Kinh số 77 – Giải Thích Đại Kinh Sakuludāyi
(Mahāsakuludāyisuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Đại Kinh Sakuludāyi
237. evaṃ V.3.168 me sutanti mahāsakuludāyisuttaṃ. tattha moranivāpeti tasmiṃ ṭhāne morānaṃ abhayaṃ ghosetvā bhojanaṃ adaṃsu. tasmā taṃ ṭhānaṃ moranivāpoti saṅkhaṃ gataṃ. annabhāroti ekassa paribbājakassa nāmaṃ. tathā varadharoti. aññe cāti na kevalaṃ ime tayo, aññepi abhiññātā bahū paribbājakā. appasaddassa vaṇṇavādīti idha appasaddavinītoti avatvāva idaṃ vuttaṃ. kasmā? na hi bhagavā aññena vinītoti.
237 Đại Kinh Sakuludāyi được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, Moranivāpe (nơi nuôi dưỡng Khổng tước): Ở nơi đó mọi người đã thông báo sự an toàn đến loài Khổng tước rồi cho thức ăn đến chúng. Vì thế, nơi đó gọi là Moranivāpa nơi cho thức ăn đến loài Khổng tước. Annabhāro: tên của một du sĩ ngoại đạo. Varadharo cũng là tên của du sĩ ngoại đạo. Aññe ca (và nhóm khác nữa): Không những chỉ có 3 du sĩ ngoại đạo này, mà còn nhiều những du sĩ khác cũng có danh tiếng. Appasaddassa vaṇṇavādī (tán thán sự trầm lặng): [Câu nói] ‘Người tán thán sự ít tiếng ồn’ được nói ra ở đây mà không dùng từ ‘người được huấn luyện để ít tiếng ồn’. Tại sao? Vì đức Thế Tôn không phải do người khác huấn luyện.
238. purimānīti hiyyodivasaṃ upādāya purimāni nāma honti, tato paraṃ purimatarāni. kutūhalasālāyanti kutūhalasālā nāma paccekasālā natthi, yattha pana nānātitthiyā samaṇabrāhmaṇā nānāvidhaṃ kathaṃ pavattenti, sā bahūnaṃ — “ayaṃ kiṃ vadati P.3.236, ayaṃ kiṃ vadatī”ti kutūhaluppattiṭṭhānato “kutūhalasālā”ti vuccati. “kotūhalasālā”tipi pāṭho. lābhāti ye evarūpe samaṇabrāhmaṇe daṭṭhuṃ pañhaṃ pucchituṃ M.3.164 dhammakathaṃ vā nesaṃ sotuṃ labhanti, tesaṃ aṅgamagadhānaṃ ime lābhāti attho.
238 Purimāni (ngày trước): ngày trước đó, muốn nói đến ngày hôm qua, những ngày còn xa hơn trước đó nữa. Kutūhalasālāyaṃ (trong giảng đường truyền tin) không có một giảng đường riêng biệt tên là Kutūhalasālā, hơn nữa giảng đường nơi nhiều Sa-môn, Bà-la-môn, và du sĩ thuộc các giáo phái khác nhau hội họp để đàm luận nhiều vấn đề, ngài gọi là Kutūhalasālā bởi đây là nơi gây tò mò, háo hức của nhiều người “người này nói gì, người kia nói gì”, Pāḷī như vầy ‘Kutūhalasālā’ cũng có. Lābhā (lợi đắc): có nghĩa là lợi đắc của người dân xứ Aṅga và Magadha được nhìn thấy Sa-môn, Bà-la-môn, hỏi vấn đề hoặc nghe Pháp thoại của những Sa-môn, Bà-la-môn.
saṅghinotiādīsu pabbajitasamūhasaṅkhāto saṅgho etesaṃ atthīti saṅghino. sveva gaṇo etesaṃ atthīti gaṇino. ācārasikkhāpanavasena tassa gaṇassa ācariyāti gaṇācariyā. ñātāti paññātā pākaṭā. yathābhuccaguṇehi ceva ayathābhūtaguṇehi ca samuggato yaso etesaṃ atthīti yasassino. pūraṇādīnañhi “appiccho santuṭṭho, appicchatāya vatthampi na nivāsetī”tiādinā nayena yaso samuggato, tathāgatassa “itipi so bhagavā”tiādīhi yathābhūtaguṇehi. titthakarāti laddhikarā. sādhusammatāti ime sādhū sundarā sappurisāti evaṃ sammatā. bahujanassāti assutavato ceva andhabālaputhujjanassa vibhāvino ca paṇḍitajanassa. tattha titthiyā bālajanassa evaṃ sammatā, tathāgato paṇḍitajanassa. iminā nayena pūraṇo kassapo saṅghītiādīsu attho veditabbo. bhagavā pana yasmā aṭṭhatiṃsa ārammaṇāni vibhajanto bahūni nibbānaotaraṇatitthāni akāsi, tasmā “titthakaro”ti vattuṃ vaṭṭati.
Nên biết ý nghĩa trong câu được bắt đầu như sau saṅghino (có hội chúng), gọi là có hội chúng bởi có chúng là hội chúng xuất gia. Gọi là gaṇino (có đồ chúng): do có đồ chúng đó. Gọi là gaṇācariyā (giáo thọ sư của tập thể): là vị thầy của tập thể đó thông qua việc giảng dạy về phẩm hạnh (giới hạnh). Ñātā (được biết tiếng): có tên tuổi xuất hiện. Yasassino (có danh vọng): bởi có danh vọng cao với đức hạnh không đúng theo bản thể và với đức hạnh đúng theo bản thể. Pūraṇa Kassapa v.v, có danh vọng cao theo cách thức bắt đầu như sau: là người có ít ham muốn, tri túc, thậm chí y phục cũng không mặc, bởi vì là người có sự ít ham muốn. Danh vọng của Như Lai cao thượng bởi đức hạnh đúng theo bản thể bắt đầu như sau: “itipi so bhagavā (thật vậy đức Thế Tôn ấy…)” Titthakarā đồng nghĩa với laddhikarā (là các giáo chủ). Sādhusammatā (được đánh giá cao): được nhiều người đánh giá cao như vầy, tốt lành, tốt đẹp là bậc Thiện nhân. Bahujanassā (nhiều người): kẻ mù quáng và kẻ phàm nhân ngu ngốc thất học và bậc trí vị có trí tuệ. Ở đó, nhóm ngoại đạo sư được đánh giá như vậy là kẻ ngu, đấng Như Lai được đánh giá là người trí. Bằng phương thức này nên biết ý nghĩa trong câu được bắt đầu rằng “Pūraṇa Kassapa là vị lãnh đạo hội chúng”. Hơn nữa bởi vì đức Thế Tôn trong khi phân tích 38 đề mục thiền đã tạo ra nhiều con đường đưa đến Nibbāna, do đó nên được xem là ‘vị giáo chủ’.
kasmā V.3.169 panete sabbepi tattha osaṭāti? upaṭṭhākarakkhaṇatthañceva lābhasakkāratthañca. tesañhi evaṃ hoti — “amhākaṃ upaṭṭhākā samaṇaṃ gotamaṃ saraṇaṃ gaccheyyuṃ, te ca rakkhissāma. samaṇassa ca gotamassa upaṭṭhāke sakkāraṃ karonte disvā amhākampi upaṭṭhākā amhākaṃ P.3.237 sakkāraṃ karissantī”ti. tasmā yattha yattha bhagavā osarati, tattha tattha sabbe osaranti.
Tại sao tất cả những vị giáo chủ ấy lại đến hội hợp ở nơi đó? Để bảo vệ người tùy tùng và vì lợi đắc và sự cung kính. Được biết rằng những vị giáo chủ đó suy tư như vầy: “Người tùy tùng của chúng tôi có thể đưa nhau đến Sa-môn Gotama để nương nhờ, và chúng tôi sẽ bảo vệ họ. Ngay trong khi những người tùy tùng của chúng tôi nhìn thấy những người tùy tùng của Sa-môn Gotama thực hành sự cung kính, cũng sẽ thực hành sự cung kính đối với chúng tôi.” Do đó tất cả những vị giáo chủ đó mới cùng nhau đi tụ hội ở nơi đức Thế Tôn hội hợp.
239. vādaṃ āropetvāti vāde dosaṃ āropetvā. apakkantāti, apagatā, keci disaṃ pakkantā, keci gihibhāvaṃ pattā, keci imaṃ sāsanaṃ āgatā. sahitaṃ meti mayhaṃ vacanaṃ sahitaṃ siliṭṭhaṃ, atthayuttaṃ kāraṇayuttanti attho. asahitaṃ teti tuyhaṃ vacanaṃ asahitaṃ. adhiciṇṇaṃ te viparāvattanti yaṃ tuyhaṃ dīgharattāciṇṇavasena suppaguṇaṃ, taṃ mayhaṃ ekavacaneneva viparāvattaṃ viparivattitvā ṭhitaṃ, na kiñci jātanti attho. āropito te vādoti mayā tava vāde doso M.3.165 āropito. cara vādappamokkhāyāti dosamocanatthaṃ cara vicara, tattha tattha gantvā sikkhāti attho. nibbeṭhehi vā sace pahosīti atha sayaṃ pahosi, idāneva nibbeṭhehi. dhammakkosenāti sabhāvakkosena.
239 Vādaṃ āropetvā (đã bắt bẻ lời dạy): đã bắt bẻ lỗi lầm trong lời nói. Apakkantā (bỏ đi): một số người bỏ đi về hướng này, một số trở lại bản thể cư sĩ, một số đã đến Tôn giáo này. sahitaṃ me (có lợi cho ta): lời nói của ta hữu ích, đẹp ý tương ưng với ý nghĩa, tương ưng với nhân. Asahitaṃ (không có lợi ích cho ông): Lời nói của ông không phối hợp với lợi ích. Adhiciṇṇaṃ te viparāvattaṃ (Lề thói mà ông đã từng thực hành đã bị đảo lộn): Lề thói mà ông có sự thuần thực với sự tích tập trong suốt khoảng thời gian dài đã bị đảo lộn chỉ bởi một lời nói của ta, không khởi lên bất cứ điều gì. Āropito te vādo (học thuyết của ông đã bị lên án): học thuyết của ông đã bị ta lên án. Cara vādappamokkhāyā (ông hãy rút khỏi lời nói của ông): ngươi hãy hành xử cho việc thoát ra khỏi sự sái quấy (lời nói của mình) hãy đi, hãy du hành, đi về nơi đó đó học tập lại. nibbeṭhehi vā sace pahosi (hoặc ông hãy gỡ rối nếu ông có khả năng): nếu bản thân ông có khả năng hãy giải quyết ngay lúc này. Dhammakkosena (bằng lời khiển trách bởi Pháp): bằng lời khiển trách theo đúng thực tánh.
240. taṃ no sossāmāti taṃ amhākaṃ desitaṃ dhammaṃ suṇissāma. khuddamadhunti khuddakamakkhikāhi kataṃ daṇḍakamadhuṃ. anelakanti niddosaṃ apagatamacchikaṇḍakaṃ. pīḷeyyāti dadeyya. paccāsīsamānarūpoti pūretvā nu kho no bhojanaṃ dassatīti bhājanahattho paccāsīsamāno paccupaṭṭhito assa. sampayojetvāti P.3.238 appamattakaṃ vivādaṃ katvā.
Taṃ no sossāma (chúng ta sẽ được lắng nghe Pháp): Chúng ta sẽ được lắng nghe Pháp sẽ được lắng nghe Giáo Pháp do đức Thế Tôn tuyên thuyết cho chúng ta. Khuddamadhuṃ (mật ong của những con ong nhỏ): đã được loại bỏ hết trứng và ấu trùng của ong. Anelakaṃ (tinh khiết): không có lỗi lầm, là bánh mật đã được loại bỏ hết con non. Pīḷeyya (bóp vắt): có thể ban cho. Paccāsīsamānarūpo (có dáng vẻ mong đợi): cầm lấy bình đựng hy vọng rằng: phải chăng người đó sẽ cho ta đầy bình đựng? Sampayojetvā (bất hòa với nhau): đã gây ra tranh cãi nhỏ.
241. itarītarenāti lāmakalāmakena. pavivittoti idaṃ paribbājako kāyavivekamattaṃ sandhāya vadati, bhagavā pana tīhi vivekehi vivittova.
241 Itarītarenā: nghĩa là với những thứ thấp kém/tầm thường. Pavivitto (vị sống viễn ly): du sĩ nói điều này chỉ liên quan đến thân viễn ly, tuy nhiên đức Thế Tôn sống viễn ly với cả ba sự viễn ly.
242. kosakāhārāpīti dānapatīnaṃ ghare aggabhikkhāṭhapanatthaṃ khuddakasarāvā honti, dānapatino aggabhattaṃ vā tattha ṭhapetvā bhuñjanti, pabbajite sampatte taṃ bhattaṃ tassa denti. taṃ sarāvakaṃ kosakoti vuccati. tasmā ye ca ekeneva bhattakosakena yāpenti, te kosakāhārāti. beluvāhārāti beluvamattabhattāhārā. samatittikanti oṭṭhavaṭṭiyā heṭṭhimalekhāsamaṃ V.3.170. iminā dhammenāti iminā appāhāratādhammena. ettha pana sabbākāreneva bhagavā anappāhāroti na vattabbo. padhānabhūmiyaṃ chabbassāni appāhārova ahosi, verañjāyaṃ tayo māse patthodaneneva yāpesi pālileyyakavanasaṇḍe tayo māse bhisamuḷāleheva yāpesi. idha P.3.239 pana etamatthaṃ dasseti — “ahaṃ ekasmiṃ kāle appāhāro ahosiṃ, mayhaṃ pana sāvakā dhutaṅgasamādānato paṭṭhāya yāvajīvaṃ dhutaṅgaṃ na bhindantī”ti. tasmā yadi te iminā dhammena sakkareyyuṃ, mayā hi te visesatarā. añño ceva pana dhammo atthi, yena maṃ te sakkarontīti dasseti. iminā nayena sabbavāresu yojanā veditabbā.
242 Kosakāhārā (có vật thực chỉ bằng một chén): vật thực chỉ một chén trong nhà của những người bố thí, có một chén nhỏ để đựng thức ăn ngon. Những người thí chủ bỏ vật thực vào cái chén đó rồi thọ dụng. Khi vị tu sĩ đến cũng cúng dường vật thực cho vị ấy, cái chén đó là Kosaka. Bởi vì người nào duy trì mạng sống bằng một chén vật thực thì người đó được gọi là Kosakāhārā (có vật thực chỉ bằng một chén). Beluvāhārā: có vật thực chỉ bằng một bát ăn với trái cây Beluva. Samatittikaṃ (ngang tới miệng): ngang bằng mép phía dưới của miệng bát. Iminā dhammena (với Pháp này): với pháp hành/phương thức thọ dụng ít vật thực này. Hơn nữa, trong câu này không nên nói rằng đức Thế Tôn thuyết có chút ít vật thực theo mọi khía cạnh. Có ít vật thực suốt 6 năm ở nơi thực hành sự tinh tấn. Duy trì mạng sống chỉ với một nắm cơm suốt 3 tháng trong thành Verañjā. Duy trì mạng sống chỉ bằng rễ và củ sen suốt 3 tháng ở khu rừng rậm Pālileyyaka. Nhưng ở đây ngài trình bày đến ý nghĩa này rằng: – “Ta đã là người thọ dụng ít vật thực trong một thời gian, còn các đệ tử của ta không phá vỡ hạnh đầu đà đến trọn đời kể từ khi thọ trì hành đầu đà.” Do đó, nếu họ có thể cung kính ta với pháp này thì họ còn đặc biệt hơn ta. (Ngài) chỉ ra rằng: ‘Hơn nữa còn có pháp khác mà họ dùng để cung kính ta.’ Theo cách này, nên hiểu sự liên kết trong tất cả các phần..
paṃsukūlikāti M.3.166 samādinnapaṃsukūlikaṅgā. lūkhacīvaradharāti satthasuttalūkhāni cīvarāni dhārayamānā. nantakānīti antavirahitāni vatthakhaṇḍāni, yadi hi nesaṃ anto bhaveyya, pilotikāti saṅkhaṃ gaccheyyuṃ. uccinitvāti phāletvā dubbalaṭṭhānaṃ pahāya thiraṭṭhānameva gahetvā. alābulomasānīti alābulomasadisasuttāni sukhumānīti dīpeti. ettāvatā ca satthā cīvarasantosena asantuṭṭhoti na vattabbo. atimuttakasusānato hissa puṇṇadāsiyā pārupitvā pātitasāṇapaṃsukūlaṃ gahaṇadivase udakapariyantaṃ katvā mahāpathavī akampi. idha pana etamatthaṃ dasseti — “ahaṃ ekasmiṃyeva kāle paṃsukūlaṃ gaṇhiṃ, mayhaṃ pana sāvakā dhutaṅgasamādānato paṭṭhāya yāvajīvaṃ dhutaṅgaṃ na bhindantī”ti.
