Kinh số 67 – Giải Thích Kinh Cātumā
(Cātumasuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Cātumā
157. evaṃ V.3.123 me sutanti cātumasuttaṃ. tattha cātumāyanti evaṃnāmake gāme. pañcamattāni bhikkhusatānīti adhunā pabbajitānaṃ bhikkhūnaṃ pañca satāni. therā kira cintesuṃ — “ime kulaputtā dasabalaṃ adisvāva pabbajitā, etesaṃ bhagavantaṃ dassessāma, bhagavato santike dhammaṃ sutvā attano attano yathāupanissayena patiṭṭhahissantī”ti. tasmā te bhikkhū gahetvā āgatā. paṭisammodamānāti “kaccāvuso, khamanīyan”tiādiṃ paṭisanthārakathaṃ kurumānā. senāsanāni paññāpayamānāti attano attano ācariyupajjhāyānaṃ vasanaṭṭhānāni pucchitvā dvāravātapānāni P.3.173 vivaritvā mañcapīṭhakaṭasārakādīni nīharitvā papphoṭetvā yathāṭṭhāne saṇṭhāpayamānā. pattacīvarāni paṭisāmayamānāti, bhante, idaṃ M.3.121 me pattaṃ ṭhapetha, idaṃ cīvaraṃ, idaṃ thālakaṃ, idaṃ udakatumbaṃ, imaṃ kattarayaṭṭhinti evaṃ samaṇaparikkhāre saṅgopayamānā.
157 Kinh Cātumā được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, cātumāyaṃ (gần làng Cātumā): gần làng có tên là như vậy. pañcamattāni bhikkhusatāni (khoảng 500 vị Tỳ khưu): vị Tỳ khưu xuất gia không bao lâu khoảng 500 vị. Kể rằng cả 2 vị trưởng lão nghĩ rằng – “các thiện nam tử này đã xuất gia, chưa từng nhìn thấy đấng Thập Lực, ta sẽ cho những Tỳ khưu này gặp đức Thế Tôn, những vị Tỳ khưu này sau khi nghe Pháp ở trú xứ của đức Thế Tôn sẽ vững trú tùy thuộc vào căn tánh của mình.” Vì thế cả 2 vị trưởng lão mới đưa những vị Tỳ khưu ấy đến. Paṭisammodamānā (trong khi trao đổi lời xã giao thân thiện): Chư Tỳ khưu nói lời chào đón v.v, “này hiền giả, các hiền giả dễ chịu chăng?” senāsanāni paññāpayamānā (trong khi sắp xếp các chỗ trú ngụ): Lau chùi chỗ ở của các thầy dạy học và thầy tế độ của mình, mở cửa sổ, sau khi mang giường và chiếu tre ra bên ngoài giũ sạch rồi đặt chúng vào vị trí tương thích. pattacīvarāni paṭisāmayamānā (trong khi đem cất các bình bát và y): chờ nói đến tám món vật dụng của Sa-môn như vầy: thưa ngài, ngài hãy đặt bình bát này, y phục này, cái khay này, bình lọc nước này, cây gậy này.
