Kinh số 76 – Giải Thích Kinh Sandaka
(Sandakasuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Sandaka
223. Evaṃ V.3.159 me sutanti sandakasuttaṃ. Tattha pilakkhaguhāyanti tassā guhāya dvāre pilakkharukkho ahosi, tasmā pilakkhaguhātveva saṅkhaṃ gatā. Paṭisallānā vuṭṭhitoti vivekato vuṭṭhito. Devakatasobbhoti vassodakeneva tinnaṭṭhāne jāto mahāudakarahado. Guhādassanāyāti ettha guhāti paṃsuguhā. Sā unname P.3.221 udakamuttaṭṭhāne ahosi, ekato umaṅgaṃ katvā khāṇuke ca paṃsuñca nīharitvā anto thambhe ussāpetvā matthake padaracchannagehasaṅkhepena katā, tattha te paribbājakā vasanti. sā vassāne udakapuṇṇā tiṭṭhati, Nidāghe tattha vasanti. taṃ sandhāya “Guhādassanāyā”ti āha. Vihāradassanatthañhi anamataggiyaṃ paccavekkhitvā samuddapabbatadassanatthaṃ vāpi gantuṃ vaṭṭatīti.
223. Kinh Sandaka được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, Pilakkhaguhāyaṃ (ở hang động Pilakkhaguhā): Ở cửa hang động có một cây sung, vì thế hang động đó được gọi là Pilakkhaguhā. Paṭisallānā vuṭṭhito (Tôn giả Ānanda khi đã xuất khỏi từ chỗ thiền tịnh): khi đã xuất khỏi sự viễn ly. Devakatasobbho (một cái hồ nơi nước mưa xói mòn): Tức là một cái hồ nước lớn được hình thành ở nơi bị nước mưa xói mòn. Guhā (hang động) trong từ guhādassanāya (để nhìn hang động này) là hạng động chứa đầy bụi bẩn. Hang động ấy nằm ở phía bên trên mặt nước, ở chỗ cao. mọi người làm đường hầm xuyên qua để mang gốc cây và bụi bẩn ra ngoài. Nâng các cột bên trong lên và phía trên cùng dùng ván che để làm nhà tạm. Nhóm du sĩ đó sống trong hang động đó. Hang ấy vào mùa mưa có nước ứ đầy, vào mùa khô, các du sĩ đến cư trú trong động ấy. Tôn giả Ānanda nói ‘để nhìn hang động này’ để đề cập đến hạng động đó. Thật vậy, việc đi để nhìn tịnh xá, hoặc ngắm nhìn đại dương và đồi núi bởi quán xét do sau khi suy xét lại vòng luân hồi có khởi đầu và kết thúc mà con người không thể biết được, (điều ấy) thích hợp.
Unnādiniyāti M.3.155 uccaṃ nadamānāya. evaṃ nadamānāya cassā uddhaṅgamanavasena ucco, disāsu patthaṭavasena mahāsaddoti uccāsaddamahāsaddo, tāya uccāsaddamahāsaddāya. Tesaṃ paribbājakānaṃ pātova uṭṭhāya kattabbaṃ nāma cetiyavattaṃ vā bodhivattaṃ vā ācariyupajjhāyavattaṃ vā yonisomanasikāro vā natthi. Tena te pātova uṭṭhāya bālātape nisinnā, sāyaṃ vā kathāya phāsukatthāya sannipatitā “imassa hattho sobhaṇo imassa pādo”ti evaṃ aññamaññassa hatthapādādīni vā ārabbha itthipurisadārakadārikāvaṇṇe vā aññaṃ vā kāmassādabhavassādādivatthuṃ ārabbha kathaṃ paṭṭhapetvā anupubbena rājakathādianekavidhaṃ tiracchānakathaṃ kathenti. Sā hi aniyyānikattā saggamokkhamaggānaṃ tiracchānabhūtā kathāti tiracchānakathā. Tattha rājānaṃ ārabbha “mahāsammato mandhātā dhammāsoko evaṃmahānubhāvo”tiādinā nayena pavattā kathā rājakathā. Esa nayo corakathādīsu.
Unnādiniya (bằng âm giọng cao): thét lên âm thanh dữ dội. Việc nói phù phiếm ấy, thét lên âm thanh như vậy, âm giọng cao với tiếng thét cao ồn ào lan truyền khắp mọi phương. Vì thế mới gọi là do âm giọng cao và lớn tiếng. Những du sĩ ấy đứng dậy từ sáng sớm nhưng không làm những phận sự cần làm là phận sự ở Bảo điện, phận sự ở cội Bồ-đề, phận sự đối với các tôn sư và thầy tế độ hoặc tác ý đúng đường lối. Bọn họ dậy từ sáng sớm, ban ngày tụ họp, buổi chiều tụ họp đàm luận để tìm kiếm sự thoải mái. Bắt đầu nói đến những chuyện tay và chân v.v, của nhau như vầy, tay của người này đẹp, chân của này xinh, hoặc nói đến làn da của người nữ người nam, bé gái và bé trai, hoặc những vấn đề khác chẳng hạn như sự thỏa mãn trong các dục và sự thỏa thích trong các cõi v.v. rồi nói những chuyện phù phiếm như câu chuyện về đức vua v.v, theo thứ tự. Thật vậy, việc nói đó làm cản trở con đường đến thiên giới và Nibbāna gọi là việc nói phù phiếm do không thoát khỏi khổ. Những lời nói ấy việc nói đến chuyện đức vua theo phương thức được bắt đầu như sau: “Đức vua Mahāsammata, đức vua Mandhātā, đức vua Dhammāsoka có đại oai lực”. Trong câu chuyện về tên cướp cũng có phương thức tương tự như thế.
Tesu “asuko rājā abhirūpo dassanīyo”tiādinā P.3.222 nayena gehassitakathāva tiracchānakathā hoti. “Sopi nāma evaṃ mahānubhāvo khayaṃ gato”ti evaṃ pavattā pana kammaṭṭhānabhāve tiṭṭhati. Coresupi “mūladevo evaṃmahānubhāvo, meghamālo evaṃmahānubhāvo”ti tesaṃ V.3.160 kammaṃ paṭicca aho sūrāti gehassitakathāva tiracchānakathā. Yuddhepi bhāratayuddhādīsu “asukena asuko evaṃ mārito evaṃ viddho”ti kāmassādavaseneva kathā tiracchānakathā. “tepi nāma khayaṃ gatā”ti evaṃ pavattā pana sabbattha kathā kammaṭṭhānameva hoti. Apica annādīsu “Evaṃ vaṇṇavantaṃ gandhavantaṃ rasavantaṃ phassasampannaṃ khādimha bhuñjimha pivimha paribhuñjimhā”ti kāmassādavasena kathetuṃ na vaṭṭati, sātthakaṃ pana katvā — “Pubbe evaṃ vaṇṇādisampannaṃ annaṃ pānaṃ vatthaṃ sayanaṃ mālaṃ gandhaṃ sīlavantānaṃ adamha, cetiye pūjaṃ akarimhā”ti kathetuṃ vaṭṭati.
