do đó đã nói rằng: “thợ gốm Ghaṭikāra nuôi dưỡng cha và mẹ già và mù lòa.”
289. ko nu khoti kuhiṃ nu kho. kumbhiyāti ukkhalito. pariyogāti sūpabhājanato. paribhuñjāti bhuñja. kasmā panete evaṃ vadanti? ghaṭikāro kira bhattaṃ pacitvā sūpaṃ sampādetvā mātāpitaro bhojetvā sayampi bhuñjitvā bhagavato vaḍḍhamānakaṃ bhattasūpaṃ paṭṭhapetvā āsanaṃ paññapetvā ādhārakaṃ upaṭṭhapetvā udakaṃ paccupaṭṭhapetvā mātāpitūnaṃ saññaṃ V.3.203 datvā araññaṃ gacchati. tasmā evaṃ vadanti. abhivissatthoti M.3.198 ativissattho. pītisukhaṃ P.3.286 na vijahatīti na nirantaraṃ vijahati, atha kho rattibhāge vā divasabhāge vā gāme vā araññe vā yasmiṃ yasmiṃ khaṇe — “sadevake nāma loke aggapuggalo mayhaṃ gehaṃ pavisitvā sahatthena āmisaṃ gahetvā paribhuñjati, lābhā vata me”ti anussarati, tasmiṃ tasmiṃ khaṇe pañcavaṇṇā pīti uppajjati. taṃ sandhāya evaṃ vuttaṃ.
ko nu kho bao gồm kuhiṃ nu kho, đức Thế Tôn hỏi rằng: thợ gốm Ghaṭikāra đã đi đâu? Kumbhiyā: Từ nồi cơm. Pariyogā: hãy thọ dụng. Tại sao mẹ và cha của Ghaṭikāra lại nói như vậy? Được biết rằng thợ gốm Ghaṭikāra đã nấu cơm, đã chuẩn bị phần canh để cho mẹ và cha thọ dụng, rồi bản thân mới ăn, đã đặt cơm và canh được chuẩn bị cúng dường đến đức Thế Tôn, đã trải sẵn tọa cụ, mang thức ăn đặt ở gần, đặt nước rồi ra hiệu cho mẹ và cha sau đó đi vào rừng, do đó đã nói như vậy. Abhivissattho: vô cùng quen thuộc. pītisukhaṃ na vijahati (hỷ và lạc không rời bỏ): thợ gốm Ghaṭikāra không rời bỏ hỷ và lạc liên tục không gián đoạn, vị ấy thường xuyên tùy niệm (nhớ đến), không kể bất kỳ thời gian nào dù ban đêm, hay thậm chí là ban ngày, dù ở trong nhà, hay ở trong rừng (như sau): “vị tối thượng nhân trong thế gian được gọi là cùng với cõi trời đã đi vào ngôi nhà của ta, nhận lấy vật thực thọ dụng, quả thật đây là lợi đắc của ta”. hỷ có năm màu sắc sanh khởi trong từng sát-na, ngài đã nói lời này để đề cập đến chuyện này.
290. kaḷopiyāti pacchito. kiṃ pana bhagavā evamakāsīti. paccayo dhammiko, bhikkhūnaṃ patte bhattasadiso, tasmā evamakāsi. sikkhāpadapaññattipi ca sāvakānaṃyeva hoti, buddhānaṃ sikkhāpadavelā nāma natthi. yathā hi rañño uyyāne pupphaphalāni honti, aññesaṃ tāni gaṇhantānaṃ niggahaṃ karonti, rājā yathāruciyā paribhuñjati, evaṃsampadametaṃ. parasamuddavāsītherā pana “devatā kira paṭiggahetvā adaṃsū”ti vadanti.
290. Kaḷopiyā: từ cái giỏ. Đức Thế Tôn thực hiện như vậy được chăng? Là duyên đúng Pháp, cũng tương tự như cơm trong bình bát của chư Tỳ khưu, vì thế đức Thế Tôn mới làm như vậy. Hơn nữa, việc chế định giới luật chỉ có nơi các vị đệ tử. Gọi là ranh giới của giới luật không tồn tại đối với chư Phật. Giống như hoa và trái trong vườn thượng uyển, người khác gom nhặt hoa và trái cây đó đều bị trừng phạt. Về phần nhà vua, ngài có thể thọ dụng tùy theo ý của ngài, câu này cũng được so sánh tương tự như thế. Về phần trưởng lão ở bờ bên kia đại dương nói rằng: “được biết rằng chư Thiên đã chuẩn bị (lễ vật) cúng dường.”
