Kinh số 49 – Giải Thích Kinh Phạm Thiên Cầu Thỉnh

(Brahmanimantanikasuttavaṇṇanā)

Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Phạm Thiên Cầu Thỉnh

  1. evaṃ V.2.298 P.2.405 M.2.302 me sutanti brahmanimantanikasuttaṃ. tattha pāpakaṃ diṭṭhigatanti lāmakā sassatadiṭṭhi. idaṃ niccanti idaṃ saha kāyena brahmaṭṭhānaṃ aniccaṃ “niccan”ti vadati. dhuvādīni tasseva vevacanāni. tattha dhuvanti thiraṃ. sassatanti sadā vijjamānaṃ. kevalanti akhaṇḍaṃ sakalaṃ. acavanadhammanti acavanasabhāvaṃ. idañhi na jāyatītiādīsu imasmiṃ ṭhāne koci jāyanako vā jīyanako vā mīyanako vā cavanako vā upapajjanako vā natthīti sandhāya vadati. ito ca panaññanti ito saha kāyakā brahmaṭṭhānā uttari aññaṃ nissaraṇaṃ nāma natthīti evamassa thāmagatā sassatadiṭṭhi uppannā hoti. evaṃvādī pana so upari tisso jhānabhūmiyo cattāro maggā cattāri phalāni nibbānanti sabbaṃ paṭibāhati. avijjāgatoti avijjāya gato samannāgato aññāṇī andhībhūto. yatra hi nāmāti yo nāma.

501.Kinh Phạm Thiên Cầu Thỉnh được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, pāpakaṃ diṭṭhigataṃ (đã sanh khởi tà kiến ác): Thường kiến thấp hèn. idaṃ niccaṃ (đây là thường hằng): Phạm thiên Baka nói rằng vị trí của Phạm thiên cùng với hư không là vô thường lại nói rằng ‘thường hằng’. Dhuvaṃ (bền vững) v.v, là từ đồng nghĩa với chính từ ‘thường hằng’ mà thôi. Ở đó, ‘bền vững’ là chắc chắn. Sassataṃ (trường tồn): luôn luôn có sự tồn tại. Kevalaṃ (trọn vẹn): toàn bộ không đứt. Acavanadhammaṃ: có thực tính không bị biến hoại. idañhi na jāyati (thế giới Phạm thiên này không sanh): đây muốn nói đến rằng người được sanh ra, người già, người chết, người bị biến hoại, người hóa sanh, người được sanh lên ở chỗ này không có. ito ca panaññaṃ (và chỗ khác từ chỗ này): Thường kiến mãnh liệt đã khởi lên nơi vị ấy như vậy “gọi là nhân dẫn đến thoát khỏi mọi khổ đau (do) không có nơi nào khác tốt đẹp hơn Phạm thiên giới cùng với hư không này. Cũng thế người nói như thế này đây đã bác bỏ tất cả mọi nguyên nhân là 3 cõi Thiền cao, 4 Đạo, 4 Quả và Niết bàn. Avijjāgato (Rơi vào trong Vô minh): đã đi, đã được phối hợp với Vô minh, gọi là người không hiểu biết, là người mù. yatra hi nāma (bởi Phạm thiên Baka): sửa thành yo nāma (tên người nào).

  1. atha kho, bhikkhave, māro pāpimāti māro kathaṃ bhagavantaṃ addasa? so kira attano bhavane nisīditvā kālena kālaṃ satthāraṃ āvajjeti — “ajja samaṇo gotamo katarasmiṃ gāme vā nigame vā vasatī”ti. imasmiṃ pana kāle āvajjanto, “ukkaṭṭhaṃ nissāya subhagavane viharatī”ti ñatvā, “kattha nu kho gato”ti olokento brahmalokaṃ gacchantaṃ disvā, “samaṇo gotamo brahmalokaṃ gacchati, yāva tattha dhammakathaṃ kathetvā brahmagaṇaṃ mama visayā nātikkameti, tāva gantvā dhammadesanāyaṃ vichandaṃ karissāmī”ti satthu padānupadiko gantvā brahmagaṇassa antare adissamānena kāyena aṭṭhāsi. so, “satthārā bakabrahmā apasādito”ti ñatvā brahmuno upatthambho hutvā aṭṭhāsi. tena vuttaṃ — “atha kho, bhikkhave, māro pāpimā”ti.

Atha kho, bhikkhave, māro pāpimā (khi đó, này các Tỳ khưu, Ác ma xấu xa): hỏi rằng: Ác ma xấu xa đã thấy đức Thế Tôn như thế nào? Kể rằng Ác ma đó đã ngồi trong cõi của mình thỉnh thoảng lại ngẫm nghĩ đến bậc Đạo Sư – “Ngày hôm nay Sa-môn Gotama cư ngụ ở trong làng hay thị trấn nào?” Và trong lúc đang ngẫm nghĩ thì biết được rằng: “(đức Phật) đang trú tại Ukkaṭṭha trong rừng Subhaga”, trong khi nhận thấy “rồi đi đâu nữa” cũng thấy rằng đang đi đến Phạm thiên giới, mới nghĩ rằng: “Sa-môn Gotama đang đi đến Phạm thiên giới, ta sẽ đi cho kịp thời gian Sa-môn Gotama thuyết giảng Giáo Pháp, ở đó cho đến khi nào làm cho nhóm Phạm thiên không thoát khỏi phạm vi của ta, rồi cho đến khi ấy ta sẽ làm cho Ngài hết ước muốn thuyết giảng Giáo Pháp” mới bộ hành theo dấu vết của bậc Đạo Sư rồi đến đứng ẩn mình ở giữa hội chúng Phạm thiên. Ác ma biết rằng: “Phạm thiên Baka bị bậc Đạo Sư lên án” mới đặt mình trở thành người hỗ trợ Phạm thiên. Vì thế đức Thế Tôn đã nói – “khi đó, này các Tỳ khưu, Ác ma xấu xa”.

brahmapārisajjaṃ anvāvisitvāti ekassa brahmapārisajjassa sarīraṃ pavisitvā. mahābrahmānaṃ pana brahmapurohitānaṃ vā anvāvisituṃ na sakkoti. metamāsadoti mā P.2.406 etaṃ apasādayittha. abhibhūti V.2.299 abhibhavitvā ṭhito jeṭṭhako. anabhibhūtoti aññehi anabhibhūto. aññadatthūti ekaṃsavacane M.2.303 nipāto. dassanavasena daso, sabbaṃ passatīti dīpeti. vasavattīti sabbajanaṃ vase vatteti. issaroti loke issaro. kattā nimmātāti lokassa kattā ca nimmātā ca, pathavīhimavantasinerucakkavāḷamahāsamuddacandimasūriyā ca iminā nimmitāti dīpeti.

Brahmapārisajjaṃ anvāvisitvā (nhập vào một Phạm thiên quyến thuộc): Nhập vào thân của một vị Phạm thiên quyến thuộc, nhưng không thể nhập vào thân của vị Đại Phạm thiên hoặc nhóm Phạm thiên Purohitā. Metamāsado (đừng xâm hại Phạm thiên Baka này): đừng xâm hại nhóm Phạm thiên này. Abhibhū (người chiến thắng): người đã chiến thắng đã vững trú, bậc trưởng thượng (to lớn nhất, vị dẫn đầu). Anabhibhūto (bậc không bị chế ngự): những người khác không thể chế ngự. aññadatthu (chắc chắn): là một phân từ được sử dụng với ý nghĩa ‘một phía’. Ác ma nói rằng người nhìn thấy do nhờ sức mạnh từ việc thấy sẽ nhìn thấy mọi thứ. Vasavattī (người thống trị): làm cho tất cả chúng sanh bị đặt dưới quyền kiểm soát. Issaro: vị chúa tể ở trong thế gian. kattā nimmātā (người sáng tạo ra thế gian, người tạo nên thế gian): là người tạo nên và người tạo ra thế gian, Ác ma chỉ ra rằng quả địa cầu, núi Hy-mã-lạp, núi Suneru, vũ trụ, đại dương, mặt trăng và mặt trời đều do Đại Phạm thiên này tạo ra.

seṭṭho sajitāti ayaṃ lokassa uttamo ca sajitā ca. “tvaṃ khattiyo nāma hohi, tvaṃ brāhmaṇo nāma, vesso nāma, suddo nāma, gahaṭṭho nāma, pabbajito nāma, antamaso oṭṭho hohi, goṇo hohī”ti evaṃ sattānaṃ visajjetā ayanti dasseti. vasī pitā bhūtabhabyānanti ayaṃ ciṇṇavasitāya vasī, ayaṃ pitā bhūtānañca bhabyānañcāti vadati. tattha aṇḍajajalābujā sattā antoaṇḍakose ceva antovatthimhi ca bhabyā nāma, bahi nikkhantakālato paṭṭhāya bhūtā. saṃsedajā paṭhamacittakkhaṇe bhabyā, dutiyato paṭṭhāya bhūtā. opapātikā paṭhamairiyāpathe bhabyā, dutiyato paṭṭhāya bhūtāti veditabbā. te sabbepi etassa puttāti saññāya, “pitā bhūtabhabyānan”ti āha.