Lời nói liên quan đến đời sống tại gia có phương cách được bắt đầu như sau: “Trong các vị vua ấy thì vị vua kia có kim thân xinh đẹp đáng chiêm ngưỡng”, đây được gọi là nói chuyện phù phiếm. Tuy nhiên câu chuyện được nói như vầy rằng: “đức vua có hồng danh ấy, có đại oai lực như thế đã băng hà” như vậy (được xếp vào) việc thiết lập tính chất nghiệp xứ. Ngay cả câu chuyện về kẻ trộm thì lời nói liên quan đến đời sống tại gia rằng: “Ồ! thật gan dạ, dựa vào hành động của những tên cướp cho rằng: ‘tên cướp tên là Mūladeva có đại oai lực như vậy, tên trộm tên là Meghamāla có đại oai lực như vậy’” đây được gọi là nói chuyện phù phiếm. Thậm chí câu chuyện về chiến tranh có câu chuyện đánh giặc của vua Mahābhārada v.v, lời nói liên quan đến sự ưa thích trong câu chuyện đoán rằng: “người này bị người kia giết như vầy, đâm như vầy”, đây được gọi là nói chuyện phù phiếm. Tuy nhiên câu chuyện được nói như vầy: “Mặc dù người tên này đi đến sự chấm dứt (mạng sống)” được xếp vào nghiệp xứ, tất cả câu chuyện đều như thế. Hoặc là câu chuyện về thức ăn v.v, việc nói liên quan đến sự hài lòng trong những món ưa thích: “Tôi nhai, tôi thọ dụng thức ăn có màu sắc đẹp, có hương thơm lừng, có vị ngon đậm đà, có sự xúc chạm như vậy” là không phù hợp. Tuy nhiên việc nói đưa đến lợi ích rằng: “Trong quá khứ tôi đã cúng dường thức ăn, nước uống, vải vóc, chỗ nằm, vòng hoa, vật thơm đầy đủ màu sắc v.v, đến vị có giới đức, tôi đã lễ bái bảo tháp như vầy, như thế là phù hợp.
Ñātikathādīsupi “amhākaṃ ñātakā sūrā samatthā”ti vā “pubbe mayaṃ evaṃ vicitrehi yānehi carimhā”ti vā assādavasena vattuṃ na vaṭṭati, sātthakaṃ pana katvā “tepi no ñātakā khayaṃ gatā”ti vā “pubbe mayaṃ evarūpā upāhanā saṅghassa adamhā”ti vā kathetabbā. Gāmakathāpi suniviṭṭhadunniviṭṭhasubhikkhadubbhikkhādivasena vā “asukagāmavāsino sūrā samatthā”ti vā evaṃ assādavasena na vaṭṭati, sātthakaṃ pana katvā saddhā pasannāti M.3.156 vā khayavayaṃ gatāti vā vattuṃ vaṭṭati. Nigamanagarajanapadakathāsupi eseva nayo. Itthikathāpi vaṇṇasaṇṭhānādīni paṭicca assādavasena na vaṭṭati, saddhā pasannā khayaṃ gatāti evameva vaṭṭati. Sūrakathāpi P.3.223 nandimitto nāma yodho sūro ahosīti assādavaseneva na vaṭṭati, saddho pasanno ahosi khayaṃ gatoti evameva vaṭṭati. Visikhākathāpi asukā visikhā suniviṭṭhā dunniviṭṭhā sūrā samatthāti assādavaseneva na vaṭṭati, saddhā pasannā khayaṃ gatā iccevaṃ vaṭṭati.
Hơn nữa, câu chuyện về thân quyến v.v, việc nói liên quan đến sự hài lòng rằng “Thân quyến của chúng tôi can đảm, có khả năng” hoặc “trước đây tôi đã đi du hành bằng cỗ xe xinh đẹp như vậy” là không thích hợp. Tuy nhiên nên nói đưa đến lợi ích rằng: “Thân quyến của chúng tôi mặc dù đã chết” hoặc “trước đây tôi đã cúng dường đôi dép như vậy đến chư Tăng”. Ngay cả câu chuyện về làng xóm v.v, nói chuyện về làng xóm liên quan đến chuyện sau: “sống an trú thoải mái, sống an trú không thoải mái, vật thực kiếm được dễ dàng, và vật thực rất khó kiếm v.v.” hoặc “Người dân làng kia dũng cảm, có khả năng” là không phù hợp. Nhưng nói đưa đến lợi ích rằng: “Người dân làng kia có đức tin, có lòng tịnh tín” hoặc “đã đi đến sự chấm dứt, sự hoại diệt” là phù hợp. Thậm chí nói đến câu chuyện về thị tứ, câu chuyện về phố phường, câu chuyện về quốc độ cũng có phương thức tương tự như vậy. Kể cả câu chuyện về đàn bà liên quan đến sự thỏa thích do dựa vào màu da và hình dáng v.v, không phù hợp. Nhưng nói như vầy: “người phụ nữ kia có đức tin, có lòng tịnh tín cũng đi đến sự chấm dứt, sự hoại diệt” là phù hợp. Ngay cả câu chuyện về vị anh hùng liên quan đến sự ưa thích rằng: “Người chiến sĩ tên là Nandimitta là người dũng mãnh” là không phù hợp. Nhưng nói như vầy: “người chiến sĩ dũng mãnh có đức tin, có lòng tịnh tín cũng đi đến sự chấm dứt, sự hoại diệt” là phù hợp. Luôn cả câu chuyện về đường xá liên quan đến sự thỏa thích rằng: “Đường xá kia được xây dựng tốt, xây dựng không tốt, có người dũng cảm, có người có năng lực” là không phù hợp. Nhưng nói rằng: “Người dũng cảm, người có khả năng ở con đường ấy có đức tin, có lòng tịnh tín cũng phải đi đến sự chấm dứt, sự hoại diệt” là phù hợp.
Kumbhaṭṭhānakathāti kumbhaṭṭhānaudakatitthakathā vā vuccati kumbhadāsikathā vā. Sāpi “pāsādikā naccituṃ gāyituṃ chekā”ti assādavasena na vaṭṭati, saddhā pasannātiādinā nayeneva vaṭṭati. Pubbapetakathāti atītañātikathā. tattha vattamānañātikathāsadisova vinicchayo.
Nói đến chuyện đặt ghè nước, nói đến chuyện bến nước được gọi là Câu chuyện tại chỗ lấy nước, hoặc nói đến câu chuyện về nàng Kumbhadāsī, thậm chí câu chuyện về nàng Kumbhadāsī nói liên quan đến sự thỏa thích rằng: “Nàng Kumbhadāsī dễ thương, tài giỏi trong việc nhảy múa, ca hát” là không phù hợp, mà nói theo cách sau: “Nàng Kumbhadāsī có đức tin, có lòng tịnh tín…” là phù hợp. Câu chuyện về người đã chết là nói đến chuyện thân quyến đã mất, lý giải câu chuyện về người đã chết cũng tương tự với câu chuyện nói đến người còn tại tiền.
Nānattakathāti purimapacchimakathāvimuttā avasesā nānāsabhāvā niratthakakathā. Lokakkhāyikāti V.3.161 ayaṃ loko kena nimmito, asukena nāma nimmito, kākā setā aṭṭhīnaṃ setattā, bakā rattā lohitassa rattattāti evamādikā lokāyatavitaṇḍasallāpakathā.
Câu chuyện linh tinh là nói đến câu chuyện vô ích có các trạng thái khác nhau, còn lại nằm ngoài lời nói của câu chuyện trước và câu chuyện sau. Nói về hiện trạng của thế giới, là đàm luận về thế giới khoa học và những vấn đề nằm ngoài kinh điển được bắt đầu như sau: “Thế giới này do ai kiến tạo, thế giới này người kia kiến tạo, con quạ màu trắng do xương trắng, con cò nhuộm đỏ do máu đỏ.”
Samuddakkhāyikā nāma kasmā samuddo sāgaro, sāgaradevena khaṇitattā sāgaro, khato meti hatthamuddāya niveditattā samuddoti evamādikā niratthakā samuddakkhāyikakathā. Iti bhavo, iti abhavoti yaṃ vā taṃ vā niratthakakāraṇaṃ vatvā pavattitakathā itibhavābhavakathā. Ettha ca bhavoti sassataṃ, abhavoti ucchedaṃ. Bhavoti vaḍḍhi, abhavoti P.3.224 hāni. Bhavoti kāmasukhaṃ, abhavoti attakilamatho. iti imāya chabbidhāya itibhavābhavakathāya saddhiṃ bāttiṃsatiracchānakathā nāma hoti. evarūpiṃ tiracchānakathaṃ kathentiyā nisinno hoti.