Paṃsukūlikā (nhưng các đệ tử của ta là người thọ trì hạnh mặc y phấn tảo): thọ trì hạnh mặc y phấn tảo. Lūkhacīvaradharā (mặc y thô xấu): mặc y thô xấu như sợi chỉ. Nantakānī (y cũ): mảnh vải không có viền. Thật vậy, nếu những y phục đó có thể có viền, thì chúng được gọi là tấm vải rách. Uccinitvā (đã góp nhặt): đã xé bỏ phần không thể sử dụng, (và) chỉ giữ lại những phần còn sử dụng được. Alābulomasāni (có sợi chỉ mỏng manh và sợi tơ dài của quả bí trắng): có sợi chỉ tợ như dây tơ dây bí trắng, ngài chỉ ra sự vi tế. Chỉ chừng ấy không nên nói rằng bậc Đạo Sư không tri túc với sự tri túc trong y phục. Bởi vì vào ngày ngài thọ nhận y phấn tảo được làm bằng vỏ cây mà nàng Puṇṇadāsī mang về từ bãi tha ma cúng dường thì đại địa cầu đã tạo thành vòng đai bằng nước và đã rúng động. Và hơn nữa đức Thế Tôn đã trình bày ý nghĩa trong câu này rằng: – “Ta chỉ thọ nhận y phấn tảo một lần duy nhất, nhưng những đệ tử của Ta không phá vỡ hạnh đầu đà cho đến trọn đời kể từ lúc thọ trì hạnh đầu đà ấy.”
piṇḍapātikāti P.3.240 atirekalābhaṃ paṭikkhipitvā samādinnapiṇḍapātikaṅgā. sapadānacārinoti loluppacāraṃ paṭikkhipitvā samādinnasapadānacārā. uñchāsake vate ratāti uñchācariyasaṅkhāte bhikkhūnaṃ pakativate ratā, uccanīcagharadvāraṭṭhāyino hutvā kabaramissakaṃ bhattaṃ saṃharitvā paribhuñjantīti attho. antaragharanti brahmāyusutte ummārato paṭṭhāya antaragharaṃ, idha indakhīlato paṭṭhāya adhippetaṃ. ettāvatā ca satthā piṇḍapātasantosena asantuṭṭhoti na vattabbo, appāhāratāya vuttaniyāmeneva pana sabbaṃ vitthāretabbaṃ. idha pana etamatthaṃ dasseti — “ahaṃ ekasmiṃyeva kāle nimantanaṃ na sādayiṃ, mayhaṃ pana sāvakā dhutaṅgasamādānato paṭṭhāya yāvajīvaṃ dhutaṅgaṃ na bhindantī”ti.
Piṇḍapātikā (trì bình khất thực): đã khước từ lợi lộc, thọ trì hạnh trì bình khất thực (chỉ ăn đồ ăn khất thực). Sapadānacārino (đi tuần tự qua từng nhà): đã từ chối việc đi với sự tham muốn rồi thọ trì hạnh đi khất thực tuần tự qua từng nhà. Uñchāsake vate ratā (hoan hỷ trong hạnh tìm kiếm vật thực): hoan hỷ trong phận sự thông thường của các tỳ khưu được gọi là sự tìm kiếm vật thực, là người hoan hỷ ở tại cổng của những nhà cao và nhà thấp, sau khi trộn lẫn (vật thực) với nhau tạo thành vắt rồi thọ dụng. Antaragharaṃ (từ bỏ đi vào trong nhà): trong kinh Brahmāyu là từ ngưỡng cửa trở đi, ở đây ngụ ý từ cột trụ cổng trở đi. Chỉ chừng ấy không nên nói rằng: bậc Đạo Sư không tri túc với sự tri túc trong việc đi khất thực, tất cả có thể chi tiết theo cùng một cách thức như đã được nói do bởi tính chất người có ít vật thực. Nhưng ở đây ngài muốn trình bày đến ý nghĩa này – “Ta không hoan hỷ chấp nhận lời thỉnh mời trong cùng một khoảng thời gian, những các đệ tử của ta không làm phá vỡ hạnh đầu đà cho đến trọn đời kể từ khi thọ trì hạnh đầu đà ấy.”
rukkhamūlikāti channaṃ paṭikkhipitvā samādinnarukkhamūlikaṅgā. abbhokāsikāti channañca rukkhamūlañca V.3.171 paṭikkhipitvā samādinnābbhokāsikaṅgā. aṭṭhamāseti hemantagimhike māse. antovasse pana cīvarānuggahatthaṃ channaṃ pavisanti. ettāvatā ca satthā senāsanasantosena asantuṭṭhoti na vattabbo, senāsanasantoso P.3.241 panassa chabbassikamahāpadhānena ca pālileyyakavanasaṇḍena ca dīpetabbo. idha pana etamatthaṃ dasseti — “ahaṃ ekasmiṃyeva kāle channaṃ na pāvisiṃ, mayhaṃ pana sāvakā dhutaṅgasamādānato paṭṭhāya yāvajīvaṃ dhutaṅgaṃ na bhindantī”ti.
Rukkhamūlikā (cư ngụ dưới cội cây): Đã từ chối chỗ có mái che, thọ trì hạnh cư ngụ dưới cội cây. Abbhokāsikā (sống ở ngoài trời): đã từ khước nơi có mái che và gốc cây rồi thọ trì hạnh sống ở ngoài trời. Aṭṭhamāse (suốt 8 tháng): suốt tháng vào mùa đông và mùa hè. Nhưng vào trong mùa mưa vào ở dưới mái che để bảo vệ y phục. Chỉ với chừng ấy không nên nói rằng: Bậc Đạo Sư không tri túc với sự tri túc về chỗ cư ngụ. Tuy nhiên nên trình bày sự tri túc về chỗ trú ngụ của ngài bằng sự nỗ lực lớn lao suốt 6 năm và ở khu rừng rậm Pālileyyaka. Nhưng ở đây ngài thuyết ý nghĩa như sau – “Ta không đi vào nơi có mái che chỉ trong một thời gian. Nhưng các đệ tử của ta không phá vỡ hạnh đầu đà cho đến trọn đời kể từ khi thọ trì hạnh đầu đà ấy.”
āraññikāti M.3.167 gāmantasenāsanaṃ paṭikkhipitvā samādinnāaraññikaṅgā. saṅghamajjhe osarantīti abaddhasīmāya kathitaṃ, baddhasīmāyaṃ pana vasantā attano vasanaṭṭhāneyeva uposathaṃ karonti. ettāvatā ca satthā no pavivittoti na vattabbo, “icchāmahaṃ, bhikkhave, aḍḍhamāsaṃ paṭisalliyitun”ti (pārā. 162; 565) evañhissa paviveko paññāyati. idha pana etamatthaṃ dasseti “ahaṃ ekasmiṃyeva tathārūpe kāle paṭisalliyiṃ, mayhaṃ pana sāvakā dhutaṅgasamādānato paṭṭhāya yāvajīvaṃ dhutaṅgaṃ na bhindantī”ti. mamaṃ sāvakāti maṃ sāvakā.
Āraññikā (hạnh sống trong rừng): các vị đã thọ trì chi phần của vị sống trong rừng sau khi từ chối chỗ ở ven làng.. saṅghamajjhe osaranti (hội họp giữa hội chúng): ngài nói đến abaddhasīmā1. Nhưng các đệ tử ở trong baddhasīmā2 thực hành lễ bố tát uposatha ở chỗ của mình. Chỉ với chừng ấy không nên nói rằng bậc Đạo Sư không sống viễn ly bởi vì sự sống viễn ly hiển lộ như vầy: “Này chư Tỳ khưu, ta muốn thiền tịnh trong nửa tháng…” (pārā. 162; 565). Nhưng trong trường hợp này ngài trình bày ý nghĩa sau: “Ta chỉ thiền tịnh trong một khoảng thời gian như vậy, nhưng các đệ tử của ta không phá vỡ hạnh đầu đà đến trọn đời kể từ khi thọ trì hạnh đầu đà ấy.” mamaṃ sāvakā đồng nghĩa maṃ sāvakā (các đệ tử của ta).
244. sanidānanti sappaccayaṃ. kiṃ pana appaccayaṃ nibbānaṃ na desetīti. no na deseti, sahetukaṃ pana taṃ desanaṃ katvā deseti, no ahetukanti. sappāṭihāriyanti purimassevetaṃ vevacanaṃ, sakāraṇanti attho. taṃ vatāti ettha vatāti nipātamattaṃ.
Sanidānaṃ (có nhân): hữu duyên. Hơn nữa bậc Đạo Sư không thuyết đến Nibbāna vô duyên chăng? không phải không thuyết. Nhưng thuyết giảng Pháp thoại ấy cho có nhân, nhưng không phải thuyết Pháp không có nhân. Sappāṭihāriyaṃ (thuyết giảng Pháp có sự kỳ diệu): đây là từ đồng nghĩa của từ trước, tức là có nhân. vata trong từ taṃ vata đây chỉ là hư từ/tiểu từ.
245. anāgataṃ vādapathanti ajja ṭhapetvā sve vā punadivase vā aḍḍhamāse vā māse vā saṃvacchare vā tassa tassa pañhassa upari āgamanavādapathaṃ. na P.3.242 dakkhatīti yathā saccako nigaṇṭho attano niggahaṇatthaṃ āgatakāraṇaṃ visesetvā vadanto na addasa, evaṃ na dakkhatīti netaṃ ṭhānaṃ vijjati. sahadhammenāti sakāraṇena. antarantarā kathaṃ opāteyyunti mama kathāvāraṃ pacchinditvā antarantare attano kathaṃ paveseyyunti attho. na kho panāhaṃ, udāyīti, udāyi, ahaṃ ambaṭṭhasoṇadaṇḍakūṭadantasaccakanigaṇṭhādīhi saddhiṃ mahāvāde vattamānepi — “aho vata me ekasāvakopi upamaṃ vā kāraṇaṃ vā āharitvā dadeyyā”ti evaṃ sāvakesu anusāsaniṃ na paccāsīsāmi. mamayevāti evarūpesu ṭhānesu sāvakā mamayeva anusāsaniṃ ovādaṃ paccāsīsanti.
anāgataṃ vādapathaṃ (luận đạo nào ở tương lai): kênh ngôn luận đã được thiết lập trong ngày hôm nay rồi vượt lên vấn đề đó đó vào ngày mai, hoặc ngày kia, hoặc nửa tháng, hoặc một tháng, hoặc một năm. na dakkhati (không nhìn thấy): không nhìn thấy giống như Saccaka Nigaṇṭha, quan sát không nhìn thấy lý do mà bản thân đến để chế ngự, trong khi nói không nhìn thấy, vì thế câu đó không phải vị trí sẽ có. Sahadhammena (theo đúng pháp): có nhân. antarantarā kathaṃ opāteyyuṃ (có thể làm gián đoạn một cuộc đàm thoại đang diễn tiến): cắt đứt cuộc đàm luận của tôi rồi chèn cuộc nói chuyện của mình vào giữa. na kho panāhaṃ, udāyi (này Udāyi, ta…không): Này Udāyi, trong khi đàm luận to lớn với Ambaṭṭha, Soṇadaṇḍa, Kūṭadanta, và Saccakanigaṇṭhā v.v, ngay trong khi đang vận hành – Ta không trông chờ vào lời giáo huấn của các đệ tử này như sau: “Ôi, ước gì có một đệ tử của ta mang đến ví dụ hay lý do giúp ta.” Mamayeva (từ ta): Ở trong vị thế như vậy các đệ tử trông chờ vào lời giáo huấn, lời dạy của ta.
246. tesāhaṃ V.3.172 cittaṃ ārādhemīti tesaṃ ahaṃ tassa pañhassa veyyākaraṇena cittaṃ gaṇhāmi sampādemi paripūremi, aññaṃ puṭṭho aññaṃ na byākaromi, ambaṃ puṭṭho labujaṃ viya labujaṃ vā puṭṭho ambaṃ viya. ettha ca “adhisīle sambhāventī”ti vuttaṭṭhāne buddhasīlaṃ nāma kathitaṃ, “abhikkante ñāṇadassane M.3.168 sambhāventī”ti vuttaṭṭhāne sabbaññutaññāṇaṃ, “adhipaññāya sambhāventī”ti vuttaṭṭhāne ṭhānuppattikapaññā, “yena dukkhenā”ti vuttaṭṭhāne saccabyākaraṇapaññā. tattha sabbaññutaññāṇañca saccabyākaraṇapaññañca ṭhapetvā P.3.243 avasesā paññā adhipaññaṃ bhajati.
246 tesāhaṃ cittaṃ ārādhemi (Ta làm cho tâm của họ thỏa mãn): ta nắm bắt, làm cho thành tựu, làm cho viên mãn tâm của họ bằng sự giải thích câu hỏi đó. Hỏi cách này lại trả lời cách kia giống như hỏi về quả xoài lại trả lời quả mít, hỏi quả mít lại trả lời quả xoài. Lại nữa, trong câu này ở chỗ được nói “tán thán trong tăng thượng giới” là nói đến giới của Đức Phật, ở chỗ được nói “tán thán trong trí và sự thấy biết vi diệu” là nói đến Toàn Giác Trí, ở chỗ được nói “tán thán trong tăng thượng tuệ” là nói đến trí tuệ về sự sanh khởi theo vị trí, ở chỗ được nói “do khổ nào” là nói đến trí tuệ giải thích chân lý. Trong đó, ngoại trừ Toàn Giác Trí và trí tuệ giải thích chân lý, những trí tuệ còn lại thuộc về tăng thượng tuệ.
247. idāni tesaṃ tesaṃ visesādhigamānaṃ paṭipadaṃ ācikkhanto puna caparaṃ udāyītiādimāha. tattha abhiññāvosānapāramippattāti abhiññāvosānasaṅkhātañceva abhiññāpāramīsaṅkhātañca arahattaṃ pattā.
247 Bây giờ, đức Thế Tôn khi thuyết về đạo lộ thực hành của các vị đệ tử ấy, vị đã đạt đến, mới nói rằng: “puna caparaṃ udāyi (Lại nữa, này Udāyī…)”. Ở đó abhiññāvosānapāramippattā (các đệ tử của Ta, phần đông an trú, sau khi chứng ngộ viên mãn cứu cánh của thắng trí): đã đạt được quả vị A-ra-hán, được gọi là đã đạt đến sự viên mãn cứu cánh của thắng trí và được gọi là tính chất trọn vẹn của thắng trí.
sammappadhāneti upāyapadhāne. chandaṃ janetīti kattukamyatākusalacchandaṃ janeti. vāyamatīti vāyāmaṃ karoti. vīriyaṃ ārabhatīti vīriyaṃ pavatteti. cittaṃ paggaṇhātīti cittaṃ ukkhipati. padahatīti upāyapadhānaṃ karoti. bhāvanāya pāripūriyāti vaḍḍhiyā paripūraṇatthaṃ. apicettha — “yā ṭhiti, so asammoso … pe … yaṃ vepullaṃ, sā bhāvanāpāripūrī”ti (vibha. 406) evaṃ purimaṃ purimassa pacchimaṃ pacchimassa atthotipi veditabbaṃ.