seṭṭho sajitā (người cao cả nhất, là người sắp đặt chúng sanh): Đại Phạm thiên này là người cao cả nhất và là người sắp xếp. Ác ma chỉ ra rằng Đại Phạm thiên này là người sắp đặt nhóm chúng sanh như vậy “ngươi là Sát-đế-lỵ, ngươi là Bà-la-môn, là thương nhân, là giai cấp nô lệ, là người gia chủ, là người xuất gia, cho đến là loài lạc đà, là loài bò.” vasī pitā bhūtabhabyānaṃ (Đại Phạm thiên này là người có sức mạnh là cha của nhóm chúng sanh đã sanh và nhóm chúng sanh đang sanh): Ác ma nói rằng Đại Phạm thiên này là người có sức mạnh do năng lực đã được tích lũy, Đại Phạm thiên này là cha của nhóm chúng sanh đã sanh và nhóm chúng sanh đang sanh, trong lời đó nên biết rằng nhóm chúng sanh sinh ra từ trong trứng hoặc trong dạ con được gọi là đang sanh, trong lúc ở trong vỏ trứng và bên trong màng ruột (tử cung) kể từ lúc được lọt lòng ra bên ngoài gọi là đã sanh. Nhóm chúng sanh được sanh trong nơi ẩm ướt ở sát-na tâm đầu tiên gọi là đang sanh, kể từ sát-na tâm thứ hai được gọi là đã sanh. Nhóm chúng sanh hóa sanh gọi là đang sanh ở oai nghi đầu tiên, kể từ oai nghi thứ hai trở đi nên biết là đã sanh. Ác ma nói rằng: “Là cha của nhóm chúng sanh đang sanh và đã sanh” chính là muốn nói đến toàn bộ chúng sanh đó đều là con của Đại Phạm thiên này.

pathavīgarahakāti yathā tvaṃ etarahi, “aniccā dukkhā anattā”ti pathaviṃ garahasi jigucchasi, evaṃ tepi pathavīgarahakā ahesuṃ, na kevalaṃ tvaṃyevāti dīpeti. āpagarahakātiādīsupi eseva nayo. hīne kāye patiṭṭhitāti catūsu apāyesu nibbattā. pathavīpasaṃsakāti yathā tvaṃ garahasi, evaṃ agarahitvā, “niccā dhuvā sassatā acchejjā abhejjā akkhayā”ti evaṃ pathavīpasaṃsakā pathaviyā vaṇṇavādino ahesunti vadati. pathavābhinandinoti taṇhādiṭṭhivasena pathaviyā abhinandino. sesesupi eseva nayo. paṇīte kāye patiṭṭhitāti brahmaloke nibbattā. taṃ tāhanti tena kāraṇena taṃ ahaṃ. iṅghāti codanatthe nipāto. upātivattitthoti atikkamittha. “upātivattito”tipi pāṭho, ayamevattho. daṇḍena paṭippaṇāmeyyāti catuhatthena muggaradaṇḍena pothetvā palāpeyya.

Pathavīgarahakā (phỉ báng địa đại): Ác ma nói rằng “bọn chúng (Sa-môn, Bà-la-môn) là những người đã phỉ báng địa đại, giống như Ngài đang phỉ báng, chán ghét địa đại trong lúc này rằng “vô thường, khổ não, vô ngã” và cũng không phải chỉ riêng Ngài. Thậm chí trong câu sau: “là người phỉ báng thủy đại” cũng theo cách thức đó. Hīne kāye patiṭṭhitā (phải sanh vào nhóm chúng sanh hạ tiện): tái sanh vào bốn khổ cảnh. Pathavīpasaṃsakā (người tán dương địa đại) này Ác ma nói rằng họ đã tán dương địa đại, là người khen ngợi ân đức địa đại như thế, họ không phỉ báng (nhưng ca ngợi) địa đạo thường hằng, bền vững, trường tồn, không thể hủy diệt được, không bị vỡ, không thay đổi. Pathavābhinandino (thỏa thích địa đại): là người có sự thỏa thích trong địa đại với mãnh lực của tham ái và tà kiến. Kể cả những từ còn lại cũng được hiểu  theo cách tương tự. Paṇīte kāye patiṭṭhitā (sanh vào nhóm chúng sanh cao quý): được sanh vào Phạm thiên giới. Taṃ tāhaṃ (Vị thế tôi mới nói Ngài): Vì lý do đó tôi mới nói cùng Ngài. iṅgha (xin mời): là phân từ được sử dung với ý nghĩa nhắc nhở. Upātivattittho (đi quá lố): đã vượt qua. Pāḷī ‘upātivattito (hành vi cư xử không đúng mực)’ cũng có, đều có chung một ý nghĩa. daṇḍena paṭippaṇāmeyya (dùng gậy đánh đuổi): dùng gậy dài 4 hắc tay để đánh đuổi đi.

narakapapāteti sataporise mahāsobbhe. virādheyyāti P.2.407 hatthena gahaṇayutte vā pādena patiṭṭhānayutte vā ṭhāne gahaṇapatiṭṭhānāni kātuṃ na sakkuṇeyya. nanu tvaṃ bhikkhu passasīti bhikkhu nanu tvaṃ imaṃ brahmaparisaṃ sannipatitaṃ obhāsamānaṃ virocamānaṃ jotayamānaṃ passasīti brahmuno ovāde ṭhitānaṃ M.2.304 iddhānubhāvaṃ dasseti. iti kho maṃ, bhikkhave, māro pāpimā brahmaparisaṃ upanesīti, bhikkhave V.2.300, māro pāpimā nanu tvaṃ bhikkhu passasi brahmaparisaṃ yasena ca siriyā ca obhāsamānaṃ virocamānaṃ jotayamānaṃ, yadi tvampi mahābrahmuno vacanaṃ anatikkamitvā yadeva te brahmā vadati, taṃ kareyyāsi, tvampi evamevaṃ yasena ca siriyā ca viroceyyāsīti evaṃ vadanto maṃ brahmaparisaṃ upanesi upasaṃhari. mā tvaṃ maññitthoti mā tvaṃ maññi. māro tvamasi pāpimāti pāpima tvaṃ mahājanassa māraṇato māro nāma, pāpakaṃ lāmakaṃ mahājanassa ayasaṃ karaṇato pāpimā nāmāti jānāmi.

Narakapapāte (rơi vào vực thẳm): trong cái hố to lớn sâu thẳm trong địa ngục Sataporisa. virādheyya (có thể sai sót): Không thể làm thành chỗ nắm lấy, nơi giẫm đạp đủ để lấy tay cầm nắm hoặc đủ để đặt chân. nanu tvaṃ bhikkhu passasi (Tỳ khưu, ông nhìn thấy không phải sao?): Ác ma thể hiện năng lực thần thông của người hành theo lời chỉ bảo của Phạm thiên rằng: “Tỳ khưu, ông nhìn thấy hội chúng Phạm thiên tụ hội với nhau được thắp sáng, được chói sáng, được sáng tỏ này không phải sao?” iti kho maṃ, bhikkhave, māro pāpimā brahmaparisaṃ upanesi (này chư Tỳ khưu, Ác ma xấu xa lại so sánh ta cùng với hội chúng Phạm thiên): Này chư Tỳ khưu Ác ma xấu xa khi nói như vậy rằng “Tỳ khưu, ông nhìn thấy hội chúng Tỳ khưu được chói sáng bởi danh vọng và sự vinh hiển không phải sao? đến Ngài cũng thế nếu không đi quá xa bằng lời Đại Phạm thiên nói, thực hành theo lời Đại Phạm thiên đã nói với Ngài, chính Ngài cũng được chói sáng với danh vọng và sự vinh hiển tương tự vậy” hướng đến, mang hội chúng Phạm thiên đến để so sánh với Ta. mā tvaṃ maññittho (Ngài chớ hiểu rằng…): Ác ma xấu xa đừng tưởng tượng thế. māro tvamasi pāpimā (người là Ác ma xấu xa): Ác ma, ta biết ngươi, ngươi là Ác ma bởi giết đại chúng, ngươi được gọi là kẻ xấu xa bởi đã làm mất danh tiếng, (làm điều) tội lỗi, thấp hèn cùng đại chúng.

  1. kasiṇaṃ āyunti sakalaṃ āyuṃ. te kho evaṃ jāneyyunti te evaṃ mahantena tapokammena samannāgatā, tvaṃ pana purimadivase jāto, kiṃ jānissasi, yassa te ajjāpi mukhe khīragandho vāyatīti ghaṭṭento vadati. pathaviṃ ajjhosissasīti pathaviṃ ajjhosāya gilitvā pariniṭṭhapetvā taṇhāmānadiṭṭhīhi gaṇhissasi. opasāyiko me bhavissasīti mayhaṃ samīpasayo bhavissasi, maṃ gacchantaṃ anugacchissasi, ṭhitaṃ upatiṭṭhissasi, nisinnaṃ upanisīdissasi, nipannaṃ upanipajjissasīti attho. vatthusāyikoti mama vatthusmiṃ sayanako. yathākāmakaraṇīyo bāhiteyyoti mayā attano ruciyā yaṃ icchāmi, taṃ kattabbo, bāhitvā ca pana jajjharikāgumbatopi nīcataro lakuṇḍaṭakataro kātabbo bhavissasīti attho.

