Kinh số 48 – Giải Thích Kinh Kosambiya
(Kosambiyasuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Kosambiya
- evaṃ V.2.284 me sutanti kosambiyasuttaṃ. tattha kosambiyanti evaṃnāmake nagare. tassa kira nagarassa ārāmapokkharaṇīādīsu tesu tesu ṭhānesu kosambarukkhāva ussannā ahesuṃ, tasmā kosambīti saṅkhaṃ agamāsi. kusambassa P.2.390 nāma isino assamato avidūre māpitattātipi M.2.288 eke. ghositārāmeti ghositaseṭṭhinā kārite ārāme.
491.Kinh Kosambiya được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, ‘gần thành Kosambī’ nghĩa là ở gần thành phố có tên như vậy. Được biết rằng có cây Kosamba dày đặc ở bên trong có vườn và hồ nước v.v, đó đó của thành phố, vì thế thành phố đó được gọi là Kosambī. Một nhóm thầy A-xà-lê nói rằng gọi là Kosambī do có vị đạo sĩ tên Kusamba cho kiến tạo không xa nơi trú ẩn. Ghositārāme (trong khu vườn Ghosita): Khu vườn của trưởng giả Ghosita kiến tạo.
pubbe kira addilaraṭṭhaṃ nāma ahosi. tato kotūhalako nāma daliddo chātakabhayena saputtadāro kedāraparicchinnaṃ subhikkhaṃ raṭṭhaṃ gacchanto puttaṃ vahituṃ asakkonto chaḍḍetvā agamāsi. mātā nivattitvā taṃ gahetvā gatā. te ekaṃ gopālakagāmakaṃ pavisiṃsu, gopālakānañca tadā pahatapāyaso paṭiyatto hoti, tato pāyasaṃ labhitvā bhuñjiṃsu. atha so puriso pahūtapāyasaṃ bhuñjitvā jirāpetuṃ asakkonto rattibhāge kālaṃ katvā tattheva sunakhiyā kucchimhi paṭisandhiṃ gahetvā kukkuro jāto. so gopālakassa piyo ahosi manāpo, gopālako ca paccekabuddhaṃ upaṭṭhāsi. paccekabuddhopi bhattakiccāvasāne kukkurassa ekaṃ piṇḍaṃ deti. so paccekabuddhe sinehaṃ uppādetvā gopālakena saddhiṃ paṇṇasālampi gacchati.
Kể rằng trong thời quá khứ đã có quốc độ tên lên Adila. Từ đó, có một người vô cùng nghèo khổ tên là Kotūhalaka do bởi sợ hãi sự đói khát mới cùng với vợ và con trai đi đến quốc độ có đất có thể cày cấy được ấn định để kiếm sống, khi không thể đưa đứa con đi đã bỏ lại, người mẹ đã quay lại ẵm đứa con đi. Cả hai người đó đã đi đến một ngôi nhà người nuôi bò. Lúc đó, mọi người đã chia phần cơm sữa số lượng lớn để nuôi dưỡng những con bò. Đôi vợ chồng đó đã nhận được phần cơm sữa từ nhà đó rồi thọ dụng. Khi ấy người đàn ông ăn quá nhiều cơm sữa không thể tiêu hóa được nên đã chết vào buổi chiều tối, rồi tục sanh trở lại làm con chó con ở trong bụng con chó cái của gia đình đó. Con chó con đó được yêu quý, yêu thương của người chủ. Người chăn bò đã hộ độ một vị đức Phật Độc Giác. Phía đức Phật Độc Giác khi đã thọ dụng xong đã bố thí một vắt cơm đến cho con chó đó, nó đã làm tình yêu thương khởi nơi đức Phật Độc Giác đi đến am tranh với người nuôi bò.
so gopālake asannihite bhattavelāya sayameva gantvā kālārocanatthaṃ paṇṇasāladvāre bhussati, antarāmaggepi caṇḍamige disvā bhussitvā palāpeti. so paccekabuddhe mudukena cittena kālaṃ katvā devaloke nibbatti. tatrassa ghosakadevaputtotveva nāmaṃ ahosi. so devalokato cavitvā kosambiyaṃ ekasmiṃ kulaghare nibbatti. taṃ aputtako seṭṭhi tassa mātāpitūnaṃ dhanaṃ datvā puttaṃ katvā aggahesi. atha so attano putte jāte sattakkhattuṃ mārāpetuṃ upakkami. so puññavantatāya sattasupi ṭhānesu maraṇaṃ appatvā avasāne ekāya seṭṭhidhītāya veyyattiyena laddhajīviko aparabhāge pituaccayena seṭṭhiṭṭhānaṃ patvā ghositaseṭṭhi nāma V.2.285 jāto. aññepi kosambiyaṃ kukkuṭaseṭṭhi pāvārikaseṭṭhīti dve seṭṭhino santi. imehi saddhiṃ tayo ahesuṃ.