Sammappadhāne (Tứ Chánh Cần): sự nỗ lực đúng đường lối. chandaṃ janeti (khởi lên ước muốn): khởi lên sự mong muốn làm thiện. Vāyamati: thực hành sự tinh tấn. Vīriyaṃ ārabhati (ra sức nỗ lực): làm cho sự tinh tấn được vận hành. cittaṃ paggaṇhāti (kìm chặt tâm): đưa tâm lên. padahati (đặt để): thực hiện sự tinh tấn đúng đường lối. Bhāvanāya pāripūriyā (vì sự tăng trưởng, vì sự thành tựu): vì sự tăng trưởng, vì sự thành tựu. Và hơn nữa ở đây nên hiểu ý nghĩa câu trước giải thích cho câu sau như vầy: – “Sự vững trú nào, đó là không có sự lầm lẫn … sự quảng đại nào, đó là sự phát triển và sự thành tựu đầy đủ.” (vibha. 406).
imehi pana sammappadhānehi kiṃ kathitaṃ? kassapasaṃyuttapariyāyena sāvakassa pubbabhāgapaṭipadā kathitā. vuttañhetaṃ tattha —
Với những Chánh Cần này, điều gì được nói? Pháp hành khởi đầu của bậc Thinh Văn đã được nói trong phương pháp (giải thích) của Tương Ưng Kassapa. Điều này đã được nói trong đó như vầy –
“cattārome P.3.244, āvuso, sammappadhānā. katame cattāro? idhāvuso, bhikkhu, anuppannā me pāpakā akusalā dhammā uppajjamānā anatthāya saṃvatteyyunti ātappaṃ karoti. uppannā me pāpakā akusalā dhammā appahīyamānā anatthāya saṃvatteyyunti ātappaṃ karoti. anuppannā me kusalā dhammā anuppajjamānā anatthāya saṃvatteyyunti ātappaṃ karoti. uppannā me kusalā dhammā nirujjhamānā anatthāya saṃvatteyyunti ātappaṃ karotī”ti (saṃ. ni. 2.145).
Này chư hiền giả, Chánh Cần của ta có bốn. Thế nào là bốn? Ở đây, này hiền giả, vị Tỳ khưu suy nghĩ: “Các ác bất thiện pháp chưa sanh khởi nơi ta, nếu chúng đã sanh khởi, chúng có thể đưa đến sự bất lợi, đau khổ, vị ấy thực hành sự nhiệt tâm. Các ác bất thiện pháp đã khởi lên nơi ta, nếu chúng vẫn chưa bị đoạn diệt, chúng có thể đưa đến bất lợi, đau khổ, vị ấy khởi lên sự nhiệt tâm. Các thiện pháp vẫn chưa sanh khởi nơi ta, nếu không sanh khởi, có thể đưa đến bất lợi, đau khổ, vị ấy khởi lên sự nhiệt tâm. Các thiện pháp đã khởi lên nơi ta, nếu chúng bị đoạn diệt, có thể đưa đến bất lợi, đau khổ, vị ấy khởi lên sự nhiệt tâm. (saṃ. ni. 2.145).
ettha V.3.173 ca pāpakā akusalāti lobhādayo veditabbā. anuppannā kusalā dhammāti samathavipassanā ceva maggo ca, uppannā kusalā nāma samathavipassanāva. maggo pana sakiṃ uppajjitvā nirujjhamāno anatthāya saṃvattanako M.3.169 nāma natthi. so hi phalassa paccayaṃ datvāva nirujjhati. purimasmimpi vā samathavipassanāva gahetabbāti vuttaṃ, taṃ pana na yuttaṃ.
Hơn nữa, trong câu này nên biết rằng các pháp ác bất thiện là tham v.v, anuppannā kusalā dhammā (các Pháp thiện chưa sanh khởi) bao gồm Chỉ tịnh và Minh sát, và Đạo. Chỉ tịnh và Minh sát gọi là thiện đã sanh khởi. Còn Đạo sanh khởi một lần duy nhất rồi diệt, không gọi là đưa đến bất lợi, bởi vì Đạo làm duyên cho Quả nên mới diệt. Hoặc ngay cả câu trước ngài đã nói rằng: nên nắm giữ Chỉ tịnh và Minh sát, nhưng câu ấy không chính xác.
tattha “uppannā samathavipassanā nirujjhamānā anatthāya saṃvattantī”ti atthassa āvibhāvatthamidaṃ vatthu — eko kira khīṇāsavatthero “mahācetiyañca mahābodhiñca vandissāmī”ti samāpattilābhinā bhaṇḍagāhakasāmaṇerena saddhiṃ janapadato mahāvihāraṃ āgantvā vihārapariveṇaṃ pāvisi. sāyanhasamaye mahābhikkhusaṅghe cetiyaṃ vandamāne cetiyaṃ vandanatthāya na nikkhami. kasmā? khīṇāsavānañhi tīsu ratanesu mahantaṃ gāravaṃ hoti. tasmā bhikkhusaṅghe vanditvā paṭikkamante manussānaṃ sāyamāsabhuttavelāyaṃ sāmaṇerampi ajānāpetvā “cetiyaṃ vandissāmī”ti ekakova nikkhami. sāmaṇero P.3.245 — “kiṃ nu kho thero avelāya ekakova gacchati, jānissāmī”ti upajjhāyassa padānupadiko nikkhami. thero anāvajjanena tassa āgamanaṃ ajānanto dakkhiṇadvārena cetiyaṅgaṇaṃ āruhi. sāmaṇeropi anupadaṃyeva āruḷho.
Chỉ tịnh và Minh sát đã sanh khởi trong thiện Pháp ấy khi diệt sẽ đưa đến sự suy hoại. Nhằm mục đích làm sáng tỏ ý nghĩa sẽ đưa ra câu chuyện như sau: – được biết rằng một vị trưởng lão là bậc lậu tận rằng: “ta sẽ đảnh lễ Bảo điện và Đại thọ Bồ đề” Vì vậy, ngài từ vùng nông thôn đến Đại tịnh xá cùng với một vị sa-di đã chứng thiền định và mang theo hành lý. Sau đó đi vào khu vực tịnh xá vào buổi tối. Khi Đại Chúng Tăng đang đảnh lễ Bảo điện, vị ấy không đi ra để đảnh lễ Bảo điện. Tại sao? Bởi vì bậc lậu tận có sự tôn kính sâu sắc đối với Tam bảo. Vì thế, khi Chúng Tăng đã đảnh lễ, mọi người thọ dụng vật thực vào buổi tối, ngay cả vị Sa-di cũng không cho biết, nghĩ rằng “ta sẽ đảnh lễ Bảo điện”, nên mới một mình đi ra. Vị Sa-di nghĩ rằng: “Trưởng lão đi một mình không phải thời ta sẽ biết nên mới đi theo dấu chân của thầy tế độ”. Đại trưởng lão không biết vị Sa-di theo sau bởi không chú ý mới bước vào sân của Bảo điện ở cửa hướng Nam, vị Sa-di cũng bước theo vào.
mahāthero mahācetiyaṃ ulloketvā buddhārammaṇaṃ pītiṃ gahetvā sabbaṃ cetaso samannāharitvā haṭṭhapahaṭṭho cetiyaṃ vandati. sāmaṇero therassa vandanākāraṃ disvā “upajjhāyo me ativiya pasannacitto vandati, kiṃ nu kho pupphāni labhitvā pūjaṃ kareyyā”ti cintesi. thero vanditvā uṭṭhāya sirasi añjaliṃ ṭhapetvā mahācetiyaṃ ulloketvā ṭhito. sāmaṇero ukkāsitvā attano āgatabhāvaṃ jānāpesi. thero parivattetvā olokento “kadā āgatosī”ti pucchi. tumhākaṃ cetiyaṃ vandanakāle, bhante. ativiya pasannā cetiyaṃ vandittha kiṃ nu kho pupphāni labhitvā pūjeyyāthāti? āma sāmaṇera imasmiṃ cetiye viya aññatra ettakaṃ dhātūnaṃ nidhānaṃ nāma natthi, evarūpaṃ asadisaṃ mahāthūpaṃ pupphāni labhitvā ko na pūjeyyāti. tena hi, bhante, adhivāsetha, āharissāmīti tāvadeva jhānaṃ samāpajjitvā iddhiyā himavantaṃ gantvā vaṇṇagandhasampannapupphāni parissāvanaṃ pūretvā mahāthere dakkhiṇamukhato pacchimaṃ mukhaṃ asampatteyeva āgantvā pupphaparissāvanaṃ hatthe ṭhapetvā “pūjetha, bhante,”ti āha V.3.174. thero “atimandāni no sāmaṇera pupphānī”ti āha. gacchatha, bhante, bhagavato guṇe āvajjitvā pūjethāti.
Đại trưởng lão sau khi quan sát Đại Bảo điện đã nắm lấy hỷ có đức Phật làm đối tượng, tập trung toàn bộ tâm ý vui mừng hoan hỷ chấp tay đảnh lễ Bảo điện. Vị Sa-di khi nhìn thấy biểu hiện đảnh lễ của Đại trưởng lão đã nghĩ rằng “thầy tế độ của ta có tâm vô cùng tịnh tín đảnh lễ Bảo điện, có phải sau khi nhận được hoa nên thực hiện cung kính?” Khi trưởng lão đứng dậy đảnh lễ chắp tay lên qua đầu đứng và ngắm nhìn Bảo điện. Vị Sa-di mới đằng hắng giọng để cho vị trưởng lão biết rằng mình đã đến. Trưởng lão đưa mắt nhìn rồi hỏi rằng: “Con đến từ khi nào?”. – “Dạ thưa thầy, trong lúc thầy đảnh lễ Bảo điện.” Thầy có tâm vô cùng tịnh tín mới đảnh lễ Bảo điện, có lẽ sau khi nhận được hoa rồi nên lễ bái? Trưởng lão đáp rằng: đúng rồi con, ở chỗ khác không có đặt tôn thờ Xá-lợi nhiều như ở đây, nếu như có được hoa thì ai không lễ bái một Đại Bảo tháp mà không có nơi nào có được ngoài nơi này? – (Sa-di) nói rằng: “Thưa thầy, nếu vậy xin hãy đợi.” Con sẽ mang hoa tới. Ngay lập tức, vị Sa-di nhập thiền đi đến núi Himalaya bằng thần thông gom nhặt bông hoa có đầy đủ màu sắc và hương thơm rồi đặt vào bình lọc nước cho đến khi đầy, khi Đại trưởng lão vẫn chưa đến cửa hướng Tây từ cửa ở hướng Nam, thì vị Sa-di đã đặt tấm vải bình lọc nước quấn lấy những bông hoa vào lòng bàn tay rồi nói rằng “thưa thầy, xin thầy hãy lễ bái”. Trưởng lão đã nói rằng: “này con, bông hoa của con vẫn còn quá ít”. – Thưa thầy, hãy đi tùy niệm ân đức của đức Thế Tôn rồi lễ bái.
thero M.3.170 pacchimamukhanissitena sopāṇena āruyha kucchivedikābhūmiyaṃ P.3.246 pupphapūjaṃ kātuṃ āraddho. vedikābhūmiyaṃ paripuṇṇāni pupphāni patitvā dutiyabhūmiyaṃ jaṇṇupamāṇena odhinā pūrayiṃsu. tato otaritvā pādapiṭṭhikapantiṃ pūjesi. sāpi paripūri. paripuṇṇabhāvaṃ ñatvā heṭṭhimatale vikiranto agamāsi. sabbaṃ cetiyaṅgaṇaṃ paripūri. tasmiṃ paripuṇṇe “sāmaṇera pupphāni na khīyantī”ti āha. parissāvanaṃ, bhante, adhomukhaṃ karothāti. adhomukhaṃ katvā cālesi, tadā pupphāni khīṇāni. parissāvanaṃ sāmaṇerassa datvā saddhiṃ hatthipākārena cetiyaṃ tikkhattuṃ padakkhiṇaṃ katvā catūsu ṭhānesu vanditvā pariveṇaṃ gacchanto cintesi — “yāva mahiddhiko vatāyaṃ sāmaṇero, sakkhissati nu kho imaṃ iddhānubhāvaṃ rakkhitun”ti. tato “na sakkhissatī”ti disvā sāmaṇeramāha — “sāmaṇera tvaṃ idāni mahiddhiko, evarūpaṃ pana iddhiṃ nāsetvā pacchimakāle kāṇapesakāriyā hatthena madditakañjiyaṃ pivissasī”ti. daharakabhāvassa nāmesa dosoyaṃ, so upajjhāyassa kathāyaṃ saṃvijjitvā — “kammaṭṭhānaṃ me, bhante, ācikkhathā”ti na yāci, amhākaṃ upajjhāyo kiṃ vadatīti taṃ pana asuṇanto viya agamāsi.
Trưởng lão đã bước lên cầu thang dựa vào cánh cửa ở hướng Tây bắt đầu dâng hoa lễ bái trên phòng bên trong sân thượng có rào chắn. Lập tức toàn bộ sân thượng được phủ đầy hoa, rơi xuống phủ đầy cả tầng hai ngập lên tới đầu gối. Đống hoa rơi xuống từ tầng thứ hai lối đi, lối đi ấy cũng phủ đầy hoa. Thấy hoa phủ đầy, ngài liền bước xuống tầng trệt và rải hoa trên sàn nhà tầng trệt đó. Và khắp sân trong khuôn viên Bảo điện đó đều được phủ đầy hoa. Sau khi khuôn bảo điện được đã rải hoa phủ khắp nơi, ngài trưởng lão liền nói với Sa-di: “Ôi, này con, hoa vẫn chưa hết.” Thưa thầy, xin dốc ngược chiếc bình lọc nước xuống. Trưởng lão đã dốc ngược chiếc bình rồi lắc nó, ngay lúc đó chẳng nhánh hoa nào nữa. Trưởng lão liền trao chiếc bình lại cho Sa-di và dạo quanh Bảo điện có bức tường cao 60 hắc tay ba vòng, đảnh lễ cả bốn phương rồi quay trở lại khu vực nghĩ rằng “Vị Sa-di này quả thật có đại thần lực, liệu vị ấy có thể duy trì được năng lực thần thông này hay chăng.?’ Từ đó trưởng lão nhận thấy rằng Sa-di không thể duy trì được điều đó liền nói với Sa-di rằng: “Này Sa-di, bây giờ có đại thần lực, nhưng sau này, khi thần lực đó hoại diệt, sẽ uống nước cháo do chính tay một cô gái thợ dệt mù chuẩn bị cho con. Đây chính là lỗi phạm của tuổi trẻ, thế nên vị ấy đã bị rúng động bởi những lời của thầy tế độ (nhưng) lại không cầu xin rằng: “Thưa thầy, xin thầy hãy nói về Nghiệp xứ (đề mục thiền định) cho con”. – như thể không nghe thầy tế độ nói gì, vị ấy đã bỏ đi.
thero mahācetiyañca mahābodhiñca vanditvā sāmaṇeraṃ pattacīvaraṃ gāhāpetvā anupubbena kuṭeḷitissamahāvihāraṃ agamāsi. sāmaṇero upajjhāyassa padānupadiko hutvā bhikkhācāraṃ na gacchati, “kataraṃ gāmaṃ pavisatha, bhante,”ti P.3.247 pucchitvā pana “idāni me upajjhāyo gāmadvāraṃ patto bhavissatī”ti ñatvā attano ca upajjhāyassa ca pattacīvaraṃ gahetvā ākāsena gantvā therassa pattacīvaraṃ datvā piṇḍāya pavisati. thero sabbakālaṃ ovadati — “sāmaṇera mā evamakāsi, puthujjaniddhi nāma calā anibaddhā, asappāyaṃ rūpādiārammaṇaṃ labhitvā appamattakeneva bhijjati, santāya samāpattiyā parihīnāya brahmacariyavāso santhambhituṃ na sakkotī”ti. sāmaṇero “kiṃ katheti mayhaṃ upajjhāyo”ti sotuṃ na icchati, tatheva karoti. thero anupubbena cetiyavandanaṃ karonto kammubinduvihāraṃ nāma gato. tattha vasantepi there sāmaṇero tatheva karoti.
Trưởng lão Sau khi kính lễ Đại Bảo điện và Đại thọ Bồ đề, rồi truyền cho Sa di sửa soạn lấy bình bát và y phục đi đến Đại tịnh xá Kuṭeḷitissa. Vị Sa-di đã không đi khất thực chung với thầy tế độ của mình, nhưng lại hỏi thầy “thưa thầy, thầy đi đến ngôi làng nào?” – Sau khi biết thầy của mình sẽ đi đến cổng làng, (vị ấy) liền cầm lấy bình bát và y phục của mình và của cả thầy mình rồi bay bên hư không, cúng dường bình bát và y phục đến thầy sau đó mới đi khất thực. Vị trưởng lão khuyên nhủ học trò mãi: “Này con, con đừng hành động như vậy, sức mạnh thần thông của phàm nhân không vững chắc, không bền vững; sau khi nhận được đối tượng có sắc v.v, không thích hợp dầu nhỏ nhoi cũng có thể biến mất. Và sau khi đã hoại diệt từ thiền chứng thì việc sống thực hành Phạm hạnh cũng không thể nâng đỡ. Vị Sa-di không muốn nghe: “Thầy tế độ của ta đang nói điều gì vậy?” (vị ấy) lại tiếp tục thực hiện như những gì vị ấy làm trước đó. Trưởng lão đảnh lễ Bảo điện theo tuần tự đã đến tịnh xá Kammubinda. Trong khi trưởng lão cư trú ở tịnh xá ấy thì vị Sa-di vẫn cứ tiếp tục thực hiện như thế.
athekadivasaṃ V.3.175 M.3.171 ekā pesakāradhītā abhirūpā paṭhamavaye ṭhitā kammabindugāmato nikkhamitvā padumassaraṃ oruyha gāyamānā pupphāni bhañjati. tasmiṃ samaye sāmaṇero padumassaramatthakena gacchati, gacchanto pana silesikāya kāṇamacchikā viya tassā gītasadde bajjhi. tāvadevassa iddhi antarahitā, chinnapakkhakāko viya ahosi. santasamāpattibalena pana tattheva udakapiṭṭhe apatitvā simbalitūlaṃ viya patamānaṃ anupubbena padumasaratīre aṭṭhāsi. so vegena gantvā upajjhāyassa pattacīvaraṃ datvā nivatti. mahāthero “pagevetaṃ mayā diṭṭhaṃ, nivāriyamānopi na nivattissatī”ti kiñci avatvā piṇḍāya pāvisi.
