Kinh số 71 – Giải Thích Kinh Dạy Vacchagotta Về Tam Minh

(Tevijjavacchasuttavaṇṇanā)

Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Dạy Vacchagotta Về Tam Minh

 

3. PHẨM DU SĨ NGOẠI ĐẠO 

185. evaṃ V.3.139 M.3.136 me sutanti tevijjavacchasuttaṃ. tattha ekapuṇḍarīketi puṇḍarīko vuccati setambarukkho, so tasmiṃ ārāme eko puṇḍarīko atthīti ekapuṇḍarīko. etadahosīti tattha pavisitukāmatāya ahosi. cirassaṃ kho, bhanteti pakatiyā āgatapubbataṃ upādāya. dhammassa cānudhammanti idha sabbaññutaññāṇaṃ dhammo nāma, mahājanassa byākaraṇaṃ anudhammo nāma. sesaṃ jīvakasutte (ma. ni. 2.51 ādayo) vuttanayameva. na me teti ananuññāya ṭhatvā anuññampi paṭikkhipati. “sabbaññū sabbadassāvī aparisesaṃ ñāṇadassanaṃ paṭijānātī”ti hi idaṃ anujānitabbaṃ siyā, — “carato ca me … pe … paccupaṭṭhitan”ti idaṃ pana nānujānitabbaṃ. sabbaññutaññāṇena hi āvajjitvā pajānāti. tasmā ananuññāya ṭhatvā anuññampi paṭikkhipanto evamāha.

185 Kinh Dạy Vacchagotta Về Tam Minh  được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, Ekapuṇḍarīke (tên là Ekapuṇḍarīka): Cây xoài trắng ngài gọi là Puṇḍarīka. Gọi là Ekapuṇḍarīka bởi vì có một cây xoài trắng trong khu vườn đó. etadahosi (suy nghĩ): đức Thế Tôn khởi lên suy nghĩ bởi có mong muốn đi vào vườn các du sĩ ngoại đạo đó. Cirassaṃ kho, bhante (kính bạch ngài, đã từ rất lâu…): có nghĩa là ngài đã từng đến theo thường lệ. Dhammassa cānudhammaṃ (pháp phù hợp của Pháp) này, Toàn giác trí được gọi là Pháp, việc giải thích cho hội chúng gọi là Pháp phù hợp. Từ còn lại như đã được trình bày trong bài Kinh Jīvaka. (ma. ni. 2.51 ādayo). na me (không…ta): Không phải nói theo lời ta đã nói, được thiết lập với sự không cho phép, bác bỏ chính sự cho phép “bởi trí toàn giác nhìn thấy tất cả mọi thứ, thừa nhận tri kiến (trí và sự nhận thức) không còn dư sót”. Vì thế, tri kiến này phù hợp để biết theo. “khi ta đi…trí và sự nhận thức hiện diện” này, không phù hợp để biết theo. Sau khi hướng tâm bằng Toàn giác trí rồi tuệ tri. Vì vậy đã thiết lập với sự không cho phép, bác bỏ kể cả với sự cho phép rồi thuyết như vậy.

186. āsavānaṃ khayāti ettha sakiṃ khīṇānaṃ āsavānaṃ puna khepetabbābhāvā yāvadevāti na vuttaṃ. pubbenivāsañāṇena cettha bhagavā atītajānanaguṇaṃ dasseti, dibbacakkhuñāṇena P.3.196 paccuppannajānanaguṇaṃ, āsavakkhayañāṇena lokuttaraguṇanti. iti imāhi tīhi vijjāhi sakalabuddhaguṇe saṃkhipitvā kathesi.

186 āsavānaṃ khayā (do các lậu hoặc đã cạn kiệt): ở đây đức Thế Tôn không chỉ thuyết bấy nhiêu, do các lậu hoặc đã cạn kiệt xảy ra cùng một lúc, không có lậu cần phải dứt trừ nữa, đức Thế Tôn đã nói tóm tắt toàn bộ ân đức Phật bằng Tam minh này: trình bày ân đức là sự biết về quá khứ bằng trí nhớ về các kiếp sống trước, trình bày ân đức là sự biết trong hiện tại bằng trí về thiên nhãn, trình bày ân đức là trí Siêu thế bằng trí về sự đoạn tận các lậu hoặc.