Bàn luận về sự hình thành của biển cả là vô ích được bắt đầu như sau: Tại sao gọi là đại dương? vì sao gọi là biển cả? do vua Sāgaradeva đã đào vì thế gọi là biển cả, được gọi là đại dương bởi vì đã tuyên bố bằng đầu ngón tay rằng: ‘tôi đã đào’ được gọi là bàn luận về sự hình thành của biển cả. Nói đến những lý do vô ích, không có thật, sự phát triển như vậy, sự hoại diệt như vậy gọi là câu chuyện thịnh và suy bằng cách đó. Và ở đây, thường tồn còn gọi là bhava, đoạn diệt gọi là abhava, sự phát triển gọi là bhava, sự suy thoái gọi là abhava, khoái lạc của các dục gọi là bhava, tự hành hạ thân xác gọi là abhava. Gọi là việc nói phù phiếm có 32 cách cùng với 6 câu chuyện về sự phát triển và sự suy thoái bằng cách này là như thế. Du sĩ Sandaka ngồi chung với người nói lời phù phiếm bằng hình thức như vậy.
Tato sandako paribbājako te paribbājake oloketvā — “Ime paribbājakā ativiya aññamaññaṃ agāravā appatissā, mayañca samaṇassa M.3.157 gotamassa pātubhāvato paṭṭhāya sūriyuggamane khajjopanakūpamā jātā, lābhasakkāropi no parihīno. Sace pana imaṃ ṭhānaṃ samaṇo gotamo gotamasāvako vā gihiupaṭṭhākopi vāssa āgaccheyya, ativiya lajjanīyaṃ bhavissati. parisadoso kho pana parisajeṭṭhakasseva upari ārohatī”ti ito cito ca vilokento theraṃ addasa. tena vuttaṃ addasā kho sandako paribbājako … pe … tuṇhī ahesunti.
Từ đó du sĩ Sandaka đã quan sát nhưng du sĩ ấy nghĩ rằng – “Những du sĩ này không tôn trọng, không nghe lời lẫn nhau, hơn nữa chúng tôi kể từ khi Sa-môn Gotama xuất hiện tựa như con đom đóm trong thời gian mặt trời mọc. Thậm chí lợi đắc và sự cung kính của chúng tôi cũng suy giảm. Hơn nữa, nếu như Sa-môn Gotama hoặc đệ tử của Sa-môn Gotama, kể cả người cư sĩ tùy tùng của Sa-môn Gotama ấy có thể đi đến nơi đây thì sẽ vô cùng xấu hổ. Lỗi lầm trong chúng khởi lên ở bên trên người dẫn đầu của hội chúng, mới nhìn phía bên này phía bên kia đã thấy trưởng lão. Bởi thế ngài mới nói rằng: “Du sĩ Sandaka thấy tôn giả Ānanda từ xa đi đến … Các tôn giả hãy nhỏ tiếng! Các tôn giả đừng làm ồn!”
Tattha saṇṭhapesīti sikkhāpesi, vajjamassā paṭicchādesi. yathā suṭṭhapitā hoti, tathā naṃ ṭhapesi. yathā nāma parisamajjhaṃ pavisanto puriso vajjapaṭicchādanatthaṃ nivāsanaṃ saṇṭhapeti, pārupanaṃ saṇṭhapeti, rajokiṇṇaṭṭhānaṃ puñchati, evamassā vajjapaṭicchādanatthaṃ “appasaddā bhonto”ti sikkhāpento yathā suṭṭhapitā hoti, tathā naṃ ṭhapesīti attho. Appasaddakāmāti appasaddaṃ icchanti, ekakā nisīdanti, ekakā tiṭṭhanti, na gaṇasaṅgaṇikāya yāpenti. Appasaddavinītāti appasaddena niravena buddhena vinītā. Appasaddassa P.3.225 vaṇṇavādinoti yaṃ ṭhānaṃ appasaddaṃ nissaddaṃ. tassa vaṇṇavādino. Upasaṅkamitabbaṃ maññeyyāti idhāgantabbaṃ maññeyya.
Ở đó, (du sĩ Sandaka ngồi im lặng) santiṭṭhati (cho giữ yên lặng): cho quan sát, che giấu lỗi lầm của hội chúng ấy, làm cho hội chúng được thiết lập với biểu hiện được khéo thiết lập. Giống như người bước vào giữa hội chúng, ăn mặc gọn gàng để che đậy lỗi lầm, quét dọn rác rưởi với bụi bẩn ra ngoài thế nào, du sĩ Sandaka ngăn chặn hội chúng rằng này các tôn giả hãy nhỏ tiếng để che giấu lỗi lầm của hội chúng ấy, có nghĩa là cho hội chúng được thiết lập với biểu hiện gọn gàng ngăn nắp. Appasaddakāmā (là người ưa thích ít tiếng ồn): mong muốn có ít tiếng động, ngồi một mình, đứng một mình, không hòa nhập với chúng. Appasaddavinītā (được hướng dẫn cho sử dụng giọng nói nhỏ nhẹ): được dạy bảo bởi đức Phật, vị có giọng nói nhỏ nhẹ, với giọng nói không ồn ào. Appasaddassa vaṇṇavādino (vị tán thán sự trầm lặng): Nói lời khen ngợi chỗ ít tiếng ồn, ít tiếng động. Upasaṅkamitabbaṃ maññeyya (có thể nghĩ sẽ đi đến gần): có thể nghĩ sẽ đi vào ở chỗ này.
Kasmā panesa therassa upasaṅkamanaṃ paccāsīsatīti. Attano vuddhiṃ patthayamāno. Paribbājakā V.3.162 kira buddhesu vā buddhasāvakesu vā attano santikaṃ āgatesu — “Ajja amhākaṃ santikaṃ samaṇo gotamo āgato, sāriputto āgato, na kho panete yassa vā tassa vā santikaṃ gacchanti, Passatha amhākaṃ uttamabhāvan”ti attano upaṭṭhākānaṃ santike attānaṃ ukkhipanti ucce ṭhāne ṭhapenti. bhagavatopi upaṭṭhāke gaṇhituṃ vāyamanti. te kira bhagavato upaṭṭhāke disvā evaṃ vadanti — “Tumhākaṃ satthā bhavaṃ gotamopi gotamassa sāvakāpi amhākaṃ santikaṃ āgacchanti, mayaṃ aññamaññaṃ samaggā. Tumhe pana amhe akkhīhi passituṃ na icchatha, sāmīcikammaṃ na karotha, kiṃ vo amhehi aparaddhan”ti. Appekacce manussā — “Buddhāpi etesaṃ santikaṃ gacchanti, kiṃ amhākan”ti tato paṭṭhāya te disvā nappamajjanti. Tuṇhī ahesunti sandakaṃ parivāretvā nissaddā nisīdiṃsu.
Tại sao du sĩ Sandaka ấy hy vọng đi đến gần trưởng lão? Bởi mong muốn sự phát triển cho bản thân. Được biết rằng các du sĩ khi đức Phật hoặc các đệ tử của đức Phật đến trú xứ của mình mới đưa mình lên ở trong trú xứ của nhóm người phụng sự rằng – “hôm nay Sa-môn Gotama đến trú xứ của chúng ta, trưởng lão Sāriputta cũng đến, các ngài không đi kiếm bất cứ ai. Các ngài hãy biết rằng: chúng ta cao cả thế nào?” mới đặt mình vào vị trí cao. Cố gắng nắm lấy người tùy tùng ngay cả của đức Thế Tôn. Được biết rằng các du sĩ ấy nhìn thấy nhóm tùy tùng của đức Thế Tôn có lẽ nói như vầy – “Ngay cả Ngài Gotama bậc Đạo Sư của các ngài, thậm chí đệ tử của ngài Gotama đi đến trú xứ của chúng ta, chúng ta hợp nhất lại với nhau. Còn các ngài không quan tâm chúng tôi, không thực hiện hành động thích hợp. Chúng tôi làm sai điều gì cùng các ngài chăng? Khi đó, một số người nghĩ rằng “thậm chí đức Phật đi đến chỗ ở các du sĩ này, (có ý nghĩa) gì với chúng ta” kể từ đó mọi người khi nhìn thấy các du sĩ ngoại đạo cũng không xem thường. Tuṇhī ahesuṃ (các du sĩ ngoại đạo ấy ngồi im lặng): ngồi xung quanh du sĩ Sandaka.