kasiṇaṃ āyuṃ đồng nghĩa với sakalaṃ āyuṃ (trọn vẹn tuổi thọ). te kho evaṃ jāneyyuṃ (những Sa-môn, Bà-la-môn đó có thể biết như vậy): Phạm thiên Baka đến nói tiếp rằng: những Sa-môn, Bà-la-môn đó đã hội đủ với việc thực hành bằng sự tinh tấn lớn lao như vậy, còn vị ấy mới sanh ra một ngày trước ngày hôm qua, sẽ biết được điều gì, thậm chí ngày hôm nay trong miệng của vị ấy vẫn còn có mùi sữa thoảng qua (miệng còn hôi sữa). pathaviṃ ajjhosissasi (sẽ nuốt chửng địa đại): sau khi nuốt chửng hoàn toàn địa đại rồi sẽ nắm lấy bởi tham ái, ngã mạn và tà kiến. opasāyiko me bhavissasi (Ngài cũng sẽ là người kế cận ta): Ngài sẽ người gần gũi gũi Ta, tức là khi tôi đi Ngài cũng đi theo, khi tôi đứng Ngài cũng đứng kế bên, khi tôi ngồi Ngài cũng ngồi kế bên, khi tôi nằm Ngài cũng nằm kế bên. Vatthusāyiko (nằm ở chỗ của ta): là người nằm ở chỗ của tôi. yathākāmakaraṇīyo bāhiteyyo (tôi có thể làm theo như ý muốn, tôi có thể ngăn chặn được): có nghĩa là người cần phải điều đó, điều mà tôi ưa thích theo ý muốn của tôi, và người sau khi ngăn chặn, sẽ trở thành thấp kém hơn, nhỏ bé hơn cả cả loại cỏ dại mọc trên mặt đất.

iminā esa bhagavantaṃ upalāpeti vā apasādeti vā. upalāpeti nāma sace kho tvaṃ, bhikkhu, taṇhādīhi pathaviṃ ajjhosissasi, opasāyiko me bhavissasi, mayi gacchante gamissasi, tiṭṭhante ṭhassasi, nisinne nisīdissasi, nipanne nipajjissasi, ahaṃ taṃ sesajanaṃ paṭibāhitvā vissāsikaṃ abbhantarikaṃ P.2.408 karissāmīti evaṃ tāva upalāpeti nāma. sesapadehi pana apasādeti nāma. ayañhettha adhippāyo — sace tvaṃ pathaviṃ ajjhosissasi, vatthusāyiko me bhavissasi, mama gamanādīni āgametvā gamissasi vā ṭhassasi vā nisīdissasi vā nipajjissasi vā, mama vatthusmiṃ mayhaṃ ārakkhaṃ gaṇhissasi, ahaṃ pana taṃ yathākāmaṃ karissāmi bāhitvā M.2.305 ca jajjharikāgumbatopi lakuṇḍakataranti evaṃ apasādeti nāma. ayaṃ pana brahmā mānanissito, tasmā idha apasādanāva adhippetā. āpādīsupi eseva nayo.

Phạm thiên nói lời dụ dỗ hoặc nói lời miệt thị đức Thế Tôn như vậy với lời này gọi là nói dụ dỗ, Phạm thiên nói lời dụ dỗ trước như vậy rằng “Tỳ khưu nếu ông nuốt chửng quả địa đại ấy bằng tham ái v.v, ông sẽ là người nằm gần ta, khi ta đi ông cũng sẽ đi, khi ta đừng ông cũng sẽ đứng, khi ta ngồi ông cũng sẽ ngồi, khi ta nằm ông cũng sẽ nằm, ta sẽ bảo vệ ông, ta sẽ làm cho ông trở thanh người thân cận, người gần gũi. Còn những câu còn lại gọi là lời miệt thị. Những câu này có lời giải thích như sau. Phạm thiên gọi là miệt thị như vầy – nếu Ngài nuốt chửng địa đại, Ngài cũng sẽ trở thành người nằm ở trong nhà của tôi, khi tôi đi v.v, ngài cũng sẽ đi, sẽ đứng, sẽ ngồi, sẽ nằm, phải bảo vệ tôi trong nhà của tôi, còn tôi sẽ làm cho Ngài theo ý muốn của tôi, và sau khi khước từ sẽ làm thấp kém hơn cả loài cỏ dại mọc ven đường. Phạm thiên này ỷ vào lòng ngã mạn, vì thế ở đây chỉ muốn nói đến việc miệt thị mà thôi. Trong vấn đề về thủy đại cũng được hiểu tương tự.

apica V.2.301 te ahaṃ brahmeti idāni bhagavā, “ayaṃ brahmā mānanissito ‘ahaṃ jānāmī’ti maññati, attano yasena sammatto sarīraṃ phusitumpi samatthaṃ kiñci na passati, thokaṃ niggahetuṃ vaṭṭatī”ti cintetvā imaṃ desanaṃ ārabhi. tattha gatiñca pajānāmīti nipphattiñca pajānāmi. jutiñcāti ānubhāvañca pajānāmi. evaṃ mahesakkhoti evaṃ mahāyaso mahāparivāro.

apica te ahaṃ brahme (này Phạm thiên, Ta biết việc này): Bây giờ đức Thế Tôn tư duy rằng: “Phạm thiên này ỷ vào lòng ngã mạn mới tưởng tượng rằng ‘tôi biết’, người mù quáng bởi danh vọng của chính mình, không nhìn thấy bất cứ điều gì có thể xúc chạm vào thân của vị ấy được, nên chế ngự thêm chút nữa rồi mới bắt đầu thuyết.” Ở đó, gatiñca pajānāmi (và ta biết rõ chỗ sanh thú) đồng nghĩa với nipphattiñca pajānāmi (Ta biết rõ được sự thành tựu). Jutiñcāti ānubhāva đồng nghĩa với ānubhāvañca pajānāmi (ta biết rõ sự vinh quang chói lọi). evaṃ mahesakkho (người có đại thần lực như vậy): người có đại danh vọng, có nhiều tùy tùng.

yāvatā candimasūriyā pariharantīti yattake ṭhāne candimasūriyā vicaranti. disā bhanti virocanāti disāsu virocamānā obhāsanti, disā vā tehi virocamānā obhāsanti. tāva sahassadhā lokoti tattakena pamāṇena sahassadhā loko, iminā cakkavāḷena saddhiṃ cakkavāḷasahassanti attho. ettha te vattate vasoti ettha cakkavāḷasahasse tuyhaṃ vaso vattati. paroparañca jānāsīti ettha cakkavāḷasahasse paropare uccanīce hīnappaṇīte satte jānāsi. atho rāgavirāginanti na kevalaṃ, “ayaṃ iddho ayaṃ pakatimanusso”ti paroparaṃ, “ayaṃ pana sarāgo ayaṃ vītarāgo”ti evaṃ rāgavirāginampi janaṃ jānāsi.

yāvatā candimasūriyā pariharanti (mặt trăng và mặt trời luân chuyển trong quỹ đạo chỉ chừng ấy): mặt trăng và mặt trời luân chuyển trong quỹ đạo của chúng chỉ có chừng ấy. disā bhanti virocanā (chói sáng khắp các phương hướng với ánh sáng của chúng): chói sáng khắp các phương hướng hoặc các phương hướng được chói sáng bởi mặt trăng và mặt trời đó. tāva sahassadhā loko (chỉ bấy nhiêu hàng nghìn thế giới): Thế gian (vũ trụ) một nghìn với ước lượng chừng ấy, bao gồm nghìn vũ trụ tính cả vũ trụ này. ettha te vattate vaso (uy lực của ông vận hành trong nghìn thế giới): uy lực của ông vận hành trong nghìn vũ trụ này. paroparañca jānāsi (ông biết được chúng sanh thấp kém và cao quý): ông biết được cúng sanh có các cấp bậc khác biết là cao, thấp, hạ liệt, cao quý trong nghìn vũ trụ này. atho rāgavirāginaṃ (chúng sanh có giá trị và không có giá trị): không những biết được cấp bậc khác biệt rằng “đây là người thịnh vượng, đây là người bình thường” mà còn biết được người vẫn còn ái luyến và không còn ái luyến như vầy “đây là người vẫn còn có luyến ái, đây là người xa lìa luyến ái.”

itthaṃbhāvaññathābhāvanti itthaṃbhāvoti idaṃ cakkavāḷaṃ. aññathābhāvoti ito sesaṃ ekūnasahassaṃ. sattānaṃ āgatiṃ gatinti ettha cakkavāḷasahasse paṭisandhivasena sattānaṃ āgatiṃ, cutivasena gatiṃ ca jānāsi. tuyhaṃ pana atimahantohamasmīti saññā hoti, sahassibrahmā nāma tvaṃ, aññesaṃ pana tayā uttari dvisahassānaṃ tisahassānaṃ catusahassānaṃ pañcasahassānaṃ dasasahassānaṃ satasahassānañca brahmānaṃ pamāṇaṃ natthi, catuhatthāya P.2.409 pilotikāya paṭappamāṇaṃ kātuṃ vāyamanto viya mahantosmīti saññaṃ karosīti niggaṇhāti.

Itthaṃbhāvaññathābhāvaṃ (biết được vũ trụ này và vũ trụ khác): vũ trụ này được gọi là itthaṃbhāvo, còn 999 vũ trụ còn lại được gọi là aññathābhāvo. sattānaṃ āgatiṃ gatiṃ (biết được sự đến và sự đi của tất cả chúng sanh): ông biết rõ việc đến của tất cả chúng sanh do năng lực tục sanh và sanh thú (hướng đi) với năng lực tử trong nghìn vũ trụ này. Đức Thế Tôn chế ngự rằng: “ông có sự tưởng tượng rằng ‘ta là người vô cùng to lớn’, ông chỉ là Phạm thiên bảo vệ trong nghìn vũ trụ, còn những Phạm thiên khác không có ước chừng to lớn hơn ông cũng có (năng lực bảo vệ) hai nghìn, ba nghìn, bốn nghìn, năm nghìn, mười nghìn, một trăm nghìn vũ trụ, ông vẫn đi đến tạo ra sự tưởng tượng ‘tôi to lớn’ giống như cố gắng mang một miếng vải cũ kỷ 4 khuỷu tay đến để so sánh với một tấm y.

