Kinh số 53 – Giải Thích Kinh Hữu Học
(Sekhasuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Hữu Học
22. evaṃ me sutanti sekhasuttaṃ[1]. tattha navaṃ santhāgāranti adhunā kāritaṃ santhāgāraṃ, ekā mahāsālāti attho. uyyogakālādīsu hi rājāno tattha ṭhatvā “ettakā purato gacchantu, ettakā pacchā, ettakā ubhohi passehi, ettakā hatthīsu abhiruhantu, ettakā assesu, ettakā rathesu tiṭṭhantū”ti evaṃ santhaṃ karonti, mariyādaṃ bandhanti, tasmā taṃ ṭhānaṃ santhāgāranti vuccati. uyyogaṭṭhānato ca āgantvā yāva gehesu allagomayaparibhaṇḍādīni karonti, tāva dve tīṇi divasāni te rājāno tattha santhambhantītipi santhāgāraṃ. tesaṃ rājūnaṃ saha atthānusāsanaṃ agārantipi santhāgāraṃ gaṇarājāno hi te, tasmā uppannakiccaṃ ekassa vasena na chijjati, sabbesaṃ chando laddhuṃ vaṭṭati, tasmā sabbe tattha sannipatitvā anusāsanti. tena vuttaṃ “saha atthānusāsanaṃ agārantipi santhāgāran”ti. yasmā panete tattha sannipatitvā “imasmiṃ kāle kasituṃ vaṭṭati, imasmiṃ kāle vapitun”ti evamādinā nayena gharāvāsakiccāni sammantayanti, tasmā chiddāvachiddaṃ gharāvāsaṃ tattha santharantītipi santhāgāraṃ.
22. Kinh Hữu Học được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, navaṃ santhāgāraṃ (một giảng đường mới): giảng đường đã được hoàn thành cách đây không bao lâu, có nghĩa là một Đại Sālā. Thật vậy, trong thời gian sắp xếp đoàn diễu hành để tiếp đón Ngài v.v, vị ấy đã sắp xếp chỉnh đốn khu vực gây tắc nghẽn như vầy “Các ngươi ở chỗ đó, ở phía trước chừng ấy, ở phía sau chừng ấy, hai bên chừng ấy, cưỡi voi chừng ấy, cưỡi ngựa chừng ấy, đứng trên xe chừng ấy” vì thế ở chỗ đó họ gọi là giảng đường. Hơn nữa khi trở về từ chỗ Ngài đi, cho đến khi nào thực hiện việc tô trát phân bò non v.v, khô lại ở các ngôi nhà, cho đến khi ấy các vị Sakya nghĩ lại qua đêm ở nơi đó 2-3 ngày, vì thế ở nơi đó gọi là giảng đường. Tòa nhà là nơi cho ý kiến bằng cách giơ tay biểu quyết của các vị vua, vì lý do đó tòa nhà ấy cũng được gọi là giảng đường. Thật vậy, những vị ấy là một nhóm những vị Sakya, vì thế nên mọi việc xảy đều được quyết định bởi thẩm quyền của một vị vua duy nhất, lẽ ra cần phải được sự đồng ý của tất cả các vị vua, vì thế tất cả các vị Sakya đều hội hợp ở nơi đó để cho ý kiến. Vì lý do đó, tòa nhà nơi cho ý kiến bằng cách giơ tay biểu quyết ấy được gọi là giảng đường. Và do những vị ấy tụ hội với nhau ở nơi đó rồi hội ý lẫn nhau về các công việc của đời sống tại gia theo cách thức được bắt đầu như vầy: “Vào thời điểm này nên cày bừa, vào thời điểm này nên gieo mạ”. Vì vậy, các vị ấy phân chia công việc của cư sĩ thành từng phần nhỏ hơn ở nơi đó, ngay cả vì lý do đó, nơi ấy cũng được gọi là giảng đường.
acirakāritaṃ hotīti kaṭṭhakamma-silākamma-cittakammādivasena susajjitaṃ devavimānaṃ viya adhunā niṭṭhāpitaṃ. samaṇena vāti ettha yasmā gharavatthupariggahakāleyeva devatā attano vasanaṭṭhānaṃ gaṇhanti, tasmā “devena vā”ti avatvā “samaṇena vā brāhmaṇena vā kenaci vā manussabhūtenā”ti vuttaṃ.
Được xây dựng không bao lâu: đã được hoàn thành không bao lâu như một thiên cung được trang hoàng khéo léo với việc chế tác gỗ, chế tác đá quý và hội họa v.v. hoặc Sa-môn: bởi vì trong thời gian xác định diện tích khu đất để xây dựng nhà ở chư Thiên coi là khu vực cư trú của mình, vì thế các vị Sakya đã không nói: “hoặc chư Thiên” mà lại nói: “Sa-môn, hoặc Bà-la-môn, hoặc bất cứ ai, hoặc loài người” (chưa từng đến cư trú trước).
yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsūti santhāgāraṃ niṭṭhitanti sutvā “gacchāma, naṃ passissāmā”ti gantvā dvārakoṭṭhakato paṭṭhāya sabbaṃ oloketvā “idaṃ santhāgāraṃ devavimānasadisaṃ ativiya manoramaṃ sassirikaṃ kena paṭhamaṃ paribhuttaṃ amhākaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya assā”ti cintetvā “amhākaṃ ñātiseṭṭhassa paṭhamaṃ diyyamānepi satthunova anucchavikaṃ, dakkhiṇeyyavasena diyyamānepi satthunova anucchavikaṃ, tasmā paṭhamaṃ satthāraṃ paribhuñjāpessāma, bhikkhusaṅghassa āgamanaṃ karissāma, bhikkhusaṅghe āgate tepiṭakaṃ buddhavacanaṃ āgatameva bhavissati, satthāraṃ tiyāmarattiṃ amhākaṃ dhammakathaṃ kathāpessāma, iti tīhi ratanehi paribhuttaṃ mayaṃ pacchā paribhuñjissāma V.3.13, evaṃ no dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissatī”ti sanniṭṭhānaṃ katvā upasaṅkamiṃsu.
Đi đến gặp đức Thế Tôn ở nơi cư trú: các Sakya đã nghe giảng đường đã được hoàn thành “chúng ta sẽ đi đến để xem giảng đường đó” nên đã đi xem xét lại toàn bộ từ cổng vòm, đã khởi lên suy nghĩ như sau: “giảng đường này vô cùng xinh đẹp, chói sáng như thiên cung, ai sử dụng trước có thể có được sự lợi ích, sự hạnh phúc lâu dài, nên mới thảo luận và đồng ý với nhau: “giảng đường này chỉ phù hợp đối với bậc Đạo Sư trong khi ta cúng dường lần đầu tiên cho thân bằng quyến thuộc, vị tối thượng nhất của ta chỉ phù hợp đối với bậc Đạo Sư, trong lúc chúng ta cúng dường với oai lực mà Ngài là vị xứng đáng nhận lễ vật cúng dường, vì thế chúng ta sẽ thình mời bậc Đạo Sư sử dụng đầu tiên, sẽ thỉnh mời chư Tăng đến, khi chư Tăng đến cũng đồng nghĩa Tam tạng Phật cũng đến, chúng tôi sẽ thỉnh mời bậc Đạo Sư cho thuyết giảng Giáo Pháp dạy bảo chúng tôi trọn đêm cả ba canh. Như thế giảng đường này cũng được Tam bảo sử dụng, chúng ta sẽ sử dụng sau, như vậy sẽ mang lại sự lợi ích, sự bình an lâu dài” rồi cùng nhau đi đến gặp (đức Thế Tôn).
yena santhāgāraṃ tenupasaṅkamiṃsūti taṃ divasaṃ kira santhāgāraṃ kiñcāpi rājakulānaṃ dassanatthāya devavimānaṃ viya susajjitaṃ hoti supaṭijaggitaṃ, buddhārahaṃ pana katvā appaññattaṃ. buddhā hi nāma araññajjhāsayā araññārāmā antogāme vaseyyuṃ vā no vā, tasmā bhagavato manaṃ P.3.18 jānitvāva paññāpessāmāti cintetvā te bhagavantaṃ upasaṅkamiṃsu. idāni pana manaṃ labhitvā paññāpetukāmā yena santhāgāraṃ tenupasaṅkamiṃsu.
Đi đến giảng đường: họ nói rằng ngày hôm đó giảng đường là nơi được trang hoàng và sắp đặt để cho dòng dõi hoàng tộc ngắm nhìn, nhưng cũng không sắp đặt cho phù hợp cho đức Phật, thông thường chư Phật có khuynh hướng ưa thích khu rừng, hoan hỷ từ khu rừng, sẽ an trú bên trong ngôi làng hay không? Vì thế, các vị Sakya mới suy nghĩ rằng: Biết được khuynh hướng của đức Thế Tôn trước rồi mới trình bày, vì thế (họ) cùng nhau đến gặp đức Thế Tôn tại nơi ở của Ngài. Nhưng đến bây giờ các vị Sakya biết được khuynh hướng rồi mong muốn bày tỏ cho (đức Thế Tôn) thấy được tâm tư (của mình) đã cùng nhau đi đến giảng đường.
sabbasanthariṃ santhāgāraṃ santharitvāti yathā sabbameva santhataṃ hoti, evaṃ taṃ santharāpetvā. sabbapaṭhamaṃ tāva “gomayaṃ nāma sabbamaṅgalesu vaṭṭatī”ti M.3.13 sudhāparikammakatampi bhūmiṃ allagomayena opuñchāpetvā parisukkhabhāvaṃ ñatvā yathā akkantaṭṭhāne padaṃ na paññāyati, evaṃ catujjātiyagandhehi limpāpetvā upari nānāvaṇṇe kaṭasārake santharitvā tesaṃ upari mahāpiṭṭhikakojavake ādiṃ katvā hatthattharaka-assattharaka-sīhattharaka-byagghattharakacandattharaka-sūriyattharaka-cittattharakādīhi nānāvaṇṇehi attharaṇehi santharitabbakayuttaṃ sabbokāsaṃ santharāpesuṃ. tena vuttaṃ “sabbasanthariṃ santhāgāraṃ santharitvā”ti.
Cho lấy tấm trải nằm trải khắp giảng đường: cho trải tấm trải nằm ở khắp nơi (tại giảng đường), đã trải tấm trải nằm nơi đó như vậy. Đầu tiên các vị Sakya suy nghĩ rằng “cho là phân bò non được sử dụng trong tất cả các lễ hội cầu phúc lành” vì thế (các vị Sakya) cho lấy phân bò non tô trát khắp bề mặt, dầu nơi đó đã tô trát vôi sống, biết đã được sạch sẽ tươm tất, thoa với bốn loại hương thơm, để dấu chân của Ngài không xuất hiện ở những nơi (Ngài) đặt chân, phía trên trải những tấm thảm tre với nhiều màu sắc khác nhau, trải lên để lấp đầy những khoảng trống ở mọi nơi cần trải, với tất cả các loại tấm trải nằm có màu sắc khác nhau, chẳng hạn như tấm trải có thiết kế con voi, thiết kế ngựa, thiết kế sư tử, thiết kế hổ, thiết kế mặt trăng, thiết kế mặt trời, các mẫu tranh, v.v. Bắt đầu với một mảnh vải được làm bằng lông cừu loại lớn đặt trên những tấm thảm tre đó. Vì thế Ngài đã nói: ra lệnh cho trải tắm nằm khắp mọi nơi ở giảng đường.