Thế rồi một ngày nọ con gái một người thợ dệt có sắc thân xinh đẹp trong thời thanh xuân rời khỏi làng Kammabindu, bước xuống hồ sen ca hát, hái hoa. Vào lúc đó vị Sa-di đang bay đến cuối hồ sen say mê giọng hát của người nữ ấy, như con ruồi bị dính vào nhựa cây, bị lôi cuốn vào giọng hát của nàng ấy. Ngay lập tức thần thông của vị ấy cũng suy hoại và đã trở thành như con quạ bị gãy cánh. Nhưng nhờ quả của chứng đắc vẫn còn tồn tại nên không rơi ngay xuống nước, nhưng rơi từ từ như một sợi bông vải theo thứ lớp, đã đứng ở gần bờ hồ sen. Vị Sa-di đã nhanh chóng cúng dường bình bát và y phục đến thầy tế độ rồi quay trở về. Đại trưởng lão nghĩ rằng: “Ta đã lường trước sự việc xảy ra; ngay cả ngăn cản vị Sa-di thì vị ấy cũng sẽ không quay trở lại”, nên không nói lời gì và đi vào trong làng khất thực.
sāmaṇero gantvā padumasaratīre aṭṭhāsi tassā paccuttaraṇaṃ āgamayamāno. sāpi sāmaṇeraṃ ākāsena gacchantañca puna āgantvā ṭhitañca disvā “addhā esa maṃ nissāya ukkaṇṭhito”ti ñatvā “paṭikkama sāmaṇerā”ti āha. so paṭikkami. itarā paccuttaritvā sāṭakaṃ nivāsetvā taṃ upasaṅkamitvā “kiṃ, bhante,”ti pucchi. so tamatthaṃ ārocesi. sā bahūhi kāraṇehi gharāvāse ādīnavaṃ brahmacariyavāse ānisaṃsañca dassetvā P.3.248 ovadamānāpi tassa ukkaṇṭhaṃ vinodetuṃ asakkontī — “ayaṃ mama kāraṇā evarūpāya iddhiyā parihīno, na dāni yuttaṃ pariccajitun”ti idheva tiṭṭhāti vatvā gharaṃ gantvā mātāpitūnaṃ taṃ pavattiṃ ārocesi. tepi āgantvā nānappakāraṃ ovadamānā vacanaṃ aggaṇhantaṃ āhaṃsu — “tvaṃ amhe uccakulāti sallakkhesi, mayaṃ pesakārā. sakkhissasi pesakārakammaṃ kātun”ti sāmaṇero āha — “upāsaka gihibhūto nāma pesakārakammaṃ vā kareyya naḷakārakammaṃ vā, kiṃ iminā sāṭakamattena lobhaṃ karothā”ti. pesakāro udare baddhasāṭakaṃ datvā gharaṃ netvā dhītaraṃ adāsi.
Vị Sa-di đã đi đến ở gần hồ sen đứng đợi người nữ ấy lên. Nàng cũng đã nhìn thấy vị Sa-di bay cả lúc bay lên hư không và giờ đây đã quay trở lại và đứng đây, biết rằng: “Vị Sa di này đã trở nên không hài lòng do y cứ nơi ta”. – nàng nói rằng: “Này Sa-di hãy lùi về sau”. Vị ấy đã bước lùi về sau. Nàng bước lên khỏi hồ nước, sau khi đã mặc xiêm y vào rồi đến tìm vị ấy. – Nàng hỏi “Có gì vậy, thưa thầy Sa-di?” Vị ấy đã kể lại câu chuyện của mình. Bằng nhiều lý do nàng đã chỉ ra nỗi nguy hiểm ở trong đời sống tại gia và những lợi ích trong đời sống thực hành Phạm hạnh. Trong khi khuyên bảo cũng vẫn không thể xua tan được nỗi khao khát của chàng, nàng nghĩ rằng: “vị Sa-di này đã mất hết sức mạnh thần thông bằng hình thức như vậy cũng do ta mà ra, giờ đây thật không đúng đắn nếu bỏ rơi vị ấy,” – Nàng đã nói với Sa-di rằng hãy đứng chờ tại đây, rồi đi về nhà và kể lại sự việc ấy cho cha mẹ nghe.
tepi āgantvā nānappakāraṃ ovadamānā vacanaṃ aggaṇhantaṃ āhaṃsu — “tvaṃ amhe uccakulāti sallakkhesi, mayaṃ pesakārā. sakkhissasi pesakārakammaṃ kātun”ti sāmaṇero āha — “upāsaka gihibhūto nāma pesakārakammaṃ vā kareyya naḷakārakammaṃ vā, kiṃ iminā sāṭakamattena lobhaṃ karothā”ti. pesakāro udare baddhasāṭakaṃ datvā gharaṃ netvā dhītaraṃ adāsi.
Họ cũng đến rồi khuyên bảo bằng nhiều phương diện khác nhau (họ) đã nói với cùng vị Sa-di nhưng vị ấy không lắng nghe, ngài đừng nghĩ chúng ta là gia đình thuộc dòng dõi cao quý, chúng ta chỉ là những người thợ dệt, chỉ có thể làm việc dệt vải mà thôi. – Vị Sa di nói: “này gia chủ, bình thường nếu ta trở thành cư sĩ ta có thể làm được cả nghề dệt vải lẫn nghề đan lát, ham muốn lợi ích gì chỉ chiếc áo choàng này, ông hãy làm việc đi.” Sau khi đưa cho cậu ta một tấm vải để che ngang phần thắt lưng, người thợ dệt dẫn vị ấy về nhà và gả con gái cho vị ấy.
so pesakārakammaṃ uggaṇhitvā pesakārehi saddhiṃ sālāya kammaṃ karoti. aññesaṃ itthiyo pātova bhattaṃ sampādetvā āhariṃsu, tassa bhariyā na tāva āgacchati. so itaresu kammaṃ vissajjetvā bhuñjamānesu tasaraṃ vaṭṭento nisīdi. sā pacchā agamāsi. atha naṃ so “aticirena M.3.172 āgatāsī”ti tajjesi. mātugāmo ca nāma api cakkavattirājānaṃ attani paṭibaddhacittaṃ ñatvā dāsaṃ viya sallakkheti. tasmā sā evamāha — “aññesaṃ ghare dārupaṇṇaloṇādīni sannihitāni, bāhirato āharitvā dāyakā pesanatakārakāpi atthi, ahaṃ pana V.3.176 ekikāva, tvampi mayhaṃ ghare idaṃ atthi idaṃ natthīti na jānāsi. sace icchasi, bhuñja, no ce icchasi, mā bhuñjā”ti. so “na kevalañca ussūre bhattaṃ āharasi, vācāyapi maṃ ghaṭṭesī”ti kujjhitvā aññaṃ paharaṇaṃ apassanto tameva tasaradaṇḍakaṃ P.3.249 tasarato luñcitvā khipi.
Sau khi đã học nghề dệt vải thì chàng trai trẻ cũng làm việc tại xưởng dệt chung với những người thợ dệt khác. Các bà vợ của những người thợ dệt khác đã chuẩn bị vật thực từ sáng sớm, còn vợ của chàng trai trẻ vẫn chưa đến. Khi những người thợ dệt khác nghỉ tay để dùng bữa, chàng ngồi quay con thoi. Sau cùng thì nàng cũng đã tới. Chàng liền quát mắng vào mặt vợ: “ Sao em chậm trễ quá vậy!” Người phụ nữ sau khi biết tâm trí (của người đàn ông) đã bị cột chặt lấy họ thì người phụ nữ ấy xem như người nô lệ, kể cả đó là một Chuyển Luân Vương. Chính vì thế nàng liền trả lời như sau: “Trong gia đình của người khác, họ trữ củi đuốc, lá cây, muối. Thậm chí người hầu hạ, người giúp việc cũng được mang về từ bên ngoài. Nhưng em chỉ có một mình. Ngay trong khi chàng chẳng biết trong nhà của chúng ta có cái gì, và không có cái gì, nếu chàng muốn, thì hãy ăn đi nào, còn nếu không muốn thì cũng đừng có ăn.” Chàng trai trẻ lại lớn tiếng quát: “Không những nàng đã mang cơm đến cho ta quá trễ mà còn làm tổn thương đến ta bằng những lời lẽ như vậy nữa sao!” anh ta đã nổi giận, không nhìn thấy được bất cứ dụng cụ nào khác có thể đánh, chàng đã rút con thoi ra khỏi khung cửi và ném vào nàng.
sā taṃ āgacchantaṃ disvā īsakaṃ parivatti. tasaradaṇḍakassa ca koṭi nāma tikhiṇā hoti, sā tassā parivattamānāya akkhikoṭiyaṃ pavisitvā aṭṭhāsi. sā ubhohi hatthehi vegena akkhiṃ aggahesi, bhinnaṭṭhānato lohitaṃ paggharati. so tasmiṃ kāle upajjhāyassa vacanaṃ anussari — “idaṃ sandhāya maṃ upajjhāyo ‘anāgate kāle kāṇapesakāriyā hatthehi madditakañjiyaṃ pivissasī’ti āha, idaṃ therena diṭṭhaṃ bhavissati, aho dīghadassī ayyo”ti mahāsaddena rodituṃ ārabhi. tamenaṃ aññe — “alaṃ, āvuso, mā rodi, akkhi nāma bhinnaṃ na sakkā rodanena paṭipākatikaṃ kātun”ti āhaṃsu. so “nāhametamatthaṃ rodāmi, apica kho imaṃ sandhāya rodāmī”ti sabbaṃ paṭipāṭiyā kathesi. evaṃ uppannā samathavipassanā nirujjhamānā anatthāya saṃvattanti.
Người vợ nhìn thấy con thoi bay tới, nàng liền cúi xuống một chút. Đầu con thoi vốn rất sắc, khi nàng cúi tránh thì đầu con thoi bay trúng ngay vào tròng mắt của nàng. Nàng vội đưa hai tay lên bịt cả hai tròng mắt, máu từ vết thương tuôn ra. Vào lúc đó chàng trai trẻ ấy nhớ lại lời của thầy tế độ – “ Thầy tế độ của ta muốn đề cập đến chuyện này, đã nói rằng: “Trong thời vị lai người sẽ ăn cháo trắng trộn của người nữ thợ dệt bị mù một mắt’, vị trưởng lão chắc chắn sẽ nhìn thấy nguyên nhân này, ôi thầy tôi, có sự nhìn thấy tương lai xa vời!” (vì vậy) anh ta bắt đầu khóc lớn tiếng. Những người thợ dệt khác đã nói: “Thôi đủ rồi, anh bạn, đừng khóc lóc nữa. Con mắt đã bị hư không thể chữa lành lại được bằng tiếng khóc lóc đâu.” – Vị ấy đáp rằng: “Ta không khóc đến chuyện ấy đâu, nhưng ta khóc liên quan đến nguyên nhân này” (và) chàng kể lại cho họ nghe tất cả những gì đã xảy ra theo tuần tự. Chỉ tịnh và Minh sát đã sanh khởi như vậy khi đã hoại diệt sẽ đưa đến sự bất lợi.
aparampi vatthu — tiṃsamattā bhikkhū kalyāṇimahācetiyaṃ vanditvā aṭavimaggena mahāmaggaṃ otaramānā antarāmagge jhāmakhette kammaṃ katvā āgacchantaṃ ekaṃ manussaṃ addasaṃsu. tassa sarīraṃ masimakkhitaṃ viya ahosi. masimakkhitaṃyeva ekaṃ kāsāvaṃ kacchaṃ pīḷetvā nivatthaṃ, olokiyamāno jhāmakhāṇuko viya khāyati. so divasabhāge kammaṃ katvā upaḍḍhajjhāyamānānaṃ dārūnaṃ kalāpaṃ ukkhipitvā piṭṭhiyaṃ vippakiṇṇehi kesehi kummaggena āgantvā bhikkhūnaṃ sammukhe aṭṭhāsi. sāmaṇerā disvā aññamaññaṃ olokayamānā, — “āvuso, tuyhaṃ pitā tuyhaṃ mahāpitā P.3.250 tuyhaṃ mātulo”ti hasamānā gantvā “konāmo tvaṃ upāsakā”ti nāmaṃ pucchiṃsu. so nāmaṃ pucchito vippaṭisārī hutvā dārukalāpaṃ chaḍḍetvā M.3.173 vatthaṃ saṃvidhāya nivāsetvā mahāthere vanditvā “tiṭṭhatha tāva, bhante,”ti āha. mahātherā aṭṭhaṃsu.
Một câu khác nữa – Có khoảng ba mươi vị Tỳ khưu đã đảnh lễ một Đại Bảo điện Kalyāṇi, và đã đi xuống con đường lớn theo đường rừng, họ nhìn thấy có một người xuất hiện, người này đang làm việc trong một cánh rừng đốt than ở giữa đường. Toàn thân người ấy trở nên như thể bị vấy bẩn bụi than, liếc nhìn tấm vải vấy bẩn bởi bụi than thắt chặt ngang nách, hiển lộ tựa như gốc cây bị đốt cháy. Sau khi đã thực hiện xong công việc ban ngày, người đó gom nhặt một bó củi cháy xém quá phân nửa và vác về nhà, đã đi theo lối mòn với mái tóc bù xù sau lưng, đã đứng trước mặt các vị tỳ khưu. Khi nhìn thấy một người như vậy, các vị Sa-di nhìn nhau nói rằng – “Hỡi ông bạn, bố của ông, chú của ông, ông nội của ông” cười lên và tiếp tục đi, rồi hỏi tên “này cận sự nam, ông tên là gì vậy?” người thợ đốt than khi bị hỏi đến tên cảm thấy rất bối rối và đã bỏ bó củi xuống sửa lại chiếc áo cho chỉnh tề, kính đảnh lễ đến Đại trưởng lão đã nói rằng: “Bạch các ngài, xin các ngài hãy ngừng lại trước.” Các vị Đại trưởng lão đã đứng đợi.
daharasāmaṇerā āgantvā mahātherānaṃ sammukhāpi parihāsaṃ karonti. upāsako āha — “bhante, tumhe maṃ passitvā parihasatha, ettakeneva matthakaṃ pattamhāti mā sallakkhetha. ahampi pubbe tumhādisova samaṇo ahosiṃ. tumhākaṃ pana cittekaggatāmattakampi natthi, ahaṃ imasmiṃ sāsane V.3.177 mahiddhiko mahānubhāvo ahosiṃ, ākāsaṃ gahetvā pathaviṃ karomi, pathaviṃ ākāsaṃ. dūraṃ gaṇhitvā santikaṃ karomi, santikaṃ dūraṃ. cakkavāḷasatasahassaṃ khaṇena vinivijjhāmi. hatthe me passatha, idāni makkaṭahatthasadisā, ahaṃ imeheva hatthehi idha nisinnova candimasūriye parāmasiṃ. imesaṃyeva pādānaṃ candimasūriye pādakathalikaṃ katvā nisīdiṃ. evarūpā me iddhi pamādena antarahitā, tumhe mā pamajjittha. pamādena hi evarūpaṃ byasanaṃ pāpuṇanti. appamattā viharantā jātijarāmaraṇassa antaṃ karonti. tasmā tumhe maññeva ārammaṇaṃ karitvā appamattā hotha, bhante,”ti tajjetvā ovādamadāsi. te tassa kathentasseva saṃvegaṃ āpajjitvā vipassamānā tiṃsajanā tattheva arahattaṃ pāpuṇiṃsūti. evampi uppannā samathavipassanā nirujjhamānā anatthāya saṃvattantīti veditabbā.