  1. idhūpapannoti idha paṭhamajjhānabhūmiyaṃ upapanno. tena taṃ tvaṃ na jānāsīti tena kāraṇena taṃ kāyaṃ tvaṃ na jānāsi. neva te samasamoti M.2.306 jānitabbaṭṭhānaṃ patvāpi tayā samasamo na homi. abhiññāyāti aññāya. kuto nīceyyanti tayā nīcatarabhāvo pana mayhaṃ kuto.

Idhūpapanno (đã sanh ra ở đây): đạt đến cõi sơ thiền này. tena taṃ tvaṃ na jānāsi (vì thế vị ấy không biết…nhóm chúng sanh ấy): vì thế vị ấy không biết được thân đó. neva te samasamo (không ngang bằng Ta): là người thậm chí đạt đến vị trí đáng biết bằng với ông cũng không phải là Ta. abhiññāya (thắng tri): đã hiểu biết (thấu đáo). kuto nīceyyaṃ (ở chỗ nào là vị thấp hơn Ngài): cũng thế tính chất thấp kém hơn vị ấy, sẽ có cùng Ngài ở đâu?

heṭṭhūpapattiko kiresa brahmā anuppanne buddhuppāde isipabbajjaṃ pabbajitvā kasiṇaparikammaṃ katvā samāpattiyo nibbattetvā aparihīnajjhāno kālaṃ katvā catutthajjhānabhūmiyaṃ V.2.302 vehapphalabrahmaloke pañcakappasatikaṃ āyuṃ gahetvā nibbatti. tattha yāvatāyukaṃ ṭhatvā heṭṭūpapattikaṃ katvā tatiyajjhānaṃ paṇītaṃ bhāvetvā subhakiṇhabrahmaloke catusaṭṭhikappaṃ āyuṃ gahetvā nibbatti. tattha dutiyajjhānaṃ bhāvetvā ābhassaresu aṭṭhakappaṃ āyuṃ gahetvā nibbatti. tattha paṭhamajjhānaṃ bhāvetvā paṭhamajjhānabhūmiyaṃ kappāyuko hutvā nibbatti, so paṭhamakāle attanā katakammañca nibbattaṭṭhānañca aññāsi, kāle pana gacchante ubhayaṃ pamussitvā sassatadiṭṭhiṃ uppādesi. tena naṃ bhagavā, “tena taṃ tvaṃ na jānāsi … pe … kuto nīceyyan”ti āha.

Được kể rằng Phạm thiên này là người sanh sau, khi đức Phật chưa xuất hiện đã xuất gia làm đạo sĩ thực hành kasiṇaparikamma (phận sự sơ bộ cho việc thực hành thiền kasiṇa), thực hành cho sanh khởi sự thể nhập không hoại từ thiền, sau khi chết đã hóa sanh thành Phạm thiên có tuổi thọ 500 kiếp trái đất trong Phạm Thiên giới Vehapphala (Quảng Quả thiên) trong tầng thiền thứ tư. Khi duy trì sự sống ở nơi đó đến hết tuổi thọ lại hóa sanh xuống thấp hơn, sau khi tu tập tốt đẹp thiền thứ ba, (vị ấy) hóa sanh vào Phạm Thiên giới Subhakiṇha (Biến Tịnh thiên), có tuổi thọ 64 kiếp trái đất. Sau khi tu tập thiền thứ hai trong cõi Subhakiṇha đó rồi hóa sanh trong cõi Ābhassara (Quang Âm thiên), có tuổi thọ là tám kiếp trái đất. Sau khi tu tập thiền thứ nhất trong cõi Ābhassara đó, (vị ấy) hóa sanh vào cõi Sơ thiền, có tuổi thọ là 1 kiếp trái đất. Vào thời gian đầu vị ấy biết được toàn bộ về nghiệp đã tạo và cả vị trí đã sanh. Nhưng khi thời gian trôi qua vị ấy đã quên hết cả 2 điều ấy (cho nên) mới khởi lên thường kiến. Vì thế đức Thế Tôn mới nói cùng vị ấy rằng: “Vì thế ông không biết, không thấy nhóm chúng sanh đó…ở đâu ta sẽ là người thấp hơn ngươi.”

atha brahmā cintesi — “samaṇo gotamo mayhaṃ āyuñca nibbattaṭṭhānañca pubbekatakammañca jānāti, handa naṃ pubbe katakammaṃ pucchāmī”ti satthāraṃ attano pubbekatakammaṃ pucchi. satthā kathesi.

Khi ấy Phạm thiên nghĩ rằng – “Sa-môn Gotama biết được cả thọ mạng, nơi sanh và nghiệp đã tạo trong quá khứ của ta, vậy ta sẽ hỏi đến nghiệp đã tạo trong quá khứ cùng Ngài” như thế mới hỏi đến nghiệp đã tạo trong quá khứ của bản thân cùng bậc Đạo Sư. Bậc Đạo Sư nói rằng:

pubbe kiresa kulaghare nibbattitvā kāmesu ādīnavaṃ disvā, “jātijarābyādhimaraṇassa antaṃ karissāmī”ti nikkhamma isipabbajjaṃ pabbajitvā samāpattiyo nibbattetvā abhiññāpādakajjhānalābhī hutvā gaṅgātīre paṇṇasālaṃ kāretvā jhānaratiyā vītināmeti. tadā ca kālena kālaṃ satthavāhā pañcahi sakaṭasatehi marukantāraṃ paṭipajjanti. marukantāre pana divā na sakkā gantuṃ, rattiṃ gamanaṃ hoti. atha purimasakaṭassa aggayuge yuttabalibaddā gacchantā nivattitvā āgatamaggābhimukhāva P.2.410 ahesuṃ. itarasakaṭāni tatheva nivattitvā aruṇe uggate nivattitabhāvaṃ jāniṃsu. tesañca tadā kantāraṃ atikkamanadivaso ahosi. sabbaṃ dārudakaṃ parikkhīṇaṃ, tasmā, “natthi dāni amhākaṃ jīvitan”ti cintetvā goṇe cakkesu bandhitvā manussā sakaṭapacchāyāyaṃ pavisitvā nipajjiṃsu M.2.307.

Kể rằng trước đây Phạm thiên này sanh ra trong một gia đình sau khi nhìn thấy tai hại trong các dục nghĩ rằng: “Ta sẽ thực hành để chấm dứt sự sanh, sự già và sự chết” đã rời khỏi đời sống tại gia, xuất gia làm vị ẩn sĩ, đã làm sanh khởi các sự đắc chứng, là vị chứng thiền có nền tảng là thần thông, đã cho xây dựng một lều tranh ở gần bờ sông Gaṅgā, giết thời gian bằng sự thỏa thích trong Thiền. Lúc bấy giờ, thỉnh thoảng các thương buôn lái 500 cỗ xe đi ngang qua sa mạc. Hơn nữa, ở sa mạc đó không thể đi vào ban ngày, chỉ có thể đi vào ban đêm. Lúc đó con bò được lòng cái ách đôi của cỗ xe đầu tiên đang đi, đã quay trở lại đưa mắt quan sát con đường đã đến lần nữa. Các cỗ xe tiến về trước lần lượt cũng quay trở lại, khi trời sáng họ mới biết rằng mình đã quay trở về (chỗ cũ). Khi đó cũng là ngày họ vượt qua sa mạc thất bại, sau khi suy tư rằng: củi và nước đã cạn kiệt, vì thế, “chắc chắn lần này chúng ta sẽ chết,” sau khi buộc buộc những con bò vào bánh xe, thì mọi người cũng đi ngủ dưới bóng râm của những toa xe.

tāpasopi kālasseva paṇṇasālato nikkhamitvā paṇṇasāladvāre nisinno gaṅgaṃ olokayamāno addasa gaṅgaṃ mahatā udakoghena vuyhamānaṃ pavattitamaṇikkhandhaṃ viya āgacchantiṃ. disvā cintesi — “atthi nu kho imasmiṃ loke evarūpassa madhurodakassa alābhena kilissamānā sattā”ti. so evaṃ āvajjanto marukantāre taṃ satthaṃ disvā, “ime sattā mā nassantū”ti, “ito mahā udakakkhandho chijjitvā marukantāre satthābhimukho gacchatū”ti abhiññācittena adhiṭṭhāsi. sahacittuppādena mātikāruḷhaṃ viya udakaṃ tattha agamāsi. manussā udakasaddena vuṭṭhāya udakaṃ disvā hatthatuṭṭhā V.2.303 nhāyitvā pivitvā goṇepi pāyetvā sotthinā icchitaṭṭhānaṃ agamaṃsu. satthā taṃ brahmuno pubbakammaṃ dassento —

Còn về phần ẩn sĩ vào lúc sáng sớm đã rời khỏi ngôi nhà lá, ngồi quan sát dòng sông Gaṅgā ở trong cánh cửa của ngôi nhà lá nhìn thấy (nhóm thương buôn). Trong khi quan sát dòng sông Gaṅgā có dòng nước lớn tràn đầy chảy đến tựa như một khối ngọc ma-ni. Sau khi thấy mới nghĩ rằng – “trong thế gian này nhìn có hay không những chúng sanh đang gặp khó khăn do không có nước mát ngọt như thế này?” Khi Ngài xem xét như vậy đã nhìn thấy nhóm thương buôn ấy ở bãi sa mạc mới nghĩ rằng: “Cầu mong cho nhóm chúng sanh này chớ đừng bị tiêu diệt”, (vị ấy) đã phát nguyện với tâm thần thông “nguyện cho dòng nước lớn này tách ra từ đây hãy đi thẳng tìm đến nhóm cỗ xe bò ở trong bãi sa mạc. Cùng với tâm đồng sanh khởi lên, dòng nước cũng chảy đến nơi sa mạc ấy giống như chảy theo dòng nước. Mọi người đứng lên vì tiếng nước chảy, gặp được nước (họ) vui mừng hoan hỷ, tắm gội, uống nước rồi cũng cho các con bò uống nước, sau khi hoàn tất đã cùng nhau lên đường đi đến nơi mà bản thân mong muốn một cách an toàn. Khi bậc Đạo Sư thuyết về các nghiệp quá khứ của Phạm thiên.

