Kinh số 72 – Giải Thích Kinh Dạy Vacchagotta Về Lửa
(Aggivacchasuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Dạy Vacchagotta Về Lửa
187. evaṃ me sutanti aggivacchasuttaṃ. tattha na kho ahanti paṭhamavāre nāhaṃ sassatadiṭṭhikoti vadati, dutiye nāhaṃ ucchedadiṭṭhikoti. evaṃ antānantikādivasena sabbavāresu paṭikkhepo veditabbo. hoti ca na ca hotīti ayaṃ panettha ekaccasassatavādo. neva hoti na na hotīti ayaṃ amarāvikkhepoti veditabbo.
187 Kinh Dạy Vacchagotta Về Lửa được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, na kho ahaṃ (ta không thấy như vậy): đức Thế Tôn đã thuyết ở lần đầu rằng ta không rằng là thế giới này thường hằng (thường kiến), lần thứ hai thuyết rằng: ta không thấy thế giới này diệt mất (đoạn kiến). Nên biết rằng việc bác bỏ trong các phần bằng lời nói được bắt đầu như vầy: ‘thế giới này có giới hạn và không có giới hạn’. hoti ca na ca hoti (có tồn tại cũng có và không tồn tại cũng có): chúng sanh sau khi chết tồn tại cũng có và không tồn tại cũng có đây là lời nói có tồn tại cũng không phải và không có tồn tại cũng không phải nên biết rằng đây là ‘lời nói về thường còn là phiến diện’. neva hoti na na hoti (tồn tại cũng không phải, không tồn tại cũng không phải) chúng sanh sau khi chết tồn tại cũng không phải, không tồn tại cũng không phải nên biết rằng đây là ‘trườn uốn như con lươn’.
189. sadukkhanti kilesadukkhena ceva vipākadukkhena ca sadukkhaṃ. savighātanti tesaṃyeva dvinnaṃ vasena saupaghātakaṃ. saupāyāsanti tesaṃyeva vasena saupāyāsaṃ. sapariḷāhanti tesaṃyeva vasena sapariḷāhaṃ.
189 Sadukkhaṃ (mang lại sự khổ đau): mang lại sư khổ đau do khổ đau sanh lên từ phiền não và do khổ đau sanh khởi từ quả dị thục. Savighātaṃ (mang lại sự buồn phiền): mang lại sự thương do tác động từ chính hai khổ đau ấy. Saupāyāsaṃ (mang lại sự khổ não): mang lại sự khổ não do tác động từ chính những khổ đau đó. Sapariḷāhaṃ (mang lại sự nóng đốt): mang lại sự nóng đốt do tác động từ chính những khổ đau đó.
kiñci diṭṭhigatanti kāci ekā diṭṭhipi ruccitvā khamāpetvā gahitā atthīti pucchati. apanītanti nīhaṭaṃ apaviddhaṃ. diṭṭhanti paññāya diṭṭhaṃ. tasmāti yasmā pañcannaṃ khandhānaṃ udayavayaṃ addasa, tasmā. sabbamaññitānanti P.3.198 sabbesaṃ tiṇṇampi taṇhādiṭṭhimānamaññitānaṃ. mathitānanti tesaṃyeva vevacanaṃ. idāni tāni vibhajitvā dassento sabbāhaṃkāra-mamaṃkāra-mānānusayānanti āha. ettha M.3.138 hi ahaṃkāro diṭṭhi, mamaṃkāro taṇhā, mānānusayo māno. anupādā vimuttoti catūhi upādānehi kañci dhammaṃ anupādiyitvā vimutto.
kiñci diṭṭhigataṃ (có tà kiến nào khác nữa): Vaccha hỏi rằng có tà kiến nào khác mà đức Thế Tôn giữ lấy với sự ưa thích và với sự hoan hỷ có tồn tại chăng? Apanītaṃ (đã đem ra khỏi): Như Lai đã nhổ bỏ, đã quăng bỏ. Diṭṭhaṃ (thấy): thấy bằng trí tuệ. Tasmā (bởi vì): Như Lai đã thấy sự sanh khởi và sự hoại diệt của năm uẩn. Sabbamaññitānaṃ (toàn bộ sự vọng tưởng): sự vọng tưởng là tham ái, tà kiến và ngã mạn, toạn bộ thậm chí cả 3. Mathitānaṃ (sự cần thiết): đây là từ đồng nghĩa của chính những từ đó. Bây giờ, đức Thế Tôn khi phân tích những từ đó, trong khi thuyết giảng mới nói rằng toàn bộ việc tạo thành ‘tôi’ và việc tạo thành ‘của tôi’, và ngã mạn tùy miên. Ở đây, việc tạo thành ‘tôi’ là tà kiến, việc tạo thành ‘của tôi’ tham ái, ngã mạn tùy miên là ngã mạn. anupādā vimutto (Như Lai đã giảit thoát…bởi do không chấp thủ): đã thoát khỏi do không chấp thủ bất kỳ Pháp gì bởi 4 sự chấp thủ.
