Kinh số 60 – Giải Thích Kinh Không Gì Chuyển Hướng
(Apaṇṇakasuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Không Gì Chuyển Hướng
92. evaṃ V.3.84 me sutanti apaṇṇakasuttaṃ. tattha cārikanti aturitacārikaṃ.
92. Bài Kinh Không Gì Chuyển Hướng được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, cārikaṃ (đi du hành): đi du hành không vội vã.
93. atthi pana vo gahapatayoti kasmā āha? so kira gāmo aṭavidvāre niviṭṭho. nānāvidhā samaṇabrāhmaṇā divasaṃ maggaṃ P.3.116 gantvā sāyaṃ taṃ gāmaṃ vāsatthāya upenti, tesaṃ te manussā mañcapīṭhāni pattharitvā pāde dhovitvā pāde makkhetvā kappiyapānakāni datvā punadivase nimantetvā dānaṃ denti. te pasannacittā tehi saddhiṃ sammantayamānā evaṃ vadanti “atthi pana vo gahapatayo kiñci dassanaṃ gahitan”ti? natthi, bhanteti. “gahapatayo vinā dassanena loko na niyyāti, ekaṃ dassanaṃ ruccitvā khamāpetvā gahetuṃ vaṭṭati, ‘sassato loko’ti dassanaṃ gaṇhathā”ti vatvā pakkantā. aparadivase aññe āgatā. tepi tatheva pucchiṃsu.
93. Tại sao ngài nói atthi pana vo gahapatayo (này các gia chủ, các ông có vị Đạo sư nào mà các Ông có lý do đặt được lòng tin không?). Như được biết rằng ngôi nhà ấy tọa lạc ở gần cửa rừng, nhóm Sa-môn, Bà-la-môn thuộc nhiều thành phần sau khi đi đường cả ngày đã đi vào ngôi làng đó để nghỉ ngơi vào buổi chiều tối, hay buổi sáng, dân làng đã trải giường ghế cúng dường đến Sa-môn, Bà-la-môn ấy, đã rửa chân, đã thoa chân, đã cúng dường nước uống thích hợp, vào ngày kế tiếp họ đã thỉnh mời để dâng cúng vật thí. Những Sa-môn, Bà-la-môn có tâm thanh tịnh, nói chuyện với họ như vầy: “Có hay chăng này các gia chủ sự hiểu biết (dassana) nào mà các vị chấp chặt?” Không có, thưa ngài. – Các vị Sa-môn, Bà-la-môn đã nói rằng “này các gia chủ, (nếu) mất đi bởi sự hiểu biết (dassana) thì thế giới không thể hoạt động được, các vị ưu thích một sự hiểu biết nào thấy thích hợp nắm lấy cũng nên. các vị hãy nắm lấy sự hiểu biết rằng “thế giới là thường còn” rồi cùng nhau lên đường. Ngày tiếp theo các Sa-môn, Bà-la-môn khác đến cũng hỏi tương tự như vậy.
te tesaṃ “āma, bhante, purimesu divasesu tumhādisā samaṇabrāhmaṇā āgantvā ‘sassato loko’ti amhe idaṃ dassanaṃ gāhāpetvā gatā”ti ārocesuṃ. “te bālā kiṃ jānanti? ‘ucchijjati ayaṃ loko’ti ucchedadassanaṃ gaṇhathā”ti evaṃ tepi ucchedadassanaṃ gaṇhāpetvā pakkantā. etenupāyena aññe ekaccasassataṃ, aññe antānantaṃ M.3.82, aññe amarāvikkhepanti evaṃ dvāsaṭṭhi diṭṭhiyo uggaṇhāpesuṃ. te pana ekadiṭṭhiyampi patiṭṭhātuṃ nāsakkhiṃsu. sabbapacchā bhagavā agamāsi. so tesaṃ hitatthāya pucchanto “atthi pana vo gahapatayo”tiādimāha. tattha ākāravatīti kāraṇavatī sahetukā. apaṇṇakoti aviraddho advejjhagāmī ekaṃsagāhiko.
Dân làng cũng đáp các vị ấy rằng “thưa vâng, bạch ngài, rồi nói rằng hôm trước có một nhóm các vị Sa-môn, Bà-la-môn như các ngài đã đến nói cho chúng tôi nắm lấy sự hiểu biết rằng “thế giới là thường còn” rồi rời đi. – (các vị Sa-môn, Bà-la-môn nói rằng) “Bọn đó thật ngu ngốc, biết gì?” – “Thế giới này bị hoại diệt” hãy nắm lấy sự hiểu biết “sự diệt vong” như vậy sau khi cho chính dân làng nắm lấy sự hiểu biết rằng “sự diệt vong” rồi ra đi. Bằng cách thức đó một nhóm cho nắm lấy “thế giới là thường hằng”, nhóm khác cho nắm lấy “thế giới có giới hạn, thế giới không có giới hạn”, nhóm khác cho nắm lấy “ngụy biện luận” như vậy các vị Sa-môn, Bà-la-môn đã dạy cho (dân làng) nắm lấy 62 loại tà kiến. Tuy nhiên những người dân ấy không thể bị thiết lập dù chỉ một loại tà kiến. Đức Thế Tôn đã đi sau toàn bộ các Sa-môn, Bà-la-môn, hỏi vì lợi ích của những người dân ấy mới thuyết rằng: “này các gia chủ, các ông có vị Đạo sư nào mà các Ông có lý do đặt được lòng tin không?” v.v. Ở đó, ākāravati: có lý do, có nhân. Apaṇṇako: không sai, không phải con đường ngã, chỉ nắm lấy được một phần.
