Kinh số 62 – Giải Thích Đại Kinh Giáo Giới Rāhula
(Mahārāhulovādasuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Đại Kinh Giáo Giới Rāhula
113. evaṃ V.3.94 P.3.130 me sutanti mahārāhulovādasuttaṃ. tattha piṭṭhito piṭṭhito anubandhīti dassanaṃ avijahitvā gamanaṃ abbocchinnaṃ katvā pacchato pacchato iriyāpathānubandhanena anubandhi. tadā hi bhagavā pade padaṃ nikkhipanto vilāsitagamanena purato purato gacchati, rāhulatthero dasabalassa padānupadiko hutvā pacchato pacchato.
113 Đại Kinh Giáo Giới Rāhula được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, piṭṭhito piṭṭhito anubandhi (đi theo đức Thế Tôn ở phía sau lưng): Rāhula không rời khỏi tầm nhìn đi theo phía sau lưng không đứt quãng bằng việc theo sau với mọi oai nghi (đi). Khi ấy đức Thế Tôn bước chân về phía trước với vẻ tuyệt hảo, trưởng lão Rāhula đi theo đấng Thập Lực đến nơi đó.
tattha bhagavā supupphitasālavanamajjhagato subhūmiotaraṇatthāya nikkhantamattavaravāraṇo viya virocittha, rāhulabhaddo ca varavāraṇassa pacchato M.3.92 nikkhantagajapotako viya. bhagavā sāyanhasamaye maṇiguhato nikkhamitvā gocaraṃ paṭipanno kesarasīho viya, rāhulabhaddo ca sīhamigarājānaṃ anubandhanto nikkhantasīhapotako viya. bhagavā maṇipabbatasassirikavanasaṇḍato dāṭhabalo mahābyaggho viya, rāhulabhaddo ca byaggharājānaṃ anubandhabyagghapotako viya. bhagavā simbalidāyato nikkhantasupaṇṇarājā viya, rāhulabhaddo ca supaṇṇarājassa pacchato nikkhantasupaṇṇapotako viya. bhagavā cittakūṭapabbatato gaganatalaṃ pakkhandasuvaṇṇahaṃsarājā viya, rāhulabhaddo ca haṃsādhipatiṃ anupakkhandahaṃsapotako viya. bhagavā P.3.131 mahāsaraṃ ajjhogāḷhā suvaṇṇamahānāvā viya, rāhulabhaddo ca suvaṇṇanāvaṃ pacchā anubandhanāvāpotako viya. bhagavā cakkaratanānubhāvena gaganatale sampayātacakkavattirājā viya, rāhulabhaddo ca rājānaṃ anusampayātapariṇāyakaratanaṃ viya. bhagavā vigatavalāhakaṃ nabhaṃ paṭipannatārakarājā viya, rāhulabhaddo ca tārakādhipatino anumaggapaṭipannā parisuddhaosadhitārakā viya.
Ở đó, Đức Thế Tôn đi đến giữa rừng cây Sala đầy hoa chói sáng rực rỡ tựa như một con voi cao quý rời khỏi để bước vào chiến trường, Rāhula hiền thiện sáng chói tựa như voi con đi theo sau con voi cao quý. Đức Thế Tôn chói sáng tựa như chúa sư tử vua muôn thú rời khỏi hang động bằng ngọc để đi tìm thức ăn vào buổi chiều, Rāhula hiền thiện chói sáng tựa như sư tử con đi theo sau sư tử chúa vua muôn thú. Đức Thế Tôn tựa như hổ chúa to lớn có răng nanh khỏe mạnh bước ra khỏi đỉnh núi ngọc hùng vĩ, Rāhula hiền thiện tựa như con của hổ chúa đi theo hổ chúa. Đức Thế Tôn tựa như linh điểu chúa rời khỏi rừng Simbali, Rāhula hiền thiện tựa như con của linh điểu chúa đi theo sau linh điểu chúa. Đức Thế Tôn tựa như chim thiên nga chúa sắc vàng bay liệng trên bầu trời từ đỉnh núi Cittakūṭa, Rāhula hiền thiện tựa như con của chim thiên nga chúa sắc vàng. Đức Thế Tôn tựa như du thuyền lớn bằng vàng di chuyển ra hồ lớn (đại dương), Rāhula hiền thiện tựa như chiếc thuyền nhỏ buộc phía sau chiếc du thuyền lớn bằng vàng. Đức Thế Tôn tựa như Vua Chuyển luân Thánh vương đi trên hư không bằng oai lực bánh xe ngọc, Rāhula hiền thiện tựa như vị tướng quân báu đi theo Vua Chuyển luân. Đức Thế Tôn tựa như ngôi sao vương lơ lửng trên bầu trời thoát khỏi mưa, Rāhula hiền thiện tựa như vì tình tú lấp lánh tinh khiết bồng bềnh theo sau ngôi sao vương đứng đầu.
bhagavāpi mahāsammatapaveṇiyaṃ okkākarājavaṃse jāto, rāhulabhaddopi. bhagavāpi saṅkhe pakkhittakhīrasadiso suparisuddhajātikhattiyakule jāto, rāhulabhaddopi. bhagavāpi rajjaṃ pahāya pabbajito, rāhulabhaddopi. bhagavatopi sarīraṃ dvattiṃsamahāpurisalakkhaṇapaṭimaṇḍitaṃ devanagaresu samussitaratanatoraṇaṃ viya sabbapāliphullo pāricchattako viya ca atimanoharaṇaṃ, rāhulabhaddassāpi. iti dvepi abhinīhārasampannā, dvepi rājapabbajitā, dvepi khattiyasukhumālā, dvepi V.3.95 suvaṇṇavaṇṇā, dvepi lakkhaṇasampannā ekamaggaṃ paṭipannā paṭipāṭiyā gacchantānaṃ dvinnaṃ candamaṇḍalānaṃ dvinnaṃ sūriyamaṇḍalānaṃ dvinnaṃ sakkasuyāmasantusitasunimmitavasavattimahābrahmādīnaṃ siriyā siriṃ abhibhavamānā viya virociṃsu.