“yaṃ tvaṃ apāyesi bahū manusse,

pipāsite ghammani samparete.

taṃ te purāṇaṃ vatasīlavattaṃ,

suttappabuddhova anussarāmī”ti. (jā. 1.7.71) — imaṃ gāthamāha.

“Việc ngươi đã cho nước uống đến nhiều người bị khát, bị vật vã bởi sức nóng. Ta nhớ lại việc thực hành về phận sự và giới hạnh ấy của ngươi trong thời quá khứ, tựa như vừa mới thức dậy sau giấc ngủ.” (jā. 1.7.71). – đức Thế Tôn đã nói lên kệ ngôn này.

aparasmiṃ samaye tāpaso gaṅgātīre paṇṇasālaṃ māpetvā āraññakaṃ gāmaṃ nissāya vasati. tena ca samayena corā taṃ gāmaṃ paharitvā hatthasāraṃ gahetvā gāviyo ca karamare ca gahetvā gacchanti. gāvopi sunakhāpi manussāpi mahāviravaṃ viravanti. tāpaso taṃ saddaṃ sutvā “kiṃ nu kho etan”ti āvajjanto, “manussānaṃ bhayaṃ uppannan”ti ñatvā, “mayi passante ime sattā mā nassantū”ti abhiññāpādakajjhānaṃ P.2.411 samāpajjitvā vuṭṭhāya abhiññācittena corānaṃ paṭipathe caturaṅginisenaṃ māpesi kammasajjaṃ āgacchantiṃ. corā disvā, “rājā”ti te maññamānā vilopaṃ chaḍḍetvā pakkamiṃsu. tāpaso “yaṃ yassa santakaṃ, taṃ tasseva hotū”ti adhiṭṭhāsi, taṃ tatheva ahosi. mahājano sotthibhāvaṃ pāpuṇi. satthā idampi tassa pubbakammaṃ dassento —

Vào một thời điểm khác vị đạo sĩ đã kiến tạo một gian nhà lá sống dựa vào ngôi làng y cứ ngôi làng ở rừng. Vào lúc đó bọn cướp tấn công dân làng đã lấy đi những tài sản có giá trị, dẫn những con bò và người bị cầm tù được đưa đi. Cả bò lẫn chó và cả người đều gào khóc lớn. Đạo sĩ đã nghe âm thanh đó suy xét như sau: “chuyện gì vậy” biết được rằng “sự sợ hãi đã khởi lên cùng nhóm người đó”, mới nghĩ rằng “khi ta nhìn thấy, cầu mong cho nhóm người này đừng bị nguy hại” rồi nhập thiền có nền tảng là thần thông, sau khi xuất khỏi thiền đã tạo ra bốn đội quân được chuẩn bị đầy đủ đang đến chống đối lại bọn cướp bằng tâm thần thông. Bọn cướp sau khi nhìn thấy hiểu rằng “đức vua” đã từ bỏ việc cướp bóc rồi tháo chạy. Đạo sĩ đã phát nguyện rằng: “đồ vật nào của người nào, đồ vật đó hãy trở về của người đó,” những đồ vật đó đã trở về như thế đó. Đại chúng cũng đạt đến tình trạng an toàn. Bậc Đạo Sư khi chỉ ra nghiệp quá khứ này của Phạm thiên –

“yaṃ M.2.308 eṇikūlasmiṃ janaṃ gahītaṃ,

amocayī gayhaka nīyamānaṃ.

taṃ te purāṇaṃ vatasīlavattaṃ,

suttappabuddhova anussarāmī”ti. (jā. 1.7.72) —

imaṃ gāthamāha. ettha eṇikūlasminti gaṅgātīre.

Ngươi đã giải thoát dân chúng bị bắt giữ, trong khi những người bị cầm tù đang được dẫn đi ở bờ sông Eṇī. Ta nhớ lại việc thực hành về giới và phận sự ấy của ngươi trong quá khứ, tựa như vừa mới thức dậy sau giấc ngủ.  (jā. 1.7.72) — Đức Thế Tôn đã nói lên kệ ngôn này. Ở đây, từ eṇikūlasmiṃ ám chỉ đến bờ sông của dòng sông Gaṅgā.

puna V.2.304 ekasmiṃ samaye uparigaṅgāvāsikaṃ kulaṃ heṭṭhāgaṅgāvāsikena kulena saddhiṃ mittasanthavaṃ katvā nāvāsaṅghāṭaṃ bandhitvā bahuṃ khādanīyabhojanīyañceva gandhamālādīni ca āropetvā gaṅgāsotena āgacchati. manussā khādamānā bhuñjamānā naccantā gāyantā devavimānena gacchantā viya balavasomanassā ahesuṃ. gaṅgeyyako nāgo disvā kupito, “ime mayi saññampi na karonti, idāni ne samuddameva pāpessāmī”ti mahantaṃ attabhāvaṃ māpetvā udakaṃ dvidhā bhinditvā uṭṭhāya phaṇaṃ katvā sussūkāraṃ karonto aṭṭhāsi. mahājano disvā bhīto vissaramakāsi. tāpaso paṇṇasālāya nisinno sutvā, “ime gāyantā naccantā somanassajātā āgacchanti, idāni pana bhayaravaṃ raviṃsu, kiṃ nu kho”ti āvajjanto nāgarājaṃ disvā, “mayi passante ime sattā mā nassantū”ti abhiññāpādakajjhānaṃ samāpajjitvā attabhāvaṃ vijahitvā supaṇṇavaṇṇaṃ māpetvā nāgarājassa dassesi. nāgarājā bhīto phaṇaṃ saṃharitvā udakaṃ paviṭṭho. mahājano sotthibhāvaṃ pāpuṇi. satthā idampi tassa pubbakammaṃ dassento —

Lại nữa, một dịp khác gia đình sống dọc thượng nguồn sông Gaṅgā đã thể hiện tình thân hữu đối với gia đình sống ở hạ nguồn sông Gaṅgā, họ cùng nhau cột những chiếc bè lại với nhau, rồi giúp đỡ nhau mang vác thức ăn loại cứng, loại mềm, nhiều tràng hoa và vật thơm phần đến, thả trôi theo dòng nước sông Gaṇgā. Mọi người cùng nhau ăn uống, nhảy múa và ca hát vô cùng vui vẻ giống như ngồi trên Thiên cung. Rồng chúa trú ở dưới sông Gaṅgā sau khi nhìn thấy họ đã nổi cơn giận dữ “những người này không nhìn thấy tầm quan trọng của ta, lần này ta sẽ cho bọn mi rơi hết xuống biển” liền hóa hiện ra thân hình to lớn, tách dòng nước thành hai phần, đã nổi lên rồi phòng mang, tạo ra âm thanh của gió thổi. Đại chúng sau khi nhìn thấy (trở nên) hoảng sợ và đã kêu thét lên. Đạo ngồi ở ngôi nhà lá sau khi nghe mới suy xét rằng, “Nhóm người này ca hát, nhảy múa tràn ngập niềm vui, nhưng bây giờ đã kêu thét lên hoảng sợ, chuyện gì xảy ra vậy?” đã nhìn thấy rồng chúa mới nghĩ rằng: “trong khi ta nhìn thấy, nguyện cho tất cả chúng sanh không bị nguy hại” sau khi đã nhập vào thiền có nền tảng là thần thông đã rời bỏ tự thân hóa thành hình dạng nhân điểu phô bày trước mặt rồng chúa. Rồng chúa hoảng sợ đã thâu cái mang lại, lặng xuống nước. Đại chúng đạt đến trạng thái an toàn. Bậc Đạo Sư chỉ ra nghiệp quá khứ này của Phạm thiên đó – mới nói lên kệ ngôn này.

“gaṅgāya sotasmiṃ gahītanāvaṃ,

luddena nāgena manussakappā.

amocayittha balasā pasayha,

taṃ te purāṇaṃ vatasīlavattaṃ.

suttappabuddhova anussarāmī”ti. (jā. 1.7.73) — imaṃ gāthamāha.