190. na upetīti na yujjati. ettha ca “na upapajjatī”ti idaṃ anujānitabbaṃ siyā. yasmā pana evaṃ vutte so paribbājako ucchedaṃ gaṇheyya, upapajjatīti pana sassatameva, upapajjati ca na ca upapajjatīti ekaccasassataṃ, neva upapajjati na na upapajjatīti amarāvikkhepaṃ, tasmā bhagavā — “ayaṃ appatiṭṭho anālambo hotu, sukhapavesanaṭṭhānaṃ mā labhatū”ti ananuññāya ṭhatvā anuññampi paṭikkhipi. alanti samatthaṃ pariyattaṃ V.3.142. dhammoti paccayākāradhammo. aññatrayogenāti aññattha payogena. aññatrācariyakenāti paccayākāraṃ ajānantānaṃ aññesaṃ ācariyānaṃ santike vasantena.
190 na upeti (không nên): không thích hơp. Và ở đây ‘không sanh khởi’ này có thể cần phải biết theo. Nhưng khi đức Thế Tôn thuyết như vậy lõa thế ngoại đạo ấy có thể nắm lấy sự đoạn diệt. upapajjati (sanh khởi): Có thể nắm lấy sự thường mà thôi. upapajjati ca na ca upapajjati (sanh khởi cũng có, không sanh khởi cũng có): có thể nắm lấy sự thường còn là phiến diện, neva upapajjati na na upapajjati (sanh khởi cũng không phải, không sanh khởi cũng không phải) là ‘trườn uốn như con lươn’. Vì thế đức Thế Tôn mới thuyết rằng – “du sĩ ngoại đạo Vaccha không có nơi nương nhờ, không có nơi bám víu, sẽ không được nơi đi vào sống an lạc” đã thiết lập trong sự không cho phép, bác bỏ sự cho phép (sự thấy đúng đắn). Alaṃ (đã thích hợp): có thể sắp xếp. Dhammo (Pháp): Pháp có điều kiện trợ sanh. Aññatrayogena (bằng sự tinh tấn ở đạo lộ khác): bằng sự nỗ lực ở con đường khác. Aññatrācariyakena (ở trong trú xứ của vị thầy khác): Ở trong trú xứ của vị thầy khác, vị không biết được Pháp có điều kiện trợ sanh.
191. tena hi vacchāti yasmā tvaṃ sammohamāpādinti vadasi, tasmā taṃyevettha paṭipucchissāmi. anāhāro P.3.199 nibbutoti appaccayo nibbuto.
191 Tena hi Vacchā (này Vaccha, nếu vậy thì…): Do ông nói rằng ta đã đi đến sự si ám, vì vậy ta sẽ quay trở lại hỏi ông câu này. Anāhāro nibbuto (không có nhiên liệu, đã dập tắt): ngọn lửa không có nhiên liệu đã bị dập tắt, không có duyên, đã bị dập tắt.
192. yena rūpenāti yena rūpena sattasaṅkhātaṃ tathāgataṃ rūpīti paññāpeyya. gambhīroti guṇagambhīro. appameyyoti pamāṇaṃ gaṇhituṃ na sakkuṇeyyo. duppariyogāḷhoti duogāho dujjāno. seyyathāpi mahāsamuddoti yathā mahāsamuddo gambhīro appameyyo dujjāno, evameva khīṇāsavopi. taṃ ārabbha upapajjatītiādi sabbaṃ na yujjati. kathaṃ? yathā parinibbutaṃ aggiṃ ārabbha puratthimaṃ disaṃ gatotiādi sabbaṃ na yujjati, evaṃ.
192 Yena rūpena (với sắc nào?) có thể chế định một chúng sanh rằng có sắc bằng sắc nào? Gambhīro (thâm sâu): có đức hạnh sâu thẳm. Appameyyo (không thể đo lường): không thể nắm lấy để đo lường được. Duppariyogāḷho (khó thâm nhập): khó thăm dò, khó nhận biết. seyyathāpi mahāsamuddo (tựa như đại dương sâu thẳm): Giống như đại dương sâu thẳm, không thế đo lường, khó nhận biết thế nào, thì ngay cả bậc lậu tận cũng như thế. Upapajjati (sanh khởi) v.v, toàn bộ không phù hợp do đề cập đến bậc lậu tận ấy. Vì sao? giống như một người đã đi về hướng đông do liên quan đến ngọn lửa đã dập tắt không thể phát sáng trở lại v.v, toàn bộ không thích hợp.
aniccatāti aniccatāya. sāre patiṭṭhitanti lokuttaradhammasāre patiṭṭhitaṃ. sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
Aniccatā (tính chất vô thường): Do tính chất vô thường. Sāre patiṭṭhitaṃ (chỉ còn lại cốt lõi): còn lại cốt lỗi là Pháp Siêu thế. Các từ còn lại trong các câu đều đơn giản.
Kinh Dạy Vacchagotta Về Lửa Kết Thúc