Cả đức Thế Tôn và cả Rāhula hiền thiện đều được sanh ra từ dòng dõi Hoàng tộc Okkāka, huyết thống từ vua Mahāsammata. Ngay cả đức Thế Tôn và cả Rāhula hiền thiện cùng đều được sanh ra trong gia đình Sát-đế-lỵ có dòng giống thanh tịnh giống như sữa được đựng trong vỏ ốc xà cừ. Cả đức Thế Tôn và cả Rāhula hiền thiện cũng đều dứt bỏ tài sản Hoàng tộc để xuất gia. Sắc thân của đức Thế Tôn được trang hoàng bởi 32 tướng của bậc Đại nhân, ngay cả thân của Rāhula hiền thiện cũng vô cùng đáng yêu, tựa như vòm cửa bằng ngọc được đặt ở thành phố chư Thiên và tựa như bông hoa ở thiên giới nở rộ lan tỏa (hương thơm) khắp nơi. Bằng cách này, thậm chí cả hai đều thành tựu trọn vẹn nguyện vọng, thậm chí cả hai đều là những vị xuất gia từ hàng vua chúa, thậm chí cả hai vị đều dịu dàng và tế nhị thuộc dòng dõi vua chúa, thậm chỉ cả hai đều có màu da tươi sáng tựa như vàng, thậm chí cả hai đều toàn hảo về tướng, thực hành trên cùng một con đường, chói sáng tựa như nhấn chìm sự sáng chói của hai mặt trăng, hai mặt trời, và sự chói sáng của vua trời Sakka, vua trời Suyāma, vua trời Santusita, vua trời Nimmitavasavatti, Đại Phạm thiên đi theo tuần tự thứ lớp.
tatrāyasmā rāhulo bhagavato piṭṭhito piṭṭhito gacchantova pādatalato yāva upari kesantā tathāgataṃ ālokesi. so bhagavato buddhavesavilāsaṃ disvā “sobhati bhagavā dvattiṃsamahāpurisalakkhaṇavicittasarīro byāmappabhāparikkhittatāya vippakiṇṇasuvaṇṇacuṇṇamajjhagato viya, vijjulatāparikkhitto P.3.132 kanakapabbato viya, yantasuttasamākaḍḍhitaratanavicittaṃ suvaṇṇāgghikaṃ viya, rattapaṃsukūlacīvarapaṭicchannopi rattakambalaparikkhittakanakapabbato viya, pavāḷalatāpaṭimaṇḍitaṃ suvaṇṇāgghikaṃ viya M.3.93, cīnapiṭṭhacuṇṇapūjitaṃ suvaṇṇacetiyaṃ viya, lākhārasānulitto kanakayūpo viya, rattavalāhakantarato taṅkhaṇabbhuggatapuṇṇacando viya, aho samatiṃsapāramitānubhāvasajjitassa attabhāvassa sirīsampattī”ti cintesi. tato attānampi oloketvā — “ahampi sobhāmi. sace bhagavā catūsu mahādīpesu cakkavattirajjaṃ akarissā, mayhaṃ pariṇāyakaṭṭhānantaraṃ adassā. evaṃ sante ativiya jambudīpatalaṃ asobhissā”ti attabhāvaṃ nissāya gehassitaṃ chandarāgaṃ uppādesi.
Trong lúc đó ngài Rāhula đi theo phía sau lưng của đức Thế Tôn, ngắm nhìn đức Thế Tôn từ dưới bàn chân lên đến đỉnh ngọn tóc. Rāhula đã nhìn thấy sự tuyệt hảo về tướng mạo của đức Thế Tôn, nghĩ rằng: “Đức Thế Tôn có sắc thân được trang hoàng bởi 32 đặc tướng của bậc Đại nhân tuyệt đẹp trông như thể ở giữa bột vàng rải rắc lên do được bảo quanh bởi ánh sáng hào quang 2 mét, trông như thể đỉnh núi vàng được bao bọc bởi những tia chớp, trông như thể khối vàng được trang trí bằng ngọc báu được kéo cho xoay bằng sợi chỉ bằng máy móc, thậm chí mặc kín cổ bằng y phấn tảo màu đỏ cũng tuyệt đẹp trông như thể một ngọn núi Kanaka được choàng lên bằng một tấm vải len nhuộm đỏ, tựa như vàng có giá trị được trang hoàng bằng ngọc san hô, tựa như ngôi bảo điện vàng được họ lễ bái bằng bột màu đỏ son, tựa như cột trụ nhũ vàng tô trát bằng nhựa cánh kiến đỏ, tựa như ánh trăng tròn hiện ra trong khoảnh khắc ấy giữa cơn mưa dày đặc màu đỏ, sự thành tựu quyền quý của bản thể đã được chuẩn bị nhờ oai lực của sự đồng đều ba mươi pháp ba-la-mật. Từ đó trưởng lão Rāhula quan sát chính mình mới khởi lên suy nghĩ rằng: “ngay cả ta cũng xinh đẹp, nếu như đức Thế Tôn trở thành vị Chuyển luân vương trong bốn châu lục đã ban cho ta vị trí tướng quân báu cho ta, như vậy bề mặt Jambudīpa sẽ càng trở nên xinh đẹp, mới khỏi lên ước muốn và ái luyến nương ngôi nhà bởi do dựa vào tự ngã.
bhagavāpi purato gacchantova cintesi — “paripuṇṇacchavimaṃsalohito dāni rāhulassa attabhāvo. rajanīyesu rūpārammaṇādīsu hi cittassa pakkhandanakālo jāto, kiṃ bahulatāya nu kho rāhulo vītināmetī”ti. atha sahāvajjaneneva pasannaudake macchaṃ viya, parisuddhe ādāsamaṇḍale mukhanimittaṃ viya ca tassa taṃ cittuppādaṃ addasa. disvāva — “ayaṃ rāhulo mayhaṃ atrajo hutvā mama pacchato āgacchanto ‘ahaṃ sobhāmi, mayhaṃ vaṇṇāyatanaṃ pasannan’ti attabhāvaṃ nissāya gehassitachandarāgaṃ uppādeti, atitthe pakkhando uppathaṃ paṭipanno agocare carati, disāmūḷhāddhiko viya agantabbaṃ disaṃ gacchati. ayaṃ kho panassa kileso abbhantare vaḍḍhanto attatthampi yathābhūtaṃ passituṃ na dassati, paratthampi, ubhayatthampi. tato nirayepi paṭisandhiṃ gaṇhāpessati, tiracchānayoniyampi, pettivisayepi, asurakāyepi, sambādhepi mātukucchisminti anamatagge saṃsāravaṭṭe paripātessati. ayañhi —
Thậm chí đức Phật đi ở phía trước ngài cũng suy nghĩ rằng – “ Rāhula có sắc thân đã tròn đủ bởi da thịt và máu. Là lúc tâm xao lãng trong đối tượng sắc v.v, đáng làm cho bị lôi cuốn, Rāhula giành quá nhiều thời gian phải chăng do lòng ham muốn?” Khi ấy với chính sự suy nghĩ đã nhìn thấy tâm sanh khởi của Rāhula, tựa như nhìn thấy con cá ở trong hồ nước trong và tựa như nhìn thấy hính bóng ở trong tấm gương trong sạch. Sau khi nhìn thấy đã suy nghĩ rằng – “Rāhula này là con trai của ta, đi theo sau ta, khởi lên ước muốn và ái luyến nương vào ngôi nhà bởi do dựa vào tự ngã ‘ta xinh đẹp, màu da của ta trong sáng. Rāhula dạo chơi ở chỗ không đáng để đi, đi ra ngoài đạo lộ, du hành trong phi hành xứ, đi đến phướng hướng mà không nên đi, giống như một người đi sai hướng. Hơn nữa, phiền não của Rāhula phát triển ở bên trong không thể nhìn thấy được cả lợi ích bản thân (và) cả lợi ích của người khác, thậm chí lợi ích của cả hai theo đúng thực tính. Từ đó (phiền não ấy) sẽ dẫn Rāhula tái sanh trong địa ngục, thậm chí tái sanh làm loại bàn sanh, thậm chí tái sanh làm loài ngạ quỷ, thậm chí trong bào thai của người mẹ chật chội, bởi thế sẽ rơi vào dòng luân hồi vô tận mà không biết được điểm bắt đầu và điểm kết thúc.” Bởi vì điều này –
anatthajanano V.3.96 P.3.133 lobho, lobho cittappakopano.