āsanāni paññāpetvāti majjhaṭṭhāne tāva maṅgalatthambhaṃ nissāya mahārahaṃ buddhāsanaṃ paññāpetvā tattha yaṃ yaṃ mudukañca manoramañca paccattharaṇaṃ, taṃ taṃ paccattharitvā bhagavato lohitakaṃ manuññadassanaṃ upadhānaṃ upadahitvā upari suvaṇṇarajatatārakavicittaṃ vitānaṃ bandhitvā gandhadāmapupphadāmapattadāmādīhi paccattharaṇehi alaṅkaritvā samantā dvādasahatthaṭṭhāne pupphajālaṃ karitvā tiṃsahatthamattaṃ ṭhānaṃ paṭasāṇiyā parikkhipāpetvā P.3.19 pacchimabhittiṃ nissāya bhikkhusaṅghassa pallaṅkapīṭha-apassayapīṭha-muṇḍapīṭhāni paññāpetvā upari setapaccattharaṇehi paccattharāpetvā pācīnabhittiṃ nissāya attano attano mahāpiṭṭhikakojavake paññāpetvā haṃsalomādipūritāni upadhānāni ṭhapāpesuṃ “evaṃ akilamamānā sabbarattiṃ dhammaṃ suṇissāmā”ti. idaṃ sandhāya vuttaṃ “āsanāni paññāpetvā”ti.
Cho sắp đặt các chỗ ngồi: cho trải tấm trải ngồi có giá trị lớn dựa vào trụ maṅgala (trụ điềm lành) ở giữa trước, trải tấm khăn trải giường mềm mịn, êm ái, xinh xắn ở trên chỗ ngồi dành riêng cho đức Phật đó, đặt cái gối nhìn vào đáng vừa lòng có màu đỏ ở hai bên, trần nhà được trang trí công phu bằng những ngôi sao vàng, ngôi sao bạc ở trên được trang trí bằng những vòng hoa thơm và vòng hoa ngọc trai, v.v. đã làm một lưới hoa rộng 12 hắt tay xung quanh, dùng một bức màn rộng khoảng 30 hắc tay bao bọc xung quanh, đặt cái ghế dài, đặt dựa vào và để trần (không được che phủ), trải một lớp vải màu trắng lên trên dành cho các Tỳ khưu tựa vào lưng ghế, trải một mảnh vải được làm bằng lông cừu loại lớn đặt những cái gối đựng đầy lông thiên nga, v.v. dành cho bản thân tựa phía trước, với suy nghĩ rằng nhờ phương pháp này chúng ta sẽ không khó nhọc để nghe Pháp suốt đêm như thế này. Ngài muốn đề cập đến điều này đã nói rằng: “cho sắp đặt chỗ ngồi”.
udakamaṇikanti V.3.14 mahākucchikaṃ udakacāṭiṃ. upaṭṭhapetvāti evaṃ bhagavā ca bhikkhusaṅgho ca yathāruciyā hatthe vā dhovissanti pāde vā, mukhaṃ vā vikkhālessantīti tesu tesu ṭhānesu maṇivaṇṇassa udakassa pūrāpetvā vāsatthāya nānāpupphāni ceva udakavāsacuṇṇāni ca pakkhipitvā kadalipaṇṇehi pidahitvā patiṭṭhāpesuṃ. idaṃ sandhāya vuttaṃ “upaṭṭhapetvā”ti.
Lu nước: bình nước có chỗ phình to. Cho đặt sẵn (lu nước): các vị vua Sakya nghĩ rằng đức Thế Tôn và chư Tăng sẽ rửa tay hoặc rửa chân, hoặc súc miệng tùy thích như vậy, mới đặt ghè nước sạch trong tự như ngọc ma-ni đặt nhiều loại bông hoa khác nhau và bánh xà bông tắm để tắm cho thơm, được đậy bằng tàu lá chuối đặt ở chỗ đó đó, Ngài muốn đề cập đến điều này mới nói rằng: ‘cho đặt lu nước’.
telappadīpaṃ āropetvāti rajatasuvaṇṇādimayadaṇḍāsu dīpikāsu yonakarūpakirātarūpakādīnaṃ hatthe ṭhapitasuvaṇṇarajatādimayakapallakādīsu ca telappadīpaṃ jalayitvāti attho. yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsūti ettha pana te sakyarājāno na kevalaṃ santhāgārameva, atha kho yojanāvaṭṭe kapilavatthusmiṃ nagaravīthiyopi sammajjāpetvā dhaje M.3.14 ussāpetvā gehadvāresu puṇṇaghaṭe ca kadaliyo ca ṭhapāpetvā sakalanagaraṃ dīpamālādīhi vippakiṇṇatārakaṃ viya katvā “khīrapāyake dārake khīraṃ pāyetha, dahare kumāre lahuṃ lahuṃ bhojetvā sayāpetha, uccāsaddaṃ mā karittha, ajja ekarattiṃ satthā antogāme vasissati, buddhā nāma appasaddakāmā hontī”ti bheriṃ carāpetvā sayaṃ daṇḍadīpikā ādāya yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu.
Thắp sáng cây đèn dầu: Thắp lên ngọn đèn dầu, (đèn dầu) có tay cầm được làm bằng bạc và vàng v.v, và vật đựng cũng được làm bằng vàng và bạc v.v, mà học đặt trong lòng bàn tay của yonakarūpa và kirātarūpa v.v. Đã đi đến gặp đức Thế Tôn: và ở đây các vị vua Sakya đó không chỉ cho sắp xếp trang trí giảng đường, thực tế còn cho đánh trống loan báo rằng: “mọi người hãy quét dọn đường phố xung quanh thành Kapilavatthu chu vi một do-tuần, cho dựng cờ phướn, cho đặt những lu nước và những cây chuối ở trước cổng nhà thực hiện khắp thành phố trở thành như một ngôi sao rải lên ngọn đèn và vòng hoa v.v, “cho những đứa bé sơ sinh chưa bú sữa được bú sữa, cho đứa trẻ ăn cơm rồi đi ngủ, đừng gây ra tiếng ồn, hôm nay bậc Đạo Sư sẽ an trú ở trong làng một đêm, thường chư Phật cần yên tĩnh” rồi bản thân cũng cầm lấy ngọn đèn có tay cầm đi đến gặp đức Thế Tôn chỗ Ngài cư ngụ.
Atha kho bhagavā nivāsetvā pattacīvaramādāya saddhiṃ bhikkhusaṅghena yena navaṃ santhāgāraṃ tenupasaṅkamīti. “yassa dāni, bhante, bhagavā kālaṃ maññatī”ti evaṃ kira kāle ārocite bhagavā lākhārasena tintarattakoviḷārapupphavaṇṇaṃ rattadupaṭṭaṃ kattariyā padumaṃ kantanto viya saṃvidhāya timaṇḍalaṃ paṭicchādento nivāsetvā suvaṇṇapāmaṅgena padumakalāpaṃ parikkhipanto viya vijjullatāsassirikaṃ kāyabandhanaṃ bandhitvā rattakambalena gajakumbhaṃ pariyonaddhanto viya ratanasatubbedhe suvaṇṇagghike pavāḷajālaṃ khipamāno viya suvaṇṇacetiye rattakambalakañcukaṃ paṭimuñcanto viya gacchantaṃ puṇṇacandaṃ rattavaṇṇavalāhakena paṭicchādayamāno viya kañcanapabbatamatthake supakkalākhārasaṃ parisiñcanto viya cittakūṭapabbatamatthakaṃ vijjullatāya parikkhipanto viya ca sacakkavāḷasineruyugandharaṃ mahāpathaviṃ cāletvā gahitaṃ nigrodhapallavasamānavaṇṇaṃ rattavarapaṃsukūlaṃ pārupitvā gandhakuṭidvārato nikkhami kañcanaguhato sīho viya udayapabbatakūṭato puṇṇacando viya ca. nikkhamitvā pana gandhakuṭipamukhe aṭṭhāsi.
Rồi đức Thế Tôn sau khi đắp y, cầm lấy bình bát và y phục, đi vào giảng đường mới cùng với chư Tỳ khưu: được biết rằng các vua Sakya đã nói thời gian như vầy “kính bạch Ngài, đức Thế Tôn hãy trả lời thời gian thích hợp, bây giờ” đức Thế Tôn sắp xếp tấm y 2 lớp màu đỏ như màu hoa koviḷāra[2] màu đỏ được ngâm bởi nhựa cây cánh kiến đỏ, như thế cắt một bông sen bằng cái kéo, sau khi quấn y nội che kín đủ cả 3 vòng[3], sau đó đã buộc vào người dây thắt lưng chói sáng tựa tia chớp, trông giống như quấn quanh bó hoa sen với dải lụa vàng, sau khi choàng lên tấm y phấn tảo quý giá có màu sắc đỏ tựa như chồi non của cây đa đã nắm lấy làm cho địa đại bao gồm đỉnh núi Suneru và ngọn núi Yugandhara của vũ trụ bị rúng động tựa như phủ lên trên trán con voi với tấm mền nhuộm đỏ, giống như trải tấm lưới san hô cao một trăm hắt tay có giá trị như vàng, trông giống như đang trùm tấm vải nhuộm đỏ lên ngôi bảo điện Suvaṇṇa, trông giống như ánh trăng tròn đang di chuyển bị bao phủ bởi áng mây hồng, trông giống như đang rắc đều nhựa cây cánh kiến đỏ lên đỉnh ngọn núi Kañcanapabbata, trông giống như bao quanh ngọn núi Cittakūṭapabbata bởi tia chớp, Ngài đã đi ra từ cánh của Gandhakuṭi tựa như con sư tử rời khỏi hang động bằng vàng và tựa như mặt trăng rằm nhô lên từ đỉnh núi Udayapabbata. Hơn nữa, sau khi rời khỏi Ngài đã đứng lại phía trước Gandhakuṭi.
athassa V.3.15 kāyato meghamukhehi vijjukalāpā viya rasmiyo nikkhamitvā suvaṇṇarasadhārāparisekamañjaripattapupphaphalaviṭape viya ārāmarukkhe kariṃsu. tāvadeva ca attano attano pattacīvaramādāya mahābhikkhusaṅgho bhagavantaṃ parivāresi. te pana parivāretvā ṭhitā bhikkhū evarūpā ahesuṃ appicchā santuṭṭhā pavivittā asaṃsaṭṭhā āraddhavīriyā P.3.21 vattāro vacanakkhamā codakā pāpagarahī sīlasampannā samādhisampannā paññāvimuttivimuttiñāṇadassanasampannāti. tehi parivārito bhagavā rattakambalaparikkhitto viya suvaṇṇakkhandho rattapadumasaṇḍamajjhagatā viya suvaṇṇanāvā pavāḷavedikāparikkhitto viya suvaṇṇapāsādo virocittha. sāriputtamoggallānādayo mahātherāpi naṃ meghavaṇṇaṃ paṃsukūlaṃ M.3.15 pārupitvā maṇivammavammikā viya mahānāgā parivārayiṃsu vantarāgā bhinnakilesā vijaṭitajaṭā chinnabandhanā kule vā gaṇe vā alaggā.