94. natthi dinnantiādi dasavatthukā micchādiṭṭhi heṭṭhā sāleyyakasutte vitthāritā. tathā tabbipaccanīkabhūtā sammādiṭṭhi.
Tà kiến có 10 nền tảng chẳng hạn như bố thí không có kết quả (natthi dinnaṃ) v.v, đã được giải thích chi tiết trong bài Kinh Sāleyyaka trước. Chánh kiến là bản thể đối nghịch với tà kiến cũng tương tự như vậy.
95. nekkhamme ānisaṃsanti yo nesaṃ akusalato nikkhantabhāve ānisaṃso, yo ca vodānapakkho visuddhipakkho, taṃ na passantīti attho. asaddhammasaññattīti P.3.117 abhūtadhammasaññāpanā V.3.85. attānukkaṃsetīti ṭhapetvā maṃ ko añño attano dassanaṃ pare gaṇhāpetuṃ sakkotīti attānaṃ ukkhipati. paraṃ vambhetīti ettakesu janesu ekopi attano dassanaṃ pare gaṇhāpetuṃ na sakkotīti evaṃ paraṃ heṭṭhā khipati. pubbeva kho panāti pubbe micchādassanaṃ gaṇhantasseva susīlyaṃ pahīnaṃ hoti, dussīlabhāvo paccupaṭṭhito. evamassimeti evaṃ assa ime micchādiṭṭhiādayo satta. aparāparaṃ uppajjanavasena pana teyeva micchādiṭṭhipaccayā aneke pāpakā akusalā dhammā uppajjanti nāma.
Nekkhamme ānisaṃsaṃ (lợi ích trong việc xuất ly): họ không nhìn thấy được lợi ích nào trong trạng thái thoát khỏi bất thiện và không nhìn thấy Pháp trắng là Pháp thanh tịnh. Asaddhammasaññatti dịch là việc chế định Pháp không như thật. Attānukkaṃseti (đề cao bản thân): Đề cao bản thân, ngoài ta ra thì chẳng có người nào khác có thể nữa nắm lấy sự nhận biết của bản thân được. Paraṃ vambheti (khinh miệt người khác): đẩy người khác đặt ở phía sau rằng, trong số tất cả mọi người số lượng khoảng chừng ấy, ngay cả một người cũng không thể làm cho người khác nắm lấy sự hiểu biết của bản thân được. pubbeva kho panā (từ bỏ trạng thái người có giới trước): Khi người khác nắm lấy quan điểm sai lầm trước kia đã dứt trừ đức hạnh này, (thì) bản thể ác giới có mặt. Evamassime tách từ thành evaṃ assa ime, 7 Pháp có tà kiến v.v, có mặt nơi vị ấy như vậy. Nhưng nhiều Pháp ác bất thiện có tà kiến làm duyên đó đó gọi là sanh khởi do mãnh lực đã sanh khởi đi sanh khởi lại.
tatrāti tāsu tesaṃ samaṇabrāhmaṇānaṃ laddhīsu. kaliggahoti parājayaggāho. dussamatto samādinnoti duggahito dupparāmaṭṭho. ekaṃsaṃ pharitvā tiṭṭhatīti ekantaṃ ekakoṭṭhāsaṃ sakavādameva pharitvā adhimuccitvā tiṭṭhati, “sace kho natthi paro loko”ti evaṃ santeyeva sotthibhāvāvaho hoti. riñcatīti vajjeti.
Tatrā dịch là trong học thuyết của những Sa-môn, Bà-la-môn ấy. Kaliggaho (nhận lấy lỗi lầm): nắm lấy sự thất bại. dussamatto samādinno: nấm lấy bất thiện, thọ trì bất thiện. ekaṃsaṃ pharitvā tiṭṭhati (sau khi truyền bá đã thiết lập ở một phía): sau khi truyền bà lời nói của mình hướng về một phía rồi một phần được thiết lập, tuy nhiên “nếu như nắm lấy như vậy thì thế giới khác không có” cũng đem lại được trạng thái an lạc. Riñcati đồng nghĩa với vajjeti (được từ bỏ, được dứt bỏ).
96. saddhammasaññattīti bhūtadhammasaññāpanā.
96. Saddhammasaññatti (việc chế định Diệu Pháp) nghĩa là chế định pháp theo sự thật.
kaṭaggahoti jayaggāho. susamatto samādinnoti suggahito suparāmaṭṭho. ubhayaṃsaṃ P.3.118 pharitvā tiṭṭhatīti ubhayantaṃ ubhayakoṭṭhāsaṃ sakavādaṃ paravādañca pharitvā adhimuccitvā tiṭṭhati “sace kho atthi paro loko”ti evaṃ santepi “sace kho natthi paro loko”ti evaṃ santepi sotthibhāvāvaho hoti. paratopi ekaṃsaubhayaṃsesu imināva nayena attho veditabbo.