bhayamantarato jātaṃ, taṃ jano nāvabujjhati.
luddho atthaṃ na jānāti, luddho dhammaṃ na passati.
andhatamaṃ tadā hoti, yaṃ lobho sahate naraṃ. (itivu. 88) —
“Tham là sự sanh ra điều bất lợi, tham là sự khích động của tâm. Người đời không thấu hiểu sự nguy hiểm ấy đã được sanh ra từ bên trong. Người bị khởi tham không biết được sự lợi ích, người bị khởi tham không thấy Pháp. Tham ngự trị người nào, khi ấy người bị mù quáng tối tăm.
yathā kho pana anekaratanapūrā mahānāvā bhinnaphalakantarena udakaṃ ādiyamānā muhuttampi na ajjhupekkhitabbā hoti, vegenassā vivaraṃ pidahituṃ vaṭṭati, evamevaṃ ayampi na ajjhupekkhitabbo. yāvassa ayaṃ kileso abbhantare sīlaratanādīni na vināseti, tāvadeva naṃ niggaṇhissāmīti ajjhāsayamakāsi. evarūpesu pana ṭhānesu buddhānaṃ nāgavilokanaṃ M.3.94 nāma hoti. tasmā yantena parivattitasuvaṇṇapaṭimā viya sakalakāyeneva parivattetvā ṭhito rāhulabhaddaṃ āmantesi. taṃ sandhāya “atha kho bhagavā apaloketvā”tiādi vuttaṃ.
Ta không nên phớt lờ Rāhula này, giống như con thuyền lớn chất đầy nhiều loại châu báu, nước tràn vào khi tấm ván bị vỡ, người lái thuyền không nên phớt lờ dù chỉ trong phút chốc, vì thế ta sẽ cản trở Rāhula ngay khi phiền não này vẫn chưa khởi lên làm cho giới báu ở bên trong bị thoái hóa. Hơn nữa, ở vị trí (nhìn thấy) bởi hình thức như vậy là điều bình thường của chư Phật nhìn vào tựa như voi chúa. Bởi thế đức Thế Tôn đã đứng và xoay toàn bộ thân thể tựa như bức tượng vàng quay lại, ngài đã bảo Rāhula hiền thiện. Trưởng lão Ānanda muốn nhắc đến Rāhula hiền thiện mới nói lời bắt đầu sau: “Khi đó đức Thế Tôn đã quay mặt lại…”
tattha yaṃkiñci rūpantiādīni sabbākārena visuddhimagge khandhaniddese vitthāritāni. netaṃ mamātiādīni mahāhatthipadopame vuttāni. rūpameva nu kho bhagavāti kasmā pucchati? tassa kira — “sabbaṃ rūpaṃ netaṃ mama, nesohamasmi na meso attā”ti sutvā — “bhagavā sabbaṃ rūpaṃ vipassanāpaññāya evaṃ daṭṭhabbanti vadati, vedanādīsu nu kho kathaṃ paṭipajjitabban”ti nayo udapādi. tasmā tasmiṃ naye ṭhito pucchati. nayakusalo hesa āyasmā rāhulo, idaṃ na kattabbanti P.3.134 vutte idampi na kattabbaṃ idampi na kattabbamevāti nayasatenapi nayasahassenapi paṭivijjhati. idaṃ kattabbanti vuttepi eseva nayo.
Ở đó, yaṃkiñci rūpaṃ (bất cứ sắc nào): đã được giảng giải chi tiết trong phần diễn giải về uẩn ở bộ Thanh Tịnh Đạo bằng nhiều phương thức. netaṃ mamā (đó không phải của ta): đã được nói trong Kinh Mahāhatthipadopama.Vì sao Rāhula hỏi rằng “kính bạch Thế Tôn sắc chỉ chừng ấy hay sao?” Được biết rằng Rāhula khởi lên cách thức do đã nghe rằng – “tất cả sắc không phải của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải là tự ngã của ta” – “Đức Thế Tôn nói rằng con nên nhìn thấy tất cả sắc như này bằng Minh sát tuệ, trong thọ v.v, nên thực thành như thế nào?” Vì thế Rāhula đã được thiết lập trong cách đó mới hỏi. Thật vậy, ngài Rāhula là vị rành rẽ cách thức khi đức Thế Tôn thuyết rằng điều này không nên thực hành đã thấu triệt hàng trăm hàng nghìn cách thức như sau: điều này nên thực hành, điều này không nên thực hành. Ngay cả khi đức Thế Tôn thuyết rằng điều này nên thực hành cũng có cách thức tương tự như vậy.
sikkhākāmo hi ayaṃ āyasmā, pātova gandhakuṭipariveṇe patthamattaṃ vālikaṃ okirati — “ajja sammāsambuddhassa santikā mayhaṃ upajjhāyassa santikā ettakaṃ ovādaṃ ettakaṃ paribhāsaṃ labhāmī”ti. sammāsambuddhopi naṃ etadagge ṭhapento — “etadaggaṃ, bhikkhave, mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ sikkhākāmānaṃ yadidaṃ rāhulo”ti (a. ni. 1.209) sikkhāyameva aggaṃ katvā ṭhapesi. sopi āyasmā bhikkhusaṅghamajjhe tameva sīhanādaṃ nadi —
Thật vậy, tôn giả Rāhula là vị ưa thích sự học tập, trải hạt cát ước chừng một bình bát trong khu vực Gandhakuṭi từ sáng sớm với suy nghĩ rằng – “Hôm nay ta sẽ nhận lời giáo huấn chừng này, lời khuyên bảo chừng này từ trú xứ của bậc Chánh đẳng Chánh giác, từ trú xứ của thầy tế độ.” Ngay cả bậc Chánh đẳng Chánh giác đã thiết lập Rāhula vào vị thế tối thắng – “Này chư Tỳ khưu, trong số Tỳ khưu đệ tử của ta, vị ưa thích sự học tập thì Rāhula là vị tối thắng trong số các Tỳ khưu ấy.” (a. ni. 1.209), ngay cả ngài Rāhula ấy cũng đã gầm lên tiếng gầm con sư tử ở giữa hội chúng Tỳ khưu Tăng như thế tương tự như sau –
“sabbametaṃ V.3.97 abhiññāya, dhammarājā pitā mama.
sammukhā bhikkhusaṅghassa, etadagge ṭhapesi maṃ.
sikkhākāmānahaṃ aggo, dhammarājena thomito.
saddhāpabbajitānañca, sahāyo pavaro mama.
dhammarājā pitā mayhaṃ, dhammārakkho ca pettiyo.
sāriputto upajjhāyo, sabbaṃ me jinasāsanan”ti.