uccāsaddā mahāsaddāti uddhaṃ uggatattā uccaṃ, patthaṭattā mahantaṃ avinibbhogasaddaṃ karontā. kevaṭṭā maññe macchavilopeti kevaṭṭānaṃ macchapacchiṭhapitaṭṭhāne mahājano sannipatitvā — “idha aññaṃ ekaṃ macchaṃ dehi, ekaṃ macchaphālaṃ dehi, etassa te mahā dinno, mayhaṃ khuddako”ti evaṃ uccāsaddaṃ mahāsaddaṃ karonti. taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ. macchagahaṇatthaṃ jāle pakkhittepi tasmiṃ ṭhāne kevaṭṭā ceva aññe ca “paviṭṭho na paviṭṭho, gahito na gahito”ti mahāsaddaṃ karonti. tampi sandhāyetaṃ vuttaṃ. paṇāmemīti nīharāmi. na vo mama santike vatthabbanti tumhe mādisassa buddhassa vasanaṭṭhānaṃ āgantvā evaṃ mahāsaddaṃ karotha, attano dhammatāya vasantā kiṃ nāma sāruppaṃ karissatha, tumhādisānaṃ mama santike vasanakiccaṃ natthīti dīpeti. tesu ekabhikkhupi “bhagavā tumhe mahāsaddamattakena amhe paṇāmethā”ti vā aññaṃ vā kiñci vattuṃ nāsakkhi, sabbe bhagavato vacanaṃ sampaṭicchantā “evaṃ, bhante,”ti vatvā nikkhamiṃsu. evaṃ pana tesaṃ ahosi “mayaṃ satthāraṃ passissāma, dhammakathaṃ sossāma, satthu santike vasissāmāti P.3.174 āgatā. evarūpassa pana garuno satthu santikaṃ āgantvā mahāsaddaṃ karimhā, amhākameva dosoyaṃ, paṇāmitamhā, na no laddhaṃ bhagavato santike vatthuṃ, na V.3.124 suvaṇṇavaṇṇasarīraṃ oloketuṃ, na madhurassarena dhammaṃ sotun”ti. te balavadomanassajātā hutvā pakkamiṃsu.
uccāsaddā mahāsaddā (đã có các âm thanh ồn ào, các âm thanh ầm ĩ): âm thanh âm ĩ, ồn ào bởi vì lên cao giọng, bởi tiếng thét lớn. kevaṭṭā maññe macchavilopeti (những người đánh cá tranh giành cá): dân làng tụ hợp lại ở chỗ người đánh cá đã đặt những cái thúng đựng cá và nói rằng – “ông hãy cho một con cá khác đặt ở đây, hãy cho một con cá đã cắt thịt đặt ở đây, người đó ông cho con cá lớn, còn tôi cho con cá nhỏ v.v,” như vậy họ đã phát ra các âm thành ồn ào, các âm thanh ầm ĩ. Ngài nói như vậy muốn đề cập đến việc các Tỳ khưu tranh cãi với nhau. Khi giăng lưới để bắt cá, các ngư dân và những người khác ở nói đó đã phát ra âm thanh ồn ào rằng: “cá đã mắc lưới rồi, cá vẫn chưa mắc lưới, đã bắt được cá, vẫn chưa bắt được cá.” Ngài nói như vậy muốn đề cập đến việc các ngư dân phát ra âm thanh ồn ào. paṇāmemi (tôi bị đuổi): bị đuổi ra khỏi. Na vo mama santike vatthabbaṃ (các ông không đáng sống trong trú xứ của ta): Đức Thế Tôn đã nói rằng: các ông đến chỗ ở của đức Phật như ta vậy mà lại gây ra âm thanh ồn ào, ầm ĩ như vậy, khi các ông tự sống độc cư sẽ tạo ra sự phù hợp như thế nào? những người như các ông không có phận sự để sống ở trú xứ của ta. Trong số các vị Tỳ khưu ấy không có bất cứ vị nào nói rằng “Kinh bạch đức Thế Tôn xin ngài đừng đuổi chúng con chỉ vì những tiếng ồn ào như thế” hoặc bất kỳ lời nào khác, tất cả Tỳ khưu tiếp thu lời của đức Thế Tôn, đã đáp lời “như vậy, thưa ngài” rồi cũng nhau rời đi. Hơn nữa, các Tỳ khưu ấy đã có ước muốn rằng: “ta sẽ đến gặp đức Đạo Sư, sẽ lắng nghe thuyết giảng Giáo Pháp, sẽ được cư ngụ trong trú xứ của đức Thế Tôn nên đã đi đến. Nhưng khi đến gặp bậc Đạo Sư là vị thầy có hình thức như vậy lại gây ra tiếng ồn ầm ĩ, đây là lỗi lầm của chúng ta nên mới bị đuổi đi. Ta không được cư ngụ ở trú xứ của đức Thế Tôn, không được nhìn thấy sắc thân mà như vàng, không được lắng nghe Giáo Pháp với âm giọng du dương nữa.” Những vị Tỳ khưu ấy đã khởi lên nỗi buồn mãnh liệt rồi cùng nhau ra đi.