Kaṭaggaho (nhận lấy điều tốt đẹp): nhận lấy sự chiến thắng. susamatto samādinno (nhận lấy điều tốt đẹp, thọ trì điều tốt đẹp): nắm lấy điều tốt đẹp, bám víu điều tốt đẹp. ubhayaṃsaṃ pharitvā tiṭṭhati (sau khi truyền bá rồi thiết lập ở hai phía): Truyền bá lời nói của mình và lời nói của người khác hướng đến ở cả hai phía rồi hai phần được thiết lập, tuy nhiên “nếu quả thật nắm lấy như vậy thì thế giới khác có mặt”, tuy nhiên “nếu quả thật nắm lấy như vậy thì thế giới khác không có mặt” thì cũng đem lại được trạng thái an lạc. Nên hiểu ý nghĩa trong vấn đề một phần và hai phần, thậm chí của phần khác cũng theo cách thức này.
97. karototi M.3.83 sahatthā karontassa. kārayatoti āṇattiyā kārentassa. chindatoti paresaṃ hatthādīni chindantassa. pacatoti daṇḍena pīḷentassa vā tajjentassa vā. socayatoti parassa bhaṇḍaharaṇādīhi sokaṃ sayaṃ karontassapi parehi kārentassapi. kilamatoti āhārūpaccheda-bandhanāgārappavesanādīhi sayaṃ kilamantassāpi parehi kilamāpentassāpi. phandato phandāpayatoti paraṃ phandantaṃ phandanakāle sayampi phandato parampi phandāpayato. pāṇamatipātayatoti pāṇaṃ hanantassapi hanāpentassapi. evaṃ sabbattha karaṇakārāpanavaseneva attho veditabbo.
Karoto (tự mình làm): được thực hiện bằng tay của mình. Kārayato: ra lệnh để người khác làm. Chindato (tự mình cắt đứt): chặt tay v.v, của người khác. Pacato (tự mình tổn hại): làm tổn thương hoặc đe dọa bằng gậy gộc. Socayato (tự mình gây phiền muộn): tự mình làm hoặc khiến người khác làm gây ra sự phiền muộn cho người khác bằng việc trộm cắp v.v. kilamato (tự mình làm khó nhọc): tự mình làm hoặc khiến người khác làm gây ra sự khó nhọc bằng việc cắt đứt bữa ăn và tống giam vào ngục v.v. phandato phandāpayato (tự mình làm rung sợ hoặc khiến người khác làm cho rung sợ): tự mình làm rung sợ, hoặc khiến người khác làm cho rung sợ trong lúc cột trói người khác đang lo sợ. Pāṇamatipātayato (tự mình giết hại, hoặc khiến người khác giết hại): tự mình giết hại hoặc khiến người khác giết hại chúng sanh có mạng sống. Nên hiểu ý nghĩa ở các câu với việc tự mình làm và khiến người khác làm theo cách thức đã nói.
sandhinti V.3.86 gharasandhiṃ. nillopanti mahāvilopaṃ. ekāgārikanti ekameva gharaṃ parivāretvā vilumpanaṃ. paripanthe P.3.119 tiṭṭhatoti āgatāgatānaṃ acchindanatthaṃ magge tiṭṭhato. karoto na karīyati pāpanti yaṃkiñci pāpaṃ karomīti saññāya karotopi pāpaṃ na karīyati, natthi pāpaṃ. sattā pana karomāti evaṃsaññino hontīti attho. khurapariyantenāti khuraneminā, khuradhārasadisapariyantena vā. ekaṃ maṃsakhalanti ekaṃ maṃsarāsiṃ. puñjanti tasseva vevacanaṃ. tatonidānanti ekamaṃsakhalakaraṇanidānaṃ. dakkhiṇatīre manussā kakkhaḷā dāruṇā, te sandhāya hanantotiādi vuttaṃ. uttaratīre saddhā honti pasannā buddhamāmakā dhammamāmakā saṅghamāmakā, te sandhāya dadantotiādi vuttaṃ.
Sandhiṃ là cắt đứt lỗ trống trong nhà (đột nhập vào). Nillopaṃ (sự cướp bóc): cướp bóc, cướp phá. Ekāgārikaṃ (một nhà lẻ loi): bao vây một ngôi nhà duy nhất để cướp bóc. Paripanthe tiṭṭhato (chặn đường cướp giật): đứng đợi sẵn trên đường để cướp lấy tài sản của các lữ khách. karoto na karīyati pāpaṃ (tội lỗi mà người đã tạo không gọi là đã tạo ác): trong khi con người đã tạo điều ác với suy nghĩ rằng ta tạo bất cứ nghiệp ác nào cũng không được xem là đã tạo nghiệp ác. Tuy nhiên tất cả chúng sanh phải hiểu như vầy ‘ta làm ác’. Khurapariyantenā (xung quanh có các cạnh sắc bén như dao cạo): mép lưỡi sắc bén. ekaṃ maṃsakhalaṃ (thành một đống thịt): làm cho trở thành một đống thịt. Puñjaṃ là từ đồng nghĩa với ekaṃ maṃsakhalaṃ (thành một đống thịt). Tatonidānaṃ dịch là có nhân từ việc làm cho trở thành một đống thịt. Nhóm người ở phương Nam là nhóm người thô lỗ, hung dữ, ngài muốn đề cập đến những người đó mới nói rằng: “tự mình sát hại”. Những người ở phương Bắc có đức tin, lòng tịnh tín, tôn kính cho rằng đức Phật là của tôi, Chánh Pháp là của tôi, Tăng Chúng là của tôi, ngài muốn đề cập đến nhóm người này mới nói rằng: “tự mình bố thí” v.v.