Khi người nuôi bò bận rộn trong thời gian chuẩn bị thức ăn thì con chó con đó một mình chạy đi rồi sủa lên ở cửa am tranh để thông báo thời gian. Thậm chí khi gặp thú dữ ở trên đường cũng sủa để tránh né. Con chó con có tâm nhu nhuyễn đối với đức Phật Độc Giác, sau khi chết đã hóa sanh vào thế giới chư Thiên. Khi đó vị Thiên tử đó có tên là Thiên tử Ghosaka. sau khi luân chuyển từ thế giới chư Thiên đã tái sanh vào một gia đình trong thành Kosambī. Triệu phú là người không có con trai mới cho tài sản đến cha mẹ của người con đó, rồi nhận đứa bé đó làm con trai. Sau đó khi đứa con ruột của mình được sanh ra, vị triệu phú đó đã ra sức nỗ lực nhằm mục đích sát hại (đứa con nuôi) đến tận bảy lần. Đứa bé đó do nhờ phước báu đã thoát khỏi cái chết đến bảy lần, lần cuối cùng thoát nạn do nhờ sự thông minh của con gái của một người triệu phú khác. Từ đó, khi cha vị ấy qua đời thì vị ấy có được vị trí người triệu phú tên là Ghosita. Trong thành Kosambī có hai vị triệu phú khác là triệu phú Kukkuṭa và triệu phú Pāvārika, tính luôn triệu phú Ghosita nữa thì có 3 người.
tena ca samayena tesaṃ sahāyakānaṃ seṭṭhīnaṃ kulūpakā pañcasatā isayo pabbatapāde vasiṃsu. te kālena kālaṃ loṇambilasevanatthāya manussapathaṃ āgacchanti. athekasmiṃ vāre gimhasamaye manussapathaṃ M.2.289 āgacchantā nirudakamahākantāraṃ atikkamitvā kantārapariyosāne mahantaṃ nigrodharukkhaṃ disvā cintesuṃ — “yādiso ayaṃ rukkho, addhā ettha mahesakkhāya devatāya bhavitabbaṃ, sādhu vatassa, sace no pānīyaṃ vā bhojanīyaṃ vā dadeyyā”ti. devatā isīnaṃ ajjhāsayaṃ viditvā imesaṃ saṅgahaṃ karissāmīti attano ānubhāvena viṭapantarato naṅgalasīsamattaṃ udakadhāraṃ pavattesi. isigaṇo rajatakkhandhasadisaṃ udakavaṭṭiṃ disvā attano bhājanehi udakaṃ gahetvā paribhogaṃ katvā cintesi — “devatāya amhākaṃ paribhogaudakaṃ dinnaṃ, idaṃ pana agāmakaṃ mahāaraññaṃ, sādhu vatassa, sace no āhārampi dadeyyā”ti. devatā isīnaṃ upasaṃkappanavasena dibbāni yāgukhajjakādīni datvā santappesi. isayo cintayiṃsu — “devatāya amhākaṃ paribhogaudakampi bhojanampi sabbaṃ dinnaṃ, sādhu vatassa, sace no attānaṃ dasseyyā”ti.