224. Svāgataṃ bhoto ānandassāti suāgamanaṃ bhoto ānandassa. bhavante hi no āgate ānando hoti, gate sokoti M.3.158 dīpeti. cirassaṃ khoti piyasamudācāravacanametaṃ. thero pana kālena kālaṃ paribbājakārāmaṃ cārikatthāya gacchatīti purimagamanaṃ gahetvā evamāha. evañca pana vatvā na mānatthaddho hutvā nisīdi, attano pana āsanā vuṭṭhāya taṃ āsanaṃ papphoṭetvā theraṃ āsanena nimantento nisīdatu bhavaṃ ānando, idamāsanaṃ paññattanti āha.
224. Svāgataṃ bhoto ānandassa (hoang nghênh, Tôn giả Ānanda!): tôn giả Ānanda đã đến chân chánh. Chỉ ra rằng bởi vì khi tôn giả Ānanda đến tìm chúng tôi (chúng tôi hoan hỷ), khi ngài đi chúng tôi sầu muộn. Cirassaṃ kho (đã lâu lắm rồi): đây là lời nói thể hiện sự dễ thương. Còn trưởng lão cũng thỉnh thoảng đi đến khuôn viên của các du sĩ nhằm mục đích du hành, vì thế du sĩ Sandaka muốn đề cập đến việc đã từng xảy ra trước đó nên đã nói như vậy. Khi du sĩ đã nói như vậy cũng không phải là người ương ngạnh và ngã mạn, thế nên (vị ấy) đã đứng dậy từ chỗ ngồi của mình rồi giũ sạch tọa cụ, thỉnh mời trưởng lão ngồi trên toạ cụ ấy rồi nói rằng: Ngài Ānanda hãy ngồi, chỗ ngồi đã được trải sẵn.
Antarākathā P.3.226 vippakatāti nisinnānaṃ vo ārambhato paṭṭhāya yāva mamāgamanaṃ etasmiṃ antare kā nāma kathā vippakatā, mamāgamanapaccayā katamā kathā pariyantaṃ na gatāti pucchati.
Câu chuyện trao đổi gì giữa các vị còn dang dở?: Ngài Ānanda hỏi rằng câu chuyện gì giữa các vị bị gián đoạn kể từ khi các vị ngồi đàm luận cho đến khi tôi đến. Câu chuyện trao đổi gì giữa các vị vẫn chưa kết thúc? Nguyên nhân do tôi.
Atha paribbājako “niratthakakathāva esā nissārā vaṭṭasannissitā, na tumhākaṃ purato vattabbataṃ arahatī”ti dīpento tiṭṭhatesā, bhotiādimāha. Nesā bhototi sace bhavaṃ sotukāmo bhavissati, pacchāpesā kathā na dullabhā bhavissati, amhākaṃ panimāya attho natthi. bhoto pana āgamanaṃ labhitvā aññadeva sukāraṇaṃ kathaṃ sotukāmamhāti dīpeti. tato dhammadesanaṃ yācanto sādhu vata bhavantaṃ ye vātiādimāha. Tattha ācariyaketi ācariyasamaye. Anassāsikānīti assāsavirahitāni. Sasakkanti ekaṃsatthe nipāto, viññū puriso ekaṃseneva V.3.163 na vaseyyāti attho. vasanto ca nārādheyyāti na sampādeyya, na paripūreyyāti vuttaṃ hoti. Ñāyaṃ dhammaṃ kusalanti kāraṇabhūtaṃ anavajjaṭṭhena kusalaṃ dhammaṃ.
Sau đó du sĩ khi trình bày rằng: “Câu chuyện đó là câu chuyện vô ích, không có cốt lõi, nương vào vòng sanh tử luân hồi, thật không thích hợp để nói trước mặt ngài” nên đã nói lời bắt đầu như sau: “Thưa ngài, câu chuyện đó xin được gác lại.” Nesā bhoto (chuyện đó thưa ngài): Du sĩ Sandaka nói rằng: nếu như ngài muốn lắng nghe thì thậm chí lần sau cũng sẽ được nghe (câu chuyện đó) không quá khó. Câu chuyện này không có lợi ích cho chúng tôi. Chúng tôi đã được ngài đến thăm, mong muốn được lắng nghe kệ ngôn có nhân quả khác tách biệt. Du sĩ Sandaka khi khẩn cầu thuyết giảng Giáo Pháp mới nói lời bắt đầu như sau: “Lành thay, nếu được Tôn giả Ananda thuyết cho pháp thoại”. Ở đó ācariyake là trong học thuyết của các tôn sư. Anassāsikāni: Phạm hạnh mà loại bỏ sự hoan hỷ, tức là không có sự rõ ràng. Sasakkaṃ: đây là phân từ được sử dụng với ý nghĩa ‘một phần’, có nghĩa là bậc trí không thể sống thực hành (Phạm hạnh) một mình. ngài giải thích rằng người trí khi thực hành không thể hoan hỷ, không thể thành tựu, không thể thực hành viên mãn. ñāyaṃ dhammaṃ kusalaṃ (thiện pháp đúng theo chánh đạo): gọi là Pháp thiện bởi ý nghĩa không có lỗi lầm làm nhân.
225. Idhāti imasmiṃ loke. natthi dinnantiādīni sāleyyakasutte (ma. ni. 1.440) vuttāni. Cātumahābhūtikoti catumahābhūtamayo. Pathavī pathavīkāyanti ajjhattikā pathavīdhātu bāhirapathavīdhātuṃ. anupetīti P.3.227 anuyāti. Anupagacchatīti tasseva vevacanaṃ, anugacchatītipi attho, ubhayenāpi upeti upagacchatīti dasseti. āpādīsupi eseva nayo. Indriyānīti manacchaṭṭhāni indriyāni ākāsaṃ pakkhandanti. Āsandipañcamāti nipannamañcena pañcamā, mañco ceva, cattāro mañcapāde gahetvā ṭhitā cattāro purisā cāti attho. Yāvāḷāhanāti yāva susānā. Padānīti ayaṃ evaṃ sīlavā ahosi, evaṃ dussīlotiādinā nayena pavattāni M.3.159 guṇapadāni. sarīrameva vā ettha padānīti adhippetaṃ. Kāpotakānīti kapotakavaṇṇāni, pārāvatapakkhavaṇṇānīti attho.
Ở đây: trong đời này. Bố thí không có kết quả: ngài đã nói trong bài Kinh Sāleyyaka (ma. ni. 1.440). Được tạo thành bởi bốn yếu tố chính (đất, nước, lửa, gió): Thành tựu bởi bốn Sắc đại hiển (đất, nước, lửa, gió). Pathavī pathavīkāyaṃ (Địa giới đi theo Địa giới): nội Địa giới đi theo ngoại Địa giới (đất thuộc nội phần cơ thể sẽ hoàn lại cho khối đất thuộc ngoại phần cơ thể). Anupeti: đi theo. Anupagacchati: đây là từ đồng nghĩa của anupeti, cũng có nghĩa là anugacchati. Thậm chí cả 2 từ này vị ấy chỉ ra rằng anupeti upagacchati: đi theo. Ngay cả Thủy giới v.v, cũng có cách thức tương tự. các quyền (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý): Các quyền có ý quyền là thứ 6, các quyền này nhập vào hư không. Có chiếc giường là thứ năm: có chiếc giường nằm là thứ năm, có nghĩa là một chiếc giường và bốn người đàn ông đứng nắm lấy 4 chân giường. Yāvāḷāhanā: chỉ là nghĩa địa. Padāni (thân xác): Câu để diễn đạt đức hạnh và lỗi lầm được vận hành theo cách thức sau: ‘người này có giới hạnh như vầy, người có giới tồi như vầy,’ hơn nữa, chính sắc thân này vị ấy muốn đề cập đến Padāni trong từ Padāni này. Có màu màu trắng như màu chim bồ câu: Có màu sắc tựa như màu chim bồ câu, nghĩa là có màu tựa như màu đôi cánh chim bồ câu.