tattha yajantoti mahāyāgaṃ karonto. damenāti indriyadamena uposathakammena. saṃyamenāti sīlasaṃyamena. saccavajjenāti saccavacanena. āgamoti āgamanaṃ, pavattīti attho. sabbathāpi pāpapuññānaṃ kiriyameva paṭikkhipanti. sukkapakkhopi vuttanayeneva veditabbo. sesamettha purimavāre vuttasadisameva.
Ở đó, yajanto (tế lễ): đã làm một cuộc hiến tế lớn. Damena (nhờ việc điều phục): Nhờ vào việc điều phục các quyền, bởi việc thực hành trai giới. saṃyamena (nhờ sự thu thúc): Nhờ vào sự thu thúc trong giới. saccavajjena (nhờ nói lời chân thật): bởi nói lời chân thật. Việc đến là sự diễn biến, tức là đã đến (āgama). Một số Sa-môn, Bà-la-môn phản bác tất cả việc làm ác và việc làm thiện bằng tất cả mọi cách. Ngay cả Pháp trắng (thiện) cũng nên biết theo cách thức như đã nói. Các từ còn lại trong phần Pháp trắng cũng tương tự như lời đã nói trong phần trước.
100. natthi hetu natthi paccayoti ettha paccayo hetuvevacanaṃ. ubhayenāpi vijjamānakameva kāyaduccaritādisaṃkilesapaccayaṃ kāyasucaritādivisuddhipaccayaṃ paṭikkhipanti. natthi P.3.120 balaṃ, natthi vīriyaṃ, natthi purisathāmo, natthi purisaparakkamoti sattānaṃ saṃkilesituṃ vā visujjhituṃ vā M.3.84 balaṃ vā vīriyaṃ vā purisena kātabbo nāma purisathāmo vā purisaparakkamo vā natthi.
Natthi hetu natthi paccayo (không có nhân, không có duyên): duyên là từ đồng nghĩa với nhân. Một số Sa-môn, Bà-la-môn phản bác duyên của sự uế nhiễm có hành động xấu xa của thân v.v, duyên của sự tịnh khiết có hành động thiện lành của thân v.v, tồn tại, thậm chí với cả hai là nhân và duyên. natthi balaṃ, natthi vīriyaṃ, natthi purisathāmo, natthi purisaparakkaṃ (không có lực, không có tinh tấn, không có sức mạnh của con người, không có sự ráng sức của con người): sức lực, hoặc sự tinh tấn, hoặc sức mạnh của con người, hoặc sự ráng sức của con người gọi là điều mà con người nên làm vì sự nhiễm ô hoặc vì sự tịnh khiết của tất cả chúng sanh (tất cả điều đó) đều không có.
sabbe sattāti oṭṭhagoṇagadrabhādayo anavasese nidassenti. sabbe pāṇāti ekindriyo pāṇo dvindriyo pāṇoti ādivasena vadanti. sabbe bhūtāti aṇḍakosavatthikosesu bhūte sandhāya vadanti. sabbe jīvāti sāliyavagodhumādayo sandhāya vadanti. tesu hete viruhanabhāvena jīvasaññino. avasā abalā avīriyāti tesaṃ attano vaso vā balaṃ vā vīriyaṃ vā natthi. niyatisaṅgatibhāvapariṇatāti ettha niyatīti niyatatā. saṅgatīti channaṃ abhijātīnaṃ tattha tattha gamanaṃ. bhāvoti sabhāvoyeva. evaṃ niyatiyā ca saṅgatiyā ca bhāvena ca pariṇatā nānappakārataṃ pattā. yena hi yathā bhavitabbaṃ, so tatheva bhavati. yena no V.3.87 bhavitabbaṃ, so na bhavatīti dassenti. chasvevābhijātīsūti chasu eva abhijātīsu ṭhatvā sukhañca dukkhañca paṭisaṃvedenti, aññā sukhadukkhabhūmi natthīti dassenti.