Khi đó nhóm triệu phú là những người bạn lữ đó có 500 vị đạo sĩ là những vị sống ẩn dật ở dưới chân núi. Thỉnh thoảng nhóm đạo sĩ đó đến địa phận của con người để được thọ hưởng vị mặn và vị chua. Một lần nọ vào mùa nóng khi đi đến địa phận của con người, trong lúc đi qua vùng đất vô cùng cằn cỗi, không có nước, đến cuối vùng hoang sơ ấy nhìn thấy một cây đa to lớn nghĩ rằng: “Trong thân cây này có lẽ có vị Thiên nhân có nhiều thân lực cư ngụ, sẽ là điềm lành, nếu như vị Thiên nhân đó có thể ban cho nước uống và những thứ có thể thọ dụng đối với chúng ta.” Vị Thiên biết được tập tánh của nhóm đạo sĩ đó nghĩ rằng: “Ta sẽ nhiếp phục nhóm đạo sĩ này với oai lực của mình, làm cho xuất hiện dòng nước khoảng chừng cái lưỡi cày chảy ra từ giữa nhánh cây. Nhóm đạo sĩ khi nhìn thấy nước bắn vọt ra giống như một khối bạc, đã lấy bình đựng của mình đựng nước uống, họ nghĩ rằng “Chúng ta được vị Thiên ban cho nước uống, khu rừng to lớn này không có bất kỳ ngôi làng, thật tốt đẹp thay, nếu như vị Thiên ban vật thực đến cho chúng ta.” Vị thiên đã cho cháo và vật thực cứng thuộc cõi trời v.v, cho các đạo sĩ được no nê với sức mạnh của việc hóa hiện. Nhóm đạo sĩ nghĩ rằng: “Vị Thiên đã cho mọi thứ đến chúng ta không chỉ nước uống mà còn thức ăn, thật tốt đẹp thay, nếu như Thiên nhân có thể thị hiện bản thân cùng chúng tôi.”
devatā tesaṃ ajjhāsayaṃ viditvā upaḍḍhakāyaṃ dassesi. te āhaṃsu — “devate, mahatī te sampatti, kiṃ kammaṃ katvā imaṃ sampattiṃ adhigatāsī”ti? bhante, nātimahantaṃ parittakaṃ kammaṃ katvāti. upaḍḍhauposathakammaṃ nissāya hi devatāya sā sampatti laddhā.
Vị Thiên biết được khuynh hướng của những đạo sĩ đó đã thị hiện một nửa thân. Các đạo sĩ mới nói rằng “Này Thiên nhân sự thành tựu của ngài to lớn, Ngài đã tạo nghiệp gì mà đạt được sự thành tựu này.” (Vị Thiên) Thưa các Ngài tôi chỉ tạo chút ít (thiện) nghiệp không có gì lớn lao cả. Vị Thiên y cứ việc làm vào trai giới uposatha mỗi nữa tháng mà đạt được sự thành tựu đó.
anāthapiṇḍikassa kira gehe ayaṃ devaputto kammakāro ahosi. seṭṭhissa hi gehe uposathadivasesu antamaso dāsakammakāre upādāya sabbo jano uposathiko hoti. ekadivasaṃ ayaṃ kammakāro ekakova pāto uṭṭhāya kammantaṃ gato. mahāseṭṭhi nivāpaṃ labhanamanusse sallakkhento etassevekassa araññaṃ gatabhāvaṃ ñatvā assa sāyamāsatthāya nivāpaṃ adāsi. bhattakārikā dāsī ekasseva bhattaṃ pacitvā araññato āgatassa bhattaṃ vaḍḍhetvā adāsi, kammakāro āha — “aññesu divasesu imasmiṃ kāle gehaṃ ekasaddaṃ ahosi, ajja ativiya sannisinnaṃ, kiṃ nu kho etan”ti P.2.392? tassa sā ācikkhi — “ajja V.2.286 imasmiṃ gehe sabbe manussā uposathikā, mahāseṭṭhi tuyhevekassa nivāpaṃ adāsī”ti.
Kể rằng khi đó vị Thiên tử này là người làm việc ở trong nhà của trưởng giả Anāthapiṇḍika. Bởi vì ở trong nhà của trưởng giả mỗi ngày trai giới uposatha tất cả mọi người dầu là người hầu hay người lao động cũng gìn giữ thọ trì bát quan trai giới. Một ngày nọ duy nhất người làm việc ấy thức dậy từ sáng sớm đi làm việc. Đại trưởng giả khi đã xác định được số người thọ lãnh thức ăn biết được rằng “duy nhất còn thiếu một mình người đi rừng” đã chuẩn bị thức ăn chiều dành cho vị ấy. Người hầu nữ làm bếp đã nấu cơm chỉ dành riêng cho mình vị đó, khi anh ta từ rừng quay trở về mơi đưa phần cơm cho anh ta. Người làm việc nói rằng: “Vào lúc này trong những ngày khác cả nhả chỉ toàn là tiếng nói chuyện, nhưng hôm nay lại quá yên lặng, có nguyên nhân gì sao?”. Người làm bếp nói: “Ngày hôm nay tất cả mọi người trong gia đình này thọ trì bát quan trai giới, đại trưởng giả đã cho chuẩn bị phần thức ăn dành riêng cho một mình anh.”