158. tenupasaṅkamiṃsūti te kira sakyā āgamanasamayepi te bhikkhū tattheva nisinnā passiṃsu. atha nesaṃ etadahosi — “kiṃ nu kho ete bhikkhū pavisitvāva paṭinivattā, jānissāma taṃ kāraṇan”ti cintetvā yena te bhikkhū tenupasaṅkamiṃsu. handāti vavassaggatthe nipāto. kahaṃ pana tumheti tumhe idāneva āgantvā kahaṃ gacchatha, kiṃ tumhākaṃ koci upaddavo, udāhu dasabalassāti? tesaṃ pana bhikkhūnaṃ, — “āvuso, mayaṃ bhagavantaṃ dassanāya āgatā, diṭṭho no bhagavā, idāni attano vasanaṭṭhānaṃ gacchāmā”ti kiñcāpi evaṃ vacanaparihāro atthi, evarūpaṃ pana lesakappaṃ M.3.122 akatvā yathābhūtameva ārocetvā bhagavatā kho, āvuso, bhikkhusaṅgho paṇāmitoti āhaṃsu. te pana rājāno sāsane dhuravahā, tasmā cintesuṃ — “dvīhi aggasāvakehi saddhiṃ pañcasu bhikkhusatesu gacchantesu bhagavato pādamūlaṃ vigacchissati, imesaṃ nivattanākāraṃ karissāmā”ti. evaṃ cintetvā tena hāyasmantotiādimāhaṃsu. tesupi P.3.175 bhikkhūsu “mayaṃ mahāsaddamattakena paṇāmitā, na mayaṃ jīvituṃ asakkontā pabbajitā”ti ekabhikkhupi paṭippharito nāma nāhosi, sabbe pana samakaṃyeva, “evamāvuso,”ti sampaṭicchiṃsu.
Tenupasaṅkamiṃsū (đã đi đến tìm những vị Tỳ khưu ấy): Được biết rằng các vị Sakya đó thậm chí trong lúc Tỳ khưu đến cũng đã ngồi hội họp tại giảng đường, nhìn thấy chư Tỳ khưu đến. Các vị Sakya đã có suy tầm mới tư duy rằng – “Vì sao các Tỳ khưu này đã đi vào rồi lại quay trở về? ta sẽ biết được nguyên nhân đó mới đi vào tìm gặp các vị Tỳ khưu ấy.” Handa là một phần từ đươc sử dụng với ý nghĩa của lời nói. kahaṃ pana tumhe (các ngài định đi đâu?): Các ngài đại đức chỉ vừa mới đến mà lại đi đâu nữa, có nguy hại gì khởi lên cho các ngài đại đức hay chăng? Hay khởi lên cùng đấng Thập Lực? Các vị Tỳ khưu ấy không che dấu được lời nói ấy “này hiền giả, chúng tôi đến để gặp đức Thế Tôn, bây giờ chúng tôi đã thấy đức Thế Tôn, sẽ trở về với cư trú của chính tôi” thật vậy, khi không thể tránh né bằng những lời nói như thế đã nói theo đúng sự thật rằng: “này hiền giả, các chư Tỳ khưu Tăng bị đức Thế Tôn đuổi đi như vậy.” Hơn nữa, các vị vua ấy nhiệt tâm đối với Phật Giáo, vì thế mới suy nghĩ rằng: “Khi 500 vị Tỳ khưu với 2 vị Thinh văn hàng đầu đi hết thì hội nhóm của đức Thế Tôn sẽ bị biến mất.” Ta sẽ khiến cho các vị này phải quay trở lại, sau khi suy nghĩ như vậy, mới nói lời bắt đầu như sau: “tena hāyasmanto (vậy thì xin các tôn giả hãy ngồi nán lại một lát)”. Trong số đó không có bất cứ vị Tỳ khưu nào dù chỉ một vị sanh tâm khó chịu: “Ta bị đuổi đi chỉ vì gây ra tiếng ồn ào, ầm ĩ, chúng ta không phải xuất gia do không thể nuôi mạng” nhưng các Tỳ khưu đã đồng chấp nhận lời nói ấy “như vậy này các hiền giả…”.