sabbe sattā (tất cả loài hữu tình): những Sa-môn, Bà-la-môn chỉ ra rằng tất cả chúng sinh có tình cảm, không loại trừ chúng sinh nào, như Lạc đà, bò, lừa v.v. sabbe pāṇā (tất cả sinh vật) họ nói theo mãnh lực từ v.v, chúng sanh chỉ có một mạng quyền, chúng sanh có 2 mạng quyền, nói ám chỉ đến chúng sanh có sự sống (hơi thở). Sabbe bhūtā (tất cả sinh loại): họ nói để đề cập đến chúng sanh tầm cầu cõi tái sanh trong vỏ trứng và trong tử cung. Sabbe jīvā (tất cả sinh mạng): là đề cập đến những loại hạt giống như lúa sālī, lúa nếp, lúa mì, lúa mạch v.v, họ nghĩ rằng trong hạt giống có linh hồn vì chúng được mọc từ dưới đất. avasā abalā avīriyā (không có quyền thế, không có sức mạnh, không có tinh tấn): những thứ đó không có quyền thế, không có sức mạnh, hoặc không có sự tinh tấn của bản thân. Niyatisaṅgatibhāvapariṇatā (bị biến đổi bởi vận mệnh, bởi sự liên hiệp, và bởi bản chất): ở đây việc cho kết quả hên xui may rủi gọi là vận mệnh. Sự đi ở chỗ này chỗ nọ của 6 sanh loại gọi là sự liên hiệp. Thực tính đó gọi là có bản chất. (Tất cả chúng sanh) bị biến đổi là đã đạt đến bằng nhiều hình thức do bởi vận mệnh, do sự liên hiệp và do thực tính như vậy. Thực tính nào là như thế nào thì thức tính đó cũng là như thế đó. Có thế có như thế nào thì thực tính đó cũng có như thế ấy. Thức tính nào không có thì thực tính đó cũng không có. Chasvevābhijātīsu (sáu sanh loại): họ nói rằng tất cả chúng sanh chỉ vững trú trong 6 sanh loại mới thọ lãnh sự an lạc và sự khổ đau được, lãnh địa của sự an lạc và sự khổ đau khác không có.
tattha cha abhijātiyo P.3.121 nāma kaṇhābhijāti nīlābhijāti lohitābhijāti haliddābhijāti sukkābhijāti paramasukkābhijātīti. tattha sākuṇiko sūkariko luddo macchaghātako coro coraghātako, ye vā panaññepi keci kurūrakammantā, ayaṃ kaṇhābhijāti nāma. bhikkhū nīlābhijātīti vadanti. te kira catūsu paccayesu kaṇṭake pakkhipitvā khādanti. “bhikkhū ca kaṇṭakavuttino”ti ayañhi nesaṃ pāḷiyeva. atha vā kaṇṭakavuttikā evaṃ nāma eke pabbajitāti vadanti. “samaṇakaṇṭakavuttikā”tipi hi nesaṃ pāḷi. lohitābhijāti nāma nigaṇṭhā ekasāṭakāti vadanti. ime kira purimehi dvīhi paṇḍaratarā. gihī acelakasāvakā haliddābhijātīti vadanti. iti attano paccayadāyake nigaṇṭhehipi jeṭṭhakatare karonti. nando, vaccho, saṅkicco, ayaṃ sukkābhijātīti vadanti. te kira purimehi catūhi paṇḍaratarā. ājīvake pana paramasukkābhijātīti vadanti. te kira sabbehi paṇḍaratarā.
Ở đó, 6 sanh loại là sanh loại đen, sanh loại xanh, sanh loại đỏ, sanh loại vàng, sanh loại trắng, sanh loại cực kỳ trắng. Trong số 6 sanh loại ấy người giết chim chóc, người giết heo, thợ săn, người đánh bắt cá, ăn trộm, kẻ ăn trộm giết người, hoặc bất cứ những ai khác những người có nghề nghiệp tàn ác, đây gọi là sanh loại đen. Nhóm những Sa-môn, Bà-la-môn nói rằng những Tỳ khưu đó là sanh loại xanh. Họ có học thuyết như vầy: họ nói những Tỳ khưu ấy đặt gai nhọn vào trong 4 món vật dụng rồi thọ dụng, bởi vậy đây gọi là “các Tỳ khưu thực hành hạnh gai nhọn”. Hơn nữa họ nói rằng một nhóm các bậc xuất gia được gọi là thực hành thuần hạnh gai nhọn. Thật vậy thậm chí lời nói “Sa-môn thực hành hạnh gai nhọn” cũng là học thuyết của bọn họ. Họ nói rằng nhóm Nigaṇṭha thích ảo tưởng học thuyết của riêng bản thân gọi là sanh loại đỏ. Họ nói rằng nhóm Nigaṇṭha vẫn còn trắng hơn hai sanh loại trước. Họ nói rằng các gia chủ và đệ tử của những người ở trần truồng gọi là sanh loại vàng. Như thế đệ tử của những người trần chuồng đặt người đem cho vật dụng đến mình cho là to lớn hơn cả các Nigaṇṭha. Nanda, Vaccha, Kisa, Saṃkicca, Makkhali, Gosāla, họ nói rằng đây là sanh loại trắng, họ nói những người này trắng hơn 4 nhóm trước. Hơn nữa, họ nói rằng Ājīvaka ấy là cực kỳ trắng, họ nói Ājīvaka là trắng hơn các nhóm.
tattha M.3.85 sabbe sattā paṭhamaṃ sākuṇikādayova honti, tato visujjhamānā sakyasamaṇā honti, tato visujjhamānā nigaṇṭhā, tato ājīvakasāvakā, tato nandādayo, tato ājīvakāti ayametesaṃ laddhi. sukkapakkho vuttapaccanīkena veditabbo. sesamidhāpi purimavāre vuttasadisameva.