Sau khi biết rõ tất cả điều này, đấng Pháp vương là cha của ta, đã đặt ta vào vị thế tối thắng ở trước mặt chư Tỳ khưu Tăng.
Do đấng Pháp vương Ta đã ngợi khen rằng ta là vị tối thắng hơn các vị Tỳ khưu về ưa thích sự học tập, và ta là bạn hữu cao quý của chư Tỳ khưu, và là vị xuất gia vì lòng tin.
Đấng Pháp vương là cha của ta và trưởng lão Sāriputta vị gìn giữ Giáo pháp, vị có sự no vui là thầy tế độ của ta, tất cả đều là lời dạy của bậc Chiến thắng.
athassa bhagavā yasmā na kevalaṃ rūpameva, vedanādayopi evaṃ daṭṭhabbā, tasmā rūpampi rāhulātiādimāha. ko najjāti ko nu ajja. therassa kira etadahosi “sammāsambuddho mayhaṃ attabhāvanissitaṃ chandarāgaṃ ñatvā ‘samaṇena nāma evarūpo vitakko na vitakkitabbo’ti neva pariyāyena kathaṃ kathesi, gaccha bhikkhu rāhulaṃ vadehi M.3.95 ‘mā puna evarūpaṃ vitakkaṃ vitakkesī’ti na dūtaṃ pesesi. maṃ sammukkhe ṭhatvāyeva pana sabhaṇḍakaṃ coraṃ cūḷāya gaṇhanto viya sammukhā sugatovādaṃ adāsi. sugatovādo ca nāma asaṅkheyyehipi kappehi dullabho. evarūpassa buddhassa sammukhā ovādaṃ labhitvā ko nu P.3.135 viññū paṇḍitajātiko ajja gāmaṃ piṇḍāya pavisissatī”ti. athesa āyasmā āhārakiccaṃ pahāya yasmiṃ nisinnaṭṭhāne ṭhitena ovādo laddho, tatova paṭinivattetvā aññatarasmiṃ rukkhamūle nisīdi. bhagavāpi taṃ āyasmantaṃ nivattamānaṃ disvā na evamāha — “mā nivatta tāva, rāhula, bhikkhācārakālo te”ti. kasmā? evaṃ kirassa ahosi — “ajja tāva kāyagatāsatiamatabhojanaṃ bhuñjatū”ti.
Từ đó, không nên nhìn thấy chỉ có sắc mà thôi, ngay cả thọ v.v, cũng nên nhìn thấy như vậy, vì thế đức Thế Tôn đã nói với Rāhula rằng “Này Rāhula, cả sắc”. ko najjā đồng nghĩa với ko nu ajja (hôm nay ai có thể…). Được biết trưởng lão có suy nghĩ như sau: “bậc Chánh đẳng Chánh giác đã biết ta khởi lên ước muốn và ái luyến nương vào sắc thân, không thuyết dạy theo phương pháp ‘điều Sa-môn không nên suy tầm sự suy tầm có hình thức như vậy’, (cả) không được gởi thông điệp như sau: này Tỳ khưu ông hãy đi nói với Rāhula rằng: ‘Đừng có suy tầm sự suy tầm bằng hình thức như vậy nữa’. Đức Thế Tôn đứng đối diện ta ban lời huấn từ của Thiện Thệ ngay trước mặt giống như người túm lấy búi tóc và cả phần thân giữa của tên ăn trộm, lời huấn từ của Thiện Thệ là điều khó đạt được trong vô lượng kiếp, ai đây (nếu như) là người hiểu biết hoặc bậc trí giả (có mặt) được nhận lời giáo huấn ở trước mặt đức Phật bằng hình thức như thế (còn suy nghĩ) hôm nay sẽ đi vào làng để khất thực.” Sau đó tôn giả Rāhula từ bỏ phận sự liên quan đến vật thực và quay trở lại nơi nhận được lời giáo huấn rồi ngồi xuống ở một gốc cây, mặc dù đức Thế Tôn đã nhìn thấy tôn giả Rāhula trở lại cũng đã không thuyết như vầy: – “Này Rāhula, (đây là) thời điểm đi khất thực, con chớ quay lại.” Tại sao? Được biết rằng đức Thế Tôn đã có suy nghĩ rằng: “Hôm nay Rāhula hãy thọ dụng bằng sự thọ dụng bất tử là thân hành niệm trước.”
addasā kho āyasmā sāriputtoti bhagavati gate pacchā gacchanto addasa. etassa kirāyasmato ekakassa viharato aññaṃ vattaṃ, bhagavatā saddhiṃ viharato aññaṃ. yadā hi dve aggasāvakā ekākino vasanti, tadā pātova senāsanaṃ sammajjitvā sarīrapaṭijagganaṃ katvā samāpattiṃ appetvā sannisinnā attano cittaruciyā bhikkhācāraṃ gacchanti. bhagavatā saddhiṃ viharantā pana therā evaṃ na karonti. tadā hi bhagavā bhikkhusaṅghaparivāro paṭhamaṃ bhikkhācāraṃ gacchati. tasmiṃ gate thero attano senāsanā nikkhamitvā — “bahūnaṃ vasanaṭṭhāne nāma sabbeva pāsādikaṃ V.3.98 kātuṃ sakkonti vā, na vā sakkontī”ti tattha tattha gantvā asammaṭṭhaṃ ṭhānaṃ sammajjati. sace kacavaro achaḍḍito hoti, taṃ chaḍḍeti. pānīyaṭṭhapetabbaṭṭhānamhi pānīyakūṭe asati pānīyaghaṭaṃ ṭhapeti. gilānānaṃ santikaṃ gantvā, “āvuso, tumhākaṃ kiṃ āharāmi, kiṃ vo icchitabban”ti? pucchati.
addasā kho āyasmā sāriputto (Tôn giả Sāriputta nhìn thấy tôn giả Rāhula): Khi đức Thế Tôn đã đi, ngài Sāriputta đi phía sau đã nhìn thấy. Được biết rằng khi tôn giả Sāriputta sống một mình ngài có một nhiệm vụ khác, khi ở cùng với đức Thế Tôn cũng có nhiệm vụ khác. Thật vậy, thời gian nào cả hai vị đệ tử tối thắng sống một mình, thời gian đó cả hai vị quét dọn trú xứ từ sáng sớm, làm sạch cơ thể, ngồi xuống thể nhập thiền diệt, sau đó đi trì bình khất thực tùy theo ý thích của mình. Hơn nữa, cả hai vị trưởng lão khi sống cùng với đức Thế Tôn không làm như vậy. Bởi vì, trong thời gian đó đức Thế Tôn được vây quanh bởi chư Tỳ khưu, ngài đi khất thực trước, khi đức Thế Tôn đi rồi thì trưởng lão rời khỏi chỗ trú ngụ của mình nghĩ rằng – “Ở chỗ mà nhiều Tỳ khưu cư trú, các Tỳ khưu có thể tạo được niềm tin hoặc không thể” mới đi đến nơi đó rồi quét dọn ở nơi chưa được quét dọn.” Nếu như rác rưởi vẫn chưa được đổ bỏ thì mang đi đổ bỏ. Khi chưa có bình nước uống ở chỗ nên đặt nước uống cũng đặt bình nước uống. Đi thăm hỏi vị Tỳ khưu bệnh, hỏi rằng, “này hiền giả, tôi mang gì đến để cúng dường ngài? Ngài cần được gì?”