gihisaṃyojananti gihibandhanaṃ gihiparikkhāresu nikantiṃ. natthi kho vacchāti gihisaṃyojanaṃ appahāya dukkhassantakaro nāma natthi. yepi hi santatimahāmatto uggaseno seṭṭhiputto vītasokadārakoti gihiliṅge ṭhitāva arahattaṃ pattā, tepi maggena sabbasaṅkhāresu nikantiṃ V.3.140 sukkhāpetvā pattā. taṃ patvā pana na tena liṅgena aṭṭhaṃsu, gihiliṅgaṃ nāmetaṃ hīnaṃ, uttamaguṇaṃ dhāretuṃ na sakkoti. tasmā tattha ṭhito arahattaṃ patvā taṃdivasameva pabbajati vā parinibbāti vā. bhūmadevatā pana tiṭṭhanti. kasmā? nilīyanokāsassa atthitāya. sesakāmabhave manussesu sotāpannādayo tayo tiṭṭhanti, kāmāvacaradevesu M.3.137 sotāpannā sakadāgāmino ca, anāgāmikhīṇāsavā panettha na tiṭṭhanti. kasmā? tañhi ṭhānaṃ laḷitajanassa āvāso, natthi tattha tesaṃ pavivekārahaṃ paṭicchannaṭṭhānañca. iti tattha khīṇāsavo parinibbāti, anāgāmī cavitvā suddhāvāse nibbattati. kāmāvacaradevato upari pana cattāropi ariyā tiṭṭhanti.

Gihisaṃyojanaṃ (các kiết sử của người cư sĩ): sự trói buộc của cư sĩ là sự ước muốn trong các vật dụng cần thiết của người cư sĩ. natthi kho vacchā (này Vaccha, không có…): người chưa đoạn trừ các kiết sử tại gia không gọi là thực hiện việc chấm dứt khổ đau. Ngay cả hạng người nào duy trì hình tướng tại gia chẳng hạn như quan đại thần Santati, con trai trưởng giả Uggasena cũng đã chứng đắc quả vị A-ra-hán, kể cả hạng người ấy cũng ước muốn làm cho các hành được khô héo bởi Đạo rồi chứng đắc, nhưng khi đã chứng đắc thì không thiết lập trong hình tướng ấy (hình tướng người cư sĩ). Hình tướng cư sĩ này được xem là hạ liệt, không thể nâng đỡ đức hạnh cao thượng này được. Vì thế người thiết lập trong hình tướng cư sĩ ấy sau khi chứng đắc quả vị A-ra-hán phải xuất gia hoặc (nếu không xuất gia) phải tịch diệt Nibbāna ngay ngày hôm ấy. Nhưng ở cõi chư Thiên vẫn an trú được, vì sao? bởi trong hư không có thể ẩn mình được. Trong các cõi Dục còn lại thì 3 bậc Thánh nhân có bậc Thánh Tu-đà-hườn v.v, vẫn an trú được trong cõi nhân loại, bậc thánh Tu-đà-hườn và bậc Thánh Tư-đà-hoàn an trú được trong cõi Kāmāvacaradeva, còn bậc Thánh A-na-hàm và bậc lậu tận thì không thể an trú ở Kāmāvacaradeva. Tại sao? nơi đó không phải là nơi ở của người đã từ bỏ sự xấu hổ và ở đó không phải là nơi che đậy phù hợp cho sự viễn ly của những bậc lậu tận ấy. Như thế bậc lậu tận phải tịch diệt Nibbāna ở tại nơi ấy. Bậc Thánh A-na-hàm sau khi tử thì hóa sanh vào cõi Tịnh Cư Thiên. Cả bốn bậc Thánh Nhân đều duy trì sự sống ở cõi cao hơn từ cõi Kāmāvacaradeva.

sopāsi kammavādīti sopi kammavādī ahosi, kiriyampi na paṭibāhittha. tañhi ekanavutikappamatthake attānaṃyeva gahetvā katheti. tadā kira mahāsatto pāsaṇḍapariggaṇhanatthaṃ pabbajito tassapi pāsaṇḍassa nipphalabhāvaṃ P.3.197 jānitvā vīriyaṃ na hāpesi, kiriyavādī hutvā sagge nibbattati. tasmā evamāha. sesaṃ sabbattha uttānamevāti.

sopāsi kammavādī (tin vào nghiệp): du sĩ ngoại đạo có đức tin về nghiệp, đã tin vào kết quả của nghiệp (kiriyavādī) đức Thế Tôn phản bác kẻ khác rồi thuyết đến chính bản thân ngài (từ đây) trải qua chín mươi mốt kiếp. Được biết rằng khi đó bậc Đại Nhân đã xuất gia để tầm cầu nghiên cứu học thuyết của ngoại đạo (học thuyết liên quan đến tham ái và tà kiến), khi biết rằng học thuyết của ngoại đạo không có kết quả cũng đã không từ bỏ sự tinh tấn, đã tin vào kết quả của nghiệp sanh vào thiên giới, vì thế ngài đã nói như vậy. Các từ còn lại ở các câu đều đơn giản.

Giải Thích Kinh Dạy Vacchagotta Về Tam Minh Kết Thúc