Họ có học thuyết như vầy, trong số 6 sanh loại ấy tất cả chúng sanh có người sát hại chim chóc v.v. trước tiên. Từ đó nhóm Sa-môn Sakya thanh tịnh hơn kẻ sát hại chim chóc v.v, sau đó nhóm Nigaṇṭha thanh tịnh hơn nhóm Sa-môn Sakya, tiếp đó nhóm đệ tử của Ājīvaka vẫn thanh tịnh hơn nhóm Nigaṇṭha; kế đó Nanda v.v, thanh tịnh hơn nhóm đệ tử của Ājīvaka, kế đến Ājīvaka thành tịnh hơn Nanda v.v, Nên hiểu Pháp trắng theo cách đối nghịch lại những điều đã nói. Những từ còn lại cũng tương tự với những lời đã nói trong phần trước.
imāsu pana tīsu diṭṭhīsu natthikadiṭṭhi vipākaṃ paṭibāhati, akiriyadiṭṭhi kammaṃ paṭibāhati, ahetukadiṭṭhi ubhayampi paṭibāhati. tattha kammaṃ paṭibāhantenāpi vipāko paṭibāhito hoti, vipākaṃ paṭibāhantenāpi kammaṃ paṭibāhitaṃ. iti sabbepete P.3.122 atthato ubhayapaṭibāhakā natthikavādā ceva ahetukavādā akiriyavādā ca honti. ye pana tesaṃ laddhiṃ gahetvā rattiṭṭhāne divāṭṭhāne nisinnā sajjhāyanti vīmaṃsanti, tesaṃ — “natthi dinnaṃ natthi yiṭṭhaṃ, karoto na kariyati pāpaṃ, natthi hetu natthi paccayo”ti tasmiṃ ārammaṇe micchāsati santiṭṭhati V.3.88, cittaṃ ekaggaṃ hoti, javanāni javanti, paṭhamajavane satekicchā honti, tathā dutiyādīsu. sattame buddhānampi atekicchā anivattino ariṭṭhakaṇṭakasadisā.
Trong số 3 loại tà kiến này thì vô hữu kiến từ chối quả dị thục, vô hành kiến từ chối nghiệp, vô nhân kiến từ chối cả hai (cả nghiệp và quả dị thục). Trong nghiệp và quả dị thục thì riêng lời nói từ chối nghiệp cũng chính là từ chối quả dị thục, kể cả lời nói từ chối quả dị thục cũng chính là từ chối nghiệp. Như thế theo ý nghĩa lời nói ấy thì toàn bộ, dù là lời nói về vô nhân, lời nói về vô hành, và lời nói về vô hữu cũng đều từ chối cả hai là nghiệp và quả dị thục. Những người nào đã chấp vào học thuyết của những Sa-môn, Bà-la-môn đó, ngồi học thuộc, quán xét ở nơi nghỉ ngơi vào ban đêm và ban ngày thì tà niệm của những người ấy được an trụ vào đối tượng đó như sau: Việc bố thí không có kết quả, việc cúng dường không có kết quả, ác nghiệp mà người đã tạo không gọi là đã tạo ác, không có nhân, không có duyên,” tâm có sự chuyên nhất, các đổng lực tâm cũng diễn tiến. Ở đổng lực thứ nhất vẫn đủ để sửa chữa được, ở đổng lực thứ hai v.v, cũng tương tự. Nhưng ở trong đổng lực thứ tám thì ngay cả chư Phật cũng không thể sửa chữa, là người không thể quay trở lại chẳng hạn như Ariṭṭha và Kaṇṭaka.
tattha koci ekaṃ dassanaṃ okkamati, koci dve, koci tīṇipi, ekasmiṃ okkantepi dvīsu tīsu okkantesupi niyatamicchādiṭṭhikova hoti, patto saggamaggāvaraṇañceva mokkhamaggāvaraṇañca, abhabbo tassa attabhāvassa anantaraṃ saggampi gantuṃ, pageva mokkhaṃ. vaṭṭakhāṇu nāmesa satto pathavīgopako. kiṃ panesa ekasmiṃyeva attabhāve niyato hoti, udāhu aññasmimpīti? ekasmiññeva niyato, āsevanavasena pana bhavantarepi taṃ taṃ diṭṭhiṃ rocetiyeva. evarūpassa hi yebhuyyena bhavato vuṭṭhānaṃ nāma natthi.
tasmā akalyāṇajanaṃ, āsīvisamivoragaṃ.
ārakā parivajjeyya, bhūtikāmo vicakkhaṇoti.
Trong những đổng lực đó một số người rơi vào một sự nhận biết, một số người hai sự nhận biết, một số người ba sự nhận biết, khi họ rơi vào một sự nhận biết, hai, ba sự nhận biết thì cũng là đã rơi vào, họ cũng trở thành (người có) tà kiến cố định, ngăn chặn con đường cõi trời, con đường Nibbāna, không nên đi dù chỉ là cõi trời trong bản thể tự ngã (attabhāva) kế tiếp, thì còn nói gì nữa đến việc chứng ngộ Nibbāna. Chúng sanh này là người đi đến quả đất gọi là gốc của luân hồi. Tà kiến này cố định chỉ trong một bản thể tự ngã, hay trong bản thể tự ngã khác nữa? Có định chỉ trong một bản thể tự ngã. Nếu như vị ấy thích thú tà kiến ấy ở giữa các hữu (bhava) bởi mãnh lực thọ dụng thường xuyên, phần đông người như thế không thoát khỏi các hữu (bhava).