Các Sa-di sau khi đến đã giễu cợt ngay cả trước mặt các vị trưởng lão. Người cận sự nam nói: “Thưa các ngài, sau khi thấy tôi các ngài lại cười giễu cợt đến thế!” Các ngài đừng nghĩ rằng: “Chúng tôi đã đạt đến cứu cánh chỉ bấy nhiêu.” Ngay cả tôi trước kia cũng từng là một vị Sa-môn giống như các ngài. Nhưng các vị vẫn chưa đạt đến sự định tâm, tôi đã có đại thần lực, có đại oai lực trong Tôn giáo này. Tôi đã nắm lấy hư không tạo thành địa đại, nắm lấy địa đại tạo thành hư không, tôi đã nắm lấy xa tạo thành gần, gần thành xa. Tôi cũng đã thâm nhập vào một trăm nghìn thế giới vũ trụ trong một sát-na. Các ngài hãy nhìn tay của tôi đi. Bây giờ trông như thể cánh tay khỉ. Ngồi tại chỗ này tôi có thể sờ chạm tới tận mặt trăng và mặt trời cả hai đều được. Tôi khiến mặt trăng và mặt trời trở thành làm bệ ngồi để rửa chân. Thần thông của tôi như vậy đã bị tiêu hoại do sự xao lãng, các ngài đừng sống xao lãng. Quả thật, mọi người đi đến sự hoại diệt bằng hình thức như vậy do sự phóng dật. Người sống không phóng dật sẽ chấm dứt sanh già chết. Chính vì thế các ngài có thể lấy tôi làm bài học rồi nhắc nhở rằng: “Thưa các ngài đừng sống phóng dật” rồi ban lời khuyên bảo. Trong khi chính người đốt than ấy nói như vậy, ba mươi vị Tỳ khưu đã khởi lên sự động tâm, nhìn thấy rõ, đã chứng đắc A-ra-hán ở ngay tại chỗ ấy. Chỉ tịnh và Minh sát đã sanh khởi ngay cả khi như vậy, khi đoạn diệt nên biết rằng sẽ đưa đến sự bất lợi.
anuppannānaṃ pāpakānanti cettha “anuppanno vā kāmāsavo P.3.251 na uppajjatī”tiādīsu vuttanayena attho veditabbo. uppannānaṃ pāpakānanti ettha pana catubbidhaṃ uppannaṃ vattamānuppannaṃ bhutvāvigatuppannaṃ, okāsakatuppannaṃ, bhūmiladdhuppannanti. tattha ye kilesā vijjamānā uppādādisamaṅgino, idaṃ vattamānuppannaṃ nāma. kamme pana javite ārammaṇarasaṃ anubhavitvā niruddhavipāko bhutvā vigataṃ nāma. kammaṃ uppajjitvā niruddhaṃ bhavitvā vigataṃ nāma. tadubhayampi bhutvāvigatuppannanti saṅkhaṃ gacchati. kusalākusalaṃ kammaṃ aññassa kammassa vipākaṃ paṭibāhitvā attano vipākassa okāsaṃ karoti, evaṃ kate okāse vipāko uppajjamāno okāsakaraṇato paṭṭhāya uppannoti saṅkhaṃ gacchati. idaṃ okāsakatuppannaṃ nāma. pañcakkhandhā pana vipassanāya bhūmi nāma. te atītādibhedā honti. tesu anusayitakilesā pana atītā vā anāgatā vā paccuppannā vāti na vattabbā. atītakhandhesu anusayitāpi hi appahīnāva honti, anāgatakhandhesu, paccuppannakhandhesu M.3.174 anusayitāpi appahīnāva honti. idaṃ bhūmiladdhuppannaṃ nāma. tenāhu porāṇā — “tāsu tāsu bhūmīsu asamugghātitakilesā bhūmiladdhuppannāti saṅkhaṃ gacchantī”ti.
Và ở đây anuppannānaṃ pāpakānaṃ (các ác bất thiện chưa sanh khởi) nên biết theo cách thức như đã nói trong câu bắt đầu như sau: “Dục lậu chưa sanh không sanh khởi”. Hơn nữa, ở đây các ác bất thiện đã sanh khởi này có bốn loại là đang sanh khởi trong hiện tại, đã sanh khởi do hưởng quả rồi biến mất, đã sanh khởi do đã tạo cơ hội, đã sanh khởi do đạt được cõi. Ở đó, những phiền não nào có mặt cùng sanh khởi v.v, đây gọi là đang sanh khởi trong hiện tại. Lại nữa, khi nghiệp đã chín muồi, sau khi thọ hưởng vị của đối tượng rồi diệt mất, gọi là đã thọ hưởng rồi diệt mất.. Nghiệp sanh khởi rồi diệt gọi là hưởng quả rồi biến mất. Kể cả hai điều ấy cũng gọi là sanh khởi do hưởng quả rồi biến mất. Thiện nghiệp và bất thiện nghiệp ngăn chặn quả của nghiệp rồi tạo cơ hội cho quả của chính nó. Khi tạo cơ hội như vậy quả khi sanh khởi được gọi là đã sanh khởi kể từ khi tạo cơ hội, đây gọi là đã sanh khởi do tạo cơ hội. Hơn nữa, ngũ uẩn gọi là cõi của Minh sát. Ngũ uẩn ấy có được phân loại thành quá khứ v.v, phiền não ngủ ngầm trong năm uẩn ấy không nên nói rằng là quá khứ, hiện tại hoặc vị lai. Bởi vì ngay cả phiền não ngủ ngầm trong các uẩn ở quá khứ cũng không dứt trừ được, kể cả phiền não ngủ ngầm trong các uẩn ở vị lai, trong các uẩn ở hiện tại cũng vẫn chưa dứt trừ được, đây gọi là đã sanh khởi do đạt được cõi. Do đó các bậc trưởng thượng đã nói rằng – “Các phiền não vẫn chưa nhổ bỏ trong các cõi đó, được gọi là đã sanh khởi do đạt được cõi.”
aparampi catubbidhaṃ uppannaṃ samudācāruppannaṃ, ārammaṇādhigahituppannaṃ, avikkhambhituppannaṃ asamugghātituppannanti. tattha sampati vattamānaṃyeva samudācāruppannaṃ nāma. sakiṃ cakkhūni ummīletvā ārammaṇe nimitte gahite anussaritānussaritakkhaṇe kilesā P.3.252 nuppajjissantīti na V.3.178 vattabbā. kasmā? ārammaṇassa adhigahitattā. yathā kiṃ? yathā khīrarukkhassa kuṭhāriyā āhatāhataṭṭhāne khīraṃ na nikkhamissatīti na vattabbaṃ, evaṃ. idaṃ ārammaṇādhigahituppannaṃ nāma. samāpattiyā avikkhambhitā kilesā pana imasmiṃ nāma ṭhāne nuppajjissantīti na vattabbā. kasmā? avikkhambhitattā. yathā kiṃ? yathā sace khīrarukkhe kuṭhāriyā āhaneyyuṃ, imasmiṃ nāma ṭhāne khīraṃ na nikkhameyyāti na vattabbaṃ, evaṃ. idaṃ avikkhambhituppannaṃ nāma. maggena asamugghātitakilesā pana bhavagge nibbattassāpi uppajjantīti purimanayeneva vitthāretabbaṃ. idaṃ asamugghātituppannaṃ nāma.
Cả bốn nghiệp ác bất thiện khác nữa là đã sanh khởi do sự thực hành, đã sanh khởi do chấp thủ cảnh, đã sanh khởi do không chế ngự, đã sanh khởi do vẫn chưa bứng gốc. Ở đó, nghiệp vận hành được gọi là đã sanh khởi do sự thực hành. Khi mở mắt một lần và nắm bắt hình tướng của đối tượng, không thể nói rằng các phiền não sẽ không sanh khởi trong những sát-na nhớ lại. Tại sao? Vì đối tượng đã được nắm giữ. Giống điều gì? Giống như mũ của cây cao su bị chặt bằng rìu, vị ấy không nên nói rằng mũ của cây cao su sẽ không tuôn ra như thế nào, thì ở đây cũng như thế ấy gọi là đã sanh khởi do chấp thủ cảnh. Các phiền não không được chế ngự bằng thiền chứng, không nên nói rằng sẽ không sanh khởi ở vị trí này. Tại sao? Bởi chế ngự không được. Giống điều gì? Giống như, nếu mọi người chặt đốn cây cao su bằng rìu không nên nói rằng mũ của cây cao su không thể tuôn ra ở nơi đó như thế nào, ở đây cũng như thế gọi là đã sanh khởi do không chế ngự. Lại nữa, các phiền não không thể bứng gốc bằng đạo sẽ sanh khởi ngay cả chúng sanh sanh khởi trong cõi Phạm thiên cao nhất, có thể giảng giải chi tiết theo cách đã được nói, đây gọi là đã sanh khởi do vẫn chưa bứng gốc.
imesu uppannesu vattamānuppannaṃ bhutvāvigatuppannaṃ okāsakatuppannaṃ samudācāruppannanti catubbidhaṃ uppannaṃ na maggavajjhaṃ, bhūmiladdhuppannaṃ ārammaṇādhigahituppannaṃ avikkhambhituppannaṃ asamugghātituppannanti catubbidhaṃ maggavajjhaṃ. maggo hi uppajjamāno ete kilese pajahati. so ye kilese pajahati, te atītā vā anāgatā vā paccuppannā vāti na vattabbā. vuttampi cetaṃ —
Trong các nghiệp bất thiện đã sanh khởi này, bốn loại nghiệp đã sanh khởi là đang sanh khởi trong hiện tại, đã sanh khởi do hưởng quả rồi biến mất, đã sanh khởi do đã tạo cơ hội, đã sanh khởi do thói quen/do thường xuyên khởi lên không bị diệt tận bởi Đạo. Bốn loại nghiệp ác bất thiện là đã sanh khởi do chấp thủ cảnh, đã sanh khởi do không thể chế ngự, đã sanh khởi do không thể bứng gốc, bị diệt tận bởi đạo. Bởi vì Đạo khi sanh khởi sẽ đoạn trừ những phiền não này được. Đạo đó đoạn trừ những phiền não nào thì những phiền não đó không thể nói là thuộc về quá khứ, vị lai hay hiện tại. Như đã được nói rằng –
“hañci atīte kilese pajahati, tena hi khīṇaṃ khepeti, niruddhaṃ nirodheti, vigataṃ vigameti atthaṅgataṃ atthaṅgameti. atītaṃ yaṃ natthi, taṃ pajahati. hañci anāgate kilese pajahati, tena hi ajātaṃ pajahati, anibbattaṃ, anuppannaṃ, apātubhūtaṃ pajahati. anāgataṃ yaṃ natthi, taṃ pajahati, hañci paccuppanne kilese pajahati, tena hi ratto rāgaṃ pajahati P.3.253, duṭṭho dosaṃ, mūḷho mohaṃ, vinibaddho mānaṃ, parāmaṭṭho diṭṭhiṃ, vikkhepagato uddhaccaṃ, aniṭṭhaṅgato vicikicchaṃ, thāmagato anusayaṃ pajahati. kaṇhasukkadhammā yuganaddhā samameva vattanti. saṃkilesikā maggabhāvanā hoti … pe … tena hi natthi maggabhāvanā, natthi phalasacchikiriyā, natthi kilesappahānaṃ, natthi dhammābhisamayoti. atthi M.3.175 maggabhāvanā … pe … atthi dhammābhisamayoti. yathā kathaṃ viya, seyyathāpi taruṇo rukkho ajātaphalo … pe … apātubhūtāyeva na pātubhavantī”ti.
“Nếu (vị ấy) dứt bỏ các phiền não thuộc quá khứ, vậy thì (vị ấy) làm cạn kiệt phiền não đã được cạn kiệt, làm diệt tận phiền não đã được diệt tận, làm xa lìa phiền não đã được xa lìa, làm biến mất phiền não đã được biến mất; phiên não thuộc quá khứ nào không hiện hữu, dứt bỏ phiền não đó. Nếu Đạo ấy dứt bỏ các phiền não thuộc vị lai, vậy thì Đạo ấy dứt bỏ phiền não chưa được sanh ra, dứt bỏ phiền não chưa được tạo lập, dứt bỏ phiền não chưa được sanh lên, dứt bỏ phiền não chưa được hiện khởi; phiền não nào thuộc vị lai nào không hiện hữu, dứt bỏ trừ phiền não đó. Nếu (Đạo đó) dứt trừ phiền não thuộc hiện tại, vậy thì bị ái nhiễm (vị ấy) dứt bỏ tham ái, bị hư hỏng (vị ấy) dứt bỏ sân, bị mê muội (vị ấy) dứt bỏ vô minh, bị ràng buộc (vị ấy) dứt bỏ ngã mạn, bị đụng chạm do quan niệm (vị ấy) dứt bỏ tà kiến, bị rơi vào tản mạn bởi sự xao lãng (vị ấy) dứt bỏ phóng dật, bị rơi vào không dứt khoát bởi sự lưỡng lự (vị ấy) dứt bỏ hoài nghi, bị rơi vào thói xấu mắc từ lâu (vị ấy) dứt bỏ pháp ngủ ngầm; (như thế) các pháp đen và trắng vận hành được kết hợp chung, hiện hữu một cách bình đẳng, sự tu tập Đạo là còn phiền não … vậy (phải chăng) không có sự tu tập Đạo, không có sự tác chứng Quả, không có sự dứt bỏ các phiền não, không có sự lãnh hội các pháp? Như vậy, có sự tu tập Đạo … có sự lãnh hội các pháp. Giống như thân cây non có trái chưa được sanh ra… những thứ chưa được hiện hữu nên sẽ không hiện hữu.
iti pāḷiyaṃ ajātaphalarukkho āgato, jātaphalarukkhena pana dīpetabbaṃ. yathā hi saphalo taruṇambarukkho, tassa phalāni manussā paribhuñjeyyuṃ, sesāni pātetvā pacchiyo pūreyyuṃ V.3.179. athañño puriso taṃ pharasunā chindeyya, tenassa neva atītāni phalāni nāsitāni honti, na anāgatapaccuppannāni nāsitāni. atītāni hi manussehi paribhuttāni, anāgatāni anibbattāni, na sakkā nāsetuṃ. yasmiṃ pana samaye so chinno, tadā phalāniyeva natthīti paccuppannānipi anāsitāni. sace pana rukkho acchinno, athassa pathavīrasañca āporasañca āgamma yāni phalāni nibbatteyyuṃ, tāni nāsitāni honti. tāni hi ajātāneva na jāyanti, anibbattāneva na nibbattanti, apātubhūtāneva na pātubhavanti, evameva maggo nāpi atītādibhede kilese pajahati, nāpi na pajahati. yesañhi kilesānaṃ maggena khandhesu apariññātesu uppatti siyā, maggena uppajjitvā khandhānaṃ pariññātattā te kilesā ajātāva na jāyanti, anibbattāva na nibbattanti, apātubhūtāva na pātubhavanti, taruṇaputtāya itthiyā puna avijāyanatthaṃ, byādhitānaṃ P.3.254 rogavūpasamanatthaṃ pītabhesajjehi cāpi ayamattho vibhāvetabbo. evaṃ maggo ye kilese pajahati, te atītā vā anāgatā vā paccuppannā vāti na vattabbā, na ca maggo kilese na pajahati. ye pana maggo kilese pajahati, te sandhāya “uppannānaṃ pāpakānan”tiādi vuttaṃ.