Bhassantāti bhasmantā, ayameva vā pāḷi. Āhutiyoti yaṃ paheṇakasakkārādibhedaṃ dinnadānaṃ, sabbaṃ taṃ chārikāvasānameva hoti, na tato paraṃ phaladāyakaṃ hutvā gacchatīti attho. Dattupaññattanti dattūhi bālamanussehi paññattaṃ. idaṃ vuttaṃ hoti — bālehi abuddhīhi paññattamidaṃ dānaṃ, na paṇḍitehi. bālā denti, paṇḍitā gaṇhantīti dasseti. atthikavādanti atthi dinnaṃ dinnaphalanti imaṃ atthikavādaṃyeva vadanti tesaṃ tucchaṃ vacanaṃ musāvilāpo. bāle P.3.228 ca paṇḍite cāti bālā ca paṇḍitā ca.
Cuối cùng trở thành tro bụi: Cuối cùng trở thành tro bụi, hơn nữa, Pāḷī cũng vậy. Các vật cúng tế: đồ vật dâng cúng, có nghĩa là vật thí đã được bố thí thuộc loại lễ vật thờ cúng, v.v., được hiến tế. Cuối cùng tất cả đều trở thành tro bụi, do đó, không mang lại kết quả gì cả. Sự bố thí này được tuyên bố bởi những kẻ ngu muội: (việc bố thí) người ngu, người thiếu trí thừa nhận. Điều này được nói rằng – “sự bố thí này được thừa nhận bởi người ngu, người thiếu trí, không phải được thừa nhận bởi bậc trí; kẻ ngu bố thí, bậc trí nhận lãnh.” Atthikavādaṃ (lời nói có kết quả): một số người nói lời nói có kết quả như sau: lợi ích của vật thí đã được bố thí có tồn tại, lời nói của những người đó là trống rỗng, dối trá và vô ích. Các kẻ ngu và những người trí: Các kẻ ngu và những người trí.
Akatena me ettha katanti mayhaṃ akateneva samaṇakammena ettha etassa samaye kammaṃ kataṃ nāma hoti, avusiteneva brahmacariyena vusitaṃ nāma hoti. Etthāti etasmiṃ samaṇadhamme. Samasamāti ativiya samā, samena vā guṇena samā. Sāmaññaṃ pattāti samānabhāvaṃ pattā.
Akatena me ettha kataṃ (nghiệp trong học thuyết này mà ta đã không làm đã được làm): Nghiệp của Sa-môn mà ta chưa từng làm được xem là nghiệp đã được làm trong học thuyết này, Phạm hạnh mà ta chưa từng sống được xem là Phạm hạnh đã sống. Etthā (trong học thuyết này): Trong Giáo Pháp của Sa-môn này. Samasamā (đồng đẳng): rất nhiều sự tương đồng, tương đồng về đức hạnh. sāmaññaṃ pattā: đã đạt đến trạng thái tương đồng.
226. Karatotiādīni apaṇṇakasutte vuttāni. Tathā natthi hetūtiādīni.
226. Karato v.v, (tụ mình thực hành): đã được nói trong bài Kinh Apaṇṇaka. Ở đó, không có nhân v.v, cũng thế (bài Kinh Apaṇṇaka).
228. Catutthabrahmacariyavāse V.3.164 akaṭāti akatā. Akaṭavidhāti akatavidhānā, evaṃ karohīti kenaci kārāpitā na hontīti attho. Animmitāti iddhiyāpi na nimmitā. Animmātāti animmāpitā. keci animmitabbāti padaṃ vadanti, taṃ neva pāḷiyaṃ, na aṭṭhakathāyaṃ sandissati. Vañjhāti vañjhapasuvañjhatālādayo viya aphalā, kassaci ajanakāti attho. Etena pathavīkāyādīnaṃ rūpādijanakabhāvaṃ paṭikkhipati. Pabbatakūṭā viya ṭhitāti kūṭaṭṭhā. Īsikaṭṭhāyiṭṭhitāti muñje īsikā viya ṭhitā. Tatrāyamadhippāyo — Yamidaṃ jāyatīti vuccati, taṃ muñjato īsikā viya vijjamānameva nikkhamatīti. “Esikaṭṭhāyiṭṭhitā”tipi P.3.229 pāṭho, sunikhāto esikatthambho niccalo tiṭṭhati, evaṃ ṭhitāti attho. Ubhayenapi tesaṃ vināsābhāvaṃ dīpeti. Na iñjantīti esikatthambho viya ṭhitattā na calanti. Na vipariṇāmentīti pakatiṃ na jahanti. Na aññamaññaṃ byābādhentīti aññamaññaṃ na upahananti. Nālanti na samatthā.
228. Nên biết lý giải trong đời sống Phạm hạnh thứ tư như sau, akaṭā đồng nghĩa với akatā (không được ai làm ra): bởi không có ai làm ra. Không được ai bảo làm ra: Không ai bảo làm theo khuôn mẫu, tức là không có bất cứ ai ra lệnh để làm rằng: “ông hãy làm như vậy”. Không được ai biến hóa ra: không có ai hóa hiện bằng thần thông. Không được ai bảo biến hóa ra: Không có ai cho tạo ra. Một số vị thầy nói rằng animmitabbā (không nên có ai hóa hiện cho). Câu đó không xuất hiện trong Pāḷī, mà cũng không xuất hiện trong Chú giải. Không sinh sản: vật nuôi không sinh sản, không cho sanh với bất cứ ai tựa như cây thốt nốt v.v, không có trái. Với câu này bác bỏ trạng thái Địa giới v.v, cho sanh khởi thành Sắc v.v. gọi là do thiết lập vững chắc tựa như đỉnh núi. Īsikaṭṭhāyiṭṭhitā (đặt vững chắc như cột trụ): được đặt kiên cố tựa như cột trụ trong đám sậy. Trong câu đó có lời giải thích rằng – vật nào mà ngài đã nói được sanh khởi, vật đó có tồn tại, tựa như cột trụ dời ra khỏi đám sậy. Pāḷī ‘esikaṭṭhāyiṭṭhitā’ cũng có. Có nghĩa là cột trụ được chôn kỹ lưỡng không lay động được đặt kiến cố. Bảy nhóm Pháp thực tính được đặt kiên cố như thế. Thậm chí cả 2 câu này ngài trình bày đến sự hoại diệt của của bảy nhóm Pháp thực tính ấy. Không lay động: Không rung động do được đặt kiên cố tựa như cột trụ ấy. Không biến hoại: không rời khỏi (trạng thái) bình thường. Không xâm hại lẫn nhau: không làm tổn thương lẫn nhau. Không có khả năng: không thể.
Pathavīkāyotiādīsu M.3.160 pathavīyeva pathavīkāyo, pathavīsamūho vā. tatthāti tesu jīvasattamesu kāyesu. Natthi hantā vāti hantuṃ vā ghātetuṃ vā sotuṃ vā sāvetuṃ vā jānituṃ vā jānāpetuṃ vā samattho nāma natthīti dīpeti. Sattannaṃtveva kāyānanti yathā muggarāsiādīsu pahaṭaṃ satthaṃ muggarāsiādīnaṃ antarena pavisati, evaṃ sattannaṃ kāyānaṃ antarena chiddena vivarena satthaṃ pavisati. tattha “ahaṃ imaṃ jīvitā voropemī”ti kevalaṃ saññāmattameva hotīti dasseti. Yonipamukhasatasahassānīti pamukhayonīnaṃ P.3.230 uttamayonīnaṃ cuddasasatasahassāni aññāni ca saṭṭhisatāni aññāni ca chasatāni. Pañca ca kammuno satānīti pañca kammasatāni ca, kevalaṃ takkamattakena niratthakaṃ diṭṭhiṃ dīpeti.