Khi ấy hào quang tỏa ra từ thân của đức Thế Tôn trông giống như khối sấm chớp xuyên qua khỏi từ bề mặt đám mây, làm cho cây cối trong tinh xá như thể lá cây, hoa, quả và cành cây non đều được tưới nước vàng óng ánh, cùng với Đại chúng Tỳ khưu cũng cầm lấy bình bát và y phục của mình vây quanh đức Thế Tôn. Hơn nữa chư Tỳ khưu đứng vây quanh đức Thế Tôn đó cũng là những vị thiểu dục, sống tri túc, thích yên tịnh không cấu kết với bè đảng, nhiệt tâm tinh tấn, có trách nhiệm, kham nhẫn từ những lời nói (giữ những lời chỉ dạy), nhắc nhở lẫn nhau, khiển trách điều ác, thành tựu giới và định, thành tựu trí tuệ, sự giải thoát và sự giải thoát về tri kiến như vậy. Đức Thế Tôn mà chư Tỳ khưu vây quanh đó cũng hoàn hảo tựa như một cục vàng được bao bọc bởi tấm khăn nhuộm đỏ, và tựa như một chiếc thuyền bằng vàng đi qua giữa rừng sen đỏ, và giống như một cung điện bằng vàng được bao quanh bởi những ngôi nhà bằng ngọc san hô. Thậm chí tất cả các Đại trưởng lão như Ngài Sārīputa và Ngài Mahāmoggallāna v.v, cũng mặc y phấn tảo có màu sắc như màu đám mây, toàn bộ đều là những vị có luyến ái đã bị tống khứ, có phiền não đã bị bẻ gãy, mọi sự rối rắm đã được gỡ bỏ, mọi sự ràng buộc đã bị cắt đứt, không dính mắc trong gia quyến, hội nhóm, đứng vây quanh giống như một Đại tượng có màu da được bao bọc bởi da ngọc ma-ni.
Iti Bhagavā sayaṃ vītarāgo vītarāgehi, vītadoso vītadosehi, vītamoho vītamohehi, nittaṇho nittaṇhehi, nikkileso nikkilesehi, sayaṃ buddho bahussutabuddhehi parivārito, pattaparivāritaṃ viya kesaraṃ, kesaraparivāritā viya kaṇṇikā, aṭṭhanāgasahassaparivārito viya chaddanto nāgarājā, navutihaṃsasahassaparivārito viya dhataraṭṭho haṃsarājā, senaṅgaparivārito viya cakkavatti, marugaṇaparivārito viya sakko devarājā, brahmagaṇaparivārito viya hāritamahābrahmā, tārāgaṇaparivārito viya puṇṇacando, asamena Buddhavesena aparimāṇena Buddhavilāsena Kapilavatthugamanamaggaṃ paṭipajji.
Đức Thế Tôn tự mình có sự luyến ái đã được xa lìa, được chư Tỳ khưu đã ly ái luyến vây quanh; có sân đã được xa lìa, được chư Tỳ khưu đã ly sân vây quanh; có si đã được xa lìa, được chư Tỳ khưu ly si vây quanh; có tham ái đã được xa lìa, được chư Tỳ khưu ly tham ái vây quanh; không ô nhiễm, được chư Tỳ khưu không ô nhiễm vây quanh, là người tự mình giác ngộ, được vây quanh bởi chư tỳ khưu những vị đã giác ngộ nhờ sự học rộng hiểu nhiều, giống như sư tử chúa được muôn thú vây quanh, y như hoa sen Kaṇṇikā được bảo quanh bởi nhụy, trông giống như voi chúa tên Chaddanta được vây quanh bởi đàn voi tám nghìn con, trông giống như chim thiên nga chúa tên Dhataraṭṭha được vây quanh bởi đàn chim thiên nga chín mươi ngàn con, trông giống như vị Chuyển Luân Vương được vây quanh bởi bốn đạo binh, trông giống như Vua trời Đế thích được vây quanh bởi đông đảo chúng chư thiên, trông giống như Đại Phạm thiên Hārita được vây quanh bởi chúng Phạm thiên, giống như mặt trăng tròn được bao quanh bởi những vì tinh tú, bằng hình tướng của một vị Phật mà không một ai có thể sánh bằng, (và) với vẻ từ hòa vô lượng của bậc Giác Ngộ, ngài bước đi trên con đường đến thành Kapilavatthu.
athassa puratthimakāyato suvaṇṇavaṇṇā rasmī uṭṭhahitvā asītihatthaṭṭhānaṃ aggahesi. pacchimakāyato dakkhiṇahatthato, vāmahatthato suvaṇṇavaṇṇā rasmī uṭṭhahitvā asītihatthaṭṭhānaṃ aggahesi. upari kesantato paṭṭhāya sabbakesāvattehi moragīvavaṇṇā rasmī uṭṭhahitvā gaganatale asītihatthaṭṭhānaṃ aggahesi. heṭṭhā pādatalehi pavāḷavaṇṇā rasmī uṭṭhahitvā ghanapathaviyaṃ asītihatthaṭṭhānaṃ aggahesi. evaṃ samantā asītihatthamattaṃ ṭhānaṃ chabbaṇṇā buddharasmiyo vijjotamānā P.3.22 vipphandamānā kañcanadaṇḍadīpikāhi niccharitvā ākāsaṃ pakkhandajālā viya cātuddīpikamahāmeghato nikkhantavijjullatā viya vidhāviṃsu. sabbadisābhāgā suvaṇṇacampakapupphehi vikiriyamānā viya, suvaṇṇaghaṭā nikkhantasuvaṇṇarasadhārāhi V.3.16 siñcamānā viya, pasāritasuvaṇṇapaṭaparikkhittā viya, verambhavātasamuṭṭhitakiṃsukakaṇikārapupphacuṇṇasamokiṇṇā viya vippakiriṃsu.
Khi ấy, hào quang có màu sắc tựa như vàng được phóng ra từ thân trước của đức Thế Tôn ấy chiếm diện tích khoảng tám mươi hắc tay. Hào quang có sắc như vàng phóng ta từ thân sau, cánh tay bên phải, cánh tay bên trái chiếm diện tích khoảng tám mươi hắc tay. Hào quang có màu như mút lông (điểm tròn ở cuối lông đuôi) của khổng tước phóng ra từ mỗi sợi tóc từ ngọn tóc phía trên chiếm diện tích khoảng tám mươi hắt tay ở bề mặt hư không. Hào quang có màu tựa như màu ngọc pha lê phóng ra từ dưới lòng bàn chân chiếu sáng từ bề mặt đất sâu xuống phía bên dưới chiếm diện tích khoảng tám mươi hắc tay. Hào quang của đức Phật có sáu màu chiếu sáng, lan toả khắp bề mặt quả địa cầu xung quanh tám mươi hắc tay, tựa như ánh sáng phát ra từ ngọn đèn bằng vàng phóng vào trong hư không, tựa như tia chớp phóng ra từ đám mây lớn khắp bốn phương. Hào quang của đức Phật lan tỏa khắp mọi phương, trông giống như được rắc lên với những bông hoa champā màu vàng, giống như được rưới lên với một dòng vàng chảy ra từ một chiếc bình bằng vàng, trông giống như được bao quanh bởi những tấm vàng đã được trải ra, trông giống như vô số phấn hoa kaṇikāra và hoa kiṃsuka được cơn gió lớn mạnh thổi lên cao.
bhagavatopi asītianubyañjanabyāmappabhādvattiṃsavaralakkhaṇasamujjalaṃ sarīraṃ samuggatatārakaṃ viya gaganatalaṃ, vikasitamiva padumavanaṃ, sabbapāliphullo viya yojanasatiko pāricchattako, paṭipāṭiyā ṭhapitānaṃ dvattiṃsūcandānaṃ dvattiṃsasūriyānaṃ dvattiṃsacakkavattīnaṃ dvattiṃsadevarājānaṃ dvattiṃsamahābrahmānaṃ M.3.16 siriyā siriṃ abhibhavamānaṃ viya virocittha, yathā taṃ dasahi pāramīhi dasahi upapāramīhi dasahi paramatthapāramīhi supūritāhi cattārisamatiṃsapāramitāhi alaṅkataṃ. kappasatasahasādhikāni asaṅkhyeyyāni dinnadānaṃ rakkhitasīlaṃ katakalyāṇakammaṃ ekasmiṃ attabhāve osaritvā vipākaṃ dātuṃ ṭhānaṃ alabhamānaṃ sambādhapattaṃ viya ahosi. nāvāsahassabhaṇḍaṃ ekanāvaṃ āropanakālo viya, sakaṭasahassabhaṇḍaṃ ekasakaṭaṃ āropanakālo viya, pañcavīsatiyā nadīnaṃ oghassa sambhijja mukhadvāre ekato rāsībhūtakālo viya ca ahosi.
Thân thể của đức Thế Tôn cũng chói sáng với ba mươi hai quý tướng được tô điểm thêm vào tám mươi tướng phụ và hào quang bao bọc toàn thân (bán kính) 2 mét, tuyệt đẹp trông tựa như bầu trời có đầy những vì tinh tú, giống như rừng hoa sen đang nở hoa, trông như cây san hô cao hàng trăm do-tuần có hoa nở rộ toàn thân, trông giống như sự chói sáng bao trùm sự sáng chói của ba mươi hai mặt trăng, ba mươi hai mặt trời, ba mươi hai vị Chuyển luân vương, vua của ba mươi hai vị Thiên, ba mươi hai vị Đại Phạm thiên cư trú theo tuần tự. Giống như vật thí được cúng dường, giới được gìn giữ, nghiệp lành đã tạo được thực hiện trong suốt 4 a-tăng-kỳ hơn trăm nghìn kiếp được trang hoàng với mười ba-la-mật bậc hạ, mười ba-la-mật bậc trung, mười ba-la-mật bậc thượng, tròn đủ ba mươi Pháp ba-la-mật được thực hành một cách khéo léo, đến hội đủ trong một tự ngã, khi không có cơ hội cho quả giống như rơi xuống nơi chật hẹp, tương tự như thời gian vác hàng hòa từ một nghìn con thuyền vào chung một chiếc thuyền, tương tự như thời gian vác hàng hóa từ một nghìn cỗ xe đặt xuống cùng một cỗ xe, tương tự như thời gian lấy nước sông từ hai mươi lăm dòng sông cùng chảy vào một dòng sông ở cửa sông.