159. abhinandatūti bhikkhusaṅghassa āgamanaṃ icchanto abhinandatu. abhivadatūti etu bhikkhusaṅghoti evaṃ cittaṃ uppādento abhivadatu. anuggahitoti āmisānuggahena ca dhammānuggahena ca anuggahito. aññathattanti dasabalassa dassanaṃ na labhāmāti pasādaññathattaṃ bhaveyya. vipariṇāmoti pasādaññathattena vibbhamantānaṃ vipariṇāmaññathattaṃ bhaveyya. bījānaṃ taruṇānanti taruṇasassānaṃ. siyā aññathattanti udakavārakāle udakaṃ alabhantānaṃ milātabhāvena aññathattaṃ bhaveyya, sussitvā milātabhāvaṃ āpajjanena vipariṇāmo bhaveyya. vacchakassa pana khīrapipāsāya sussanaṃ aññathattaṃ nāma, sussitvā kālakiriyā vipariṇāmo nāma.
159 Abhinandatu (xin hãy hoan hỷ): xin đức Thế Tôn hãy hoan hỷ trong khi ước nguyện cho chư Tỳ khưu được trở lại. Abhivadatū (hãy tiếp đón): xin đức Thế Tôn hãy tiếp đón với lòng từ như vầy: mong các Tỳ khưu hãy đến đây. Anuggahito (xin hãy giúp đỡ): xin giúp đỡ với sự giúp đỡ bằng tài vật và với sự giúp đỡ bằng Pháp. Aññathattaṃ (thay đổi ý định): Có thể thay đổi lòng tịnh tín rằng chúng tôi không nhìn thấy đấng Thập Lực. Vipariṇāmo (có sự biến đổi): khi vị Tỳ khưu hoàn tục bởi sự thay đổi ý định có thế đi đến sự biến đổi. bījānaṃ taruṇānaṃ (tựa như khi hạt giống còn non): mầm lúa non. siyā aññathattaṃ (có thể trở thành thứ khác): Hạt giống non khi không có nước vào thời điểm tưới nước, có thể thay đổi trở thành dạng khác do héo. Có thể biến đổi do sự khô héo. Con ghé xanh xao ốm yếu do đói sữa được gọi là đi đến tính chất khác. Con ghé xanh xao ốm yếu rồi chết đi gọi là sự biến đổi.
160. pasādito bhagavāti thero kira tattha nisinnova dibbacakkhunā brahmānaṃ āgataṃ addasa V.3.125, dibbāya sotadhātuyā ca āyācanasaddaṃ suṇi, cetopariyañāṇena bhagavato pasannabhāvaṃ aññāsi. tasmā — “kañci bhikkhuṃ pesetvā pakkosiyamānānaṃ gamanaṃ nāma na phāsukaṃ, yāva satthā na peseti, tāvadeva gamissāmā”ti maññamāno evamāha. appossukkoti aññesu kiccesu anussukko hutvā. diṭṭhadhammasukhavihāranti phalasamāpattivihāraṃ anuyutto maññe bhagavā viharitukāmo, so idāni yathāruciyā viharissatīti evaṃ me ahosīti vadati. mayampi P.3.176 dānīti mayaṃ paraṃ ovadamānā vihārato nikkaḍḍhitā, kiṃ amhākaṃ parovādena. idāni mayampi diṭṭhadhammasukhavihāreneva viharissāmāti dīpeti. thero imasmiṃ ṭhāne viraddho attano bhārabhāvaṃ na aññāsi. ayañhi bhikkhusaṅgho dvinnampi mahātherānaṃ bhāro, tena M.3.123 naṃ paṭisedhento bhagavā āgamehītiādimāha. mahāmoggallānatthero pana attano bhārabhāvaṃ aññāsi. tenassa bhagavā sādhukāraṃ adāsi.