evaṃ ammāti? āma sāmīti. imasmiṃ kāle uposathaṃ samādinnassa uposathakammaṃ hoti na hotīti mahāseṭṭhiṃ puccha ammāti? tāya gantvā pucchito mahāseṭṭhi āha — “sakalauposathakammaṃ na hoti, upaḍḍhakammaṃ pana hoti, uposathiko hotū”ti M.2.290. kammakāro bhattaṃ abhuñjitvā mukhaṃ vikkhāletvā uposathiko hutvā vasanaṭṭhānaṃ gantvā nipajji. tassa āhāraparikkhīṇakāyassa rattiṃ vāto kuppi. so paccūsasamaye kālaṃ katvā upaḍḍhauposathakammanissandena mahāvaṭṭaniaṭaviyaṃ nigrodharukkhe devaputto hutvā nibbatti. so taṃ pavattiṃ isīnaṃ ārocesi.
(người lao động): thật vậy sao? (người làm bếp): Thật. (người lao động): Người thọ trì bát quan trai giới vào lúc này (có thể) xem là việc làm vào trai giới uposatha hay không? Anh hãy đi hỏi vị đại trưởng giả về vấn đề này. Đại trưởng giả được người hầu nữ đi hỏi đã nói rằng: “không phải là bát quan trai giới trọn vẹn mà chỉ là nữa ngày bát quan trai giới, (vì thế) anh ta đã thọ trì bát quan trai giới.” Người lao động đã không thọ dụng vật thực, uốn lưỡi đặt lên nóc họng, thọ trì bát quan trai giới, đi về chỗ ở của mình rồi ngủ, khi thân thể của anh ta cạn kiệt vật thực, gió độc hành hạ vào ban đêm, đã chết vào lúc hừng sáng, hóa sanh làm vị Thiên tử ở trú ngụ ở cây đa trong khu cây đa to lớn do nhờ quả phước của nửa ngày thọ trì bát quan trai giới. Vị Thiên tử đã nói sự vận hành đó cho nhóm đạo sĩ.
isayo tumhehi mayaṃ buddho, dhammo, saṅghoti asutapubbaṃ sāvitā, uppanno nu kho loke buddhoti? āma, bhante, uppannoti. idāni kuhiṃ vasatīti? sāvatthiṃ nissāya jetavane, bhanteti. isayo tiṭṭhatha tāva tumhe mayaṃ satthāraṃ passissāmāti haṭṭhatuṭṭhā nikkhamitvā anupubbena kosambinagaraṃ sampāpuṇiṃsu. mahāseṭṭhino, “isayo āgatā”ti paccuggamanaṃ katvā, “sve amhākaṃ bhikkhaṃ gaṇhatha, bhante”ti nimantetvā punadivase isigaṇassa mahādānaṃ adaṃsu. isayo bhuñjitvāva gacchāmāti āpucchiṃsu. tumhe, bhante, aññasmiṃ kāle ekampi māsaṃ dvepi tayopi cattāropi māse vasitvā gacchatha. imasmiṃ pana vāre hiyyo āgantvā ajjeva gacchāmāti vadatha, kimidanti? āma gahapatayo buddho loke uppanno, na kho pana sakkā jīvitantarāyo vidituṃ, tena mayaṃ turitā gacchāmāti. tena hi, bhante, mayampi gacchāma, amhehi saddhiṃyeva gacchathāti. tumhe agāriyā nāma mahājaṭā, tiṭṭhatha tumhe, mayaṃ puretaraṃ gamissāmāti nikkhamitvā ekasmiṃ ṭhāne dvepi divasāni avasitvā turitagamaneneva sāvatthiṃ patvā jetavanavihāre satthu santikameva agamaṃsu. satthu madhuradhammakathaṃ sutvā sabbeva pabbajitvā arahattaṃ pāpuṇiṃsu.