Ngươi đã giải thoát chiếc thuyền bị bắt giữ bởi con rồng hung dữ, có ý định giết hại loài người ở dòng sông Gaṅgā, sau khi đã chế ngự nó bằng sức mạnh. Ta nhớ lại việc thực hành về giới và phận sự ấy của ngươi trong quá khứ, giống như vừa mới thức dậy sau giấc ngủ. (jā. 1.7.73).

aparasmiṃ P.2.412 samaye esa isipabbajjaṃ pabbajitvā kesavo nāma tāpaso ahosi. tena samayena amhākaṃ bodhisatto kappo nāma māṇavo M.2.309 kesavassa baddhacaro antevāsiko hutvā ācariyassa kiṃkārapaṭissāvī manāpacārī buddhisampanno atthacaro ahosi. kesavo taṃ vinā vattituṃ nāsakkhi, taṃ nissāyeva jīvikaṃ kappesi. satthā idampi tassa pubbakammaṃ dassento —

Vào một dịp khác Phạm thiện này xuất gia làm ẩn sĩ, vị ẩn sĩ này tên là Kesava. Vào thời điểm đó Bồ tát của chúng ta là thanh niên trẻ tên là Kappa, là người học trò hầu cận của vị ẩn sĩ Kesava thi hành mọi phận sự của thầy, làm đẹp lòng mọi người, thành tựu đầy đủ về sự hiểu biết, là người thực hành điều lợi ích. Sau khi không có Kappa thì Kesava không thể duy trì sự sống, bởi vì dựa vào Kappa mà Kesava mới nuôi mạng được. Bậc Đạo Sư chỉ ra nghiệp quá khứ này của Phạm thiên đó – mới nói lên kệ ngôn này.

“kappo V.2.305 ca te baddhacaro ahosi,

sambuddhimantaṃ vatinaṃ amaññi.

taṃ te purāṇaṃ vatasīlavattaṃ,

suttappabuddhova anussarāmī”ti. (jā. 1.7.74) — imaṃ gāthamāha.

Ta là thanh niên trẻ tên là Kappa, người học trò hầu cận của ngươi. Ngươi đã nghĩ về ta rằng: ‘Người này có đầy đủ về sự hiểu biết và chu toàn về phận sự.’ Ta nhớ lại việc thực hành về giới và phận sự ấy của ngươi trong quá khứ, tựa như vừa mới thức dậy sau giấc ngủ.

evaṃ brahmuno nānattabhāvesu katakammaṃ satthā pakāsesi. satthari kathenteyeva brahmā sallakkhesi, dīpasahasse ujjalite rūpāni viya sabbakammānissa pākaṭāni ahesuṃ. so pasannacitto imaṃ gāthamāha —

“addhā pajānāsi mametamāyuṃ,

aññampi jānāsi tathā hi buddho.

tathā hi tāyaṃ jalitānubhāvo,

obhāsayaṃ tiṭṭhati brahmalokan”ti. (jā. 1.7.75).

Như vậy, bậc Đạo sư đã tuyên thuyết nghiệp đã tạo trong nhiều kiếp sống khác nhau của Phạm thiên như đã trình bày. Trong lúc bậc Đạo Sư đang thuyết giảng thì Phạm thiên cũng đã xem xét được, tất cả nghiệp của Phạm thiên ấy xuất hiện giống như hình ảnh hiện hữu khi hàng nghìn ngọn đèn cháy lên ngọn lửa. Phạm thiên ấy có tâm tịnh tín đã nói lên kệ ngôn này:

Đương nhiên, Ngài chắc chắn biết rõ về tuổi thọ này của tôi, Ngài cũng biết về điều khác nữa, Bởi vì Ngài thật sự là đức Phật, vì thế năng lực chói sáng này của Ngài, nó đang chiếu sáng và tồn tại ở thế giới Phạm Thiên.”

athassa bhagavā uttari asamasamataṃ pakāsento pathaviṃ kho ahaṃ brahmetiādimāha. tattha pathaviyā pathavattena ananubhūtanti pathaviyā pathavisabhāvena ananubhūtaṃ appattaṃ. kiṃ pana tanti? nibbānaṃ. tañhi sabbasmā saṅkhatā nissaṭattā pathavisabhāvena appattaṃ nāma. tadabhiññāyāti taṃ nibbānaṃ jānitvā sacchikatvā. pathaviṃ nāpahosinti pathaviṃ taṇhādiṭṭhimānagāhehi na gaṇhiṃ. āpādīsupi eseva nayo. vitthāro pana mūlapariyāye vuttanayeneva veditabbo.

Vậy thì khi tuyên thuyết trạng thái không thể so sánh được (bậc vô song), thậm chí vượt trội hơn cùng Phạm thiên đó, đức Thế Tôn mới nói rằng: Này Phạm thiên, Ta biết địa đại (pathaviṃ kho ahaṃ brahme). Ở đó, Niết bàn mà chúng sanh đạt đến không được bởi bản chất địa đại là địa đại (pathaviyā pathavattena ananubhūtaṃ): không đạt đến những thứ mà chúng sanh đạt đến không được, bởi chấp thủ địa đại là địa đại. Những thứ đó là gì? là Niết bàn. Cũng vậy Niết bàn được gọi là điều mà chúng sanh không thể đạt đến bởi sự chấp thủ rằng ‘là địa đại’, bởi vì tính chất của Niết bàn đó vượt khỏi thực tính bị tất cả duyên trợ tạo. tadabhiññāya (biết được Niết bàn): nghĩa là đã biết được Niết bàn đó, đã tác chứng rồi. pathaviṃ nāpahosiṃ (không phải địa đại): Ta không nắm lấy địa đại với việc chấp thủ do mãnh lực của tham ái, tà kiến và ngã mạ. Kể cả trong thủy đại của thực hiện theo cách tương tư. Còn chi tiết nên được hiểu theo cách đã được nói ở bài Kinh Pháp Môn Căn Bản.

sace kho te, mārisa, sabbassa sabbattenāti idameva brahmā attano vāditāya sabbanti akkharaṃ niddisitvā akkhare dosaṃ gaṇhanto āha. satthā pana sakkāyaṃ sandhāya “sabban”ti vadati, brahmā sabbasabbaṃ sandhāya. tvaṃ P.2.413 “sabban”ti vadasi, “sabbassa sabbattena ananubhūtan”ti vadasi, yadi sabbaṃ ananubhūtaṃ natthi, athassa ananubhūtaṃ atthi. mā heva te rittakameva V.2.306 ahosi M.2.310 tucchakameva ahosīti tuyhaṃ vacanaṃ rittakaṃ mā hotu, tucchakaṃ mā hotūti satthāraṃ musāvādena niggaṇhāti.

Phạm thiên này khi sử dụng văn tự nói rằng ‘toàn bộ’ bởi vì bản thân là người đã nói lời này rằng: “sace kho te, mārisa, sabbassa sabbattena (Thưa Ngài, người đã thoát khỏi khổ đau, nếu như Ngài biết được Niết bàn mà chúng sanh không đạt đến được với tính chất tất cả mọi thứ là tất cả mọi thứ): bậc Đạo sư nói rằng ‘tất cả’ ý muốn ám chỉ đến sakkāya (sự chấp thủ bản thân này). Nhưng Phạm thiên nói rằng ‘tất cả’ ý muốn nói đến toàn bộ tất cả mọi thứ. Nếu Ngài (đức Phật) sử dụng từ ‘tất cả’ (cũng tương đương) Ngài nói rằng: “Thứ mà chúng sanh không đạt đến được với tính chất tất cả mọi thứ là tất cả mọi thứ”. Nếu những thứ vận hạnh theo tất cả không có; những thứ vận hành theo những thứ đó có mặt (từ tất cả cũng không phải là tất cả, là từ không có lợi ích). mā heva te rittakameva ahosi (lời nói của Ngài đừng trở thành trống không, đừng trở thành trống rỗng): Phạm thiên chế ngự bậc Đạo Sư bằng lời nói dối rằng: Cầu mong cho lời nói của Ngài chớ đừng trở thành lời nói trống không, chớ đừng trở thành lời nói trống rỗng.

satthā pana etasmā brahmunā sataguṇena sahassaguṇena satasahassaguṇena vādītaro, tasmā ahaṃ sabbañca vakkhāmi, ananubhūtañca vakkhāmi, suṇāhi meti tassa vādamaddanatthaṃ kāraṇaṃ āharanto viññāṇantiādimāha. tattha viññāṇanti vijānitabbaṃ. anidassananti cakkhuviññāṇassa āpāthaṃ anupagamanato anidassanaṃ nāma, padadvayenapi nibbānameva vuttaṃ. anantanti tayidaṃ uppādavayāntarahitattā anantaṃ nāma. vuttampi hetaṃ —

Hơn nữa, bậc Đạo Sư là vị có tài hùng biện hơn Phạm thiên này cả trăm lần, cả nghìn lần, cả trăm nghìn lần, vì thế khi đưa ra lý do để bác bỏ lời nói của Phạm thiên ấy “Ta sẽ nói đến tất cả (thực tính Pháp), ta sẽ nói đến (thực tính Pháp) không có bất cứ thứ gì theo sau (cái mà từ đó không có gì phát sinh), ngươi hãy lắng nghe Ta” mới nói lời bắt đầu như sau ‘Niết bàn là Pháp mà vị chứng đắc có thể biết rõ được.’. Ở đó, ‘có thể biết rõ’ bao gồm có thể hiểu rõ. Anidassanaṃ (vô kiến): gọi là vô kiến bởi không đến gần phạm vi của nhãn thức (hay không đi vào dòng chảy của nhãn thức). Với hai câu này đức Thế Tôn đã nói đến Niết bàn. Anantaṃ (không có điểm kết thúc): gọi là không thể tìm điểm kết thúc bởi vì Niết bàn này đây vượt khỏi sự sanh và sự diệt. Điều này đã được nói rằng –

“antavantāni bhūtāni, asambhūtaṃ anantakaṃ.

bhūte antāni dissanti, bhūte antā pakāsitā”ti.