avassikadaharānaṃ santikaṃ gantvā — “abhiramatha, āvuso, mā ukkaṇṭhittha, paṭipattisārakaṃ buddhasāsanan”ti ovadati. evaṃ katvā sabbapacchā bhikkhācāraṃ gacchati. yathā P.3.136 hi cakkavatti kuhiñci gantukāmo senāya parivārito paṭhamaṃ nikkhamati, pariṇāyakaratanaṃ senaṅgāni saṃvidhāya pacchā nikkhamati, evaṃ saddhammacakkavatti bhagavā bhikkhusaṅghaparivāro paṭhamaṃ nikkhamati, tassa bhagavato pariṇāyakaratanabhūto dhammasenāpati imaṃ kiccaṃ katvā sabbapacchā nikkhamati. so evaṃ nikkhanto tasmiṃ divase aññatarasmiṃ rukkhamūle nisinnaṃ rāhulabhaddaṃ addasa. tena vuttaṃ “pacchā gacchanto addasā”ti.
Đi tìm vị Tỳ khưu trẻ vẫn chưa có hạ lạp rồi bảo rằng – “này hiền giả, mong hiền giả hoan hỷ, hãy đừng nhàm chán trong lời dạy của đức Phật có cốt lõi là sự thực hành”. Khi đã thực hành như vậy rồi thì tất cả cũng đều đi trì bình khất thực. Giống như vị Chuyển luân vương có ý muốn đi đến bất cứ nơi nào được vây quanh bởi đạo quân đi trước, vị Tướng quân báu bố trí binh chủng theo sau như thế nào, đức Thế Tôn là vị Chuyển luân vương của Chánh Pháp cũng như thế đó, vây quanh bởi Chúng Tăng ngài đi trước, vị Tướng quân Chánh Pháp là vị Tướng quân báu của đức Thế Tôn đó, hoàn thành công việc này rồi mới đi ra phía sau tất cả vị Tỳ khưu. Trưởng lão ấy rời đi như vậy trong ngày hôm đó đã nhìn thấy Rāhula hiền thiện ngồi ở dưới một gốc cây. Bởi thế ngài đã nói rằng “Tôn giả Sārīputta đi phía sau đã nhìn thấy…”
atha M.3.96 kasmā ānāpānassatiyaṃ niyojesi? nisajjānucchavikattā. thero kira “etassa bhagavatā rūpakammaṭṭhānaṃ kathitan”ti anāvajjitvāva yenākārena ayaṃ acalo anobaddho hutvā nisinno, idamassa etissā nisajjāya kammaṭṭhānaṃ anucchavikanti cintetvā evamāha. tattha ānāpānassatinti assāsapassāse pariggahetvā tattha catukkapañcakajjhānaṃ nibbattetvā vipassanaṃ vaḍḍhetvā arahattaṃ gaṇhāhīti dasseti.
Khi đó, tại sao ngài Sāriputta khích lệ trong niệm hơi thở? Bởi vì thích hợp cho việc ngồi. Được biết rằng trưởng lão đã suy nghĩ rằng: “Đức Thế Tôn đã thuyết sắc nghiệp xứ (rūpakammaṭṭhāna) cho Rāhula” nghĩ rằng nghiệp xứ này phù hợp cho việc ngồi thiền của Rāhula ấy, bằng biểu hiện này Rāhula đã ngồi không lay động trên toạ cụ, mới nói như vậy. Ở đây, niệm hơi thở (niệm hơi thở vào và niệm hơi thở ra) trưởng lão Sāriputta đã chỉ ra rằng con hãy xác định hơi thở vào và hơi thở ra rồi hành thiền nhóm 4 nhóm 5 để cho sanh khởi ở trong niệm hơi thở ấy, rồi thực hành Minh sát, nắm lấy quả vị A-ra-hán.
mahapphalā hotīti kīvamahapphalā hoti? idha bhikkhu ānāpānassatiṃ anuyutto ekāsane nisinnova sabbāsave khepetvā arahattaṃ pāpuṇāti, tathā asakkonto maraṇakāle samasīsī hoti, tathā asakkonto devaloke nibbattitvā dhammakathikadevaputtassa dhammaṃ sutvā arahattaṃ pāpuṇāti, tato viraddho anuppanne buddhuppāde paccekabodhiṃ sacchikaroti, taṃ asacchikaronto buddhānaṃ sammukhībhāve bāhiyattherādayo viya khippābhiñño hoti, evaṃ mahapphalā. mahānisaṃsāti tasseva vevacanaṃ. vuttampi cetaṃ —
Mahapphalā (có quả báu lớn): có quả báu lớn như thế nào? Vị Tỳ khưu trong Tôn giáo này nhiệt tâm thực hành niệm hơi thở, ngồi trên một tọa cụ, sau khi đã quăng bỏ tất cả các lậu hoặc chứng đắc quả vị A-ra-hán. Khi không thể làm như thế cũng trở thành samasīsī1 (chấm dứt mạng sống cùng dứt trừ phiền não) vào lúc tử. Nếu không thể như vậy (chứng đắc) cũng hóa sanh vào thế giới chư Thiên, khi lắng nghe Pháp của vị Thiên tử là vị Pháp sư (sẽ) chứng đắc quả vị A-ra-hán. Kể từ đó trở đi không sanh vào thời kỳ đức Phật Toàn giác, tác chứng trở thành quả vị Phật Độc giác. Nếu không tác chứng quả vị Phật Độc giác cũng sẽ trở thành vị tốc chứng A-ra-hán, ở trước mặt tất cả các vị Phật giống nhưu trưởng lão Bāhiya v.v, có được quả báu lớn như vậy. Mahānisaṃsā là từ đồng nghĩa với mahapphalā. Thậm chí đã được đức Thế Tôn nói rằng:
“ānāpānassatī yassa, paripuṇṇā subhāvitā.
anupubbaṃ paricitā, yathā buddhena desitā.
somaṃ lokaṃ pabhāseti, abbhā muttova candimā’ti. (theragā. 548; paṭi. ma. 1.1.60) –
imaṃ V.3.99 mahapphalataṃ sampassamāno thero saddhivihārikaṃ tattha niyojeti.