291. haratha, bhante, haratha bhadramukhāti amhākaṃ putto “kuhiṃ gatosī”ti vutte — “dasabalassa santikan”ti vadati, kuhiṃ nu kho gacchati, satthu vasanaṭṭhānassa ovassakabhāvampi na jānātīti putte aparādhasaññino gahaṇe tuṭṭhacittā evamāhaṃsu.
291. haratha, bhante, haratha bhadramukhā (Kính bạch ngài, hãy lấy đi, hãy lấy đi tùy thích): Con của ta khi (các Tỳ khưu) hỏi rằng sẽ đi đâu? đã trả lời rằng: “con đi đến trú xứ của đấng Thập Lực,” (khi các Tỳ khưu nói rằng) lại đi đâu nữa? không biết được chỗ ở của bậc Đạo Sư bị dột, là người có tâm hoan hỷ trong việc nắm giữ, có tưởng không lỗi lầm nên đã nói như thế.
temāsaṃ ākāsacchadanaṃ aṭṭhāsīti bhagavā kira catunnaṃ vassikānaṃ māsānaṃ ekaṃ māsaṃ atikkamitvā tiṇaṃ āharāpesi, tasmā evamāha. ayaṃ panettha padattho — ākāsaṃ chadanamassāti ākāsacchadanaṃ. na devotivassīti kevalaṃ nātivassi, yathā panettha P.3.287 pakatiyā ca nibbakosassa udakapātaṭṭhānabbhantare ekampi udakabindu nātivassi, evaṃ ghanachadanagehabbhantare viya na vātātapāpi ābādhaṃ akaṃsu, pakatiyā utupharaṇameva ahosi. aparabhāge tasmiṃ nigame chaḍḍitepi taṃ ṭhānaṃ anovassakameva ahosi. manussā kammaṃ karontā deve vassante tattha sāṭake ṭhapetvā kammaṃ karonti. yāva kappuṭṭhānā taṃ ṭhānaṃ tādisameva bhavissati. tañca kho pana na tathāgatassa iddhānubhāvena, tesaṃyeva pana guṇasampattiyā. tesañhi — “sammāsambuddho kattha na labheyya, amhākaṃ nāma dvinnaṃ andhakānaṃ nivesanaṃ uttiṇaṃ kāresī”ti na tappaccayā domanassaṃ udapādi — “sadevake loke aggapuggalo amhākaṃ M.3.199 nivesanā tiṇaṃ āharāpetvā gandhakuṭiṃ chādāpesī”ti pana tesaṃ anappakaṃ V.3.204 balavasomanassaṃ udapādi. iti tesaṃyeva guṇasampattiyā idaṃ pāṭihāriyaṃ jātanti veditabbaṃ.
temāsaṃ ākāsacchadanaṃ aṭṭhāsi (có hư không làm mái nhà suốt 3 tháng): Được biết rằng đức Thế Tôn an trú qua một tháng, đối với 4 tháng mùa mưa mới cho chư Tỳ khưu mang cỏ tranh đến, do đó đã nói như vậy. Hơn nữa ý nghĩa trong chuyện này như sau – có hư không làm mái nhà với ý nghĩa hư không làm mái che của ngôi nhà đó. na devotivassi (dẫu cho mưa rơi xuống cũng không dột): Không những mưa không rơi xuống toàn bộ (ngôi nhà), giọt nước dù chỉ một giọt cũng không rơi vào bên trong nơi đó nơi máng nước ở hiên nhà của thợ gốm Ghaṭikāra thế nào, thì kể cả gió và nắng cũng không gây ảnh hưởng đến bên trong ngôi nhà có mái che chắc chắn cũng tương tự y như thế. Sự tràn khắp của thời tiết có được thuận theo tự nhiên. Về sau thị trấn đó dầu bị bỏ hoang thì ở nơi đó mưa cũng không rơi xuống ở chính ngôi nhà ấy. Mọi người khi làm việc lúc trời mưa cũng cất đồ đạc ở chỗ đó rồi lại tiếp tục làm việc. Ở nơi nó trở thành như thế suốt một kiếp, biểu hiện như thế không phải do sức mạnh thần thông của đấng Như Lai, mà hoàn toàn do sự thành tựu đức hạnh của mẹ và cha của người thợ gốm Ghaṭikāra. Thật vậy, cha và mẹ của vị ấy không khởi lên lòng sân hận do chính điều đó làm duyên (nghĩ rằng) – “Bậc Chánh đẳng Chánh giác không thể có được (cỏ tranh) ở bất cứ nơi đâu, mới cho tháo dỡ mái che tại trú xứ của hai mù chúng tôi,” nhưng họ đã khởi lên sự hoan hỷ có sức mạnh không phải ít. (nghĩ rằng) – “bậc tối thượng nhân của thể giới loài người và cả chư thiên đến lấy cỏ từ trú xứ của tôi làm mái che ở Gandhakuṭi.” Bậc trí nên biết rằng điều kỳ diệu này sanh khởi hoàn toàn do sự thành tựu đức hạnh của mẹ và cha của người thợ gốm ấy.