(nhóm đạo sĩ) Ngài đã cho chúng tôi nghe điều mà tôi chưa từng được lắng nghe “đức Phật, Giáo Pháp và Chư Tăng, đức Phật đã xuất hiện trên thế gian rồi sao? (vị Thiên) Vâng, thưa ngài, đã xuất hiện. (nhóm đạo sĩ) Bây giờ (đức Phật) cư ngụ ở đâu? (vị Thiên) Ngài ở thành Sāvatthi cư ngụ ở Jetavana, thưa Ngài. (nhóm đạo sĩ) Ngài hãy dừng lại trước, chúng tôi sẽ đi đến gặp bậc Đạo Sư, mỗi người đều vui mừng hoan hỷ, rời khỏi rừng đi thẳng đến thành Kosambī theo tuần tự. Đại trưởng giả biết được nhóm đạo sĩ đi đến đã ra tiếp đón rồi nói rằng: “Kính thưa Ngài, ngày mai xin hãy thọ nhận vật thực khất thực của chúng tôi” đến sáng hôm sau đã thực hiện cuộc đại thí đến nhóm đạo sĩ. Nhóm đạo sĩ thọ dụng xong mới hỏi nhau rằng: “chúng ta sẽ đi đâu?” (trưởng giả): Thưa các Ngài mọi khi các Ngài sẽ ở lại một tháng, hai tháng, ba tháng, thậm chí 4 tháng rồi mới đi nhưng lần này, chỉ mới đến ngày hôm qua (nhưng hôm nay) lại nói rằng ‘chúng ta sẽ đi đâu trong ngày hôm nay’ vì lý do gì?’ (nhóm đạo sĩ) phải rồi, này trưởng giả, đức Phật đã xuất hiện trên thế gian, ta không thể biết được nguy hiểm mạng sống vì thế chúng tôi mới vội đi. (trưởng giả) thưa Ngài nếu là vậy, chúng tôi cũng sẽ đi cùng, xin các Ngài hãy đi cùng với chúng tôi. (nhóm đạo sĩ) các Ngài được gọi là phần đông những người gia chủ, hãy ở lại, chúng tôi sẽ đi trước, cùng nhau rời khỏi, không nghỉ ở một nơi quá 2 ngày, đi một cách vội vã, đến thành Sāvatthī rồi đến trú xứ của bậc Đạo Sư trong tinh xá Jetavana. Toàn bộ số người đó sau khi nghe thuyết Pháp mật ngọt ở nơi đó đã xuất gia rồi chứng đắc trở thành A-ra-hán.
tepi tayo seṭṭhino pañcahi pañcahi sakaṭasatehi sappimadhuphāṇitādīni ceva paṭṭunnadukūlādīni ca ādāya kosambito nikkhamitvā anupubbena sāvatthiṃ patvā jetavanasāmante khandhāvāraṃ bandhitvā satthu santikaṃ gantvā vanditvā paṭisanthāraṃ katvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. satthā tiṇṇampi sahāyakānaṃ madhuradhammakathaṃ kathesi. te balavasomanassajātā satthāraṃ nimantetvā V.2.287 punadivase mahādānaṃ adaṃsu. puna nimantetvā punadivaseti evaṃ aḍḍhamāsaṃ dānaṃ datvā, “amhākaṃ janapadaṃ āgamanāya paṭiññaṃ dethā”ti pādamūle nipajjiṃsu. bhagavā, “suññāgāre kho gahapatayo tathāgatā abhiramantī”ti āha. ettāvatā paṭiññā dinnā nāma hotīti gahapatayo M.2.291 sallakkhetvā dinnā no bhagavatā paṭiññāti dasabalaṃ vanditvā nikkhamitvā antarāmagge yojane yojane ṭhāne vihāraṃ kāretvā anupubbena kosambiṃ patvā, “loke buddho uppanno”ti kathayiṃsu. tayopi janā attano attano ārāme mahantaṃ dhanapariccāgaṃ katvā bhagavato vasanatthāya vihāre kārāpayiṃsu. tattha kukkuṭaseṭṭhinā kārito kukkuṭārāmo nāma ahosi. pāvārikaseṭṭhinā ambavane kārito pāvārikambavano nāma ahosi. ghositena kārito ghositārāmo nāma ahosi. taṃ sandhāya vuttaṃ — “ghositaseṭṭhinā kārite ārāme”ti.