Do đó, một người có trí nhìn thấy rõ ràng, mong mỏi sự tăng trưởng, nên tránh xa kẻ ngu dốt, giống như một người tránh xa con rắn độc.
103. natthi sabbaso āruppāti arūpabrahmaloko nāma sabbākārena natthi. manomayāti jhānacittamayā. saññāmayāti arūpajjhānasaññāya saññāmayā. rūpānaṃyeva nibbidāya virāgāya nirodhāya paṭipanno hotīti ayaṃ lābhī vā hoti takkī vā. lābhī nāma rūpāvacarajjhānalābhī. tassa rūpāvacare kaṅkhā natthi, arūpāvacaraloke atthi M.3.86. so — “ahaṃ āruppā atthīti vadantānampi P.3.123 natthīti vadantānampi suṇāmi, atthi natthīti pana na jānāmi. catutthajjhānaṃ padaṭṭhānaṃ katvā arūpāvacarajjhānaṃ nibbattessāmi. sace āruppā atthi, tattha nibbattissāmi, sace natthi, rūpāvacarabrahmaloke nibbattissāmi. evaṃ me apaṇṇako dhammo apaṇṇakova aviraddhova bhavissatī”ti tathā paṭipajjati.
natthi sabbaso āruppā (Phạm thiên Vô sắc không có tất cả mọi biểu hiện): Thế giới Phạm thiên Vô sắc được gọi là không có nhờ vào tất cả mọi biểu hiện. Manomayā (thành tựu bởi tâm): Thành tựu bởi tâm tương ưng với thiền. Saññāmayā (thành tựu bởi tưởng): Thành tựu bởi tưởng nhờ vào tưởng trong thiền Vô sắc. rūpānaṃyeva nibbidāya virāgāya nirodhāya paṭipanno hoti (thành tựu sự yểm ly, sự ly tham, sự diệt tận các sắc pháp): người này là người đạt được, hoặc là người suy tư. Người đạt được thiền Sắc giới gọi là người đạt được, người đạt được thiền Sắc giới đó không có sự nghi ngờ trong thiền Vô sắc, vẫn có sự hoài nghi trong thế giới Vô sắc. Vị ấy thực hành như thế bởi hiểu rằng – “tôi nghe, người thì nói các Phạm thiên Vô sắc tồn tại cũng có, người thì nói các Phạm thiên Vô sắc không tồn tại cũng có, nhưng tôi không biết có hay không có? Tôi sẽ làm Tứ thiền trở thành nền tảng, rồi làm cho thiền Vô sắc sanh khởi, tôi sẽ hóa sanh vào thế giới Phạm thiên Vô sắc ấy, nếu không có tôi cũng sẽ hóa sanh vào cõi Phạm thiên sắc giới. Pháp không lỗi lầm của ta là sẽ là Pháp đúng, không sai lệch bằng việc thực hành như vậy.”
takkī pana appaṭiladdhajjhāno, tassāpi rūpajjhāne kaṅkhā natthi, arūpaloke pana atthi. so — “ahaṃ āruppā atthīti vadantānampi natthīti vadantānampi suṇāmi, atthi natthīti pana na jānāmi. kasiṇaparikammaṃ katvā catutthajjhānaṃ nibbattetvā taṃ padaṭṭhānaṃ katvā arūpāvacarajjhānaṃ nibbattessāmi. sace āruppā atthi, tattha nibbattissāmi. sace natthi, rūpāvacarabrahmaloke nibbattissāmi. evaṃ me apaṇṇako dhammo apaṇṇakova aviraddhova bhavissatī”ti tathā paṭipajjati.
Còn người suy tư, người không đắc được thiền, dầu vị ấy không có sự nghi ngờ trong Vô sắc, nhưng cũng có sự nghi ngờ trong thế giới Phạm thiên. Người suy tư thực hành như thế bởi hiểu rằng: – “Tôi nghe người thì nói các cõi Phạm thiên Vô sắc không tồn tại cũng có, người thì nói các Phạm thiên Vô sắc không tồn tại cũng có, nhưng tôi không biết rằng có hay không có? Tôi sẽ thực hành chuẩn bị trong biến xứ làm cho Tứ thiền sanh khởi rồi làm cho Tứ thiền trở thành nền tảng, sẽ làm cho thiền Vô sắc sanh khởi, nếu như Phạm thiên Vô sắc tồn tại thì tôi sẽ hóa sanh vào Phạm thiên Vô sắc đó, nếu không có lỗi lầm sẽ sanh vào cõi Phạm thiên Sắc giới. Pháp không lỗi lầm của ta là Pháp đúng, không sai lệch bằng việc thực hành như vậy.
104. bhavanirodhoti V.3.89 nibbānaṃ. sārāgāya santiketi rāgavasena vaṭṭe rajjanassa santike. saṃyogāyāti taṇhāvasena saṃyojanatthāya. abhinandanāyāti taṇhādiṭṭhivasena abhinandanāya. paṭipanno hotīti ayampi lābhī vā hoti takkī vā. lābhī nāma aṭṭhasamāpattilābhī. tassa āruppe kaṅkhā natthi, nibbāne atthi. so — “ahaṃ nirodho atthītipi natthītipi suṇāmi, sayaṃ na jānāmi. samāpattiṃ pādakaṃ katvā vipassanaṃ vaḍḍhessāmi. sace nirodho bhavissati, arahattaṃ patvā parinibbāyissāmi. no ce bhavissati, āruppe nibbattissāmī”ti evaṃ paṭipajjati.