292. taṇḍulavāhasatānīti ettha dve sakaṭāni eko vāhoti veditabbo. tadupiyañca sūpeyyanti sūpatthāya tadanurūpaṃ telaphāṇitādiṃ. vīsatibhikkhusahassassa temāsatthāya bhattaṃ bhavissatīti kira saññāya rājā ettakaṃ pesesi. alaṃ me raññova hotūti kasmā paṭikkhipi? adhigatāppicchatāya. evaṃ kirassa ahosi — “nāhaṃ raññā diṭṭhapubbo, kathaṃ nu kho pesesī”ti. tato cintesi — “satthā bārāṇasiṃ gato, addhā so rañño vassāvāsaṃ yāciyamāno mayhaṃ paṭiññātabhāvaṃ ārocetvā mama guṇakathaṃ kathesi, guṇakathāya laddhalābho pana naṭena naccitvā laddhaṃ viya P.3.288 gāyakena gāyitvā laddhaṃ viya ca hoti. kiṃ mayhaṃ iminā, kammaṃ katvā uppannena mātāpitūnampi sammāsambuddhassapi upaṭṭhānaṃ sakkā kātun”ti. sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
Taṇḍulavāhasatāni này nên biết rằng hai trăm cỗ xe là một vāha. Vật để nấu súp thích hợp với loại gạo, tức là nguyên liệu như dầu ăn, mật mía v.v, thích hợp với loại gạo dùng để nấu canh. Được biết rằng đức vua gởi (vật dụng) bằng chừng này đến nghĩ rằng: vật thực này có cùng một nghìn vị Tỳ khưu vì lợi ích ba tháng (an cư mùa mưa). Đừng trở thành đồ vật của tôi, hãy trở thành đồ vật của đức vua: Tại sao người thợ gốm Ghaṭikāra đã từ chối? Bởi vì là vị ấy đã đạt đến sự ít ham muốn. Được biết vị ấy có sự hoan hỷ như sau – “Đức vua chưa từng nhìn thấy ta, gửi đồ vật đến đề làm làm gì?” Từ đó mới nghĩ rằng – “Bậc Đạo Sư đã đến thành Bārāṇasī, đức Thế Tôn khi bị đức vua thỉnh cầu ở lại an cư mùa mưa, cũng đáp rằng ngài đã nhận lời (thỉnh cầu) của ta, chắc chắn sẽ nói đến ân đức cúng dường của ta, vị có được lợi đắc do sự tán thán (guṇakathā), giống như lợi lộc mà người khiêu vũ nhận được bằng việc khiêu vũ, và giống như lợi lộc của người đánh xe nhận được bằng việc đánh xe, lợi ích gì cho ta với những thứ này, ta có thể thực hiện bằng việc phụng dưỡng cả mẹ và cha, và cả phụng sự bậc Chánh đẳng Chánh giác nhờ lợi đắc mà ta đã tạo bằng việc làm (đó) đã sanh khởi. Từ còn lại trong các câu đều đơn giản.
Giải Thích Kinh Ghaṭikāra Kết Thúc.