Niệm hơi thở vào hơi thở ra của vị nào được tròn đủ, khéo được tu tập, được tích lũy theo tuần tự thứ lớp giống như điều đã được thuyết giảng bởi đức Phật, vị ấy chiếu sáng thế gian này, tựa như mặt trăng được thoát khỏi đám mây. (theragā. 548; paṭi. ma. 1.1.60) –
Trưởng lão trong khi nhìn thấy rõ hiện tướng niệm hơi thở có quả báu lớn đã khích lệ đối với vị đệ tử thực hành niệm hơi thở đó.
iti bhagavā rūpakammaṭṭhānaṃ, thero ānāpānassatinti ubhopi kammaṭṭhānaṃ ācikkhitvā gatā, rāhulabhaddo vihāreyeva ohīno. bhagavā tassa ohīnabhāvaṃ jānantopi neva attanā khādanīyaṃ bhojanīyaṃ gahetvā agamāsi, na ānandattherassa hatthe pesesi, na pasenadimahārājānāthapiṇḍikādīnaṃ saññaṃ adāsi. saññāmattakañhi labhitvā te kājabhattaṃ abhihareyyuṃ. yathā ca bhagavā, evaṃ sāriputtattheropi na kiñci akāsi. rāhulatthero nirāhāro chinnabhatto ahosi. tassa panāyasmato — “bhagavā maṃ vihāre ohīnaṃ jānantopi attanā laddhapiṇḍapātaṃ nāpi sayaṃ gahetvā āgato, na aññassa hatthe pahiṇi M.3.97, na manussānaṃ saññaṃ adāsi, upajjhāyopi me ohīnabhāvaṃ jānanto tatheva na kiñci akāsī”ti cittampi na uppannaṃ, kuto tappaccayā omānaṃ vā atimānaṃ vā janessati. bhagavatā pana ācikkhitakammaṭṭhānameva purebhattampi pacchābhattampi — “itipi rūpaṃ aniccaṃ, itipi dukkhaṃ, itipi asubhaṃ, itipi anattā”ti aggiṃ abhimatthento viya nirantaraṃ manasikatvā sāyanhasamaye cintesi — “ahaṃ upajjhāyena ānāpānassatiṃ bhāvehīti vutto P.3.138, tassa vacanaṃ na karissāmi. ācariyupajjhāyānañhi vacanaṃ akaronto dubbaco nāma hoti. ‘dubbaco rāhulo, upajjhāyassapi vacanaṃ na karotī’ti ca garahuppattito kakkhaḷatarā pīḷā nāma natthī”ti bhāvanāvidhānaṃ pucchitukāmo bhagavato santikaṃ agamāsi. taṃ dassetuṃ atha kho āyasmā rāhulotiādi vuttaṃ.
Đồng nghĩa với việc cả hai vị đã nói nghiệp xứ cho Rāhula là đức Thế Tôn nói sắc nghiệp xứ, trưởng lão nói niệm hơi thở, sau khi nói nghiệp xứ cả hai vị đã rời đi. Rāhula hiền thiện đã bị bỏ lại tịnh xá ấy. Đức Thế Tôn thậm chí biết được rằng Rāhula hiền thiện bị bỏ lại phía sau đó, đã không thọ nhận phần vật thực cứng bởi chính mình cũng không đi, không được gởi đến tay trưởng lão Ānanda, không ra hiệu cho đại vương Pasenadi và trưởng giả Anāthapiṇḍika v.v. Bởi vì dân chúng chỉ cần nhận biết được dấu hiệu cũng sẽ mang đầy vật thực đến. Và giống như đức Thế Tôn, chính trưởng lão Sāriputta cũng không làm bất cứ điều gì cả. Trưởng lão Rāhula đã nhịn đói, bỏ lỡ bữa ăn. Nhưng ngài Rāhula lại có tâm không sanh khởi rằng: “Đức Thế Tôn biết ta bỏ ra sau tịnh xá, đã thọ nhận đồ ăn khất thực mà ngài đã giữ lấy bởi chính mình cũng không mang đến cho, cũng không gởi người khác mang đến cho, cũng không nói cho mọi người biết, thậm chí thầy tế độ cũng biết rằng ta bị bỏ lại ở phía sau tịnh xá, cũng không có bất cứ điều gì cả, (những điều) tương tự y như vậy.” Sự quá mạn và sự tự ti do việc đó làm duyên sẽ có từ đâu? Lại nữa, ngài Rāhula đã tác y theo tuần tự đến nghiệp xứ mà đức Thế Tôn đã nói, kể cả trước bữa ăn, thậm chí sau bữa ăn rằng: “Sắc là vô thường như vậy, là khổ như vậy, là bất tịnh như vậy, là vô ngã như vậy” tựa như người mong muốn được ngọn lửa vào ban đêm mới nghĩ rằng – “Thầy tế độ của ta nói rằng con hãy tu tập niệm hơi thở, con sẽ tin tưởng ngài, bởi vì người không tin tưởng thầy dạy học và thầy tế độ gọi là người khó dạy. Vì thế gọi là sự xúc phạm nặng nề khởi lên của chỉ trích rằng ‘Rāhula là người khó dạy, không thực hành theo lời dạy của thầy tế độ (điều như thế) là không có’, ngài Rāhula có ý muốn hỏi đến phương pháp thực hành bhāvanā mới đi đến gặp đức Thế Tôn, để trình bày ý nghĩa đó trưởng lão Ānanda đã nói câu được bắt đầu như sau: “Khi ấy tôn giả Rāhula nghĩ rằng…”
114. tattha paṭisallānāti ekībhāvato. yaṃkiñci rāhulāti kasmā? bhagavā ānāpānassatiṃ puṭṭho rūpakammaṭṭhānaṃ kathetīti. rūpe chandarāgappahānatthaṃ. evaṃ kirassa ahosi — “rāhulassa attabhāvaṃ nissāya chandarāgo uppanno, heṭṭhā cassa saṅkhepena rūpakammaṭṭhānaṃ kathitaṃ. idānissāpi dvicattālīsāya ākārehi attabhāvaṃ virājetvā visaṅkharitvā taṃnissitaṃ chandarāgaṃ anuppattidhammataṃ āpādessāmī”ti. atha ākāsadhātuṃ kasmā vitthāresīti? upādārūpadassanatthaṃ. heṭṭhā hi cattāri mahābhūtāneva kathitāni, na upādārūpaṃ. tasmā iminā mukhena taṃ dassetuṃ ākāsadhātuṃ vitthāresi. apica ajjhattikena ākāsena paricchinnarūpampi pākaṭaṃ hoti.