Bhavanirodho (sự diệt tận của các hữu): là Nibbāna. sārāgāya santike (gần Pháp được vận hành theo sự luyến ái): Gần sự hoan hỷ trong vòng luân hồi bởi mãnh lực sự luyến ái. saṃyogāya (gần Pháp trói buộc chúng sanh): Gần với Pháp trói buộc chúng sanh bởi mãnh lực tham ái. abhinandanāya (gần với sự vui thích): Gần với sự vui thích bởi mãnh lực của tham ái và tà kiến. Paṭipanno hoti (được thực hành): Ngày cả người này là người đạt được, hoặc là người suy tư. Người đạt được tám thiền chứng gọi là người đạt được. Người đạt được tám thiền chứng đó không có sự nghi ngờ trong cõi Phạm thiên Vô sắc, nhưng vẫn có sự hoài nghi trong Nibbāna. Vị ấy thực hành như vầy bởi hiểu rằng – “Tôi nghe họ nói sự diệt tận có tồn tại và không có tồn tại, tôi không tự mình biết được, tôi sẽ làm cho sự thể nhập trở thành nền tảng rồi tu tập Minh sát, nếu sự diệt tận có tồn tại tôi sẽ chứng đắc A-ra-hán nhập diệt Nibbāna, nếu không có tôi cũng sẽ hóa sanh vào Phạm thiện Vô sắc.”
takkī pana ekasamāpattiyāpi na lābhī, āruppe panassa kaṅkhā natthi, bhavanirodhe atthi. so — “ahaṃ nirodho atthītipi natthītipi suṇāmi, sayaṃ na jānāmi, kasiṇaparikammaṃ katvā aṭṭhasamāpattiyo nibbattetvā samāpattipadaṭṭhānaṃ vipassanaṃ vaḍḍhessāmi. sace nirodho bhavissati, arahattaṃ patvā parinibbāyissāmi. no ce bhavissati, āruppe nibbattissāmī”ti evaṃ paṭipajjati. etthāha P.3.124 — “atthi dinnantiādīni tāva apaṇṇakāni bhavantu, natthi dinnantiādīni pana kathaṃ apaṇṇakānī”ti. gahaṇavasena. tāni hi apaṇṇakaṃ apaṇṇakanti evaṃ gahitattā apaṇṇakāni nāma jātāni.
Còn người suy tư, không đạt được dầu chỉ là một thiền chứng, nhưng vị ấy có sự hoài nghi trong Phạm thiên Vô sắc, vẫn có sự hoài nghi trong sự diệt tận của các hữu (Nibbāna). Vị ấy thực hành như vầy bởi hiểu rằng – “tôi nghe họ nói sự diệt tận có tồn tại và không có tồn tại, nhưng tôi không tự mình biết được, tôi sẽ thực hành chuẩn bị trong biến xứ, rồi làm cho tám thiền chứng sanh khởi, sau đó tu tập Minh sát có sự thể nhập làm nền tảng, nếu sự diệt tận có tồn tại tôi sẽ chứng đắc A-ra-hán tịch diệt Nibbāna, nếu như không có tôi cũng sẽ hóa sanh vào Phạm thiên Vô sắc.” Đức Thế Tôn thuyết ở trong bài Kinh đó – “Việc bố thí có kết quả v.v, là lời nói thực hành không sai lệch, hơn nữa lời nói rằng ‘Việc bố thí không có kết quả v.v, nhưng tại sao lời nói ấy thực hành cũng không sai lệch vậy?” Bởi do sự chấp thủ. Thật vậy những lời nói đó được xem là không sai cũng bởi vị ấy nắm lấy như vầy: “không sai, không sai”.
105. cattārometi M.3.87 ayaṃ pāṭiekko anusandhi. natthikavādo, ahetukavādo akiriyavādo, āruppā natthi nirodho natthīti evaṃvādino ca dveti ime pañca puggalā heṭṭhā tayo puggalāva honti. atthikavādādayo pañca eko catutthapuggalova hoti. etamatthaṃ dassetuṃ bhagavā imaṃ desanaṃ ārabhi. tattha sabbaṃ atthato uttānamevāti.
105. Cattārome (bốn hạng) v.v, này tách thành từng phần nhưng ý nghĩa được liên kết với nhau, bốn hạng người này là vô hữu kiến, vô hành kiến, vô nhân kiến và 2 nhóm có lời nói như vầy: Phạm thiên Vô sắc không có và sự diệt tận không có, 3 hạng người đầu cũng tương tự với ba hạng người như đã trình bày (trong phần Chánh văn Pāḷī câu 105). 5 nhóm (đối nghịch với nhau) có atthikavāda (chủ trương thuyết tồn tại) v.v, được xem là hạng người nhóm thứ 4, nhóm duy nhất, để thuyết giảng ý nghĩa này đức Thế mới bắt đầu thuyết Pháp thoại này. Các từ còn lại đều có ý nghĩa đơn giản.
Giải Thích Kinh Không Gì Chuyển Hướng Kết Thúc.