Phía 3 vị trưởng giả, mỗi người đi với 500 cỗ xe chất đầy bở lỏng, mật ong, mật mía và vải vỏ cây v.v, rời khỏi thành Kosambī đến thành Sāvatthī theo tuần tự, dựng lều gần tịnh xá Jetavana, cùng nhau đến trú xứ bậc Đạo Sư, chắp tay đảnh lễ tỏ vẻ thân thiện rồi ngồi xuống một bên thích hợp. Bậc Đạo Sư đã thuyết Pháp mật ngọt cho cả 3 người bạn đồng hành. Cả ba vị trưởng giả ấy khởi lên thọ hỷ mãnh liệt, thỉnh mời bậc Đạo Sư ngày mai được thực hiện cúng dường bữa đại thí. Bọn họ cúng dường mỗi buổi sáng, tập hợp lại họ đã cúng dường suốt nửa tháng, cúi xuống gần đôi bàn chân nói rằng: “Xin Ngài hãy chấp thuận đến xứ sở của chúng con.” Đức Thế Tôn nói rằng: “Này người gia chủ, các Như Lai vô cùng hoan hỷ trong ngôi nhà trống rỗng”. Nhóm trưởng giả xác định rằng: “Chỉ bấy nhiêu, là điều mà đức Thế Tôn đã ban lời chấp thuận” nghĩ rằng “đức Thế Tôn đã ban lời chấp thuận cùng chúng ta” chắp tay cung kính đấng Thập Lực rời đi cho kiến tạo tịnh xá ở mỗi do tuần giữa đạo lộ đến thành Kosambī theo tuần tự, cùng nhau nói rằng “đức Phật đã xuất hiện ở trên thế gian.” Ba vị trưởng giả đã bố thí tài sản với số lượng lớn ở trong khuôn viên của mình, cho kiến tạo tịnh xá dành cho việc an trú của đức Thế Tôn. Cả ba vị trưởng giả đó thì trưởng giả Kukkuṭa cho xây dựng Kukkuṭārāma. Trưởng giả Pāvārika cho xây dựng Pāvārikambavana trong vườn xoài. Trưởng giả Ghosita cho xây dựng Ghositārāma. Đức Thế Tôn có ý muốn nói đến Ghositārāma đó mới thuyết rằng trong khu vườn mà trưởng giả Ghosita đã kiến tạo.
♦ bhaṇḍanajātātiādīsu kalahassa pubbabhāgo bhaṇḍanaṃ nāma, taṃ jātaṃ etesanti bhaṇḍanajātā. hatthaparāmāsādivasena matthakaṃ patto kalaho jāto etesanti kalahajātā. viruddhabhūtaṃ vādanti vivādaṃ, taṃ āpannāti vivādāpannā. mukhasattīhīti vācāsattīhi. vitudantāti vijjhantā. te na ceva aññamaññaṃ saññāpenti na ca saññattiṃ upentīti te atthañca kāraṇañca dassetvā neva aññamaññaṃ jānāpenti. sacepi saññāpetuṃ ārabhanti, tathāpi saññattiṃ na upenti, jānituṃ na icchantīti attho. nijjhattiyāpi eseva nayo. ettha ca nijjhattīti saññattivevacanamevetaṃ. kasmā panete bhaṇḍanajātā ahesunti? appamattakena kāraṇena.
Bhaṇḍanajātā (khởi lên sự cãi cọ): cần phải phân tích như sau bắt đầu của sự cãi cọ gọi là sự bất đồng, sự bất đồng khởi lên cùng nhóm Tỳ khưu đó vì thế gọi là có sự bất đồng sanh khởi. Việc cãi cọ lên đến đỉnh điểm với lực va chạm tay khởi lên nơi nhóm Tỳ khưu đó vì thế gọi là sự gây gỗ đã phát sanh. Lời nói mâu thuẫn vì thế gọi là sự luận tranh, nhóm Tỳ khưu đó đi đến việc tranh luận vì thế gọi là người đi đến sự tranh luận. Với binh khí miệng lưỡi: với binh khí là những lời nói. Đâm vào: đâm xuyên thủng. te na ceva aññamaññaṃ saññāpenti na ca saññattiṃ upenti (Họ không tự thông cảm nhau, không chấp nhận thông cảm): nhóm Tỳ khưu đó trình bày nguyên nhân rồi không thông cảm cho nhau, tức là người khác đề xướng để thông cảm lẫn nhau, cũng không đạt đến sự cảm thông, không ước muốn chấp thuận cảm thông. Ngay cả trong sự hòa giải cũng thực hiện theo cách này. Nijjhatti (sự hòa giải) ở đây đồng nghĩa với từ saññatti (sự thông hiểu). Nguyên nhân nào Tỳ khưu người Kosambī đó khởi lên sự bất đồng? Bởi lý do nhỏ nhặt.