Ở đó, Paṭisallānā (từ chỗ thiền tịnh): là từ bản thể chỉ có một. yaṃkiñci rāhula (Rāhula bất cứ sắc nào): tại sao Rāhula hỏi đến niệm hơi thở, đức Thế Tôn lại thuyết sắc nghiệp xứ? Để dứt bỏ ước muốn và luyến ai trong sắc. Được biết Đức Thế Tôn đã có suy nghĩ như vầy: “Ước muốn và luyến ái đã sanh khởi cùng Rāhula do nương vào sắc thân (attabhāva). Thậm chí ở trong phần sau ngài cũng thuyết sắc nghiệp xứ vắn tắt cho Rāhula. Bây giờ ta sẽ phân tích không tạo tác sắc thân bằng bốn mươi biểu hiện rồi làm cho ước muốn và ái luyến liên quan đến sắc thân đó của Rāhula khiến cho không sanh trở lại nữa”. Vậy thì tại sao đức Thế Tôn giải thích chi tiết hư không giới (ākāsadhātu)? Để trình bày sắc thủ (upādāyarūpa) bởi ngài nói đến bốn sắc đại hiển ở phần sau, không nói đến sắc thủ, vì thế để trình bày sắc thủ đó bằng cách này mới giảng giải chi tiết hư không giới. Và hơn nữa, ngay cả sắc giao giới cũng hiện hữu bởi hư không bên trong.
ākāsena V.3.100 paricchinnaṃ, rūpaṃ yāti vibhūtataṃ.
tassevaṃ āvibhāvatthaṃ, taṃ pakāsesi nāyako.
ettha P.3.139 pana purimāsu tāva catūsu dhātūsu yaṃ vattabbaṃ, taṃ mahāhatthipadopame vuttameva.
Để sự hiện hữu rõ rệt của sắc được xác định bởi hư không, trong khi được trang trí như vậy, đức Thế Tôn vị lãnh đạo đã tuyên thuyết sắc đó.
Câu cần nói trong 4 giới (dhātu) ở bài Kinh này và bài Kinh trước đã được nói trong bài Kinh Mahāhatthipadopama.
118. ākāsadhātuyaṃ ākāsagatanti ākāsabhāvaṃ gataṃ. upādinnantiādinnaṃ gahitaṃ parāmaṭṭhaṃ, sarīraṭṭhakanti attho. kaṇṇacchiddanti maṃsalohitādīhi asamphuṭṭhakaṇṇavivaraṃ. nāsacchiddādīsupi eseva nayo. yena M.3.98 cāti yena chiddena. ajjhoharatīti anto paveseti, jivhābandhanato hi yāva udarapaṭalā manussānaṃ vidatthicaturaṅgulaṃ chiddaṭṭhānaṃ hoti. taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ. yattha cāti yasmiṃ okāse. santiṭṭhatīti patiṭṭhāti. manussānañhi mahantaṃ paṭaparissāvanamattañca udarapaṭalaṃ nāma hoti. taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ. adhobhāgaṃ nikkhamatīti yena heṭṭhā nikkhamati. dvattiṃsahatthamattaṃ ekavīsatiyā ṭhānesu vaṅkaṃ antaṃ nāma hoti. taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ. yaṃ vā panaññampīti iminā sukhumasukhumaṃ cammamaṃsādiantaragatañceva lomakūpabhāvena ca ṭhitaṃ ākāsaṃ dasseti. sesametthāpi pathavīdhātuādīsu vuttanayeneva veditabbaṃ.
Ākāsagataṃ (có trạng thái khoảng trống): có trạng thái khoảng trống là thực tính Pháp. Upādinnaṃ (sắc thủ): đã được nắm lấy, đã được bám víu (nghiệp và phiền não), tức là sự chấp thủ buộc chặt được thiết lập ở trong thân. Kaṇṇacchiddaṃ (lỗ tai): là khoảng trống trong lỗ tai, không tiếp xúc với thịt và máu. Nāsacchiddaṃ (lỗ mũi): Lỗ mũi cũng có cách thức tương tự. Yena ca: bằng lỗ nào? Ajjhoharati (nuốt): nuốt vào bên trong. Câu này ngài muốn đề cập đến những chỗ có lỗ (khoảng trống) một vidatthi2 và bốn ngón tay của con người từ đầu lưỡi đến dạ dày. yattha cā: là trong khoảng trống nào? Santiṭṭhati (đứng yên) là được thiết lập. Câu này ngài muốn ám chỉ đến màng nhầy của dạ dày to lớn giống như một tấm vải lọc nước loại lớn của những con người. adhobhāgaṃ nikkhamati (được tống xuất xuống phần dưới để ra ngoài): được thải ra xuống phần dưới, câu này ngài muốn ám chỉ đến ruột già, dài khoảng 32 hắt tay ở 21 vị trí. yaṃ vā panaññampi (hoặc bất cứ thứ gì): Ngài muốn ám chỉ đến khoảng trống lưu chuyển ở giữa trái tim và thịt v.v, và chỗ thiết lập bởi tính chất nang lông. Từ còn lại ở câu này nên hiểu theo phương thức đã được trình bày trong phần Địa Giới v.v.
119. idānissa tādibhāvalakkhaṇaṃ ācikkhanto pathavīsamantiādimāha. iṭṭhāniṭṭhesu hi arajjanto adussanto tādī nāma hoti. manāpāmanāpāti P.3.140 ettha aṭṭha lobhasahagatacittasampayuttā manāpā nāma, dve domanassacittasampayuttā amanāpā nāma. cittaṃ na pariyādāya ṭhassantīti ete phassā uppajjitvā tava cittaṃ antomuṭṭhigataṃ karonto viya pariyādāya gahetvā ṭhātuṃ na sakkhissanti “ahaṃ sobhāmi, mayhaṃ vaṇṇāyatanaṃ pasannan”ti puna attabhāvaṃ nissāya chandarāgo nuppajjissati. gūthagatantiādīsu gūthameva gūthagataṃ. evaṃ sabbattha.
119 Bây giờ, đức Thế Tôn thuyết đến trạng thái tính chất kiên định của Rāhula đã nói câu bắt đầu rằng “tu tập như đất”. Hạng người không hoan hỷ, không bất mãn trong đối tượng khả ái và bất khả ái gọi là người kiên định (tādī-puggala). Manāpāmanāpā (vừa ý và không vừa ý) này nên hiểu ý nghĩa như sau: xúc phối hợp với tâm câu hữu với 8 tâm tham gọi là vừa ý, xúc phối hợp với 2 tâm sân gọi là không vừa ý. cittaṃ na pariyādāya ṭhassanti (xúc sẽ không khuấy nhiễu tâm đã được vững trú): nghĩa là các xúc đã sanh khởi sẽ không thể khuấy nhiễu tâm của ngài, giống như được tạo ra trong lòng bàn tay, ước muốn và luyến ái sẽ không sanh khởi do nương vào sắc thân nữa (mà cho rằng): “tôi xinh đẹp, màu da của tôi trong sáng”. Phân uế gọi là gūtha trong từ gūthagataṃ. Tất cả câu (còn lại) đều như vậy.
na katthaci patiṭṭhitoti pathavīpabbatarukkhādīsu ekasmimpi na patiṭṭhito, yadi hi pathaviyaṃ patiṭṭhito bhaveyya, pathaviyā bhijjamānāya saheva bhijjeyya, pabbate patamāne saheva pateyya, rukkhe chijjamāne saheva chijjeyya.
na katthaci patiṭṭhito (cũng giống như hư không không vững trú bất cứ đâu): Không bị trú tại một chỗ nào có trong mặt đất, đỉnh núi và cây cối v.v. nếu như hư không vững trú ở trên mặt đất khi mặt đất bị hủy hoại thì hư không cũng có thể hủy hoại, khi ngọn núi sụp đổ thì (hư không) cũng bị sụp đổ, khi cây cối gãy thì (hư không) cũng gãy theo.