Như thế thân cây có trái chưa được sanh ra đã có trong Pāḷī rồi, nên trình bày thân cây trổ quả, giống như cây xoài non có quả. Loài người ăn trái cây của cây xoài non ấy, làm cho những trái còn lại rớt xuống rồi bỏ vào đầy giỏ, khi ấy một người đàn ông khác lấy rìu chặt cây xoài ấy, trái của cây xoài ấy trong quá khứ chưa biến mất, trái ở vị lai và hiện tại cũng chưa biến mất, toàn bộ vẫn chưa biến mất. Bởi vì loài người đã thọ dụng quả trong quá khứ, quả ở tương lai vẫn chưa sanh nên mới không bị biến mất. Vào thời điểm nào thân cây xoài bị chặt đứt, vào thời điểm đó trái sẽ không có. Do đó, ngay trong khi quả thuộc hiện tại vẫn không biến mất, nhưng nếu thân cây xoài không bị chặt đứt thì trái của cây xoài nương vào vị của đất và vị của nước có thể sanh khởi không bị biến mất. Bởi những trái ấy chính vì chưa được sanh ra nên (sẽ) không được sanh ra, chính vì chưa được sanh lên nên (sẽ) không được sanh lên, chính vì chưa được hiện hữu nên (sẽ) không được hiện hữu như thế nào, thì Đạo cũng như thế đó tương tự chính vì chưa dứt trừ được các phiền não khác thuộc quá khứ v.v, nhưng nói không dứt trừ cũng không phải. Bởi vì khi nhận biết toàn diện các uẩn thì phiền não nào có thể sanh khởi, do không nhận biết toàn diện các uẩn bởi Đạo các phiền não ấy chính vì chưa được sanh ra nên (sẽ) không được sanh ra, chính vì chưa được tạo lập nên (sẽ) không được tạo lập, chính vì chưa được hiện hữu nên (sẽ) không được hiện hữu. Hơn nữa có thể giảng giải ý nghĩa này rõ ràng bằng ví dụ so sánh người phụ nữ có con nhỏ uống thuốc để không cho sanh nở nữa, và cho người bệnh uống để hết bệnh. Như vậy, Đạo dứt trừ phiền não nào thì phiền não đó không nên nói rằng là quá khứ, hiện tại hoặc vị lai. và không phải Đạo không dứt trừ được phiền não, Đạo dứt trừ phiền não nào ngài gọi là các ác bất thiện Pháp đã sanh muốn nói đến những phiền não được dứt trừ bởi Đạo.
na kevalañca maggo kileseyeva pajahati, kilesānaṃ pana appahīnattā ye ca uppajjeyyuṃ upādinnakakkhandhā, tepi pajahatiyeva. vuttampi cetaṃ — “sotāpattimaggañāṇena abhisaṅkhāraviññāṇassa nirodhena satta bhave ṭhapetvā anamatagge saṃsāre ye uppajjeyyuṃ nāmañca rūpañca, etthete nirujjhantī”ti (cūḷani. 6) vitthāro. iti maggo upādinnānupādinnato vuṭṭhāti. bhavavasena pana sotāpattimaggo apāyabhavato vuṭṭhāti, sakadāgāmimaggo sugatibhavekadesato, anāgāmimaggo sugatikāmabhavato, arahattamaggo M.3.176 rūpārūpabhavato vuṭṭhāti. sabbabhavehi vuṭṭhātiyevātipi vadanti.
Đạo không những chỉ dứt trừ phiền não mà còn dứt trừ các sự chấp thủ vào các uẩn có thể sanh khởi do tính chất chưa dứt trừ các phiền não, ngay trong chính sự chấp thủ các uẩn đó. Như ngài đã nói: “ Nhờ vào trí của Đạo Nhập Lưu với sự diệt tận của thức tương ưng với sự tạo tác, các Pháp nào là Danh và Sắc có thể sanh khởi trong vòng luân hồi không biết được điểm khởi đầu và điểm kết thúc tối đa là bảy kiếp sống, Danh và Sắc đó diệt tận ở chỗ ấy.” (cūḷani. 6). Nên biết ý nghĩa chi tiết, là như thế, Đạo thoát khỏi pháp thành do thủ và phi thành do thủ là quả dị thục và nghiệp. Nhưng khi nói theo cõi thì Đạo Nhập Lưu thoát ra khỏi các Khổ cảnh, Đạo Nhất Lai thoát ra khỏi một phần các Lạc cảnh, Đạo Bất Lai thoát ra khỏi các cõi Thiện Dục giới, Đạo A-ra-hán thoát ra khỏi cõi Sắc và Vô sắc. Một số vị thầy nói rằng: Đạo A-ra-hán thoát ra khỏi tất cả cõi.
atha maggakkhaṇe kathaṃ anuppannānaṃ uppādāya bhāvanā hoti, kathaṃ vā uppannānaṃ ṭhitiyāti. maggappavattiyāyeva. maggo hi pavattamāno pubbe anuppannapubbattā anuppanno nāma vuccati. anāgatapubbañhi ṭhānaṃ āgantvā ananubhūtapubbaṃ vā ārammaṇaṃ anubhavitvā vattāro bhavanti “anāgataṭṭhānaṃ āgatamhā, ananubhūtaṃ ārammaṇaṃ anubhavāmā”ti. yā cassa pavatti, ayameva ṭhiti nāmāti ṭhitiyā bhāvetītipi vattuṃ vaṭṭati.
Vậy thì việc tu tập để sanh khởi thiện Pháp chưa sanh khởi ở sát-na Đạo như thế nào? hoặc làm thế nào để duy trì các thiện pháp đã sanh? Vì chính sự vận hành của Đạo. Bởi vì người nói đến vị trí mà chưa từng đến, hoặc hưởng cảnh chưa từng thọ hưởng đã nói rằng: ta đã đến vị trí mà chưa từng đến, hoặc ta hưởng cảnh mà chưa từng thọ hưởng, sự vận hành của Đạo ấy gọi là ṭhīti do đó có thể nói là tu tập để duy trì (thiện pháp).
iddhipādesu V.3.180 P.3.255 saṅkhepakathā cetokhilasutte (ma. ni. 1.185 ādayo) vuttā. upasamamānaṃ gacchati, kilesūpasamatthaṃ vā gacchatīti upasamagāmī. sambujjhamānā gacchati, maggasambodhatthāya vā gacchatīti sambodhagāmī.
Ý nghĩa tóm lược về nền tảng thần thông ngài đã nói trong bài Kinh Cetokhila (ma. ni. 1.185 ādayo). Upasamagāmī (hướng đến sự tịch tịnh): bởi đi đến sự tịch tịnh hoặc đi đến sự an tịnh phiền não. Sambodhagāmī (đưa đến hoàn toàn giác ngộ): đưa đến sự giác ngộ hoặc vì mục đích giác ngộ Đạo.
vivekanissitādīni sabbāsavasaṃvare vuttāni. ayamettha saṅkhepo, vitthārato panāyaṃ bodhipakkhiyakathā visuddhimagge vuttā.
Vivekanissitā v.v, (y cứ sự viễn ly): Ngài đã nói trong việc sự thu thúc tất cả lậu hoặc. Đây là ý nghĩa vắn tắt trong câu này. Bài thuyết về các Pháp dự phần giác ngộ này được nói chi tiết trong bộ Thanh Tịnh Đạo.
248. vimokkhakathāyaṃ vimokkheti kenaṭṭhena vimokkhā, adhimuccanaṭṭhena. ko panāyaṃ adhimuccanaṭṭho nāma? paccanīkadhammehi ca suṭṭhu muccanaṭṭho, ārammaṇe ca abhirativasena suṭṭhu muccanaṭṭho, pituaṅke vissaṭṭhaṅgapaccaṅgassa dārakassa sayanaṃ viya aniggahitabhāvena nirāsaṅkatāya ārammaṇe pavattīti vuttaṃ hoti. ayaṃ panattho pacchimavimokkhe natthi, purimesu sabbesu atthi. rūpī rūpāni passatīti ettha ajjhattakesādīsu nīlakasiṇādivasena uppāditaṃ rūpajjhānaṃ rūpaṃ, tadassa atthīti rūpī. bahiddhā rūpāni passatīti bahiddhāpi nīlakasiṇādīni rūpāni jhānacakkhunā passati. iminā ajjhatta P.3.256 bahiddhāvatthukesu kasiṇesu uppāditajjhānassa puggalassa cattāripi rūpāvacarajjhānāni dassitāni.
248 Giảng về giải thoát như sau: vimokkhe (sự giải thoát) gọi là sự giải thoát bởi ý nghĩa như thế nào? Bởi ý nghĩa giải thoát, sự giải thoát này là gì? Có ý nghĩa khéo léo giải thoát khỏi các pháp đối nghịch, và có ý nghĩa khéo léo giải thoát đối với các đối tượng do năng lực của sự hoan hỷ, được giải thích là sự vận hành trong các đối tượng với trạng thái không bị kềm chế, không còn nghi hoặc, giống như đứa trẻ buông thả các chi phần nằm ngủ trong lòng của cha. Nhưng ý nghĩa này không có trong sự giải thoát cuối cùng, tất cả có trong sự giải thoát ban đầu. rūpī rūpāni passati (vị đắc thiền sắc giới nhìn thấy sắc): Ở đây có lời giải thích như sau, thiền Sắc giới được sanh khởi do mãnh lực của đề mục xanh v.v, trong tất cả đề mục có tóc ở bên trong v.v, gọi là Sắc, gọi là rūpi (vị đắc thiền sắc giới) bởi có thiền Sắc giới đó. bahiddhā rūpāni passati (vị ấy nhìn thấy sắc ngoại phần): Nhìn thấy sắc có đề mục xanh v.v, kể cả ở bên ngoài bằng đôi mắt thiền (trí nhãn). Với câu này ngài trình bày bốn tầng thiền Sắc giới đối với hành giả làm cho thiền sanh khởi trong các đề mục có đối tượng nội phần và cả đối tượng ngoại phần.
ajjhattaṃ arūpasaññīti ajjhattaṃ na rūpasaññī, attano kesādīsu anuppāditarūpāvacarajjhānoti attho. iminā bahiddhā parikammaṃ katvā bahiddhāva uppāditajjhānassa rūpāvacarajjhānāni dassitāni. subhanteva adhimutto hotīti iminā suvisuddhesu nīlādīsu vaṇṇakasiṇesu jhānāni dassitāni. tattha kiñcāpi antoappanāyaṃ subhanti M.3.177 ābhogo natthi, yo pana suvisuddhaṃ subhakasiṇaṃ ārammaṇaṃ katvā viharati, so yasmā subhanti adhimutto hotīti vattabbataṃ āpajjati, tasmā evaṃ desanā katā. paṭisambhidāmagge pana “kathaṃ subhanteva adhimutto hotīti vimokkho. idha bhikkhu mettāsahagatena cetasā ekaṃ disaṃ pharitvā viharati … pe … mettāya bhāvitattā sattā appaṭikūlā honti. karuṇāsahagatena, muditāsahagatena, upekkhāsahagatena cetasā ekaṃ disaṃ pharitvā viharati … pe … upekkhāya bhāvitattā sattā appaṭikūlā honti. evaṃ subhanteva adhimutto hotīti vimokkho”ti (paṭi. ma. 1.212) vuttaṃ.
Ajjhattaṃ arūpasaññī (không có sự nhận biết sắc thuộc nội phần): vị không có sự nhận biết sắc thuộc nội phần. có nghĩa là có thiền sắc giới chưa sanh khởi trong đề mục như tóc v.v, của chính mình. Với câu này ngài trình bày đến thiền sắc giới của hành giả đắc thiền thực hiện việc chuẩn bị tốt đẹp ở bên ngoài rồi cho sanh khởi ở bên trong. subhanteva adhimutto hoti (vị khuynh hướng thuần về điều tốt đẹp): ngài trình bày đến thiền ở trong các đề mục như đề mục xanh v.v, là tịnh khiết. Ở đó, không có sự cột chặt tâm (cho rằng) đẹp đẽ trong sự chuyên chú bên trong, vị nào trú vào trạng thái tịnh khiết, đẹp đẽ của đối tượng kasiṇa về màu sắc, vị ấy đạt đến trạng thái thích hợp để nói rằng: “khuynh hướng thuần về điều tốt đẹp”. Vì thế ngài mới trình bày như vậy. Nhưng trong bộ Phân Tích Đạo ngài nói rằng “Khuynh hướng thuần về điều tốt đẹp là giải thoát là (có ý nghĩa) thế nào? Vị Tỳ khưu trong Pháp và Luật này có tâm câu hữu với từ lan tỏa một phương rồi an trú … nhờ trạng thái phát triển của tâm từ ái, chúng sanh không kinh tởm nhau. Có tâm câu hữu với tâm bi mẫn, có tâm câu hữu với tâm hỷ, có tâm câu hữu với tâm xả rồi an trú … Nhờ trạng thái phát triển của tâm bi, tâm hỷ và tâm xả, chúng sanh không có kinh tởm nhau. ‘Khuynh hướng thuần về điều tốt đẹp’ là giải thoát là (có ý nghĩa) như thế. (paṭi. ma. 1.212).
sabbaso V.3.181 rūpasaññānantiādīsu yaṃ vattabbaṃ, taṃ sabbaṃ visuddhimagge vuttameva. ayaṃ aṭṭhamo vimokkhoti ayaṃ catunnaṃ khandhānaṃ sabbaso P.3.257 vissaṭṭhattā vimuttattā aṭṭhamo uttamo vimokkho nāma.
(Do sự vượt qua hẳn) toàn bộ sự nhận biết về sắc thuộc nội phần: Điều nào cần nói, tất cả điều đó đều được nói trong Thanh Tịnh Đạo. ayaṃ aṭṭhamo vimokkho (đây là giải thoát thứ 8): đây là giải thoát cao cả thứ 8 do trạng thái bốn uẩn thanh tịnh ở mọi khía canh, do trạng thái đã thoát khỏi.
249. abhibhāyatanakathāyaṃ abhibhāyatanānīti abhibhavanakāraṇāni. kiṃ abhibhavanti? paccanīkadhammepi ārammaṇānipi. tāni hi paṭipakkhabhāvena paccanīkadhamme abhibhavanti, puggalassa ñāṇuttaritāya ārammaṇāni. ajjhattaṃ rūpasaññītiādīsu pana ajjhattarūpe parikammavasena ajjhattaṃ rūpasaññī nāma hoti. ajjhattañca nīlaparikammaṃ karonto kese vā pitte vā akkhitārakāya vā karoti, pītaparikammaṃ karonto mede vā chaviyā vā hatthatalapādatalesu vā akkhīnaṃ pītaṭṭhāne vā karoti, lohitaparikammaṃ karonto maṃse vā lohite vā jivhāya vā akkhīnaṃ rattaṭṭhāne vā karoti, odātaparikammaṃ karonto aṭṭhimhi vā dante vā nakhe vā akkhīnaṃ setaṭṭhāne vā karoti. taṃ pana sunīlaṃ supītakaṃ sulohitakaṃ suodātaṃ na hoti, asuvisuddhameva hoti.
249. Lãnh vực chế ngự: lý do chế ngự. Chế ngự điều gì? Chế ngự các Pháp đối nghịch, hoặc (chế ngự) các đối tượng. Thật vậy, những lý do ấy chế ngự các Pháp đối nghịch bởi tính chất đối nghịch, chế ngự đối tượng nhờ tính chất người có trí tuệ cao thượng. Có sự nhận biết về sắc thuộc nội phần (ajjhattaṃ rūpasaññī): hành giả gọi là có sự nhận biết sắc thuộc nội phần do tác động cho việc chuẩn bị thuộc sắc nội phần. Thật vậy, hành giả trong khi thực hành cho việc chuẩn bị đề mục màu xanh thuộc sắc nội phần, được làm ở tóc, hay ở túi mật, hoặc ở tròng mắt. Trong khi thực hiện cho việc chuẩn bị đề mục kasiṇa màu vàng được thực hiện ở mỡ đặc, lớp da ở mu bàn tay, ở mu bàn chân, hoặc màu vàng của con mắt. Trong khi thực hiện cho việc chuẩn bị đề mục kasiṇa màu đỏ được thực hiện ở thịt, ở máu, ở lưỡi, hoặc ở chỗ có màu đỏ của con mắt. Trong khi thực hiện cho việc chuẩn bị biến xứ kasiṇa màu trắng được thực hiện ở xương, ở răng, ở móng (tay chân), hoặc ở vị trí màu trắng của con mắt. Tuy nhiên, việc chuẩn bị đề mục ấy màu xanh tuyền, màu vàng tuyền, không phải là màu đỏ hoàn toàn, màu trắng hoàn toàn, toàn bộ (đề mục) không hoàn toàn thanh tịnh.
eko bahiddhā rūpāni passatīti yassetaṃ parikammaṃ ajjhattaṃ uppannaṃ hoti, nimittaṃ pana bahiddhā, so evaṃ ajjhattaṃ parikammassa bahiddhā ca appanāya vasena — “ajjhattaṃ rūpasaññī eko bahiddhā rūpāni passatī”ti vuccati. parittānīti avaḍḍhitāni. suvaṇṇadubbaṇṇānīti suvaṇṇāni vā hontu dubbaṇṇāni vā, parittavaseneva idamabhibhāyatanaṃ vuttanti veditabbaṃ. tāni M.3.178 P.3.258 abhibhuyyāti yathā nāma sampannagahaṇiko kaṭacchumattaṃ bhattaṃ labhitvā “kimettha bhuñjitabbaṃ atthī”ti saṅkaḍḍhitvā ekakabaḷameva karoti, evamevaṃ ñāṇuttariko puggalo visadañāṇo — “kimettha parittake ārammaṇe samāpajjitabbaṃ atthi, nāyaṃ mama bhāro”ti tāni rūpāni abhibhavitvā samāpajjati, saha nimittuppādenevettha appanaṃ pāpetīti attho. jānāmi passāmīti iminā panassa ābhogo kathito, so ca kho samāpattito vuṭṭhitassa, na antosamāpattiyaṃ. evaṃsaññī hotīti ābhogasaññāyapi jhānasaññāyapi evaṃsaññī hoti. abhibhavasaññā hissa antosamāpattiyaṃ atthi, ābhogasaññā pana samāpattito vuṭṭhitasseva.