Nên biết ý nghĩa trong câu được bắt đầu: địa thân (một khối đất) v.v, khối đất, hoặc đất được gom lại, cũng chính là đất (địa giới). Tatthā: trong ‘thân’ có mạng quyền là thứ bảy. Natthi hantā vā (người tự mình giết…không có): ngài trình bày rằng không có người có thể tự mình giết, hoặc để bảo giết, hoặc để cho khó chịu, hoặc xung đột, hoặc để tự buồn rầu, hoặc để người khác buồn rầu, để tự mình nghe, hoặc để tự mình hiểu. Chỉ rơi vào khe hở ở giữa chính bảy khối ấy: Giống như thanh gươm sắc bén chém xuống một đống đậu xanh v.v, qua khoảng giữa đống đậu xanh như thế nào, thanh gươm sắc bén đi qua khe hở ở khoảng giữa bảy khối thực tính cũng tương tự như thế đó. Vị ấy chỉ ra rằng: đó chỉ là sự tưởng tượng – ‘Ta sẽ tước đoạt mạng sống của người này (cũng không phải là việc đoạt lấy mạng sống người ấy)”. Có một triệu bốn trăm ngàn chủng loại hàng đầu này: chủng loại hàng đầu, là sanh chủng cao nhất một triệu bốn trăm ngàn (chủng loại hàng đầu) này với sáu ngàn (chủng loại khác) và sáu trăm (chủng loại khác nữa). Năm trăm loại nghiệp: năm trăm loại nghiệp. (vị ấy) trình bày luận điểm vô ích chỉ với sự phỏng đoán.
Pañca ca kammāni tīṇi ca kammānītiādīsupi eseva nayo. Kkeci panāhu pañca kammānīti pañcindriyavasena bhaṇati. Tīṇīti kāyakammādivasenāti. Kamme ca aḍḍhakamme cāti ettha panassa kāyakammañca vacīkammañca kammanti laddhi, manokammaṃ upaḍḍhakammanti. Dvaṭṭhipaṭipadāti dvāsaṭṭhi paṭipadāti vadati. Dvaṭṭhantarakappāti ekasmiṃ kappe catusaṭṭhi antarakappā nāma honti, ayaṃ pana aññe dve ajānanto evamāha. Chaḷābhijātiyo apaṇṇakasutte vitthāritā.
Năm loại nghiệp, ba loại nghiệp: v.v, cũng có phương cách tương tự. Nhưng một số vị thầy đã nói rằng ‘năm loại nghiệp’ ấy được nói đề cập đến năm quyền và ba loại nghiệp được nói đề cập đến thân nghiệp v.v. Nghiệp toàn phần, và nghiệp bán phần: ở đây, Đạo Sư Makkhalī Gosāla ấy có học thuyết rằng – Thân nghiệp và khẩu nghiệp là nghiệp toàn phần, ý nghiệp là bán phần nghiệp. Có sáu mươi hai lối thực hành: (vị ấy) nói đến sáu mươi hai lối thực hành. Sáu mươi hai trung kiếp: trong một đại kiếp có sáu mươi bốn trung kiếp. Nhưng vị ấy không biết thêm hai trung kiếp nữa đã nói như thế.. Sáu sanh loại được nói chi tiết trong bài Kinh Apaṇṇaka.
Aṭṭha purisabhūmiyoti mandabhūmi khiḍḍābhūmi vīmaṃsakabhūmi ujugatabhūmi sekkhabhūmi samaṇabhūmi V.3.165 jinabhūmi pannabhūmīti imā aṭṭha purisabhūmiyoti vadati. Tattha jātadivasato paṭṭhāya sattadivase sambādhaṭṭhānato nikkhantattā sattā mandā honti momūhā. Ayaṃ mandabhūmīti vadati. Ye pana duggatito āgatā honti, te abhiṇhaṃ rodanti ceva viravanti P.3.231 ca. Sugatito āgatā taṃ anussaritvā anussaritvā hasanti. Ayaṃ khiḍḍābhūmi nāma. Mātāpitūnaṃ hatthaṃ vā pādaṃ vā mañcaṃ vā pīṭhaṃ vā gahetvā bhūmiyaṃ padanikkhipanaṃ vīmaṃsakabhūmi nāma. padasāva gantuṃ samatthakālo ujugatabhūmi nāma. Sippānaṃ sikkhanakālo sekkhabhūmi nāma. Gharā nikkhamma pabbajanakālo samaṇabhūmi nāma. ācariyaṃ sevitvā jānanakālo jinabhūmi nāma. Bhikkhu ca pannako jino na kiñci āhāti evaṃ alābhiṃ samaṇaṃ pannabhūmīti vadati.
Tám giai đoạn của đời người: Vị ấy nói rằng tám giai đoạn của đời người này là (1) giai đoạn ám độn (thời non nớt), (2) giai đoạn vui chơi, (3) giai đoạn khám phá và kiểm tra (giai đoạn tập đi), (4) giai đoạn đứng thẳng, (5) giai đoạn học tập, (6) giai đoạn Sa-môn, (7) giai đoạn thắng tiến, (8) giai đoạn lụi tàn. Trong tám giai đoạn ấy, “kể từ ngày sanh ra cho đến ngày thứ bảy tất cả chúng sanh vẫn còn ám độn, u tối, do vừa được thoát ra từ chỗ chật chội”, vị ấy gọi đây là giai đoạn ám độn. Hơn nữa, chúng sanh nào đến từ khổ cảnh, những chúng sanh đó thường khóc lóc và gào thét. Chúng sanh đến từ lạc cảnh, nghĩ đến lạc cảnh đó rồi cười, đây gọi là giai đoạn vui chơi. Đứa bé vịnh lấy tay và chân của mẹ và cha, hoặc chân ghế rồi giẫm chân đặt trên mặt đất bước đi, đây gọi là giai đoạn khám phá và kiểm tra. Trong lúc có thể đi được bằng chân gọi là giai đoạn đứng thẳng. Khi học tập các môn học gọi là giai đoạn học tập. Khi rời khỏi gia đình để xuất gia gọi là giai đoạn Sa-môn. Vào lúc gặp được Tôn sư biết được môn học gọi là giai đoạn thắng tiến. Và vị Sa-môn không đạt được gọi là giai đoạn lụi tàn, như được nói rằng vị tỳ khưu, hay nhóm pannaka và nhóm jina không nói xin bất cứ gì.
Ekūnapaññāsa M.3.161 ājīvasateti ekūnapaññāsa ājīvavuttisatāni. paribbājakasateti paribbājakapabbajjasatāni. nāgāvāsasateti nāgamaṇḍalasatāni. vīse indriyasateti vīsa indriyasatāni. tiṃse nirayasateti tiṃsa nirayasatāni. rajodhātuyoti rajaokiraṇaṭṭhānāni. hatthapiṭṭhipādapiṭṭhādīni sandhāya vadati. satta saññīgabbhāti oṭṭhagoṇagadrabhājapasumigamahiṃse sandhāya vadati. asaññīgabbhāti sāliyavagodhumamuggakaṅguvarakakudrūsake sandhāya vadati. nigaṇṭhigabbhāti nigaṇṭhimhi jātagabbhā, ucchuveḷunaḷādayo sandhāya vadati. satta devāti bahū devā, so pana sattāti vadati. mānusāpi P.3.232 anantā, so sattāti vadati. satta pisācāti pisācā mahantā, sattāti vadati. Sarāti mahāsarā. Kaṇṇamuṇḍa rathakāra anotatta sīhapapāta kuḷira mucalinda kuṇāladahe gahetvā vadati.