imāya buddhasiriyā obhāsamānassāpi ca bhagavato purato anekāni daṇḍadīpikasahassāni ukkhipiṃsu. tathā pacchato. vāmapasse dakkhiṇapasse. jātikusumacampakavanamallika-rattuppalanīluppalamakulasinduvārapupphāni P.3.23 ceva nīlapītādivaṇṇasugandhagandhacuṇṇāni ca cātuddīpikameghavissaṭṭhodakavuṭṭhiyo viya vippakiriṃsu. pañcaṅgikatūriyanigghosā ceva buddhadhammasaṅghaguṇappaṭisaṃyuttā thutighosā ca sabbadisā pūrayiṃsu. devamanussanāgasupaṇṇagandhabbayakkhādīnaṃ akkhīni amatapānaṃ viya labhiṃsu. imasmiṃ pana ṭhāne ṭhatvā padasahassena gamanavaṇṇaṃ vattuṃ vaṭṭati. tatridaṃ mukhamattaṃ —
Mọi người cầm cây đèn có hàng nghìn ngọn đèn đặt ở phía trước mặt của đức Thế Tôn, thậm chí đang phát ra ánh sáng với vẻ rực rỡ của vị Phật này. Phía sau, bên trái, bên phải cũng tương tự y như vậy. Hoa lài đặt chồng lên hoa champā, hoa lài rừng, hoa sen đỏ, hoa sen trắng, nhũ hương, dây leo, và những bông hoa có màu xanh, màu vàng v.v, có hương thơm và sặc sỡ lan tỏa giống như bụi nước rớt xuống từ những đám mưa xuất hiện ở bốn hướng. Âm thanh vang vọng của người chơi năm loại nhạc cụ và tiếng vang rền của lời tán thán kết hợp với đức hạnh của đức Phật, đức Pháp và đức Tăng theo mọi phương hướng, ánh mắt của chúng chư Thiên, loài người, loài rồng, kim sí điểu, càn-thát-bà, dạ-xoa v.v, được nhìn thấy như thể được uống nước bất tử. Đến chỗ này sẽ nói lời giải thích cuộc hành trình của đức Phật bằng thể thơ tứ tuyệt một nghìn câu kệ, nhưng ở đây chỉ nói đến một vài khía cạnh như sau:
“evaṃ sabbaṅgasampanno, kampayanto vasundharaṃ.
aheṭhayanto pāṇāni, yāti lokavināyako.
dakkhiṇaṃ paṭhamaṃ pādaṃ, uddharanto narāsabho.
gacchanto sirisampanno, sobhate dvipaduttamo.
gacchato V.3.17 buddhaseṭṭhassa, heṭṭhā pādatalaṃ mudu.
samaṃ samphusate bhūmiṃ, rajasā nupalippati.
ninnaṭṭhānaṃ unnamati, gacchante lokanāyake.
unnatañca samaṃ hoti, pathavī ca acetanā.
pāsāṇā sakkharā ceva, kathalā khāṇukaṇṭakā.
sabbe maggā vivajjanti, gacchante lokanāyake.
nātidūre M.3.17 uddharati, naccāsanne ca nikkhipaṃ.
aghaṭṭayanto niyyāti, ubho jāṇū ca gopphake.
Vị dẫn dắt thế gian thành tựu tất cả mọi chi phần, đã làm cho đại địa rúng động, không làm hại đến chúng sanh ngài bước đi như vậy, đấng Nhân Ngưu, bậc tối thượng giữa loài người, vị thành tựu với sự vinh quang, dỡ bàn chân phải lên bước đầu tiên Ngài bước đi uy nghi. Khi đức Phật tối thượng bước đi, bàn chân mềm mại tiếp xúc với mặt đắt bằng phẳng cũng không vấy bẩn bởi bụi. Khi đấng Lãnh Đạo Thế Gian đang bước đi, ở chỗ thấp cũng sẽ nhô lên, còn chỗ cao cũng trở nên bằng phẳng, địa đại, tảng đá, đá sỏi, đá cuội, gạch ngói, gốc cây và gai tất cả mọi thứ không có tâm thức cũng tránh đường để cúng dường. Khi đấng Lãnh Đạo Thế Gian đang bước đi cũng không cần nhấc bàn chân để bước những bước quá dài ở chỗ xa, cũng không cần nhấc bàn chân để bước những bước quá ngắn ở chỗ ngắn, hai mắt cá chân và hai đầu gối cả 2 (phần) không va chạm nhau.
nātisīghaṃ P.3.24 pakkamati, sampannacaraṇo muni.
na cātisaṇikaṃ yāti, gacchamāno samāhito.
uddhaṃ adho ca tiriyaṃ, disañca vidisaṃ tathā.
na pekkhamāno so yāti, yugamattamhi pekkhati.
nāgavikkantacāro so, gamane sobhate jino.
cāruṃ gacchati lokaggo, hāsayanto sadevake.
uḷurājāva sobhanto, catucārīva kesarī.
tosayanto bahū satte, puraṃ seṭṭhaṃ upāgamī”ti.
Bậc hiền trí đầy đủ giới hạnh, không bước quá nhanh mà cũng không quá chậm, có tâm định tĩnh từ tốn bước đi, Ngài không nhìn bên trên, bên dưới, và chiều ngang, hướng lớn, hướng nhỏ, Ngài chỉ quan sát trong tầm của một cán cày rồi bước đi. Đấng Chiến Thắng có dáng đi tuyệt đẹp tựa như Long Tượng hùng mạnh đang bước đi sáng ngời, đấng Cao Cả của thế gian bước đi duyên dáng làm cho thế giới loài người cùng với thế giới chư Thiên phấn khởi. Ngài dũng mãnh tựa như Ngưu vương, tựa như sư tử chúa ngao du bốn phương làm cho các chúng sanh phần đông hoan hỷ, đã đi đến gần thành phố tối thượng nhất.
Vaṇṇakālo nāma kiresa, evaṃvidhesu kālesu buddhassa sarīravaṇṇe vā guṇavaṇṇe vā dhammakathikassa thāmoyeva pamāṇaṃ cuṇṇiyapadehi vā gāthābandhena vā yattakaṃ sakkoti, tattakaṃ vattabbaṃ. dukkathitanti na vattabbaṃ. appamāṇavaṇṇā hi buddhā, tesaṃ buddhāpi anavasesato vaṇṇaṃ V.3.18 vattuṃ asamatthā, pageva itarā pajāti. iminā sirivilāsena alaṅkatappaṭiyattaṃ sakyarājapuraṃ pavisitvā bhagavā pasannacittena janena gandhadhūmavāsacuṇṇādīhi pūjayamāno santhāgāraṃ pāvisi. tena vuttaṃ — “atha kho bhagavā nivāsetvā pattacīvaramādāya saddhiṃ bhikkhusaṅghena yena evaṃ santhāgāraṃ tenupasaṅkamī”ti.
Được biết rằng thời gian này là thời gian giải thích (ân đức của đức Phật) là như thế, trong việc giải thích về tướng mạo và giải thích về ân đức của đức Phật trong tất cả mọi thời như vậy. Có thể giải thích bằng thể thơ hoặc lối văn xuôi chừng nào thì nên nói chừng ấy, không nên nói rằng đã được thốt ra lời (biên soạn không hay). Thật vậy, chư Phật có ân đức vô lượng, dù là Phật với nhau cũng không thể giải thích ân đức của chư Phật ấy không thể để bỏ sót, còn nói gì đến những chúng sanh khác ngoại trừ đức Phật. Đức Thế Tôn đi đến thành phố của các vị vua Sakya đã được trang hoàng sắp đặt thật hào hoa tráng lệ như thế này, bởi con người với tâm tín thành được cúng dường với hương thơm, nhang đèn, phấn thơm v.v, đi vào giảng đường. Vì thế Ngài đã nói rằng – “Sau đó, đức Thế Tôn đã mặc y, cầm lấy bình bát và y phục đi đến giảng đường mới cùng với hội chúng Tỳ khưu.”
bhagavantaṃyeva purakkhatvāti bhagavantaṃ purato katvā. tattha bhagavā bhikkhūnañceva upāsakānañca majjhe nisinno gandhodakena nhāpetvā dukūlacumbaṭakena vodakaṃ katvā jātihiṅgulakena majjitvā rattakambalapaliveṭhite P.3.25 pīṭhe ṭhapitarattasuvaṇṇaghanapaṭimā viya ativirocittha. ayaṃ panettha porāṇānaṃ vaṇṇabhaṇanamaggo —
Vây quanh đức Thế Tôn: đã đặt (mời thỉnh) đức Thế Tôn ở phía trước. Ở đó, Đức Thế Tôn ngồi ở giữa chúng Tỳ khưu và các cư sĩ, Ngài vô cùng chói sáng tựa như một bức tượng xinh đẹp được đúc bằng vàng ròng nguyên khối, được mọi người tắm với nước thơm, lau dọn sạch sẽ với vải đội đầu cho đến khi khô, tô trát với màu đỏ son, đặt trên chỗ đặt được bao phủ với tấm khăn nhuộm đỏ. Cách thức giảng giải ân đức (đức Phật) của các vị trưởng thượng trong trường hợp này như sau:
“gantvāna maṇḍalamāḷaṃ, nāgavikkantacaraṇo.
obhāsayanto lokaggo, nisīdi varamāsane.
tasmiṃ M.3.18 nisinno naradammasārathi,
devātidevo satapuññalakkhaṇo.
buddhāsane majjhagato virocati,
suvaṇṇanekkhaṃ viya paṇḍukambale.
nekkhaṃ jambonadasseva, nikkhittaṃ paṇḍukambale.
virocati vītamalo, maṇiverocano yathā.
mahāsālova samphullo, nerurājāvalaṅkato.
suvaṇṇayūpasaṅkāso, padumo kokanado yathā.
jalanto dīparukkhova, pabbatagge yathā sikhī.
devānaṃ pāricchattova, sabbaphullo virocathā”ti.
Bậc Cao Cả của thế gian, có đức hạnh, đáng tán thán tựa như voi chúa đã đi đến hội trường Maṇḍala, tỏa ra hào quang, ngồi xuống chỗ ngồi cao quý (Phật tọa). Đấng Điều Ngự Trượng Phu, là vị Thiên nhân vượt trội của chư Thiên, có phước tướng gấp trăm lần, ngồi ở nơi đó trên Phật tọa ở giữa hội chúng sáng chói giống như thỏi vàng rồng mà con người đặt xuống ở trên tấm vải nhuộm vàng.