Pasādito bhagavā (đức Thế Tôn đã được các Thích tử trú ở Cātumā và Phạm thiên Sahampati làm cho vui lòng): Kể rằng trưởng lão ngồi ở nơi đó đã nhìn thấy hình dáng của Phạm thiên đã đến bằng thiên nhãn, nghe được tiếng nài khẩn bằng thiên nhĩ. Biết được ý nghĩa đức Thế Tôn đã hài lòng bằng trí biết được tâm của người khác. Bởi thế ngài mới nghĩ rằng (nếu) gởi bất kỳ vị Tỳ khưu nào đi cho gọi đến, vị Tỳ khưu ấy cũng nghĩ rằng việc trở lại không thích hợp, cho đến khi nào đức Thế Tôn gởi người đến gọi, cho đến khi ấy chúng ta sẽ đi.” appossukko (người ít nhọc công): là người ít bận tâm trong phận sự khác. Diṭṭhadhammasukhavihāraṃ (sống lạc trú trong hiện tại): Đức Thế Tôn có mong muốn nhiệt tâm trong Pháp làm phương tiện sống là sự gắn bó an trú vào sự thể nhập Thánh Quả. Bây giờ, ngài đã an trú tùy theo ý muốn, trưởng lão Moggallāna đã nói rằng: “tâm của tôi đã trở thành như vầy”. Mayampi dāni (bây giờ, kể cả chúng ta): Trưởng lão Sārīputta nói rằng khi các ngài giảng dạy người khác cũng sẽ bị đuổi ra khỏi tịnh xá, lợi ích gì đối với lời giáo huấn của người khác cho ta? Bây giờ chúng tôi cũng sẽ sống với sự an trú lạc trong hiện tại. Trưởng lão hiểu lầm ở trong vị trí này không biết rằng là gánh nặng của chính mình. Bởi chư Tỳ khưu Tăng này là gánh nặng của cả hai vị đại trưởng lão. Bởi thế, đức Thế Tôn khi từ chối Sārīputta, đã nói rằng “Này Sariputta, hãy chờ đợi!”. Còn trưởng lão Mahāmoggallāna đã biết rằng là gánh nặng của chính mình, bởi thế đức Thế Tôn đã ban lời tùy hỷ cùng trưởng lão Mahāmoggallāna.
161. cattārimāni, bhikkhaveti kasmā ārabhi? imasmiṃ sāsane cattāri bhayāni. yo tāni abhīto hoti, so imasmiṃ sāsane patiṭṭhātuṃ sakkoti. itaro pana na sakkotīti dassetuṃ imaṃ desanaṃ ārabhi. tattha udakorohanteti udakaṃ orohante puggale. kumbhīlabhayanti suṃsumārabhayaṃ. susukābhayanti caṇḍamacchabhayaṃ.
161 Tại sao đức Thế Tôn lại bắt đầu? cattārimāni, bhikkhave (này chư Tỳ khưu có bốn sự sợ hãi): Đức Thế Tôn bắt đầu Pháp thoại này để chỉ ra rằng trong Giáo Pháp này có 4 sự sợ hãi, người nào không sợ hãi những điều đó, người ấy có thể an trú trong Giáo Pháp này. Những người khác ngoài ra thì không thể. Ở đó, udakorohante (hạng người rơi xuống nước): Trong khi con người rơi xuống nước. Kumbhīlabhayaṃ đồng nghĩa với suṃsumārabhayaṃ (sự sợ hãi từ cá sấu). Susukābhayaṃ đồng nghĩa với caṇḍamacchabhayaṃ (sự sợ hãi từ cá dữ).