Một vị nhìn thấy các sắc thuộc ngoại phần: Việc chuẩn bị (đề mục kasiṇa) của hành giả nào được sanh khởi ở bên trong, nhưng hiện tướng được sanh lên ở bên ngoài, vị ấy do tác động của việc chuẩn bị (đề mục kasiṇa) ở bên trong và sự chuyên chú ở bên ngoài như vậy – (vị ấy) được gọi là “Một vị, có sự nhận biết về sắc thuộc nội phần, nhìn thấy các sắc thuộc ngoại phần”. Ít ỏi: không phát triển. Đẹp và xấu: có màu da đẹp hoặc màu da xấu xí. Lãnh vực chế ngự này nên biết rằng ngài nói do tác động cảnh nhỏ. Sau khi chế ngự những sắc đó: giống như một người có dịch tiêu hóa vật thực tốt nhận được một muỗng thức ăn, nghĩ rằng – “đây thì có là gì để ăn?” nên đã gom lại nặn thành một vắt như thế nào, tương tự y như thế ấy hạng người thượng trí có trí tuệ sắc bén nghĩ rằng “có gì để chứng nhập trong đối tượng nhỏ bé này, đây không phải là gánh nặng cho ta” sự chứng đạt đã chế ngự các sắc đó. Giải thích rằng đạt đến sự chuyên chú trong lãnh vực chế ngự này cùng với việc làm cho hiện tướng sanh khởi. Tôi biết, tôi thấy: Ngài nói đến sự suy tư của hạng người ấy, điều đó chỉ [xảy ra] khi đã xuất khỏi thiền (samāpatti), không phải trong khi đang ở trong thiền. Có sự nhận biết như vậy: có tưởng như vậy cả trong tưởng về sự suy tư và tưởng về thiền. Bởi vì vị ấy có tưởng về sự chế ngự trong khi đang ở trong thiền, nhưng tưởng về sự suy tư chỉ có khi đã xuất khỏi thiền.
appamāṇānīti vaḍḍhitappamāṇāni, mahantānīti attho. abhibhuyyāti ettha pana yathā mahagghaso V.3.182 puriso ekaṃ bhattavaḍḍhitakaṃ labhitvā “aññāpi hotu, aññāpi hotu, kimesā mayhaṃ karissatī”ti taṃ na mahantato passati, evameva ñāṇuttaro puggalo visadañāṇo “kimettha samāpajjitabbaṃ, nayidaṃ appamāṇaṃ, na mayhaṃ cittekaggatākaraṇe bhāro atthī”ti tāni abhibhavitvā samāpajjati, saha nimittuppādenevettha appanaṃ pāpetīti attho.
Vô lượng: có sự ước lượng tăng trưởng, tức là to lớn. Chế ngự: ở đây giống như một người ăn khỏe khi nhận được bát cơm đầy vun khởi lên suy nghĩ rằng “hãy có thêm nữa, hãy có thêm nữa, cái này làm được gì cho ta?” không thấy bát cơm ấy nhiều như thế nào, hạng người thượng trí có trí tuệ sắc bén như thế ấy, nghĩ rằng: “Nhập thiền vào đối tượng này được chăng? Đối tượng này không vô lượng, trong việc thực hành phận sự đưa đến sự định tâm không phải gánh nặng cho ta,” đã chế ngự những đối tượng ấy rồi nhập thiền. Giải thích rằng: đưa đến sự chuyên chú nơi đối tượng ấy cùng với kasiṇa-nimitta sanh khởi.
ajjhattaṃ arūpasaññīti alābhitāya vā anatthikatāya vā ajjhattarūpe parikammasaññāvirahito. eko P.3.259 bahiddhā rūpāni passatīti yassa parikammampi nimittampi bahiddhāva uppannaṃ, so evaṃ bahiddhā parikammassa ceva appanāya ca vasena — “ajjhattaṃ arūpasaññī eko bahiddhā rūpāni passatī”ti vuccati. sesamettha catutthābhibhāyatane vuttanayameva. imesu pana catūsu parittaṃ vitakkacaritavasena āgataṃ, appamāṇaṃ mohacaritavasena, suvaṇṇaṃ dosacaritavasena, dubbaṇṇaṃ rāgacaritavasena. etesañhi etāni sappāyāni. sā ca nesaṃ sappāyatā vitthārato visuddhimaggecariyaniddese vuttā.
không có sự nhận biết sắc thuộc nội phần: loại bỏ việc chuẩn bị sự nhận biết ở sắc thuộc nội phần do không đạt được hoặc do không có lợi ích. Một vị nhìn thấy các sắc ngoại phần: sự chuẩn bị (đề mục kasiṇa), (và) cả hiện tướng của người nào sanh khởi ở bên ngoài, người ấy do tác động việc chuẩn bị và sự chuyên chú ở bên ngoài như vậy – được gọi là “một vị không có sự nhận biết sắc thuộc nội phần, nhìn thấy các sắc ngoại phần”, từ còn lại trong câu này có cách thức như đã trình bày trong phần bốn lãnh vực chế ngự. Trong lãnh vực chế ngự thứ tư này, (lãnh vực chế ngự) ít ỏi đã đến do tác động của tánh suy tầm. (Lãnh vực chế ngự) vô lượng (đã đến) do tác động của tánh si mê. Sắc tốt do tác động của tánh sân. Sắc xấu do tác động của tánh ái luyến. Các sắc này phù hợp đối với những hạng người ấy. Hơn nữa, bản thể sắc phù hợp đối với những hạng người ấy, ngài đã nói trong phần diễn giải chi tiết về ‘Cơ Tánh – carita’ ở bộ Thanh Tịnh Đạo.
pañcamābhibhāyatanādīsu nīlānīti sabbasaṅgāhikavasena vuttaṃ. nīlavaṇṇānīti vaṇṇavasena. nīlanidassanānīti nidassanavasena. apaññāyamānavivarāni asambhinnavaṇṇāni ekanīlāneva hutvā dissantīti vuttaṃ M.3.179 hoti. nīlanibhāsānīti idaṃ pana obhāsavasena vuttaṃ, nīlobhāsāni nīlapabhāyuttānīti attho. etena nesaṃ suvisuddhataṃ dasseti. visuddhavaṇṇavaseneva hi imāni cattāri abhibhāyatanāni vuttāni. umāpupphanti etañhi pupphaṃ siniddhaṃ muduṃ dissamānampi nīlameva hoti. girikaṇṇikapupphādīni pana dissamānāni setadhātukāni honti. tasmā idameva gahitaṃ, na tāni. bārāṇaseyyakanti bārāṇasiyaṃ bhavaṃ. tattha kira kappāsopi mudu, suttakantikāyopi tantavāyāpi chekā, udakampi suci siniddhaṃ, tasmā vatthaṃ ubhatobhāgavimaṭṭhaṃ hoti, dvīsu passesu maṭṭhaṃ mudu siniddhaṃ khāyati. pītānītiādīsu P.3.260 imināva nayena attho veditabbo. “nīlakasiṇaṃ uggaṇhanto nīlasmiṃ nimittaṃ gaṇhāti pupphasmiṃ vā vatthasmiṃ vā vaṇṇadhātuyā vā”tiādikaṃ panettha kasiṇakaraṇañceva parikammañca appanāvidhānañca sabbaṃ visuddhimagge vitthārato vuttameva.
Lãnh vực chế ngự thứ năm v.v, màu xanh là để chỉ chung tất cả các sắc xanh. Có sắc xanh: do ảnh hưởng của màu da. Có dáng xanh: ngài nói bằng ví dụ, được giải thích (như sau) màu sắc không bị pha trộn, không có khoảng trống hiển lộ, chỉ hiển lộ có màu xanh thuần túy. Có ánh sáng xanh: hơn nữa điều này ngài nói do tác động của ánh sáng, giải thích rằng có ánh sáng xanh, phối hợp với ánh sáng xanh. Với câu này ngài chỉ ra tính chất trong sạch các sắc đó . Thật vậy, ngài nói đến bốn lãnh vực chế ngự này do tác động của các sắc trong sạch. Cây lục bình: bởi vì hoa này tuy mềm mại, trơn láng (nhưng) hoàn toàn xanh. Nhưng hoa kaṇṇika v.v, có vẻ bề ngoài là giống hoa màu trắng. Vì thế ngài chỉ lấy hoa lục bình này, không lấy hoa kaṇṇika v.v. Tấm vải được sản xuất từ thành Bārāṇāsī: được sản xuất ở thành Bārāṇāsī. Được biết rằng trong thành Bārāṇāsī ấy cả vải sợi bông cũng mềm mại, luôn cả người dệt vải cũng khéo léo, kể cả dòng nước cũng sạch sẽ hoàn toàn trơn láng, vì thế vải trở nên mịn màn, mềm mại cả hai mặt, ở hai mặt đều có về ngoài hoàn toàn mịn màn, mềm mại. Có màu vàng v.v, nên biết ý nghĩa theo chính cách thức này. “Trong khi học tập biến xứ kasiṇa xanh (vị ấy) nắm lấy hiện tướng màu xanh, là trong bông hoa, trong y phục, hoặc phẩm chất về sắc đẹp” v.v. Hơn nữa ở đây việc thực hiện đề mục kasiṇa, việc chuẩn bị, hoặc lộ trình an chỉ, toàn bộ được giảng giải chi tiết trong bộ Thanh Tịnh Đạo.
abhiññāvosānapāramippattāti ito pubbesu satipaṭṭhānādīsu te dhamme bhāvetvā arahattappattāva V.3.183 abhiññāvosānapāramippattā nāma honti, imesu pana aṭṭhasu abhibhāyatanesu ciṇṇavasībhāvāyeva abhiññāvosānapāramippattā nāma.
Abhiññāvosānapāramippattā (sau khi chứng ngộ viên mãn cứu cánh của thắng trí): các vị tu tập các Pháp ấy trong sự thiết lập niệm v.v, trước từ đây rồi chứng đắc A-ra-hán gọi là vị đã chứng ngộ viên mãn cứu cánh của thắng trí, hơn nữa chư Thánh đệ tử cũng gọi là vị chứng đắc viên mãn cứu cánh của thắng trí bởi tính chất người khéo léo đã được huân tập trong tám thắng xứ này.
250. kasiṇakathāyaṃ sakalaṭṭhena kasiṇāni, tadārammaṇānaṃ dhammānaṃ khettaṭṭhena adhiṭṭhānaṭṭhena vā āyatanāni. uddhanti upari gaganatalābhimukhaṃ. adhoti heṭṭhā bhūmitalābhimukhaṃ. tiriyanti khettamaṇḍalamiva samantā paricchinditvā. ekacco hi uddhameva kasiṇaṃ vaḍḍheti, ekacco adho, ekacco samantato. tena tena kāraṇena evaṃ pasāreti ālokamiva rūpadassanakāmo. tena vuttaṃ — “pathavīkasiṇameko sañjānāti uddhaṃadhotiriyan”ti. advayanti disāanudisāsu advayaṃ. idaṃ pana ekassa aññabhāvānupagamanatthaṃ vuttaṃ. yathā hi udakaṃ paviṭṭhassa sabbadisāsu udakameva P.3.261 hoti anaññaṃ, evamevaṃ pathavīkasiṇaṃ pathavīkasiṇameva hoti, natthi tassa añño kasiṇasambhedoti. esa nayo sabbattha. appamāṇanti idaṃ tassa tassa pharaṇāppamāṇavasena vuttaṃ. tañhi cetasā pharanto sakalameva pharati, ayamassa ādi, idaṃ majjhanti pamāṇaṃ gaṇhātīti.
250 Giảng về biến xứ hay đề mục, gọi là đề mục với ý nghĩa trọn vẹn. Gọi là xứ với ý nghĩa là khu vực hoặc là nơi thiết lập của các Pháp có đề mục đó làm đối tượng. Uddhaṃ (phía trên): Hướng về phía bầu trời ở phía trên. Adho: dưới thấp, hướng xuống bề mặt đất ở phía dưới. Tiriyaṃ (nằm ngang): đã xác định xung quanh tựa như diện tích xung quanh của khu vực. Một số người chỉ phát triển đề mục ở trên, một số người phát triển đề mục ở dưới, một số người phát triển đề mục xung quanh, vì lý do ấy một số vị lan toả đề mục như thế, giống như người mong muốn nhìn thấy sắc (như) được thắp sáng lên. Bởi thế đức Thế Tôn đã nói: “một người tưởng tri đề mục đất cả trên, dưới và ngang.” advayaṃ (Không hai): không hai trong các hướng chính và hướng phụ, lời nói này thuyết để chỉ ra rằng một thứ không trở thành nhiều thứ, giống như người nhảy xuống sông thì bốn bề chỉ toàn là nước, không có gì khác như thế nào, thì đề mục đất cũng như thế ấy tương tự (sẽ) chỉ trở thành đề mục đất, đề mục ấy không có đề mục nào lẫn lộn. Phương pháp này áp dụng cho tất cả [các biến xứ] Appamāṇaṃ (vô lượng) này ngài nói do tác động đề mục ấy lan tỏa không có ước lượng. Bởi đề mục ấy khuếch tán do tâm biến mãn xuyên suốt quanh vòng đề mục ấy. Nắm lấy sự ước lượng rằng đây là đoạn đầu của đề mục ấy, đây là đoạn giữa.
viññāṇakasiṇanti cettha M.3.180 kasiṇugghāṭimākāse pavattaṃ viññāṇaṃ. tattha kasiṇavasena kasiṇugghāṭimākāse, kasiṇugghāṭimākāsavasena tattha pavattaviññāṇe uddhaṃadhotiriyatā veditabbā. ayamettha saṅkhepo. kammaṭṭhānabhāvanānayena panetāni pathavīkasiṇādīni vitthārato visuddhimagge vuttāneva. idhāpi ciṇṇavasibhāveneva abhiññāvosānapāramippattā hontīti veditabbā. tathā ito anantaresu catūsu jhānesu. yaṃ panettha vattabbaṃ, taṃ mahāassapurasutte vuttameva.
Và ở đây viññāṇakasiṇaṃ (đề mục thức): thức vận hành ở trong hư không đã bị loại bỏ đề mục. Ở đây, nên biết rằng tính chất đề mục ấy cả ở trên, cả ở dưới và cả bề ngang trong thức được vận hành ở đó do tác động hư không đã loại bỏ đề mục, trong hư không đã loại bỏ đề mục do tác động của đề mục. Đây chỉ là ý nghĩa vắn tắt. Còn đề mục đất này v.v, ngài đã nói trong bộ Thanh Tịnh Đạo một cách chi tiết của việc tu tập nghiệp xứ. Ngay cả trong trường hợp này nên biết rằng chư Thánh đệ tử là người đã chứng đắc viên mãn cứu cánh của thắng trí, với tính chất do đã thuần thục/đã làm chủ. Tương tự như vậy trong bốn thiền kế tiếp từ đây, còn lời cần nói ở đây đã được nói trong bài Kinh Mahā Assapura.
252. vipassanāñāṇe pana rūpītiādīnamattho vuttoyeva. ettha sitamettha paṭibaddhanti ettha cātumahābhūtike kāye nissitañca paṭibaddhañca. subhoti sundaro. jātimāti suparisuddhāakarasamuṭṭhito. suparikammakatoti suṭṭhu kataparikammo apanītapāsāṇasakkharo. acchoti tanucchavi. vippasannoti suṭṭhu vippasanno. sabbākārasampannoti dhovana vedhanādīhi sabbehi ākārehi sampanno. nīlantiādīhi P.3.262 vaṇṇasampattiṃ dasseti. tādisañhi āvutaṃ pākaṭaṃ hoti.
