Kinh số 80 – Giải Thích Kinh Vekhanasa
(Vekhanasasuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Tiểu Kinh Vekhanasa
278. evaṃ V.3.196 P.3.277 M.3.191 me sutanti vekhanasasuttaṃ. tattha vekhanasoti ayaṃ kira sakuludāyissa ācariyo, so “sakuludāyī paribbājako paramavaṇṇapañhe parājito”ti sutvā “mayā so sādhukaṃ uggahāpito, tenāpi sādhukaṃ uggahitaṃ, kathaṃ nu kho parājito, handāhaṃ sayaṃ gantvā samaṇaṃ gotamaṃ paramavaṇṇapañhaṃ pucchitvā jānissāmī”ti rājagahato pañcacattālīsayojanaṃ sāvatthiṃ gantvā yena bhagavā, tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā pana ṭhitakova bhagavato santike udānaṃ udānesi. tattha purimasadisaṃ vuttanayeneva veditabbaṃ.
278. Kinh Vekhanasa được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, vekhanaso: Du sĩ Vekhanasa này là thầy của du sĩ Sakuludāyi, du sĩ Vekhanasa đã nghe rằng “du sĩ Sakuludāyi đã chiến bại trong câu hỏi có vaṇṇa (màu da) tối thắng, nghĩ rằng “Sakuludāyī ấy ta đã dạy dỗ một cách khéo léo, ngay cả Sakuludāyī cũng học tập rất tốt, hắn bại như thế nào? Thôi đủ rồi, ta sẽ tự mình đi, hỏi vấn đề có vaṇṇa tối thắng ấy nơi Sa-môn Gotama rồi sẽ biết được” (vị ấy) đã đi đến thành Sāvatthi khoảng 45 do-tuần từ thành Rājagaha đến yết kiến đức Thế Tôn ở nơi cư trú, sau khi đến đã đứng thốt lên lời cảm hứng trong trú xứ của đức Thế Tôn. Trong bài kinh này nên biết theo cách thức như đã được nói ở bài Kinh trước.
280. pañca kho imeti kasmā ārabhi? agāriyopi ekacco kāmagaruko kāmādhimutto hoti, ekacco nekkhammagaruko nekkhammādhimutto hoti. pabbajitopi ca ekacco kāmagaruko kāmādhimutto hoti, ekacco nekkhammagaruko nekkhammādhimutto hoti. ayaṃ pana kāmagaruko kāmādhimutto hoti. so imāya kathāya kathiyamānāya attano kāmādhimuttattaṃ sallakkhessati, evamassāyaṃ desanā sappāyā bhavissatīti imaṃ desanaṃ ārabhi. kāmaggasukhanti nibbānaṃ adhippetaṃ.
280. Vì sao đức Thế Tôn bắt đầu như sau “Sự trói buộc của năm dục này?” Một số người kể cả người gia chủ cũng nặng về dục, có tánh khí về dục, một số người nặng về thoát ly, có tánh khí về thoát ly. Hơn nữa, một số vị là bậc xuất gia, là người nặng về dục, có tánh khí về dục, một số người nặng về thoát ly, có tánh khí thoát ly. Hạng người này là người nặng về dục và có tánh khí hướng về dục. Hạng người ấy khi nói kệ ngôn này (vị ấy) sẽ suy xét cân nhắc biết được rằng tự thân có tánh khí về dục, pháp thoại này là thích hợp cho hạng người ấy, do đó, đức Thế Tôn mới bắt đầu thuyết. Kāmaggasukhaṃ (an lạc là tối thượng hơn dục): ngài có ý muốn nói đến Nibbāna.
281. pāpito P.3.278 bhavissatīti ajānanabhāvaṃ pāpito bhavissati. nāmakaṃyeva sampajjatīti niratthakavacanamattameva sampajjati. tiṭṭhatu pubbanto tiṭṭhatu aparantoti yasmā tuyhaṃ atītakathāya anucchavikaṃ pubbenivāsañāṇaṃ natthi, anāgatakathāya anucchavikaṃ dibbacakkhuñāṇaṃ natthi, tasmā ubhayampetaṃ tiṭṭhatūti āha. suttabandhanehīti suttamayabandhanehi. tassa hi ārakkhatthāya hatthapādesu ceva gīvāya ca suttakāni bandhanti. tāni sandhāyetaṃ vuttaṃ. mahallakakāle panassa tāni sayaṃ vā pūtīni hutvā muñcanti, chinditvā vā haranti.
281. Pāpito bhavissati (sẽ làm cho Sa-môn Gotama nhận sự thất bại): sẽ đưa đến trạng thái không biết. nāmakaṃyeva sampajjati (thành tựu ngay cả Pháp thấp hèn): thành tựu ngay cả những lời nói không có lợi ích. Tiṭṭhatu pubbanto tiṭṭhatu aparanto (hãy bỏ qua quá khứ, hãy bỏ qua tương lai): bởi vì ngài không có Túc Mạng Trí thích hợp để nói đến chuyện quá khứ, không có Thiên Nhãn Trí thích hợp để nói về chuyện tương lai. Vì thế, đức Thế Tôn mới thuyết rằng: “Ngay cả hai loại này cũng hãy bỏ qua”. suttabandhanehi (do sự trói buộc bằng sợi chỉ): vị ấy buộc sợi chỉ vào tay chân và cổ để chăm sóc đứa trẻ ấy, sự trói buộc này ngài đề cập đến sợi chỉ ấy. Nhưng khi trở thành người lớn sợi chỉ buộc ấy mục nát rồi từ tuột ra hoặc đứt rời ra.
evameva V.3.197 khoti iminā idaṃ dasseti — daharassa kumārassa suttabandhanānaṃ ajānanakālo viya avijjāya purimāya koṭiyā ajānanaṃ, na hi sakkā avijjāya purimakoṭi ñātuṃ, mocanakāle jānanasadisaṃ pana M.3.192 arahattamaggena avijjābandhanassa pamokkho jātoti jānanaṃ. sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
Đức Thế Tôn thuyết giảng câu này như sau evameva kho (như thế đó), việc không biết được điểm bắt đầu và điểm kết thúc của Vô minh giống như thời kỳ đứa trẻ không biết được sợi dây buộc được làm bằng chỉ, bởi vì không ai có thể biết được điểm bắt đầu và điểm kết thúc của Vô minh, nhưng biết rằng sự thoát khỏi sợi dây trói buộc là Vô minh bằng A-ra-hán Đạo đã sanh khởi, giống như thời gian biết được bản thân thoát khỏi sự trói buộc (sợi chỉ). Các từ còn lại trong các câu đều đơn giản.
Giải Thích Kinh Vekhanasa Kết Thúc.