Vị không có vết nhơ, chiếu sáng giống như thỏi vàng nguyên chất mà vị ấy đặt lên tấm vải màu vàng, giống như ngọc ma-ni lấp lánh, dõng mãnh tựa như cây sa-la to lớn đã được trổ hoa toàn thân trang điểm ngọn núi Nerurāja, chói sáng tựa như lâu đài bằng vàng, tựa như hoa sen kokanado, tựa như ngọn đèn chiếu sáng, tựa như ngọn lửa ở trên đỉnh núi, tựa như cây pāricchatta của chúng Thiên trổ hoa khắp thân.
kāpilavatthave V.3.19 sakye bahudeva rattiṃ dhammiyā kathāyāti ettha dhammī kathā nāma santhāgārānumodanappaṭisaṃyuttā pakiṇṇakakathā veditabbā. tadā hi bhagavā ākāsagaṅgaṃ otārento viya pathavojaṃ ākaḍḍhanto viya mahājambuṃ khandhe gahetvā cālento viya yojanikaṃ madhubhaṇḍaṃ cakkayantena pīḷetvā madhupānaṃ pāyamāno viya kāpilavatthavānaṃ sakyānaṃ hitasukhāvahaṃ P.3.26 pakiṇṇakakathaṃ kathesi. “āvāsadānaṃ nāmetaṃ mahārāja mahantaṃ, tumhākaṃ āvāso mayā paribhutto bhikkhusaṅghena paribhutto mayā ca bhikkhusaṅghena ca paribhutto pana dhammaratanena paribhutto yevāti tīhi ratanehi paribhutto nāma hoti. āvāsadānasmiñhi dinne sabbadānaṃ dinnameva hoti. bhūmaṭṭhakapaṇṇasālāya vā sākhāmaṇḍapassa vāpi ānisaṃso nāma paricchindituṃ na sakkā”ti nānānayavicittaṃ bahuṃ dhammakathaṃ kathetvā —
Ở đây thuyết giảng giáo Pháp trong câu: Các vị Sakya trong thành Kāpilavatthu …với việc thuyết giảng giáo Pháp gần như trọn đêm này nên biết rằng là pakiṇṇakakathā (phần giảng giải linh tinh) có liên quan đến việc tùy hỷ sử dụng trong lễ khánh thành giảng đường. Thật vậy, đức Thế Tôn thuyết pakiṇṇakakathā mang lại lợi ích sự an lạc cho các vị Sakya người thành Kāpilavatthu như thể làm cho các vị vua Sakya vượt qua hư không Gaṅga, giống như kéo đi dưỡng chất của địa đại, tựa như đã nắm lấy cây mận đỏ đại thụ rung chuyển, tương tự vắt ép một tổ ong kích thước một do-tuần bằng động cơ để cho các vị Sakya uống mật ông đó. “Này đại vương việc cúng dường chỗ cư ngụ là việc đại thí, chỗ ở của các Ngài, Như Lai đã sử dụng, chư Tỳ khưu cũng đã sử dụng, chỗ ở mà Như Lai và chư Tỳ khưu đã sử dụng, cũng đồng nghĩa Pháp bảo đã sử dụng tương tự y như vậy, vì thế mới gọi là Tam bảo đã sử dụng, khi các Ngài cúng dường chỗ ở (trú xứ), tất cả các sự bố thí mà các Ngài đã cúng dường tương tự, thông thường lợi ích của ngôi nhà lá được tạo đựng ở trên mặt đất, hoặc lều vải được tạo dựng trên những cành cây, ai cũng có thể xác định được.” Trong khi thuyết giảng nhiều về vấn đề liên quan đến Pháp có cách thức được tô điểm bằng nhiều phương diện đã nói rằng:
“sītaṃ uṇhaṃ paṭihanti, tato vāḷamigāni ca.
sarīsape ca makase, sisire cāpi vuṭṭhiyo.
tato vātātapo ghoro, sañjāto paṭihaññati.
leṇatthañca sukhatthañca, jhāyituñca vipassituṃ.
vihāradānaṃ saṅghassa, aggaṃ buddhena vaṇṇitaṃ.
tasmā hi paṇḍito poso, sampassaṃ atthamattano.
vihāre M.3.19 kāraye ramme, vāsayettha bahussute.
tesaṃ annañca pānañca, vatthasenāsanāni ca.
dadeyya ujubhūtesu, vippasannena cetasā.
te tassa dhammaṃ desenti, sabbadukkhāpanūdanaṃ.
yaṃ so dhammaṃ idhaññāya, parinibbāti anāsavo”ti. (cūḷava. 295) —
“Trú xá ngăn ngừa sự nóng, sự lạnh, và hơn thế nữa các loài thú dữ, các loài rắn, và các muỗi mòng, và những cơn mưa vào mùa lạnh. Từ nơi ấy, cơn gió và ánh nắng dữ dội đã sanh lên vào mùa ấy bị dội lại. Với mục đích về sự nương náu, với mục đích về sự an lạc, để thiền định, và để hành minh sát.
Sự bố thí trú xá đến chúng Tăng (để sống ẩn cư, vì sự an lạc, để tu tập Chỉ tịnh, để tu tập Minh sát) đã được chư Phật tán thán là sự bố thí tối thắng. Vì thế bậc trí, trong khi nhìn thấy lợi ích của mình, nên cho xây dựng trú xá đẹp, nên thỉnh các bậc đa văn (nghe nhiều học rộng) trú ngụ tại nơi ấy.
Hơn nữa, nên cúng dường cơm, nước, vải vóc, và chỗ nằm ngồi đến các vị ấy. Với tâm ý trong sạch, nên cúng dường ở các bậc có bản chất ngay thẳng. Các vị ấy biết được toàn bộ Pháp nào trong Pháp và Luật này đều là những vị không còn lậu hoặc, chứng ngộ Niết Bàn, chư Tỳ khưu đa văn đó thuyết Pháp đến người (thí chủ) ấy, là Pháp có sự xua tan tất cả khổ đau cho vị ấy. Sau khi biết được Pháp ấy, người (thí chủ) ấy chấm dứt tham ái không còn tái sanh.”
evaṃ ayampi āvāse ānisaṃso, ayampi ānisaṃsoti bahudevarattiṃ atirekataraṃ diyaḍḍhayāmaṃ āvāsānisaṃsakathaṃ V.3.20 kathesi. tattha imā gāthāva saṅgahaṃ āruḷhā, pakiṇṇakadhammadesanā pana saṅgahaṃ na ārohati. sandassesītiādīni P.3.27 vuttatthāneva.
Lợi ích trong việc bố thí trú xứ này có với cách như vậy. Đức Thế Tôn thuyết giảng lợi ích bố thí trú xứ trong sự bố thí trú xứ gần như trọn đêm, tức là hơn hai canh rưỡi. Trong Chánh văn Pāḷī kệ ngôn này chỉ chừng ấy, Ngài đã đưa ra saṅgīti (tụng đọc), còn về thuyết giảng nhỏ nhặt Ngài không đưa ra tụng đọc. sandassesi (cho thấy rõ) v.v, có ý nghĩa như đã được nói.
āyasmantaṃ ānandaṃ āmantesīti dhammakathaṃ kathāpetukāmo jānāpesi. atha kasmā sāriputtamahāmoggallānamahākassapādīsu asītimahātheresu vijjamānesu bhagavā ānandattherassa bhāramakāsīti. parisajjhāsayavasena. āyasmā hi ānando bahussutānaṃ aggo, pahosi parimaṇḍalehi padabyañjanehi madhuradhammakathaṃ kathetunti sākiyamaṇḍale pākaṭo paññāto. tassa sakyarājūhi vihāraṃ gantvāpi dhammakathā sutapubbā, orodhā pana nesaṃ na yathāruciyā vihāraṃ gantuṃ labhanti, tesaṃ etadahosi — “aho vata bhagavā appaṃyeva dhammakathaṃ kathetvā amhākaṃ ñātiseṭṭhassa ānandassa bhāraṃ kareyyā”ti. tesaṃ ajjhāsayavasena bhagavā tasseva bhāramakāsi.
Cho gọi Tôn giả Ānanda đến: Đức Thế Tôn có ý muốn cho Tôn giả Ānanda thuyết giảng Giáo Pháp mới ra lệnh cho biết. (Hỏi) khi Đại Trưởng lão là tám mươi vị Đại Thinh văn chẳng hạn như Trưởng lão Sārīputta, Trưởng lão Mahāmoggallāna, Trưởng lão Mahākassapa v.v, cũng có mặt, vì sao đức Thế Tôn lại giao trách nhiệm cho Trưởng lão Ānanda? (Đáp) bởi dựa theo khuynh hướng của hội chúng. Thật vậy, Tôn giả Ānanda có danh tiếng được biết tiếng trong nhóm các vua Sakya, là (vị Tỳ khưu) hàng đầu trong nhóm Tỳ khưu đa văn, có thể thuyết giảng vấn đề liên quan đến Pháp êm dịu với câu cú và văn tự một cách trọn vẹn, những vị Sakya thậm chí đi đến tu viện cũng đã từng lắng nghe Pháp thoại của Ngài. Còn các vị trong hoàng cung của các vị vua Sakya không có cơ hội đi đến tu viện theo ý thích, những vị Sakya ấy đã suy nghĩ trong tâm rằng: “Ôi, quả thật đức Thế Tôn chỉ thuyết giảng chút ít các vấn đề liên quan đến Pháp, rồi giao lại trách nhiệm cho đại đức Ānanda thân quyến tuyệt vời của Ta.” Do nương theo khuynh hướng của các Sakya ấy, đức Thế Tôn mới giao trách nhiệm cho một mình đại đức Ānanda.
sekho pāṭipadoti paṭipannako sekhasamaṇo. so tuyhaṃ paṭibhātu upaṭṭhātu, tassa paṭipadaṃ desehīti paṭipadāya puggalaṃ niyametvā dasseti. kasmā pana bhagavā imaṃ paṭipadaṃ niyamesi? bahūhi kāraṇehi. ime tāva sakyā maṅgalasālāya maṅgalaṃ paccāsīsanti vaḍḍhiṃ icchanti, ayañca sekhapaṭipadā mayhaṃ sāsane maṅgalapaṭipadā vaḍḍhamānakapaṭipadātipi imaṃ paṭipadaṃ niyamesi. tassañca parisati sekhāva bahū nisinnā, te attanā paṭividdhaṭṭhāne kathīyamāne akilamantāva sallakkhessantītipi imaṃ paṭipadaṃ niyamesi. āyasmā ca ānando sekhapaṭisambhidāpattova, so attanā paṭividdhe paccakkhaṭṭhāne kathento akilamanto viññāpetuṃ sakkhissatītipi imaṃ paṭipadaṃ niyamesi. sekhapaṭipadāya ca tissopi sikkhā osaṭā M.3.20, tattha adhisīlasikkhāya P.3.28 kathitāya sakalaṃ vinayapiṭakaṃ kathitameva hoti, adhicittasikkhāya kathitāya sakalaṃ suttantapiṭakaṃ kathitaṃ hoti, adhipaññāsikkhāya kathitāya sakalaṃ abhidhammapiṭakaṃ kathitaṃ hoti, ānando ca bahussuto tipiṭakadharo, so pahoti tīhi piṭakehi tisso sikkhā kathetuṃ, evaṃ kathite sakyānaṃ maṅgalameva vaḍḍhiyeva bhavissatītipi imaṃ paṭipadaṃ niyamesi.