Bốn ngàn chín trăm cách nuôi mạng: bốn nghìn chín trăm cách thực hành nuôi mạng. Trăm du sĩ: Việc xuất gia của hàng trăm du sĩ. Trăm chỗ ở của loài rồng: Trăm maṇḍala (chỗ ở của) loài rồng. Hai nghìn giác quan: hai nghìn giác quan. Ba nghìn địa ngục: ba nghìn địa ngục. Chỗ có bụi bám: nơi phân tán bụi bẩn. Ngài nói liên hệ đến lòng bàn tay và mu bàn chân v.v. Bảy loại mầm sống có tri giác: ngài nói liên hệ đến lạc đà, bò, lừa, dê, vật nuôi, hươu và trâu. Bảy loại mầm sống không có tri giác: ngài nói liên hệ đến gạo thơm, gạo nếp, lúa mì, đậu xanh, hạt kê, hạt varaka và hạt kudrūsaka. Bảy loại mầm sống từ đốt cây: ngài đề cập đến bảy loại mầm sống được sanh ra từ đốt như cây mía, cây tre, và cây sậy. Bảy hạng Thiên nhân: có nhiều hạng chư Thiên, tuy nhiên vị ấy nói có bảy. Luôn cả loài người không giới hạn, vị ấy cũng nói là bảy. Bảy hạng quỷ sứ: vị ấy nói nhóm chúng sanh to lớn được gọi là quỷ sứ. Hồ nước lớn: những hồ nước lớn, vị ấy đề cập đến các hồ nước lớn như hồ Kaṇṇamuṇḍa, hồ Rathakāra, hồ Anotatta, hồ Sīhapapāta, hồ Chaddanta, hồ Mandākinī, hồ Kuṇāla.
Pavuṭāti gaṇṭhikā. papātāti mahāpapātā. Papātasatānīti khuddakapapātasatāni. supināti mahāsupinā. supinasatānīti khuddakasupinasatāni. Mahākappinoti mahākappānaṃ. Ettha ekamhā sarā vassasate vassasate kusaggena ekaṃ udakabinduṃ nīharitvā nīharitvā sattakkhattuṃ tamhi sare nirudake kate eko mahākappoti vadati. Evarūpānaṃ mahākappānaṃ caturāsītisatasahassāni khepetvā bālā ca paṇḍitā ca dukkhassantaṃ karontīti ayamassa laddhi. paṇḍitopi kira antarā sujjhituṃ na sakkoti, bālopi tato uddhaṃ na gacchati.
Loại cây có lóng mắt lớn: mắt, đốt cây. Vách đá lớn: vách đá lớn. Vách đá nhỏ: một trăm vách đá nhỏ. Giấc mộng lớn: bảy giấc mộng lớn. Giấc mộng nhỏ: trăm giấc mộng nhỏ. Đại Kiếp: Đại kiếp. Vị ấy nói rằng mỗi mỗi một trăm năm lấy đầu ngọn cỏ tranh, nhúng vào hồ nước lớn, lấy ra mỗi lần bảy giọt, làm cho đến khi hết nước trong hồ bảy lần thì đó mới gọi là một đại kiếp. Cả kẻ ngu lẫn bậc trí đã trải qua khoảng thời gian 8,400,000 của đại kiếp bằng hình thức như vậy, (sẽ lưu chuyển và luân hồi) rồi mới chấm dứt khổ đau, đây là học thuyết của vị ấy. Tương truyền rằng ngay cả bậc trí cũng không thể thực hành đưa đến thanh tịnh trong thời gian ấy. Luôn cả người ngu cũng không thể đi qua thời gian dài ấy (đi đến cao hơn)..
Sīlenāti V.3.166 acelakasīlena vā aññena vā yena kenaci. Vatenāti tādisena vatena. Tapenāti tapokammena. Aparipakkaṃ paripāceti nāma yo “ahaṃ paṇḍito”ti antarā visujjhati. Paripakkaṃ P.3.233 phussa phussa byantiṃ karoti nāma yo “ahaṃ bālo”ti vuttaparimāṇaṃ kālaṃ atikkamitvā yāti. Hevaṃ natthīti evaṃ natthi. Tañhi ubhayampi na sakkā kātunti dīpeti. Doṇamiteti doṇena mitaṃ viya. Sukhadukkheti sukhadukkhaṃ. Pariyantakateti vuttaparimāṇena kālena katapariyanto. Natthi hāyanavaḍḍhaneti natthi hāyanavaḍḍhanāni. Na saṃsāro paṇḍitassa hāyati, na bālassa vaḍḍhatīti attho. Ukkaṃsāvakaṃseti ukkaṃsāvakaṃsā, hāpanavaḍḍhanānamevetaṃ vevacanaṃ.
Nhờ vào giới hạnh: Nhờ vào giới của du sĩ lõa thể, hoặc bất cứ một điều giới nào khác. Nhờ vào sự hành trì: nhờ vào chính sự hành trì đó. Nhờ vào sự khắc khổ: Nhờ vào việc thực hiện khắc khổ (để thiêu đốt phiền não). Người nào nghĩ rằng: “ta là bậc trí” được trở nên thanh tịnh ở khoảng giữa thời gian, người ấy gọi là làm cho chín muồi nghiệp chưa được chín muồi. Người nào nghĩ rằng “tôi là kẻ ngu” rồi buông bỏ để thời gian trôi qua theo như thời hạn đã nói, người ấy gọi là làm chấm dứt nghiệp đã được chín muồi (sau) mỗi một lần tiếp nhận (quả báo của nghiệp). Bởi vì (sự việc) như vậy không có: Không có như vậy. Bởi vì, vị ấy chỉ ra rằng: Cả 2 trường hợp đó không thể nào thực hiện được. Được đo lường theo mức độ: giống như đo lường bằng dụng cụ đo lường. Lạc và khổ: An lạc và khổ đau. Được tạo ra có giới hạn: Được tạo ra có giới hạn theo đúng thời gian được xác định như đã nói. Không có việc giảm bớt hay tăng thêm: không có việc giảm bớt hay tăng thêm. Giải thích rằng – Luân hồi không giảm bớt đối với bậc trí, và cũng không tăng thêm đối với kẻ ngu. (Không có) việc nâng lên hay hạ xuống: Không nâng lên và cũng không hạ xuống, điều này đồng nghĩa với giảm bớt hay tăng thêm.
Idāni tamatthaṃ upamāya sādhento M.3.162 seyyathāpi nāmātiādimāha. Tattha suttaguḷeti veṭhetvā katasuttaguḷaṃ. Nibbeṭhiyamānameva paletīti pabbate vā rukkhagge vā ṭhatvā khittaṃ suttapamāṇena nibbeṭhiyamānaṃ gacchati, sutte khīṇe tattha tiṭṭhati na gacchati. Evamevaṃ vuttakālato uddhaṃ na gacchatīti dasseti. Idāni tamatthaṃ upamāya sādhento M.3.162 seyyathāpi nāmātiādimāha. Tattha suttaguḷeti veṭhetvā katasuttaguḷaṃ. Nibbeṭhiyamānameva paletīti pabbate vā rukkhagge vā ṭhatvā khittaṃ suttapamāṇena nibbeṭhiyamānaṃ gacchati, sutte khīṇe tattha tiṭṭhati na gacchati. Evamevaṃ vuttakālato uddhaṃ na gacchatīti dasseti.
Bây giờ, trong khi làm hoàn mãn ý nghĩa ấy bằng ví dụ, vị ấy (chủ học thuyết) đã nói rằng: “Cũng giống như cuộn chỉ được tung ra v.v,” Ở đó, cuộn chỉ: cuộn chỉ được cuộn lại. Cuộn chỉ lăn tròn trong lúc chỉ đang được tháo ra (hết chỉ thì cuộn chỉ dừng lại): cuộn chỉ mà vị ấy đứng trên núi hoặc trên ngọn cây rồi ném ra thì (cuộn chỉ ấy) tự gỡ tung ra theo kích thước của cuộn chỉ, khi hết chỉ thì nó sẽ tự dừng lại ngay tại chỗ đó không thể lăn đi được nữa. Tương tự y như thế ấy, ngài chỉ ra rằng bậc trí và kẻ ngu ấy (sẽ thanh tịnh) không thể đi xa hơn thời gian được nói.
229. Kimidanti kimidaṃ tava aññāṇaṃ, kiṃ sabbaññu nāma tvanti evaṃ puṭṭho samāno niyativāde pakkhipanto suññaṃ me agārantiādimāha.