Tất cả chúng sinh đều có điểm tận cùng, (nhưng) Niết bàn là (có trạng thái) không có sinh khởi và không kết thúc. Đối với chúng sinh không xuất hiện ở nơi tận cùng và Ta đã tuyên bố về sự tận cùng đó.

sabbatopabhanti sabbaso pabhāsampannaṃ. nibbānato hi añño dhammo sapabhataro vā jotivantataro vā parisuddhataro vā paṇḍarataro vā natthi. sabbato vā tathā pabhūtameva, na katthaci natthīti sabbatopabhaṃ. puratthimadisādīsu hi asukadisāya nāma nibbānaṃ natthīti na vattabbaṃ. atha vā pabhanti titthassa nāmaṃ, sabbato pabhamassāti sabbatopabhaṃ. nibbānassa kira yathā mahāsamuddassa yato yato otaritukāmā honti, taṃ tadeva titthaṃ, atitthaṃ nāma natthi. evamevaṃ aṭṭhatiṃsāya kammaṭṭhānesu yena yena mukhena nibbānaṃ otaritukāmā honti, taṃ tadeva titthaṃ. nibbānassa atitthaṃ nāma kammaṭṭhānaṃ natthi. tena vuttaṃ sabbatopabhanti. taṃ pathaviyā pathavattenāti taṃ nibbānaṃ pathaviyā pathavīsabhāvena tato paresaṃ āpādīnaṃ āpādisabhāvena ca ananubhūtaṃ. iti yaṃ tumhādisānaṃ visayabhūtaṃ sabbatebhūmakadhammajātaṃ tassa sabbattena taṃ viññāṇaṃ anidassanaṃ anantaṃ sabbatopataṃ ananubhūtanti vādaṃ patiṭṭhapesi.

Sabbatopabhaṃ (có hào quang chiếu sáng ở mọi nơi): Ánh sáng rực rỡ hoàn toàn về mọi mặt. Bởi vì, không có Pháp nào khác có ánh sáng rực rỡ hơn, chói sáng hơn, thanh tịnh hơn, trắng sáng hơn hoặc chói lọi hơn Niết bàn. Hơn nữa, Niết bàn (có nghĩa là) tràn ngập khắp mọi nơi, ở một nơi nào đó không phải không có, vì thế được gọi là tràn ngập khắp mọi nơi. Thật vậy, không thể nói rằng ở hướng Đông v.v, cũng không nên nói rằng ở hướng kia không có Niết bàn. Hơn nữa ‘pabhaṃ (ánh sáng)’ là tên gọi của bến đậu (chỗ sông cạn đi qua được), gọi là có bến đậu ở mọi nơi vì mọi nơi có bến đậu. Vị ấy nói đến sự liên quan với Niết bàn tựa như đại dương, người muốn vượt qua đại dương ở nơi nào nơi nào, nơi đó nơi đó trở thành bến đậu, nơi không phải bến đậu. Đúng y như vậy, bất cứ người nào ở tận ngoài đại dương muốn đến cửa vào Niết Bàn đều có thể vào đó bằng bến đậu đó, nơi không phải bến đậu hẳng không có thế nào, trong 38 đối tượng nghiệp xứ hành giả mong muốn đi qua Niết bàn bằng đối tượng nào thì đối tượng đó là bến đậu, không có nghiệp xứ nào được xem là không phải bến đậu của Niết bàn cũng tương tự như thế. Vì thế đức Thế Tôn thuyết rằng: ‘sabbatopabhaṃ (là bến đậu ở mọi nơi)’. Taṃ pathaviyā pathavattenā [Niết bàn đó (mà chúng sanh không đạt đến được) với tính chất địa đại là địa đại]: Niết bàn đó mà chứng sanh không đạt đến được, bởi thực tính địa đại là địa đại và với thực tính thủy đại v.v, ngoài ra địa đại đó, là thực tính của thủy đại v.v, đức Thế Tôn đã thiết lập lời nói rằng: Tất cả Pháp được vận hành trong cả 3 cõi là tập tính của hạng người kiểu như ngươi thế nào, các Pháp đó là Pháp cần biết rõ, là vô kiến, là vô tận, là chiếu sáng rực rỡ ở mọi nơi, là Pháp mà chúng sanh không đạt đến được bởi ý nghĩa tất cả của tất cả các Pháp đó.

tato P.2.414 brahmā gahitagahitaṃ satthārā vissajjāpito kiñci gahetabbaṃ adisvā laḷitakaṃ kātukāmo handa carahi te, mārisa, antaradhāyāmīti āha. tattha antaradhāyāmīti adissamānakapāṭihāriyaṃ karomīti āha. sace visahasīti yadi sakkosi mayhaṃ antaradhāyituṃ, antaradhāyasi M.2.311, pāṭihāriyaṃ karohīti. nevassu me sakkoti antaradhāyitunti mayhaṃ V.2.307 antaradhāyituṃ neva sakkoti. kiṃ panesa kātukāmo ahosīti? mūlapaṭisandhiṃ gantukāmo ahosi. brahmānañhi mūlapaṭisandhikāttabhāvo sukhumo, aññesaṃ anāpātho, abhisaṅkhatakāyeneva tiṭṭhanti.

Sau đó, Phạm thiên Baka bị bậc Đạo Sư làm cho từ bỏ những thứ đã chấp lấy, khi không nhìn thấy điều gì sẽ bám chặt, muốn sửa chữa lỗi lầm đã nói rằng: handa carahi te, mārisa, antaradhāyāmī (Thưa Ngài, người đã thoát khỏi mọi khổ đau, được rồi, bây giờ, tôi sẽ biến mất trước mặt Ngài). Ở đó, antaradhāyāmi (tôi sẽ biến mất): Phạm thiên Baka nói rằng tôi thực hiện phép kỳ diệu biến mất không để cho ai nhìn thấy thân mình. sace visahasī (nếu ngươi có thể): Nếu người có thể hãy (sử dụng) phép kỳ diệu biến mất thân mình để biến mất từ chỗ Ta. Nevassu me sakkoti antaradhāyitun (ngươi không thể biến mất thân mình ở trước mặt ta được đâu). (hỏi) Phạm thiên này là ai? sẽ làm gì? (đáp) là người muốn tục sanh trở lại bản thể gốc. Thật vậy, bản thân có được từ sự tục sanh ban sơ của nhóm Phạm thiên, là những thứ vi tế, là những thứ không hiện hữu cùng người khác, vững trú với chính thân đã được tạo tác đó.

satthā tassa mūlapaṭisandhiṃ gantuṃ na adāsi. mūlapaṭisandhiṃ vā agantvāpi yena tamena attānaṃ antaradhāpetvā adissamānako bhaveyya, satthā taṃ tamaṃ vinodesi, tasmā antaradhāyituṃ nāsakkhi. so asakkonto vimāne nilīyati, kapparukkhe nilīyati, ukkuṭiko nisīdati. brahmagaṇo keḷimakāsi — “esa kho bako brahmā vimāne nilīyati, kapparukkhe nilīyati, ukkuṭiko nisīdati, brahme tvaṃ antarahitomhī”ti saññaṃ uppādesi nāmāti. so brahmagaṇena uppaṇḍito maṅku ahosi.

Bậc Đạo Sư không để cho đi tục sanh ban sơ (mūlapaṭisandhiṃ) cùng Phạm thiên ấy. Hoặc khi không đi tục sanh ban sơ Phạm thiên đó cũng ẩn mình trong bóng tối để người khác không thể nhìn thấy, (nhưng) bậc Đạo Sư đã xua tan bóng tối, vì thế Phạm thiên không thể biến mình được. Khi vị ấy không thể ẩn mình ở trong thiên cung, mới ẩn mình dưới cây Kappa, ngồi nhón gót. Nhóm Phạm thiên đã giễu cợt rằng “Phạm thiên Baka này ẩn mình ở trong thiên cung, ẩn mình dưới cây Kappa, ngồi nhón gót, Phạm Thiên Baka, Ngài cho ra hiệu rằng (tôi) sẽ biến mình không phải sao?” vị ấy bị nhóm Phạm thiên giễu cợt đã cảm thấy hổ thẹn.

evaṃ vutte ahaṃ, bhikkhaveti, bhikkhave, etena brahmunā, “handa carahi te, mārisa, antaradhāyāmī”ti evaṃ vutte taṃ antaradhāyituṃ asakkontaṃ disvā ahaṃ etadavocaṃ. imaṃ gāthamabhāsinti kasmā bhagavā gāthamabhāsīti? samaṇassa gotamassa imasmiṃ ṭhāne atthibhāvo vā natthibhāvo vā kathaṃ sakkā jānitunti evaṃ brahmagaṇassa vacanokāso mā hotūti antarahitova gāthamabhāsi.