Đạo lộ thực hành của vị Hữu học: Sa-môn Hữu học vị đang thực hành. Đức Thế Tôn đó xác định hạng người bằng đạo lộ thực hành rằng: Đạo lộ thực hành của bậc Hữu học hãy sáng tỏ hiện hữu nơi Ānanda, Ānanda hãy thuyết giảng đạo lộ thực hành của vị Sa-môn Hữu học đó. (Hỏi) Vì sao đức Thế Tôn xác định đạo lộ thực hành này? (Đáp) bởi nhiều lý do. Trước hết các vị Sakya này hy vọng có điềm tốt lành, mong muốn sự phát triển cho Sālā trở nên thịnh vượng. Lại nữa, đạo lộ thực hành của bậc Hữu học này là đạo lộ thực hành (đưa đến) sự hạnh phúc (maṅgalapaṭipadā), là đạo lộ thực hành của vị đang tu tập trong Tôn giáo của Ta” chính nguyên nhân này mới xác định đạo lộ thực hành này. Hơn nữa, nhiều vị Hữu học đang ngồi trong hội chúng của Ngài, khi Ngài thuyết ṭhāna (vị trí) đã thấu triệt bởi tự thân, các vị Hữu học ấy sẽ xác định được không khó khăn, ngay cả lý do này mới xác định đạo lộ thực hành này. Và hơn nữa, đại đức Ānanda cũng đã chứng đắc tuệ phân tích của vị Hữu học, Ngài đã nói vị trí rõ ràng mà Ngài đã tự mình chứng đắc cũng không khó khăn sẽ có thể làm cho người khác hiểu được, kể cả lý do này mới thuyết xác định đạo lộ thực hành này. Hơn nữa, cả 3 vị Hữu học cũng đều gom chung trong đạo lộ thực hành của vị Hữu học, cả 3 vị Hữu học đó khi Ngài nói về Tăng thượng giới học, toàn bộ Tạng Luật cũng là điều mà Ngài nói đến, khi nói về Tăng thượng tâm học cũng đồng nghĩa với việc (Ngài) nói đến toàn bộ Tạng Kinh, khi nói đến Tăng thượng tuệ học cũng đồng nghĩa với việc (Ngài) nói đến toàn bộ Tạng Abhidhamma. Hơn nữa đại đức Ānanda là bậc đa văn, tinh thông Tam Tạng, Ngài có thể nói 3 học giới bằng Tam Tạng. Khi Ngài nói như vậy duy nhất sự hạnh phúc và sự thịnh vượng sẽ có cùng nhóm các vị Sakya, ngay cả nguyên nhân này mới xác định (để thuyết giảng) đạo lộ thực hành này.
piṭṭhi me āgilāyatīti kasmā āgilāyati? bhagavato hi chabbassāni padhānaṃ padahantassa V.3.21 mahantaṃ kāyadukkhaṃ ahosi, athassa aparabhāge mahallakakāle piṭṭhivāto uppajji. akāraṇaṃ vā etaṃ. pahoti hi bhagavā uppannaṃ vedanaṃ vikkhambhetvā ekampi dvepi sattāhe ekapallaṅkena nisīdituṃ. santhāgārasālaṃ pana catūhi iriyāpathehi paribhuñjitukāmo ahosi, tattha pādadhovanaṭṭhānato yāva dhammāsanā agamāsi, ettake ṭhāne gamanaṃ nipphannaṃ. dhammāsanaṃ patto thokaṃ ṭhatvā nisīdi, ettake ṭhānaṃ. diyaḍḍhayāmaṃ dhammāsane nisīdi, ettake ṭhāne nisajjā nipphannā. idāni dakkhiṇena passena thokaṃ nipanne sayanaṃ nipphajjissatīti evaṃ catūhi iriyāpathehi paribhuñjitukāmo ahosi. upādinnakasarīrañca nāma “no āgilāyatī”ti na vattabbaṃ, tasmā ciraṃ nisajjāya sañjātaṃ appakampi āgilāyanaṃ gahetvā evamāha.
(Hỏi) Tại sao trong Chánh văn Pāḷī trình bày rằng: “Lưng của ta không được khỏe”? vì sao lưng (của Ngài) không khỏe? (Đáp) Bởi vì trong khi thiết lập sự tinh tấn suốt 6 năm, khổ đau ở thân có rất nhiều, tiếp sau đó khi về già gió ở lưng đã phát sanh nơi Ngài. Hoặc là câu đó cũng chưa phải là nguyên nhân, bởi đức Thế Tôn ấy có thể chế ngự được cảm thọ sanh khởi với một oai nghi ngồi suốt một tuần lễ, hai tuần lễ, nhưng Ngài có ý muốn sử dụng giảng đường cho đầy đủ vơi cả 4 oai nghi. Kể từ khi rửa sạch tay và chân đến khi Ngài bước lên tọa cụ thuyết Pháp, lúc này (Ngài) chuyển sanh oai nghi đi. Sau khi đi đến tọa cụ thuyết Pháp (Ngài) đã đứng một chút rồi ngồi xuống (và) ngồi trên tọa cụ thuyết Pháp suốt hai canh rưỡi ở chỗ như vậy, hoàn thành việc ngoài ở chỗ như vậy. Bây giờ, khi muốn nằm xuống một chút với tư thế nghiêng sang bên phải (tư duy rằng) sẽ hoàn thành việc nằm, đồng nghĩa với việc đức Thế Tôn có ý muốn sử dụng giảng đường đầy đủ với cả 4 oai nghi như đã được trình bày, không nên nói rằng: Thân thể có thức bảo hộ của ta ‘không khỏe’, vì thế đức Thế Tôn đã lấy sự không khỏe dầu chút ít đã khởi lên do ngồi quá lâu mới thuyết như vậy.
saṅghāṭiṃ paññāpetvāti santhāgārassa kira ekapasse te rājāno paṭṭasāṇiṃ parikkhipāpetvā kappiyamañcakaṃ paññapetvā kappiyapaccattharaṇena attharitvā upari suvaṇṇa-tāraka-gandhamālā-dāmapaṭimaṇḍitaṃ vitānaṃ bandhitvā gandhatelappadīpaṃ āropayiṃsu “appeva nāma satthā dhammāsanato P.3.29 vuṭṭhāya thokaṃ vissamanto idha nipajjeyya, evaṃ no imaṃ santhāgāraṃ bhagavatā catūhi iriyāpathehi paribhuttaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissatī”ti. satthāpi tadeva sandhāya tattha saṅghāṭiṃ paññapetvā nipajji. uṭṭhānasaññaṃ manasi karitvāti ettakaṃ kālaṃ atikkamitvā vuṭṭhahissāmīti vuṭṭhānasaññaṃ citte ṭhapetvā.
Đã trải y tăng-già-lê: Được biết rằng các vị Sakya ấy cho ngăn bức màn ở một phần của giảng đường có sắp đặt giường thích hợp, rồi trải tấm trải giường phù hợp, gắn mái che được trang trí với những vì sao bằng vàng, tràng hoa thơm đặt ở trên dọc theo những ngọn đèn dầu thơm với suy nghĩ rằng: “Thật là tốt, nếu bậc Đạo Sư đứng dậy từ Pháp tọa, rồi nghĩ một chút (Ngài) sẽ nằm xuống ở chỗ này, như vậy giảng đường này là giảng đường đã được bậc Đạo Sư sử dụng với cả 4 oai nghi (điều đó) sẽ mang lại sự lợi ích, sự an lạc lâu dài.” Mặc dù bậc Đạo Sư biết được khuynh hướng đó đó mới trải y tăng-già-lê ở chỗ đó. Chú tâm đến ý tưởng của việc thức dậy: đã thiết lập đến ý tưởng của việc thức dậy ở trong tâm (rằng) thời gian chừng ấy Ta sẽ thức dậy.
23. mahānāmaṃ sakkaṃ āmantesīti so kira tasmiṃ kāle tassaṃ parisati jeṭṭhako pāmokkho, tasmiṃ saṅgahite sesaparisā saṅgahitāva M.3.21 hotīti thero tameva āmantesi. sīlasampannoti sīlena sampanno, sampannasīlo paripuṇṇasīloti attho. saddhammehīti sundaradhammehi, sataṃ vā sappurisānaṃ dhammehi.
Đã cho gọi vua Mahānāma dòng Sakya: được biết rằng trong thời gian đó vua Mahānāma dòng Sakya là vị lãnh đạo đứng đầu trong hội chúng ấy, khi Ngài Ānanda đã nhiếp phục vua Mahānāma rồi cũng là lúc nhiếp phục hội chúng còn lại, vì thế Trưởng lão mới cho gọi riêng một mình vua Mahānāma dòng Sakya. Sīlasampanno: Người có đầy đủ giới hạnh, tức là có giới tròn đủ, có giới trọn vẹn. với Diệu Pháp: với Pháp tốt đẹp, hoặc với Pháp của người đức hạnh là bậc Chân Nhân.
24. kathañca mahānāmāti iminā ettakena ṭhānena sekhapaṭipadāya mātikaṃ ṭhapetvā paṭipāṭiyā vitthāretukāmo evamāha. tattha sīlasampannotiādīni “sampannasīlā, bhikkhave, viharathā”ti ākaṅkheyyasuttādīsu vuttanayeneva veditabbāni.
Mahānāma vị Thánh đệ tự trong Pháp và Luật này v.v, vị Trưởng lão muốn thiết lập mẫu đề đạo lộ thực hành của bậc Hữu học với vị trí chỉ chừng ấy, giải thích chi tiết theo tuần tự mới nói như vậy. Ở đây, người có đầy đủ giới hạnh v.v, bậc sáng trí nên biết theo cách thức đã thuyết trong bài Kinh Ākaṅkheyya v.v, “Này chư Tỳ khưu, các ông hãy là người có giới trọn vẹn”.
25. kāyaduccaritenātiādīsu V.3.22 upayogatthe karaṇavacanaṃ, hiriyitabbāni kāyaduccaritādīni hiriyati jigucchatīti attho. ottappaniddese hetvatthe karaṇavacanaṃ, kāyaduccaritādīhi ottappassa hetubhūtehi ottappati bhāyatīti attho. āraddhavīriyoti paggahitavīriyo anosakkitamānaso. pahānāyāti pahānatthāya. upasampadāyāti P.3.30 paṭilābhatthāya. thāmavāti vīriyathāmena samannāgato. daḷhaparakkamoti thiraparakkamo. anikkhittadhuro kusalesu dhammesūti kusalesu dhammesu anoropitadhuro anosakkitavīriyo. paramenāti uttamena. satinepakkenāti satiyā ca nipakabhāvena ca. kasmā pana satibhājaniye paññā āgatāti? satiyā balavabhāvadīpanatthaṃ. paññāvippayuttā hi sati dubbalā hoti, sampayuttā balavatīti.