120. mettaṃ V.3.101 rāhulāti kasmā ārabhi? tādibhāvassa kāraṇadassanatthaṃ. heṭṭhā hi tādibhāvalakkhaṇaṃ dassitaṃ, na ca sakkā ahaṃ tādī homīti akāraṇā bhavituṃ, napi “ahaṃ uccākulappasuto bahussuto lābhī, maṃ rājarājamahāmattādayo bhajanti, ahaṃ tādī homī”ti imehi kāraṇehi koci tādī nāma hoti, mettādibhāvanāya pana hotīti tādibhāvassa kāraṇadassanatthaṃ imaṃ desanaṃ ārabhi.
120 Tại sao đức Thế Tôn lại bắt đầu “này Rahula, con hãy tu tập sự tu tập về tâm từ”? Để trình bày lý do của tính chất người kiên định. Bởi vì đã được trình bày trạng thái tính chất người kiên định trước rồi. Và ai không thể thực hành do không phải nguyên nhân rằng ‘ta là người kiên định’ ở phần dưới, và ai không phải gọi là người kiên định bởi những lý do này ‘ta là người nỗ lực cố gắng trong gia đình cao quý, là bậc đa văn, là vị có lợi đắc.’ Đức vua và quan đại thần của đức vua v.v, thân cận ta. Ta là người kiên định’, tuy nhiên người kiên định bởi do việc tu tập tâm từ v.v, bởi vậy đức Thế Tôn bắt đầu thuyết điều này để trình bày nguyên nhân của tính chất người kiên định.
tattha M.3.99 bhāvayatoti upacāraṃ vā appanaṃ vā pāpentassa. yo byāpādoti yo satte kopo, so pahīyissati. vihesāti pāṇiādīhi sattānaṃ vihiṃsanaṃ. aratīti pantasenāsanesu ceva adhikusaladhammesu ca ukkaṇṭhitatā. paṭighoti yattha katthaci sattesu saṅkhāresu ca paṭihaññanakileso. asubhanti P.3.141 uddhumātakādīsu upacārappanaṃ. uddhumātakādīsu asubhabhāvanā ca nāmesā vitthārato visuddhimagge kathitāva. rāgoti pañcakāmaguṇikarāgo. aniccasaññanti aniccānupassanāya sahajātasaññaṃ. vipassanā eva vā esā asaññāpi saññāsīsena saññāti vuttā. asmimānoti rūpādīsu asmīti māno.
Ở đó, bhāvayato (khi tu tập): phát triển làm cho đạt đến cận định, hoặc an chỉ định. yo byāpādo (cái gì là sân độc): cái gì là sự sân hận trong chúng sanh, cái đó sẽ bị diệt trừ. Vihesā (sự não hại): sự làm tổn thương tất cả chúng sanh bằng bàn tay v.v. Arati (không hoan hỷ): Tính chất người nhàm chán trong trú xứ yên tịnh và trong Pháp tối thiện (adhi-kusala). Paṭigho (sự phẫn nộ): phiền não là phương tiện khiến khởi lên sự nóng đốt ở mọi nơi. Asubhaṃ (bất mỹ): là tu tập cận định và an chỉ định trong xác chết bị trương phình v.v. uddhumātakā (xác chết trương phình): thực hành đề mục bất tịnh này ngài đã nói chi tiết trong bộ Thanh Tịnh Đạo. Rāgo (ái luyến): luyến ái phối hợp với sự trói buộc của năm dục. Aniccasaññaṃ (tu tập tưởng về vô thường): Tưởng khởi lên cùng với tùy quán vô thường, hoặc cũng chính là Minh sát, thậm chí không có tưởng ngài cũng nói rằng tưởng bằng đầu đề của tưởng. Asmimāno (chấp rằng ta có mặt): có ngã mạn cho rằng ta tồn tại trong sắc v.v.
121. idāni therena pucchitaṃ pañhaṃ vitthārento ānāpānassatintiādimāha. tattha idaṃ kammaṭṭhānañca kammaṭṭhānabhāvanā ca pāḷiattho ca saddhiṃ ānisaṃsakathāya sabbo sabbākārena visuddhimagge anussatiniddese vitthāritoyeva. imaṃ desanaṃ bhagavā neyyapuggalavaseneva pariniṭṭhāpesīti.
121 Bây giờ đức Thế Tôn khi làm cho vấn đề mà trưởng lão hỏi được chi tiết đã nói rằng ‘niệm hơi thở’. Nghiệp xứ, tu tập nghiệp xứ và ý nghĩa của Pāḷī cùng với lợi ích của lời nói ngài đã nói chi tiết trong phần diễn giải tùy niệm hơi thở trong bộ Thanh Tịnh Đạo bằng mọi khía cạnh mọi phương diện. Đức Thế Tôn kết thúc Pháp thoại bởi khả năng của hạng người cần được hướng dẫn.
Giải Thích Đại Kinh Giáo Giới Rāhula Kết Thúc
-
1Jīvita-samasīsī: Hạng người đã đoạn trừ phiền não và chấm dứt mạng sống, người đắc đạo cao rồi tử ngay lúc đó.
-
Jīvita-samasīsī: Hạng người đã đoạn tận lậu hoặc, hay phiền não trầm luân, và cũng đồng chấm dứt mạng sống là bậc Thánh A-ra-hán Quả ở sát-na duy nhất, và cũng chấm dứt mạng sống ngay tại sát-na ấy.
Chú giải Tăng Chi Bộ Kinh, Manorathapūranī, giải thích ý nghĩa Samasīsī như sau: việc đoạn trừ các lậu hoặc, cùng với việc chấm dứt mạng sống, bằng 1 trong 4 cách sau:
-
Đoạn trừ lậu hoặc cùng hết thảy ái gọi là rogasamasīsī
-
Đoạn trừ lậu hoặc cùng với thọ, ở sát-na thọ hưởng sự an lạc tối thượng gọi là vedanāsamasīsī
-
Đoạn trừ lậu hoặc cùng với chấm dứt bất kỳ oai nghi iriyapāda nào đó, gọi là iriyapādasamasīsī
-
Đoạn trừ lậu hoặc cùng với chấm dứt mạng sống, gọi là jīvitasamasīsī
* Có thể tìm trong nhân chế định puggalapaññatti
2 1 vidatthi = 12 lần bề rộng của ngón tay (VibhA. 343).