252 Nhưng ở trong Minh sát trí ngài đã nói ý nghĩa của câu bắt đầu như sau ‘có sắc’. ettha sitamettha paṭibaddhaṃ (do nương thân này, bị trói buộc trong thân): ở đây thức nương vào và bị trói buộc trong thân ở trong bốn sắc đại hiển. Subho (tốt đẹp): xinh đẹp. Jātimā (tự sanh khởi): được sinh ra từ mỏ đá tinh khiết. Suparikammakato (người thợ điêu khắc khéo léo): đã tạo sự chuẩn bị một cách tốt đẹp, người thợ điêu khắc thiện xảo không có đất đá và sỏi. Accho (tinh khiết): tinh khiết bên trong, trong sáng bên trong. Vippasanno (rực rỡ): chói lóa. Sabbākārasampanno (thành tựu với mọi biểu hiện): trọn vẹn với mọi biểu hiện đục và đẽo v.v. Ngài trình bày đến sự thành tựu của màu sắc với câu được bắt đầu bằng ‘màu xanh’, Bởi vì sợi chỉ được xâu [vào viên ngọc] như thế trở nên rõ ràng.
evameva khoti ettha evaṃ upamāsaṃsandanaṃ veditabbaṃ — maṇi viya hi karajakāyo. āvutasuttaṃ V.3.184 viya vipassanāñāṇaṃ. cakkhumā puriso viya vipassanālābhī bhikkhu. hatthe karitvā paccavekkhato “ayaṃ kho maṇī”ti maṇino āvibhūtakālo viya vipassanāñāṇaṃ abhinīharitvā nisinnassa bhikkhuno cātumahābhūtikakāyassa āvibhūtakālo. “tatridaṃ suttaṃ āvutan”ti suttassa āvibhūtakālo viya vipassanāñāṇaṃ abhinīharitvā nisinnassa bhikkhuno tadārammaṇānaṃ phassapañcamakānaṃ vā sabbacittacetasikānaṃ vā vipassanāñāṇasseva vā āvibhūtakāloti.
evameva kho (như thế): ở đây nên biết việc so sánh như vầy. Bởi sắc thân tựa như ngọc ma-ni. Minh sát trí tựa như sợi chỉ được xâu lại. Thời gian nhận biết rõ thân có bốn sắc tứ đại của vị Tỳ khưu ngồi hướng tâm đến Minh sát trí tựa như thời gian nhận biết rõ ngọc ma-ni của người đặt viên ngọc ấy trong lòng bàn tay rồi quán xét thấy rằng đây là viên ngọc ma-ni. Thời gian biết rõ đối tượng có xúc là thứ năm, hay tất cả tâm và tâm sở, Minh sát trí của vị Tỳ khưu ngồi hướng tâm đến Minh sát trí tựa như thời gian nhận biết sợi chỉ rằng: sợi chỉ này xâu chuỗi ngọc ma-ni ấy như thế.
kiṃ panetaṃ ñāṇassa āvibhūtaṃ, puggalassāti. ñāṇassa, tassa pana āvibhāvattā puggalassa āvibhūtāva honti. idañca vipassanāñāṇaṃ maggassa anantaraṃ, evaṃ santepi yasmā abhiññāvāre āraddhe etassa antarāvāro natthi, tasmā idheva dassitaṃ. yasmā ca aniccādivasena akatasammasanassa dibbāya sotadhātuyā bheravasaddaṃ suṇanto pubbenivāsānussatiyā bherave khandhe anussarato dibbena cakkhunā bheravarūpaṃ M.3.181 passato bhayasantāso uppajjati, na aniccādivasena katasammasanassa, tasmā abhiññāpattassa bhayavinodakahetusampādanatthampi idaṃ idheva dassitaṃ. idhāpi arahattavaseneva abhiññāvosānapāramippattatā veditabbā.
Và ở đây trí biết rõ hay (hay) người biết rõ? trí (biết rõ), bởi vì khi trí biết rõ thì hạng người cũng biết theo. Và Minh sát trí này là kế tiếp của Đạo, mặc dù vậy, bởi vì khi phần thắng trí được bắt đầu thì không có phần trung gian của nó [Minh sát trí], do đó [Minh sát trí] được trình bày ngay tại đây. Hơn nữa, do sự hoảng hốt từ sự sợ hãi khởi lên cùng người không quán sát do sự vô thường v.v, người nghe âm thanh đáng sợ bằng thiên nhĩ, người nhớ đến uẩn đáng sợ bằng sự nhớ lại các kiếp sống quá khứ, người nhìn thấy sắc đáng sợ bằng thiên nhãn. Do đó, ngài không trình bày câu đó ở đây, kể cả để cung cấp nhân để xua tan nỗi sợ hãi của người không thực hiện quán xét do tác động sự vô thường v.v, của người chứng đắc thắng trí ấy. Thậm chí ở đây cũng nên biết rằng sự đạt đến sự toàn hảo, sự viên mãn của thắng trí do chính mãnh lực A-ra-hán.
253. manomayiddhiyaṃ P.3.263 ciṇṇavasitāya. tattha manomayanti manena nibbattaṃ. sabbaṅgapaccaṅginti sabbehi aṅgehi ca paccaṅgehi ca samannāgataṃ. ahīnindriyanti saṇṭhānavasena avikalindriyaṃ. iddhimatā nimmitarūpañhi sace iddhimā odāto, tampi odātaṃ. sace aviddhakaṇṇo, tampi aviddhakaṇṇanti evaṃ sabbākārehi tena sadisameva hoti. muñjamhā īsikantiādi upamattayampi taṃ sadisabhāvadassanatthameva vuttaṃ. muñjasadisā eva hi tassa anto īsikā hoti. kosasadisoyeva asi, vaṭṭāya kosiyā vaṭṭaṃ asimeva pakkhipanti, patthaṭāya patthaṭaṃ.
253 Nên biết do tính chất người thiện xảo về thần thông do ý tạo như sau, ở đó manomayaṃ (hóa hiện ra bởi ý): được tạo thành bởi tâm. Sabbaṅgapaccaṅgiṃ (có tất cả các bộ phận thân thể lớn nhỏ): là hội đủ bởi tất cả các chi phần và các chi phần phụ. Ahīnindriyaṃ (có quyền không bị khiếm khuyết) có giác quan không bị khiếm khuyết do tác động hình dạng. Sắc do thần thông hóa hiện ra của hạng người có thần thông tương tự với sắc ấy bằng tất cả mọi biểu hiện như thế, tức là giả sử người có thần thông trắng thì chính sắc do thần thông hóa hiện cũng màu trắng. Giả sử người có thần thông có lỗ tai không được xỏ lỗ thì chính sắc (do thần thông hóa hiện) ấy cũng có lỗ tai không được xỏ lỗ. Thậm chí cả 3 ví dụ được bắt đầu muñjamhā īsikaṃ (một người rút phần ruột từ thân cỏ mật): ngài nói nhằm mục đích trình bày sự giống nhau, bởi vì phần ruột bên trong của nó giống hệt với thân cây cỏ mật. Thanh kiếm thì giống hệt với vỏ kiếm – (họ) đặt thanh kiếm tròn vào vỏ kiếm tròn, (đặt) thanh kiếm dẹp vào vỏ kiếm dẹp.
karaṇḍāti idampi ahikañcukassa nāmaṃ, na vilīvakaraṇḍakassa. ahikañcuko hi ahinā sadisova hoti. tattha kiñcāpi “puriso ahiṃ karaṇḍā uddhareyyā”ti hatthena uddharamāno viya dassito, atha kho cittenevassa uddharaṇaṃ veditabbaṃ. ayañhi ahi nāma sajātiyaṃ V.3.185 ṭhito, kaṭṭhantaraṃ vā rukkhantaraṃ vā nissāya, tacato sarīranikkaḍḍhanapayogasaṅkhātena thāmena, sarīraṃ khādamānaṃ viya purāṇatacaṃ jigucchantoti imehi catūhi kāraṇehi sayameva kañcukaṃ jahāti, na sakkā tato aññena uddharituṃ. tasmā cittena uddharaṇaṃ sandhāya idaṃ vuttanti veditabbaṃ. iti muñjādisadisaṃ imassa bhikkhuno sarīraṃ, īsikādisadisaṃ nimmitarūpanti idamettha opammasaṃsandanaṃ. nimmānavidhānaṃ P.3.264 panettha parato ca iddhividhādipañcābhiññākathā sabbākārena visuddhimagge vitthāritāti tattha vuttanayeneva veditabbā. upamāmattameva hi idha adhikaṃ.
Karaṇḍā đây chính là tên gọi của da rắn lột, không phải là tên của cái giỏ tre. Bởi vì da rắn lột cũng giống với con rắn. Ở đó ngài thuyết “người đàn ông có thể kéo xác rắn lột ra” cũng giống như một người kéo xác rắn lột bằng tay, quả thật nên hiểu rằng rút ra khỏi bằng tâm của chính hạng người ấy. Bởi vì con rắn này khi trụ trong cùng loài, nương vào khoảng giữa khúc gỗ hoặc thân cây, với sức mạnh được gọi là sự cố gắng kéo thân ra khỏi da, như thể đang cắn thân mình và ghê tởm lớp da cũ – do bốn nguyên nhân này mà tự nó lột bỏ da, không thể lột ra bằng cách nào khác. Vì thế nên biết rằng ngài nói câu này muốn đề cập đến sự rút khỏi bằng tâm. Ví dụ so sánh trong câu này như sau: thân thể của vị Tỳ khưu này giống như thân cây cỏ mật v.v, sắc do thần thông hóa hiện cũng giống như phần ruột bên trong v.v, ở trong trường hợp này nói đến quá trình hóa hiện bởi việc nói đến 5 thắng trí có biến hóa thông v.v, ngài đã nói chi tiết mọi khía cạnh trong bộ Thanh Tịnh Đạo. Nên biết theo phương thức như đã được nói trong bộ Thanh Tịnh Đạo ấy. Bởi ở chỗ này ngài chỉ muốn nói thêm ví dụ so sánh mà thôi.
tattha chekakumbhakārādayo viya iddhividhañāṇalābhī bhikkhu daṭṭhabbo. suparikammakatamattikādayo viya iddhividhañāṇaṃ daṭṭhabbaṃ. icchiticchitabhājanavikatiādikaraṇaṃ viya tassa bhikkhuno vikubbanaṃ daṭṭhabbaṃ. idhāpi ciṇṇavasitāvaseneva abhiññāvosānapāramippattatā veditabbā. tathā ito parāsu catūsu abhiññāsu.
Nên biết vị Tỳ khưu đã đạt được trí về biến hóa thông, tựa như người thợ gốm thiện xảo. Nên biết trí về biến hóa thông tựa như đất sét mà người thợ gốm trang trí một cách khéo léo. Nên biết việc thị hiện thần thông của vị Tỳ khưu ấy giống như việc tạo ra nhiều loại bình đựng khác nhau mà bản thân mong muốn. Kể cả trong trường hợp này nên biết rằng chư Thánh đệ tử đã chứng đắc viên mãn cứu cánh của thắng trí do mãnh lực của tính chất người thiện xảo đã được huân tập. Trong 4 thắng trí từ đây cũng tương tự như vậy.
255. tattha M.3.182 dibbasotadhātūpamāyaṃ saṅkhadhamoti saṅkhadhamako. appakasirenevāti niddukkheneva. viññāpeyyāti jānāpeyya. tattha evaṃ cātuddisā viññāpente saṅkhadhamake “saṅkhasaddo ayan”ti vavatthāpentānaṃ sattānaṃ tassa saṅkhasaddassa āvibhūtakālo viya yogino dūrasantikabhedānaṃ dibbānañceva mānusakānañca saddānaṃ āvibhūtakālo daṭṭhabbo.
255 Ở đây, ví dụ so sánh về thiên nhĩ giới như sau, saṅkhadhamo: người thổi tù và bằng vỏ ốc. Appakasirenevā: thật không quá khó. Viññāpeyyā: có thể biết (ví dụ này). Ở đây, khi người thổi tù và làm cho nghe thấy trong bốn phương như vậy, thời điểm âm thanh tù và trở nên rõ ràng đối với những chúng sinh đang xác định rằng “đây là âm thanh tù và” như thế nào, thì cũng vậy, nên hiểu đó là thời điểm các âm thanh của chư thiên và người, dù xa hay gần, trở nên rõ ràng đối với hành giả.
256. cetopariyañāṇa-upamāyaṃ daharoti taruṇo. yuvāti yobbanena samannāgato. maṇḍanakajātikoti yuvāpi samāno na alasiyo kiliṭṭhavatthasarīro, atha kho maṇḍanakapakatiko, divasassa dve tayo vāre nhāyitvā suddhavattha-paridahana-alaṅkārakaraṇasīloti attho. sakaṇikanti P.3.265 kāḷatilakavaṅka-mukhadūsipīḷakādīnaṃ aññatarena sadosaṃ. tattha yathā tassa mukhanimittaṃ paccavekkhato mukhadoso pākaṭo hoti, evaṃ cetopariyañāṇāya cittaṃ abhinīharitvā nisinnassa bhikkhuno paresaṃ soḷasavidhaṃ cittaṃ pākaṭaṃ hotīti veditabbaṃ. pubbenivāsaupamādīsu yaṃ vattabbaṃ, taṃ sabbaṃ mahāassapure vuttameva.
Nên biết lý giải trong phần ví dụ so sánh của ‘trí biết được tâm (tha tâm thông)’ như sau, daharo: thanh niên trẻ. Yuva: là sự phối hợp với tính chất trẻ trung. Maṇḍanakajātiko (ưa thích trang điểm): dầu khi còn trẻ cũng không biếng nhác, không để y phục thân thể dơ bẩn, ưa thích trang điểm. Tức là ngày tắm 2-3 lần rồi mặc quần áo sạch sẽ và trang điểm. Sakaṇikaṃ (mặt có nốt ruồi): gương mặt có nhược điểm với bất cứ một nhược điểm nào chẳng hạn như đốm đen, mụn nhọt, mụn cóc v.v, trong câu này nên biết như vầy: giống như khi người ấy nhìn (vào gương) thấy hình của mình, thì những nhược điểm trên bóng hình hiển lộ như thế nào, vị Tỳ khưu quán xét tâm bằng tha tâm thông cũng như thế đó, 16 loại tâm của hạng người khác (sẽ) hiện khởi. Lời cần nói ở ví dụ so sánh của trí nhớ về các kiếp sống trước (túc mạng thông) v.v, toàn bộ được nói trong bài Kinh Mahā Assapura.
259. ayaṃ kho udāyi pañcamo dhammoti ekūnavīsati pabbāni paṭipadāvasena ekaṃ dhammaṃ V.3.186 katvā pañcamo dhammoti vutto. yathā hi aṭṭhakanāgarasutte (ma. ni. 2.17 ādayo) ekādasa pabbāni pucchāvasena ekadhammo kato, evamidha ekūnavīsati pabbāni paṭipadāvasena eko dhammo katoti veditabbāni. imesu ca pana ekūnavīsatiyā pabbesu paṭipāṭiyā aṭṭhasu koṭṭhāsesu vipassanāñāṇe ca āsavakkhayañāṇe ca arahattavasena abhiññāvosānapāramippattatā veditabbā, sesesu ciṇṇavasibhāvavasena. sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
Ayaṃ kho udāyi pañcamo dhammo (này Udāyi đây là pháp thứ năm): nghĩa là mười chín phần được gom thành một pháp do năng lực của sự thực hành và được gọi là pháp thứ năm. Giống như trong kinh Aṭṭhakanāgara, mười một phần được gom thành một pháp do năng lực của việc vấn đáp như thế nào, thì ở đây cũng nên biết rằng mười chín phần được gom thành một pháp do năng lực của sự thực hành như vậy. Và trong mười chín phần này, nên biết rằng trong 8 phần đầu theo thứ tự, [hành giả] đạt đến tột đỉnh của các thắng trí thông qua tuệ minh sát, trí đoạn tận các lậu hoặc, và đạo quả A-ra-hán. Còn trong các phần còn lại thì do năng lực đã được thuần thục. Tất cả những từ trong các câu còn lại đều đơn giản.
Giải Thích Đại Kinh Sakuludāyi Kết Thúc.
1 Abaddhasīmā: ranh giới được chư tăng giả định tạm thời giữa rừng núi, không cần tuyên ngôn và vật mốc, chỉ để thực hiện các tăng sự
2 Baddhasīmā: ranh giới được xác định là phần ranh giới sau hai lần tuyên ngôn và cần phải có các cột mốc làm dấu ranh giới. Baddhasīmā còn gọi là Khaṇḍasīmā, Samānasaṃvāsasīmā hay Avippavāsasīmā.