Có thân ác hạnh v.v, là sử dụng cách được dùng trong ý nghĩa đối cách, có nghĩa là xấu hổ, ghê tởm thân ác hạnh v.v, đáng xấu hổ. Có thân ác hạnh: là sử dụng cách được dùng trong ý nghĩa lý do trong diễn giải ghê sợ tội lỗi, có nghĩa là ghê sợ từ thân ác hạnh v.v, đó là nguyên nhân của ghê sợ tội lỗi. Vị có sự ra sức tinh tấn: vị có sự nỗ lực nâng đỡ, có tâm không thấp kém. Đã đoạn tận: vì lợi ích của việc dứt bỏ. Để đưa đến sự thành tựu: vì lợi ích cho sự thành tựu. Có sự kiên quyết: người có sự hội đủ bởi sức mạnh và tinh tấn. Có sự cố gắng vững chãi: người tiến về phía trước chắc chắn. Không bỏ rơi bổn phận trong các Pháp thiện: vị có bổn phận không từ bỏ, có sự tinh tấn bền bỉ trong thiện Pháp. Tột cùng: Tối thắng. Với niệm và tuệ bảo vệ thân: với niệm và với bản thể vị có tuệ hộ trì tự thân. (Hỏi) Vì sao tuệ lại đến kết hợp với niệm? (Đáp) để trình bày tính chất niệm có sức mạnh, thật vậy niệm không có tuệ thì niệm sẽ yếu ớt, niệm tương ưng với tuệ thì niệm sẽ có sức mạnh.
cirakatampīti attanā vā parena vā kāyena cirakataṃ cetiyaṅgaṇavattādi asīti mahāvattapaṭipattipūraṇaṃ. cirabhāsitampīti attanā vā parena vā vācāya cirabhāsitaṃ sakkaccaṃ uddisana uddisāpana dhammosāraṇa dhammadesanā upanisinnakathā anumodaniyādivasena pavattitaṃ vacīkammaṃ. saritā anussaritāti tasmiṃ kāyena cirakate “kāyo nāma kāyaviññatti, cirabhāsite vācā nāma vacīviññatti. tadubhayampi rūpaṃ, taṃsamuṭṭhāpikā cittacetasikā arūpaṃ. iti ime rūpārūpadhammā evaṃ uppajjitvā evaṃ niruddhā”ti sarati ceva anussarati ca, satisambojjhaṅgaṃ samuṭṭhāpetīti attho. bojjhaṅgasamuṭṭhāpikā hi sati idha adhippetā. tāya satiyā esa sakimpi saraṇena saritā, punappunaṃ saraṇena anussaritāti veditabbā.
Đã làm từ lâu: việc làm cho tròn đủ pháp hành là tám mươi mahāvatta chẳng hạn như phận sự quét dọn sân chùa v.v, tự mình hoặc người khác đã được làm từ lâu bằng thân. Đã nói từ lâu: tự mình hoặc người khác đã nói từ lâu bằng lời, bao gồm kệ ngôn được nói bởi việc tự mình dạy bảo, cho người khác dạy bảo, việc tập hợp Pháp, việc thuyết Pháp, đàm luận Pháp với sự tôn kính là khẩu nghiệp diễn tiến bởi mãnh lực lời nói đáng được tùy hỷ v.v. Nhớ lại được…tùy niệm được: Khi thân nghiệp đó đã được làm từ lâu bằng thân “thân đó được gọi là thân biểu tri, khi khẩu nghiệp đã nói từ lâu, lời nói đó gọi là khẩu biểu tri. Cả 2 câu điều đó là sắc. Tâm và tâm sở làm cho sắc được thiết lập thành vô sắc. Ghi nhớ và nhớ lại rằng “sắc pháp và vô sắc pháp này đã sanh khởi như vậy, đã diệt tận như vậy”, có nghĩa là làm cho niệm giác chi được thiết lập, thật vậy ở đây Ngài muốn đề cập niệm làm cho niệm giác chi sanh khởi, vị Thánh đệ tử ấy nhờ được bằng niệm ấy chỉ một lần nên biết rằng gọi là ghi nhớ, nhớ bằng niệm đó nhiều lần gọi là tùy niệm.
udayatthagāminiyāti M.3.22 pañcannaṃ khandhānaṃ udayavayagāminiyā udayañca vayañca paṭivijjhituṃ samatthāya. ariyāyāti vikkhambhanavasena ca samucchedavasena ca kilesehi ārakā ṭhitāya parisuddhāya. paññāya samannāgatoti vipassanāpaññāya ceva maggapaññāya ca samaṅgībhūto. nibbedhikāyāti P.3.31 sāyeva nibbijjhanato nibbedhikāti vuccati, tāya samannāgatoti attho. tattha maggapaññāya samucchedavasena anibbiddhapubbaṃ apadālitapubbaṃ lobhakkhandhaṃ dosakkhandhaṃ mohakkhandhaṃ nibbijjhati padāletīti nibbedhikā. vipassanāpaññāya tadaṅgavasena nibbedhikāya maggapaññāya paṭilābhasaṃvattanato cāti vipassanā “nibbedhikā”ti vattuṃ vaṭṭati. sammā dukkhakkhayagāminiyāti idhāpi maggapaññā “sammā hetunā nayena vaṭṭadukkhaṃ khepayamānā gacchatīti V.3.23 sammā dukkhakkhayagāminī nāma. vipassanā tadaṅgavasena vaṭṭadukkhañca kilesadukkhañca khepayamānā gacchatīti dukkhakkhayagāminī. dukkhakkhayagāminiyā vā maggapaññāya paṭilābhasaṃvattanato esā dukkhakkhayagāminī”ti veditabbā.
Thấy được sự sanh và sự diệt: đạt đến sự sanh và sự hoại diệt, có khả năng đưa đến để biết rõ sự sanh và sự hoại diệt của cả năm uẩn. Là bậc thánh: thuần tịnh do đã vững trú xa từ mọi phiền não bằng sự chế ngự và với sự đoạn tận. Có sự thành tựu bởi trí tuệ: là người thành tựu với Minh sát tuệ và Đạo tuệ. Góp phần vào sự thấu triệt: Minh sát tuệ và Đạo tuệ ấy Ngài gọi là góp phần vào sự thấu triệt bởi là phương tiện thấu triệt. Có nghĩa là có sự thành tựu bởi sự thấu triệt tuệ đó. Trong số Minh sát tuệ và Đạo tuệ cả hai pháp đó, Đạo tuệ gọi là góp phần vào sự thấu triệt, bởi ý nghĩa phân tích rằng ‘đâm thủng’ tức là phá hủy tham uẩn, sân uẩn, si uẩn chưa từng đâm thủng trước đây, chưa từng phá hủy trước đây bởi sự từ bỏ nhờ đoạn trừ. Minh sát đạo là góp phần vào sự thấu triệt bởi ý nghĩa phân tích rằng đâm thủng phá hủy tham uẩn, sân uẩn, si uẩn bằng cách đâm thủng phá hủy ở từng (giai đoạn) sát-na và do vận hành cho đạt đến Đạo tuệ, là phương tiện để đâm thủng, vì thế Minh sát tuệ gọi là góp phần vào sự thấu triệt cũng phù hợp. Ngay cả trong câu đạo lộ đưa đến sự chấm dứt khổ đau chân chánh này, Đạo tuệ “cũng gọi là Pháp thực hành đưa đến sự chấm dứt khổ đau một cách hoàn toàn, bởi vì làm cho khổ đau trong vòng sanh tử đi đến chấm dứt một cách chân chánh bởi nguyên nhân, bởi suy luận. Minh sát làm cho khổ trong vòng sanh tử và khổ do phiền não được chấm dứt hoàn toàn với mãnh lực sự từ bỏ do thay thế (tadaṅga), vì thế gọi là đạo lộ thực hành đưa đến đưa đến sự chấm dứt khổ đau. Hơn nữa, Minh sát đó cũng nên biết rằng là phương pháp thực hành đưa đến sự chấm dứt khổ, thậm chí bởi vì vận hành đưa đến chứng đạt Đạo tuệ đó là phương pháp thực hành dẫn đến sự chấm dứt khổ đau.
26. abhicetasikānanti abhicittaṃ seṭṭhacittaṃ sitānaṃ nissitānaṃ. diṭṭhadhammasukhavihārānanti appitappitakkhaṇe sukhapaṭilābhahetūnaṃ. nikāmalābhīti icchiticchitakkhaṇe samāpajjitā. akicchalābhīti nidukkhalābhī. akasiralābhīti vipulalābhī. paguṇabhāvena eko icchiticchitakkhaṇe samāpajjituṃ sakkoti, samādhipāripanthikadhamme pana akilamanto vikkhambhetuṃ na sakkoti, so attano anicchāya khippameva vuṭṭhāti, yathāparicchedavasena samāpattiṃ ṭhapetuṃ na sakkoti ayaṃ kicchalābhī kasiralābhī nāma. eko icchiticchitakkhaṇe ca samāpajjituṃ sakkoti, samādhipāripanthikadhamme ca akilamanto vikkhambheti, so yathāparicchedavaseneva vuṭṭhātuṃ sakkoti, ayaṃ akicchalābhī akasiralābhī nāma.
Là pháp nương tựa tâm tối thắng: dựa vào, nương tựa vào tâm tối thắng, tâm cao thượng. Các pháp an trú vào lạc trong hiện tại: làm nhân cho đạt được sự an lạc trong một khoảnh khắc mãnh liệt. Theo sự mong muốn: Thể nhập thiền vào bất kỳ sát-na nào (vị ấy) mong muốn. Chứng đắc không khó khăn: đạt được không khó khăn. Đạt được không mệt nhọc: đạt được một cách dồi dào. Một vị Thánh đệ tử có thể thể nhập thiền được ở khoảnh khắc cần thiết bởi vì là vị thiện xảo, nhưng một vị khác đạt được không khó khăn, nhưng lại không thể chế ngự Pháp là Pháp nguy hại của định, vị ấy xuất khỏi thiền ngay lập tức bởi vì bản thân không mong muốn, không thể duy trì sự thể nhập theo thời gian được xác định, vị Thánh đệ tử đó gọi là đắc được một cách cách khó khăn, một cách mệt nhọc. Còn vị Thánh đệ tử có thể thể nhập thiền vào khoảnh khắc cần thiết không khó khăn trong Pháp có định thanh tịnh, chế ngự được tâm, vị ấy có thể xuất khỏi sự thể nhập thiền theo thời gian đã được xác định, vị Thánh đệ tử này gọi là chứng đắc không khó khăn, và cũng gọi là chứng đắc không mệt nhọc.
27. ayaṃ P.3.32 vuccati mahānāma ariyasāvako sekho pāṭipadoti mahānāma ariyasāvako sekho pāṭipado vipassanāgabbhāya vaḍḍhamānakapaṭipadāya samannāgatoti vuccatīti dasseti. apuccaṇḍatāyāti apūtiaṇḍatāya. bhabbo abhinibbhidāyāti vipassanādiñāṇappabhedāya bhabbo. sambodhāyāti ariyamaggāya. anuttarassa yogakkhemassāti arahattaṃ M.3.23 anuttaro yogakkhemo nāma, tadabhigamāya bhabboti dasseti. yā panāyamettha atthadīpanatthaṃ upamā āhaṭā, sā cetokhilasutte vuttanayeneva veditabbā. kevalañhi tattha “tassā kukkuṭiyā aṇḍesu tividhakiriyakaraṇaṃ viya hi imassa bhikkhuno ussoḷhipannarasehi aṅgehi samannāgatabhāvo”ti yaṃ evaṃ opammasaṃsandanaṃ āgataṃ, taṃ idha evaṃ sīlasampanno hotītiādivacanato “tassā kukkuṭiyā aṇḍesu tividhakiriyakaraṇaṃ viya imassa bhikkhuno sīlasampannatādīhi pannarasehi dhammehi samaṅgibhāvo”ti. evaṃ yojetvā veditabbaṃ. sesaṃ sabbattha vuttasadisameva.