162. kodhupāyāsassetaṃ adhivacananti yathā hi bāhiraṃ udakaṃ otiṇṇo ūmīsu osīditvā marati, evaṃ imasmiṃ sāsane kodhupāyāse osīditvā vibbhamati. tasmā kodhupāyāso “ūmibhayan”ti vutto.
162 Kodhupāyāsassetaṃ adhivacanaṃ (là đồng nghĩa với sự sân hận và sự khổ não): giống như hạng người nhảy xuống nước từ bên ngoài, chìm trong sống biến, chết đi thế nào, vị Tỳ khưu trong Giáo Pháp này này chìm trong sự sân hận và sự khổ não cũng đã hoàn tục như thế đó. Vì thế, sự sân hận và sự khổ não ngài gọi là “Ūmibhayaṃ (sự sợ hãi về sóng)”.
163. odarikattassetaṃ adhivacananti yathā hi bāhiraṃ udakaṃ otiṇṇo kumbhīlena khādito marati, evaṃ imasmiṃ sāsane odarikattena khādito vibbhamati. tasmā odarikattaṃ “kumbhīlabhayan”ti vuttaṃ.
163 Odarikattassetaṃ adhivacanaṃ (là đồng nghĩa với tính chất tham ăn): cũng giống như như hạng người nhảy xuống nước từ bên ngoài, bị con cá sấu cắn chết như thế nào, vị Tỳ khưu trong Giáo Pháp này như thế đó ăn vì bao tử của mình đến nỗi phải hoàn tục, bởi thế tính tham ăn được nói rằng là sự sợ hãi từ cá sấu.
164. arakkhiteneva kāyenāti sīsappacālakādikaraṇena arakkhitakāyo hutvā. arakkhitāya vācāyāti duṭṭhullabhāsanādivasena arakkhitavāco hutvā. anupaṭṭhitāya P.3.177 satiyāti kāyagatāsatiṃ anupaṭṭhāpetvā. asaṃvutehīti apihitehi. pañcannetaṃ kāmaguṇānaṃ adhivacananti yathā V.3.126 hi bāhiraṃ udakaṃ otiṇṇo āvaṭṭe nimujjitvā marati, evaṃ imasmiṃ sāsane pabbajito pañcakāmaguṇāvaṭṭe nimujjitvā vibbhamati. tasmā pañca kāmaguṇā “āvaṭṭabhayan”ti vuttā.
164 arakkhiteneva kāyena (không phòng hộ thân): không phòng hộ thân với việc lắc lư cái đầu v.v, arakkhitāya vācāyā (không phòng hộ lời): không phòng hộ lời bởi những lời nói thô thiển v.v. anupaṭṭhitāya satiyā (không đặt niệm vững chắc): không đặt niệm vận hành trong thân. asaṃvutehi (do không thu thúc): không che đậy. pañcannetaṃ kāmaguṇānaṃ adhivacanaṃ (là đồng nghĩa với sự trói buộc của năm dục): Vị xuất gia trong Giáo Pháp này chìm đắm trong dòng xoáy của sự trói buộc năm dục rồi hoàn tục thế nào, cũng giống với hạng người vượt qua dòng nước để đi đến bờ bên kia, khi nhảy xuống dòng nước xoáy rồi chìm xuống nước cũng bị chết đi như thế đó, vì thế ngài gọi là sự sở hãi từ dòng nước xoáy là sự trói buộc của năm dục.
165. anuddhaṃsetīti kilameti milāpeti. rāgānuddhaṃsenāti rāgānuddhaṃsitena. mātugāmassetaṃ adhivacananti yathā hi bāhiraṃ udakaṃ otiṇṇo caṇḍamacchaṃ āgamma laddhappahāro marati, evaṃ imasmiṃ sāsane mātugāmaṃ āgamma uppannakāmarāgo vibbhamati. tasmā mātugāmo “susukābhayan”ti vutto.