dve kira bhikkhū ekasmiṃ āvāse vasanti vinayadharo ca suttantiko ca. tesu suttantiko bhikkhu ekadivasaṃ P.2.394 vaccakuṭiṃ paviṭṭho ācamanaudakāvasesaṃ bhājane ṭhapetvāva nikkhami. vinayadharo pacchā paviṭṭho taṃ udakaṃ disvā nikkhamitvā taṃ bhikkhuṃ pucchi, āvuso, tayā idaṃ udakaṃ ṭhapitanti? āma, āvusoti. tvamettha āpattibhāvaṃ na jānāsīti? āma na jānāmīti. hoti, āvuso, ettha āpattīti. sace hoti desessāmīti. sace pana te, āvuso, asañcicca asatiyā kataṃ, natthi te āpattīti. so tassā āpattiyā anāpattidiṭṭhi ahosi.
Biết rằng 2 vị Tỳ khưu, một vị thông hiểu Luật và một vị thông hiểu Kinh cùng sống chung trong một ngôi chùa. Cả 2 vị ấy, vị Tỳ khưu thông hiểu Kinh một ngày nọ đi đến Vaccakuṭi còn lại chút ít nước sử dụng vệ sinh trong cái ca rồi đi ra, vị Tỳ khưu thông hiểu Luật đến sau nhìn thấy nước đó, đi ra hỏi vị Tỳ khưu trước rằng “này Hiền giả, nước này Hiền giả để dư lại phải không? (Kinh) Phải, thưa Hiền giả. (Luật) Hiền giả không biết là phạm āpatti do nguyên nhân đó sao? (Kinh) vâng, tôi không biết. (Luật) này Hiền giả là āpatti trong trường hợp này. (Kinh) Nếu có tôi sẽ sám hối. (Luật) Nếu như Hiền giả không cố ý do thất niệm, thì Hiền giả không phạm āpatti. Vị Tỳ khưu thông hiểu Kinh thấy rằng là người không phạm āpatti trong điều phạm āpatti.
vinayadharo V.2.288 attano nissitakānaṃ, “ayaṃ suttantiko āpattiṃ āpajjamānopi na jānātī”ti ārocesi. te tassa nissitake disvā — “tumhākaṃ upajjhāyo āpattiṃ āpajjitvāpi āpattibhāvaṃ na jānātī”ti āhaṃsu. te gantvā attano upajjhāyassa ārocesuṃ. so M.2.292 evamāha — “ayaṃ vinayadharo pubbe ‘anāpattī’ti vatvā idāni ‘āpattī’ti vadati, musāvādī eso”ti. te gantvā, “tumhākaṃ upajjhāyo musāvādī”ti evaṃ aññamaññaṃ kalahaṃ vaḍḍhayiṃsu, taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ.
Vị Tỳ khưu thông hiểu Luật đã thuật lại cho đệ tử của mình rằng, “Vị thông hiểu Kinh này ngay cả phạm āpatti cũng không biết.” Nhóm đệ tử của vị Tỳ khưu thông hiểu Luật nhìn thấy nhóm đệ tử của vị Tỳ khưu thông hiểu Kinh đã nói rằng: “Thầy tế độ của các người ngay cả phạm āpatti cũng không biết là āpatti.” Vị Tỳ khưu đệ tử của vị Tỳ khưu thông hiểu Kinh đó mới đến thuật lại cho thầy tế độ của mình. Vị Tỳ khưu thông hiểu Kinh đã nói như vầy “vị Tỳ khưu thông hiểu Luật này, trước đó đã nói là không phải phạm āpatti, nhưng bay giờ lại nói là phạm āpatti, vị ấy là người nói dối.” các đệ tử của vị Tỳ khưu thông hiểu Kinh đi nói rằng: “Thầy tế độ của các ngươi nói dối”, như vậy đã gieo rắc nên sự gây gỗ lẫn nhau, đức Thế Tôn muốn đề cập đến sự gây gổ đó mới thuyết lời đó.