Kimidaṃ (đây là gì): một số Đạo Sư ở trên đời này khi bị hỏi như vầy: “câu này ông không biết hay sao? ông là bậc Toàn giác chăng? Cũng thường hay thoái thác trong thuyết định mệnh (niyativāda) mà nói rằng: “Tôi đã đi vào ngôi nhà trống không v.v.”
230. Anussaviko hotīti anussavanissito hoti. anussavasaccoti savanaṃ saccato gahetvā ṭhito. Piṭakasampadāyāti vaggapaṇṇāsakāya piṭakaganthasampattiyā.
230. Anussaviko hoti (người tin tưởng nghe theo truyền thống): là những người y cứ nghe theo truyền thống. Anussavasacco (người tin tưởng là thật do nghe theo truyền thống): đã chấp chặt, đã nắm lấy theo điều đã được nghe là sự thật. Piṭakasampadāyā (với dẫn chứng từ sách vở): bằng sự hội đủ bởi các kiến thức được sắp xếp thành vagga (phẩm), paṇṇāsaka (nhóm 50 bài kinh).
232. Mandoti mandapañño. momūhoti atimūḷho. Vācāvikkhepaṃ āpajjatīti vācāya vikkhepaṃ āpajjati. Kīdisaṃ? Amarāvikkhepaṃ, apariyantavikkhepanti attho. Atha P.3.234 vā amarā nāma macchajāti. Sā ummujjananimmujjanādivasena udake sandhāvamānā gahetuṃ na sakkāti evameva ayampi vādo ito cito ca sandhāvati, gāhaṃ na upagacchatīti amarāvikkhepoti vuccati. Taṃ amarāvikkhepaṃ.
232. Mando (người đần độn): có trí tuệ kém cỏi. Momūho (người ngu si): quá u mê. Vācāvikkhepaṃ āpajjati (mắc phải vấn đề thì biện luận quanh co): khi mắc phải vấn đề thì tán loạn bởi lời nói. (Điều đó) trông như thế nào? Có nghĩa là lời nói ấy vòng vo giống như con lươn, quanh đi quẩn lại không có kết thúc. Và hơn nữa macchajāti được gọi là con lươn, (bởi vì) khi bơi lội trong nước với khả năng bơi lên và lặn xuống mà bất cứ ai cũng không thể bắt được thế nào, ngay cả lời nói này cũng tương tự y như vậy, vòng vo chỗ này chỗ nọ, (không thể) thoát ra khỏi nút thắt ấy để kết thúc (trọng tâm). Vì thế lời nói đó ngài gọi là ngụy biện quanh co giống như con lươn, lời nói đó mới gọi là amarāvikkhepa (lời ngụy biện trườn uốn như con lươn).
Evantipi me notiādīsu idaṃ kusalanti puṭṭho “evantipi me no”ti vadati, tato kiṃ akusalanti vutte “tathātipi me no”ti vadati, kiṃ ubhayato aññathāti vutte “aññathātipi me no”ti vadati, tato tividhenāpi na hotīti te laddhīti vutte “notipi me V.3.167 no”ti vadati, tato kiṃ no noti te laddhīti vutte “no notipi me no”ti vikkhepamāpajjati, ekasmimpi pakkhe na tiṭṭhati. Nibbijja pakkamatīti attanopi esa satthā avassayo bhavituṃ na sakkoti, mayhaṃ kiṃ sakkhissatīti nibbinditvā pakkamati. purimesupi anassāsikesu eseva nayo.
Evantipi me noti (quan điểm của tôi rằng như vậy cũng không phải): có cách thức như sau: Đạo Sư ấy khi bị hỏi rằng – ‘điều này là thiện phải chăng?’ Vị ấy nói rằng: “quan điểm của tôi ngay cả như vậy cũng không phải”, từ đó khi được rằng: ‘điều gì là bất thiện?’ vị ấy cũng nói rằng: “quan điểm của tôi ngay cả như thế cũng không phải”, khi được hỏi rằng – có gì khác ngoài cả hai thiện và bất thiện chăng? (Vị ấy) cũng nói rằng: “Quan điểm của tôi, ngay cả cái khác cũng không phải”, từ đó khi bị hỏi rằng: ‘Quan điểm của ông, cả 3 phần cũng không phải sao?’ (vị ấy) cũng nói rằng: “Quan điểm của tôi không nói là không phải như thế”, từ đó khi bị hỏi rằng: ‘Quan điểm của ông không nói là không phải như thế phải chăng?’ (vị ấy) khởi lên sự tán loạn rằng: “Quan điểm của tôi không nói là không không phải như thế” không được đặt ở trong bất kỳ phần nào cả. Nibbijja pakkamatī (bị làm ngã lòng rồi bỏ đi): Khởi lên sự nhàm chán rằng – bậc Đạo Sư không thể làm chỗ nương tựa ngay cả cho chính bản thân, sẽ có thể làm chỗ nương nhờ cho ta như thế nào, bởi thế đã buồn chán rồi bỏ đi. Trong Phạm hạnh không đáng hài lòng trong câu kế tiếp cũng có cách thức tương tự.
234. Sannidhikārakaṃ kāme paribhuñjitunti yathā pubbe gihibhūto sannidhiṃ katvā vatthukāme paribhuñjati, evaṃ tilataṇḍulasappinavanītādīni sannidhiṃ katvā idāni paribhuñjituṃ abhabboti attho. nanu ca khīṇāsavassa vasanaṭṭhāne M.3.163 tilataṇḍulādayo paññāyantīti. no na paññāyanti, na panesa te attano atthāya ṭhapeti, aphāsukapabbajitādīnaṃ atthāya ṭhapeti. anāgāmissa P.3.235 kathanti. tassāpi pañca kāmaguṇā sabbasova pahīnā, dhammena pana laddhaṃ vicāretvā paribhuñjati.
234. Sannidhikārakaṃ kāme paribhuñjituṃ (không nên tàng trữ thọ dụng các dục): trước kia khi còn là người tại gia đã thực hiện tàng trữ thọ dụng các vật dục, bây giờ, không nên thực hiện tàng trữ dầu mè, gạo, bơ lỏng và bơ đặc v.v, như vậy rồi thọ dụng. Phải chăng dầu mè và gạo v.v, xuất hiện trong vị trí của bậc đã cạn kiệt các lậu? bởi thế mới không xuất hiện cùng chúng tôi. Từ đó mới không được đặt để vì lợi ích cho bản thân của ông, đặt để vì lợi ích cho vị xuất gia không khỏe v.v. Đối với bậc Thánh A-na-hàm như thế nào? Bậc Thánh A-na-hàm đã dứt trừ tất cả sự trói buộc trong năm dục, nhưng vị ấy thường suy xét lại (những Pháp) mà ngài đã chứng đắc theo Pháp rồi mới thọ dụng.
236. Puttamatāya puttāti so kira imaṃ dhammaṃ sutvā ājīvakā matā nāmāti saññī hutvā evamāha. ayañhettha attho — ājīvakā matā nāma, tesaṃ mātā puttamatā hoti, iti ājīvakā puttamatāya puttā nāma honti. Samaṇe gotameti samaṇe gotame brahmacariyavāso atthi, aññattha natthīti dīpeti. sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
236. Puttamatāya puttā (những đứa con của người mẹ không con): Được biết rằng du sĩ Sandaka sau khi nghe thuyết Pháp nghĩ rằng tà mạng ngoại đạo đã chết mới nói như vậy. Ở đây điều này có ý nghĩa như sau – “các tà mạng ngoại đạo gọi là đã chết, mẹ của các tà mạng ngoại đạo ấy được gọi là người mẹ có con đã chết, là như thế, các tà mạng ngoại đạo mới trở thành người được gọi là những đứa con của người mẹ không con (người có con đã chết). Samaṇe gotame (trong Sa-môn Gotama): tà mạng ngoại đạo chỉ ra rằng – việc sống thực hành Phạm hạnh có trong Sa-môn Gotama, thì ở chỗ khác không có. Các từ còn lại trong tất cả các câu đều đơn giản.
Giải Thích Kinh Sandaka Kết Thúc