165 anuddhaṃseti (làm khuấy động): làm cho mệt mỏi, làm cho khô héo. Rāgānuddhaṃsenā (có tâm bị khuấy động bởi ái luyến): bởi sự khuấy động do ái luyến. mātugāmassetaṃ adhivacanaṃ (là đồng nghĩa với những người phụ nữ): cũng giống như hạng người nhảy xuống nước từ bên ngoài bị làm hại bởi những loài cá dữ thế nào, vị Tỳ khưu trong Giáo Pháp này cũng như thế khơi lên dục vọng và ái luyến nương nơi những người nữa dẫn đến phải hoàn tục. Vì thế mới nói phụ nữ (đồng nghĩa với) “sự sợ hãi từ cá dữ”
imāni M.3.124 pana cattāri bhayāni bhāyitvā yathā udakaṃ anorohantassa udakaṃ nissāya ānisaṃso natthi, udakapipāsāya pipāsito ca hoti rajojallena kiliṭṭhasarīro ca, evamevaṃ imāni cattāri bhayāni bhāyitvā sāsane apabbajantassāpi imaṃ sāsanaṃ nissāya ānisaṃso natthi, taṇhāpipāsāya pipāsito ca hoti kilesarajena saṃkiliṭṭhacitto ca. yathā pana imāni cattāri bhayāni abhāyitvā udakaṃ orohantassa vuttappakāro ānisaṃso hoti, evaṃ imāni abhāyitvā sāsane pabbajitassāpi vuttappakāro ānisaṃso hoti. thero panāha — “cattāri bhayāni bhāyitvā udakaṃ anotaranto sotaṃ chinditvā paratīraṃ pāpuṇituṃ na sakkoti, abhāyitvā otaranto sakkoti, evamevaṃ bhāyitvā sāsane apabbajantopi taṇhāsotaṃ P.3.178 chinditvā nibbānapāraṃ daṭṭhuṃ na sakkoti, abhāyitvā pabbajanto pana sakkotī”ti. sesaṃ sabbattha uttānameva. ayaṃ pana desanā neyyapuggalassa vasena niṭṭhāpitāti.
Khi hạng người sợ hãi bởi bốn sự sợ hãi này (sẽ) không bước xuống nước, sẽ không phải lãnh chịu hậu quả do y cứ vào nước, là người khát nước do muốn có nước, và là người có sắc thân ô nhiễm bởi bụi bẩn thế nào, đúng y như vậy khi vị Tỳ khưu sợ hãi bốn sự sợ hãi này, dầu cho (vị ấy) không xuất gia trong Giáo Pháp cũng không thọ nhận được lợi ích do nương vào Giáo Pháp, là người khát nước bởi sự khao khát là tham ái, và là người có tâm ô nhiễm bởi bụi bẫn là phiền não như thế đó. Hoặc giống như hạng người không sợ hãi trong bốn sự sợ hãi này rồi nhảy xuống nước sẽ có được kết quả như đã nói thế nào, khi vị Tỳ khưu không sợ hãi trong bốn sự sợ hãi này thậm chí xuất gia trong Giáo Pháp cũng có lợi ích như đã được nói. Hơn nữa, vị trưởng lão đã nói rằng hạng người sợ hãi trong bốn sự hãi này không bước xuống nước thì không thể cắt đứt dòng chảy để vượt qua bên kia được, trong khi không sợ hãi, (vị ấy) bước xuống nước có thể cắt đứt (dòng chảy) để vượt qua bờ bên kia thế nào, khi vị ấy sợ hãi dầu cho xuất gia trong Giáo Pháp cũng không thể cắt đứt được dòng chảy của tham ái để nhìn thấy bờ bên kia là Nibbāna. Khi không sợ hãi (vị ấy) rời khỏi gia đinh để xuất gia thì có thể đạt được. Từ còn lại trong các câu đơn giản. Hơn nữa, Pháp thoại này kết thúc bởi mãnh lực của hạng người cần được hướng dẫn.
Giải Thích Kinh Cātumā Kết Thúc