Này Mahānāma, vị Thánh đệ tử này được gọi là vị đạo lộ thực hành của bậc Hữu học: Trưởng lão trình bày rằng: Này Mahānāma, vị Thánh đệ tử thực hạnh theo đạo lộ của bậc Hữu học Ngài gọi là vị hội đủ phương pháp thực hành vận hành đưa đến căn phòng của Minh sát. Tựa như quả trứng gà không bị thối: bởi tính chất quả trứng không bị hư thối. Có khả năng phá vỡ: có thể chẻ ra bằng trí tuệ của Minh sát. Có khả năng giác ngộ: nhằm mục đích Thánh đạo. Có khả năng chứng đạt vô thượng sự an toàn đối với các mối ràng buộc: Trưởng lão thuyết rằng: Vị A-ra-hán gọi là Pháp vô thượng an toàn đối với các trói buộc, là người có khả năng chứng đạt Pháp đó, ví dụ so sánh Ngài mang đến để trình bày nội dung ý nghĩa của bài Kinh này, bậc trí nên biết theo cách thực đã được Ngài nói trong bài Kinh Cetokhila. Sự so sánh các ví dụ nào được đưa ra trong Kinh Cetokhila, chẳng hạn như “sự tinh tấn lớn lao của vị tỳ khưu này, Nghĩa là, trạng thái vị Tỳ khưu này được hội tụ đầy đủ từ 15 yếu tố cũng giống như việc làm ba hành động trong vỏ trứng của một con gà mái”, bậc trí nên đem ví dụ đó đến để phối hợp ý nghĩa trong bài bài Kinh này, hiểu như vầy từ ý nghĩa đã nói: Tỳ khưu trong Pháp và Luật này thành tựu đầy đủ giới v.v, trạng thái vị này cùng với 15 Pháp có tính chất là người thành tựu đầy đủ giới, cũng giống như việc làm ba hành động trong trứng của con gà mái. Từ còn lại tương tự với những từ mà Ngài đã nói ở mọi chỗ.
28. imaṃyeva anuttaraṃ upekkhāsatipārisuddhinti imaṃ paṭhamādijjhānehi asadisaṃ uttamaṃ catutthajjhānikaṃ upekkhāsatipārisuddhiṃ. paṭhamābhinibbhidāti paṭhamo ñāṇabhedo. dutiyādīsupi eseva V.3.24 nayo. kukkuṭacchāpako pana ekavāraṃ mātukucchito ekavāraṃ aṇḍakosatoti dve vāre jāyati. ariyasāvako tīhi vijjāhi tāyo vāre jāyati. pubbenivāsacchādakaṃ P.3.33 tamaṃ vinodetvā pubbenivāsañāṇena paṭhamaṃ jāyati, sattānaṃ cutipaṭisandhicchādakaṃ tamaṃ vinodetvā dibbacakkhuñāṇena dutiyaṃ jāyati, catusaccapaṭicchādakaṃ tamaṃ vinodetvā āsavakkhayañāṇena tatiyaṃ jāyati.
28. Vô thượng này có xả thọ làm nhân cho niệm được thanh tịnh: là Tứ thiền cao thượng không giống với Sơ thiền có xả thọ làm nhân cho niệm được thanh tịnh. Sự phá vỡ bằng trí lần thứ nhất: là sự phá vỡ gãy bằng trí lần thứ nhất, ngay cả trong lần thứ hai cũng cách thức này tương tự. Con gà sanh ra hai lần: 1- sanh ra từ bụng mẹ trong lần thứ nhất, và 2- sinh ra từ vỏ trứng trong lần thứ nhất. Vị Thánh đệ tử sanh ra ba lần với ba Minh là xua tan bóng tối bao trùm uẩn từng nương trong quá khứ, sanh ra lần thứ nhất bởi Túc mạng trí. Xua tan bóng tối bao phủ sự tử và sự tái sanh của tất cả chúng sanh rồi sinh ra lần thứ hai bằng Thiên nhãn trí. Xua tan bóng tối che đậy Bốn Chân lý rồi sinh ra lần thứ ba với Lậu tận trí.
29. idampissa hoti caraṇasminti idampi sīlaṃ assa bhikkhuno caraṇaṃ nāma hotīti attho. caraṇaṃ nāma bahu anekavidhaṃ, sīlādayo pannarasadhammā, tattha idampi ekaṃ caraṇanti attho. padattho pana carati tena agatapubbaṃ disaṃ gacchatīti caraṇaṃ. esa nayo sabbattha.
29. Đây cũng là đức hạnh của vị ấy: Ngay cả cái này cũng gọi là tánh hạnh của Tỳ khưu vị có giới, gọi là tánh hạnh có nhiều không phải duy nhất bao gồm mười Pháp có giới v.v. Giải thích rằng trong mười lăm Pháp đó dầu là giới này cũng là một loại tánh hạnh, nhưng với ý nghĩa riêng biệt của câu người nào đi du hành là đi đến phương hướng chưa từng đi với đức hạnh này, đức hạnh này gọi là tánh hạnh (phương tiện đưa đi). Ở mọi chỗ cũng có cách thức này.
idampissa hoti vijjāyāti idaṃ pubbenivāsañāṇaṃ tassa vijjā nāma hotīti attho. vijjā nāma bahu anekavidhā, vipassanañāṇādīni aṭṭha ñāṇāni, tattha idampi ñāṇaṃ ekā vijjātipi attho. padattho pana vinivijjhitvā etāya jānātīti vijjā. esa nayo sabbattha. vijjāsampanno itipīti tīhi vijjāhi vijjāsampanno itipi. caraṇasampanno itipīti pañcadasahi dhammehi caraṇasampanno itipi. tadubhayena pana vijjācaraṇasampanno itipīti.
Đây cũng là một loại Minh của vị ấy: Túc mạng minh này gọi là Minh của vị Tỳ khưu đó. Gọi là Minh có nhiều không phải duy nhất bao gồm tám loại trí có Minh sát trí v.v. Có nghĩa là trong 8 loại trí đó trí thì ngay cả trí này cũng được gọi là một loại minh, nhưng với ý nghĩa riêng biệt của câu người nào biết rõ thấu triệt bởi đức hạnh này, vì thế đức hạnh này gọi là Minh (phương tiện biết rõ thấu triệt). Ở mọi chỗ cũng có cách thức này. Là vị thành tựu đầy đủ Minh: Thành tựu đầy đủ ba minh gọi là người thành tựu trọn vẹn bởi Minh. Là vị thành tựu đầy đủ với tánh hạnh: Thành tựu đầy đủ mười lăm Pháp, gọi là vị thành tựu trọn vẹn tánh hạnh. Là vị thành tựu đầy đủ Minh và tánh hạnh: Vị thành tựu đầy đủ cả hai như thế gọi là vị thành tựu trọn vẹn cả Minh và tánh hạnh.
30. sanaṅkumārenāti M.3.24 porāṇakakumārena, cirakālato paṭṭhāya kumāroti paññātena. so kira manussapathe pañcacūḷakakumārakakāle jhānaṃ nibbattetvā aparihīnajjhāno brahmaloke nibbatti, tassa so attabhāvo piyo ahosi manāpo, tasmā tādiseneva attabhāvena carati, tena naṃ sanaṅkumāroti sañjānanti. janetasminti P.3.34 janitasmiṃ, pajāyāti attho. ye gottapaṭisārinoti ye janetasmiṃ gottaṃ paṭisaranti “ahaṃ gotamo, ahaṃ kassapo”ti, tesu loke gottapaṭisārīsu khattiyo seṭṭho. anumatā bhagavatāti mama pañhabyākaraṇena saddhiṃ saṃsanditvā desitāti ambaṭṭhasutte buddhena bhagavatā “ahampi, ambaṭṭha, evaṃ vadāmi —
30. Sanaṅkumāra: là đứa trẻ thời xưa xuất hiện gọi là động từ xuất hiện từ lúc đầu. Được biết rằng trong xứ sở loài người Sanaṅkumāra đó thực hành thiền làm cho sanh khởi trong lúc vẫn còn là đứa trẻ với mái tóc được buộc thành năm búi tóc có thiền không hoại, (sau khi thân hoại mạng chung) hóa sanh vào thế giới Phạm thiên, sắc thân dễ thương, đáng mến, vị ấy đã đi du hành với sắc thân như vậy, cho nên mọi người đều biết với vị ấy với cái tên Sanaṅkumāra. Ở trong nhóm người: trong nhóm người, tức là ở trong nhóm dân chúng. ye gottapaṭisārino (người nào…dựa vào chủng tộc): Những người nào chấp vào chủng tộc trong nhóm người đó nói rằng “tôi là Gotama, tôi là Kassapa” trong nhóm người chấp vào chủng tộc ấy thì Sát-đế-lỵ là tối thắng nhất trong thế gian. Đức Thế Tôn cho phép: kệ ngôn này ta so sanh để trình bày cùng với vấn đề tiên đoán của Ta, trong bài Kinh Ambaṭṭha, đức Thế Tôn nói như vầy:
‘khattiyo V.3.25 seṭṭho janetasmiṃ, ye gottapaṭisārino.
vijjācaraṇasampanno, so seṭṭho devamānuse’ti”. (dī. ni. 1.277) —
evaṃ bhāsantena anuññātā anumoditā. sādhu sādhu ānandāti, bhagavā kira ādito paṭṭhāya niddaṃ anokkamantova imaṃ suttaṃ sutvā ānandena sekhapaṭipadāya kūṭaṃ gahitanti ñatvā uṭṭhāya pallaṅkaṃ ābhujitvā nisinno sādhukāraṃ adāsi. ettāvatā ca pana idaṃ suttaṃ jinabhāsitaṃ nāma jātaṃ. sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
Này Ambaṭṭha đến ta cũng nói như vầy: trong nhóm người chấp vào vấn đề chủng tộc thì Sát-đế-lỵ chiếm địa vị tối thắng ở nhân gian. Người thành tựu đầy đủ Minh và Hạnh là vị tối thắng giữa chúng chư Thiên và Nhân loại. (dī. ni. 1.277).
Ngài cho phép tùy hỷ. Lành thay! lành thay Ānanda! được biết rằng đức Thế Tôn không chìm vào giấc ngủ ngay từ đầu khi lắng nghe bài Kinh này, biết được Ānanda bắt lấy được đỉnh đạo lộ thực hành của vị Hữu học đứng dậy từ chỗ ngồi kiết già ban lời tán thán. Bài Kinh này với lời thuyết giảng chỉ chừng này, vì thế bài Kinh này được xem là kim ngôn của bậc Chiến Thắng. Từ còn lại trong các câu đều đơn giản.
Giải Thích Kinh Hữu Học Kết Thúc.