evaṃ vutte ahaṃ, bhikkhave (này các Tỳ khưu, khi Phạm thiên Baka nói như vậy): Này chư Tỳ khưu, khi Phạm thiên đó nói như vậy “được rồi, nếu như thế cùng Ngài, vị đã thoát khỏi khổ, ta sẽ biến mình trước mặt Ngài, ta nhìn thấy rằng: ‘Phạm thiên ấy không thể biến mình đã nói lời này’. imaṃ gāthamabhāsiṃ (đã nói lên kệ ngôn này): vì sao? Đức Thế Tôn đã nói lên kệ ngôn? Bởi vì đức Thế Tôn tư duy rằng: nhóm Phạm thiên hãy đừng có cơ hội để nói lời như vầy: ‘Có thể biết được thế nào ở đây có Sa-môn Gotama hay không?” đã nói lên bài kệ rồi Ngài biến mất.

tattha bhavevāhaṃ bhayaṃ disvāti ahaṃ bhave bhayaṃ disvāyeva. bhavañca vibhavesinanti imañca kāmabhavāditividhampi sattabhavaṃ vibhavesinaṃ vibhavaṃ gavesamānaṃ pariyesamānampi punappunaṃ bhaveyeva disvā. bhavaṃ nābhivadinti taṇhādiṭṭhivasena kiñci bhavaṃ na abhivadiṃ, na gavesinti attho. nandiñca na upādiyinti bhavataṇhaṃ na upagañchiṃ, na aggahesinti attho. iti P.2.415 cattāri saccāni pakāsento satthā dhammaṃ desesi. desanāpariyosāne desanānusārena vipassanāgabbhaṃ gāhāpetvā dasamattāni brahmasahassāni maggaphalāmatapānaṃ piviṃsu.

Bhavevāhaṃ bhayaṃ disvā (Ta đã nhìn thấy sự sợ hãi trong kiếp đó): Tôi đã nhìn thấy sự sợ hãi thật sự. Kệ ngôn như sau “bhavañca vibhavesinaṃ (và nhìn thấy Hữu của chúng sanh, người tầm cầu Phi hữu): nghĩa là sau khi nhìn thấy Hữu của chúng sanh cả 3 Hữu có Dục hữu v.v, này nhìn thấy người tầm cầu Phi hữu là nhìn thấy hạng người đang tìm kiếm, đang tầm cầu Phi hữu và nhìn thấy (sự sợ hãi) thường thường trong Hữu đó. bhavaṃ nābhivadiṃ (không tán thán Hữu): không nhìn, tức là không tầm cầu bất cứ Hữu nào với mãnh lực của tham ái và tà kiến. Kệ ngôn rằng “nandiñca na upādiyiṃ (và không chấp thủ do sự thỏa thích các Hữu)”: không đi đến, tức là không chấp thủ vào Hữu ái. Bậc Đạo Sư trong khi tuyên thuyết về Bốn Chân lý mới thuyết giảng Pháp thoại này. Khi Pháp thoại kết thúc, Phạm thiên được ước chừng khoảng mười nghìn vị nắm lấy Minh sát theo phương pháp thuyết giảng, và cũng đã uống nước bất tử là Đạo và Quả.

acchariyabbhutacittajātāti acchariyajātā abbhutajātā tuṭṭhijātā ca ahesuṃ. samūlaṃ bhavaṃ udabbahīti bodhimaṇḍe attano tāya tāya desanāya aññesampi bahūnaṃ devamanussānaṃ samūlakaṃ bhavaṃ udabbahi, uddhari uppāṭesīti attho.

Acchariyabbhutacittajātā (là người khởi tâm vi diệu, khác thường): khởi lên tâm kỳ diệu, khởi lên sự phi thường và khởi lên sự hoan hỷ. Samūlaṃ bhavaṃ udabbahi (đã nhổ bỏ Hữu cùng với gốc rễ): đã nhổ bỏ, tức là đã bứng lên, đã xé nát Hữu cùng với gốc rễ của chư Thiên và nhân loại phần nhiều kể cả nhóm khác với Pháp thoại đó của Ngài ở dưới cội Bồ đề.

  1. tasmiṃ M.2.312 pana samaye māro pāpimā kodhābhibhūto hutvā, “mayi vicaranteyeva samaṇena V.2.308 gotamena dhammakathaṃ kathetvā dasamattāni brahmasahassāni mama vasaṃ ativattitānī”ti kodhābhibhūtatāya aññatarassa brahmapārisajjassa sarīre adhimucci, taṃ dassetuṃ atha kho, bhikkhavetiādimāha. tattha sace tvaṃ evaṃ anubuddhoti sace tvaṃ evaṃ attanāva cattāri saccāni anubuddho. mā sāvake upanesīti gihisāvake vā pabbajitasāvake vā taṃ dhammaṃ mā upanayasi. hīne kāye patiṭṭhitāti catūsu apāyesu patiṭṭhitā. paṇīte kāye patiṭṭhitāti brahmaloke patiṭṭhitā. idaṃ ke sandhāya vadati? bāhirapabbajjaṃ pabbajite tāpasaparibbājake. anuppanne hi buddhuppāde kulaputtā tāpasapabbajjaṃ pabbajitvā kassaci kiñci avicāretvā ekacarā hutvā samāpattiyo nibbattetvā brahmaloke uppajjiṃsu, te sandhāya evamāha.

Hơn nữa, vào lúc ấy Ác ma xấu xa bị cơn giận giữ lấn át đã nghĩ rằng “Ngay cả khi Ta du hành ở nơi đây, Sa-môn Gotama vẫn đến thuyết Pháp làm cho Phạm thiên ước chừng khoảng mười nghìn vị đã vượt qua khỏi uy lực của ta” đã nhập vào cơ thể của một vị Phạm chúng thiên nào đó bởi do sự nóng giận chế ngự, khi chỉ ra Ác ma đó Ngài đã nói rằng: “Khi đó, này chư Tỳ khưu”. Ở đó, sace tvaṃ evaṃ anubuddho (nếu như Ngài đã giác ngộ như vậy): Nếu như Ngài tự mình đã giác ngộ Bốn Chân lý như vậy. mā sāvake upanesi (cũng đừng hướng dẫn cho chúng đệ tử): Đừng mang Giáo Pháp đó đến để (thuyết giảng) cho chúng để tử là cư sĩ hoặc chúng đệ tử là người xuất gia. hīne kāye patiṭṭhitā (đã được an trú trong thân hạ liệt): đã được thiết lập trong cả bốn khổ cảnh. paṇīte kāye patiṭṭhitā (đã được an trú trong thân cao quý): đã được an trú trong Phạm thiên giới. Ác ma nói lời này muốn đề cập đến những ai? Ác ma muốn đề cập đến nhóm đạo sĩ và du sĩ là những vị xuất gia ở trong giáo lý bên ngoài (Phật Giáo). Thật vậy, khi đức Phật chưa xuất hiện, nhóm thiện nam tử đã xuất gia trở thành những vị đạo sĩ, không hành sai điều gì (với) bất cứ ai, đã đi du hành một mình, khởi sanh sự thể nhập rồi hóa sanh vào Phạm thiên giới, Ác ma muốn đề cập đến nhóm Phạm thiên ấy.

anakkhātaṃ kusalañhi mārisāti paresaṃ anakkhātaṃ anovadanaṃ dhammakathāya akathanaṃ kusalaṃ etaṃ seyyo. mā paraṃ ovadāhīti kālena manussalokaṃ, kālena devalokaṃ, kālena brahmalokaṃ, kālena nāgalokaṃ āhiṇḍanto mā vicari, ekasmiṃ ṭhāne nisinno jhānamaggaphalasukhena vītināmehīti. anālapanatāyāti anullapanatāya. brahmuno ca abhinimantanatāyāti bakabrahmuno ca idañhi, mārisa, niccantiādinā nayena saha kāyakena brahmaṭṭhānena nimantanavacanena. tasmāti tena kāraṇena. imassa veyyākaraṇassa brahmanimantanikaṃtveva adhivacanaṃ saṅkhā samaññā paññatti jātā. sesaṃ sabbattha uttānatthamevāti.

anakkhātaṃ kusalañhi mārisa (vị thoát khỏi khổ, Ngài không được nêu rõ việc thiện): Vị thoát khỏi khổ, Ngài không được nêu rõ đến điều thiện, không giảng dạy, không nói Pháp thoại cùng nhóm người ấy, điều đó là việc tốt, là điều tối thượng hơn. mā paraṃ ovadāhi (Ngài đừng giảng dạy người khác): Ngài đừng mất thời gian du hành ở nhân loại, thế giới chư Thiên, thế giới Phạm thiên, thế giới loài rồng, (mà) hãy sử dụng thời gian bằng sự an lạc trong Thiền, trong Đạo và trong Quả ở một nơi duy nhất. brahmuno ca abhinimantanatāya (và với lời thỉnh cầu của Phạm thiên): và do lời thỉnh cầu của vị Phạm thiên Baka với địa vị của Phạm thiên, vị có cơ hội cùng với cách thức như sau: “Vị thoát khỏi khổ, đây là thường (tức là chỗ ở Phạm thiên giới)”. Tasma: vì lý do đó. imassa veyyākaraṇassa brahmanimantanikaṃtveva adhivacanaṃ [ký thuyết (veyyākaraṇa) này cũng được gọi là Kinh Phạm Thiên Cầu Thỉnh): là tên, là lời gọi, là sự chỉ định, là sự chế định, đã sanh khởi của ngữ pháp này (là từ ngữ văn xuôi). Những từ ngữ còn lại ở các câu đều đơn giản.

Kinh Phạm Thiên Cầu Thỉnh Kết Thúc.