bhagavantaṃ etadavocāti etaṃ, “idha, bhante, kosambiyaṃ bhikkhū bhaṇḍanajātā”tiādivacanaṃ avoca. tañca kho neva piyakamyatāya na bhedādhippāyena, atha kho atthakāmatāya hitakāmatāya. sāmaggikārako kiresa bhikkhu, tasmāssa etadahosi — “yathā ime bhikkhū vivādaṃ āraddhā, na sakkā mayā, nāpi aññena bhikkhunā samaggā kātuṃ, appeva nāma sadevake loke appaṭipuggalo bhagavā sayaṃ vā gantvā, attano vā santikaṃ pakkosāpetvā etesaṃ bhikkhūnaṃ khantimettāpaṭisaṃyuttaṃ sāraṇīyadhammadesanaṃ kathetvā sāmaggiṃ kareyyā”ti atthakāmatāya hitakāmatāya gantvā avoca.
Đã nói lời này cùng đức Thế Tôn: đã nói lời bắt đầu như sau “Kính bạch Ngài, nhóm Tỳ khưu ở thành Kosambī này, khởi lên sự bất đồng…” vị Tỳ khưu ấy không nói lời đó vì mong muốn được thương, và cả không nói lời đó vì ý định chia rẽ, mà chỉ vì mong muốn lợi ích và mang lại sự giúp đỡ. Cho rằng Tỳ khưu này làm cho sanh khởi sự hợp nhất, vì thế mới có suy nghĩ như sau – “Những vị Tỳ khưu này bắt đầu không đồng thuận và tranh luận nhau, thậm chí Ta và Tỳ khưu khác cũng không thể tạo nên sự hòa hợp được, dầu như thể nào đức Thế Tôn bậc vô song trong thế giới nhân loại và cả thế giới chư Thiên, từ mình đi, hoặc sau khi cho mời đến trú xứ của Ngài thuyết giảng Giáo Pháp phối hợp với kham nhẫn và lòng từ làm nhân để nhớ tưởng đến nhau, cho nhóm Tỳ khưu đó, cũng có thể làm cho hoà hợp với nhau,” nên đã đi thuật lại bởi vì mong muốn lợi ích và mang lại sự giúp đỡ.
- chayime, bhikkhave, dhammā sāraṇīyāti heṭṭhā kalahabhaṇḍanavasena desanā āraddhā. imasmiṃ ṭhāne cha sāraṇīyā dhammā āgatāti evamidaṃ kosambiyasuttaṃ yathānusandhināva gataṃ hoti. tattha sāraṇīyāti saritabbayuttā addhāne atikkantepi na pamussitabbā. yo te dhamme pūreti, taṃ sabrahmacārīnaṃ piyaṃ karontīti piyakaraṇā. garuṃ karontīti garukaraṇā. saṅgahāyāti saṅgahaṇatthāya. avivādāyāti avivādanatthāya. sāmaggiyāti samaggabhāvatthāya P.2.395. ekībhāvāyāti ekībhāvatthāya ninnānākaraṇāya. saṃvattantīti bhavanti. mettaṃ kāyakammanti mettacittena kattabbaṃ kāyakammaṃ. vacīkammamanokammesupi eseva nayo. imāni bhikkhūnaṃ vasena āgatāni, gihīsupi labbhantiyeva. bhikkhūnañhi mettacittena ābhisamācārikadhammapūraṇaṃ mettaṃ kāyakammaṃ nāma. gihīnaṃ cetiyavandanatthāya bodhivandanatthāya saṅghanimantanatthāya gamanaṃ gāmaṃ piṇḍāya paviṭṭhe bhikkhū disvā paccuggamanaṃ pattapaṭiggahaṇaṃ āsanapaññāpanaṃ anugamananti evamādikaṃ mettaṃ kāyakammaṃ nāma.
chayime, bhikkhave, dhammā sāraṇīyā (này chư Tỳ khưu, có 6 Pháp này làm nhân đưa đến sự tưởng nhớ lẫn nhau): đã khởi sự thuyết giảng do khởi lên sự cãi cọ và sự bất đồng trước. Sáu Pháp làm nhân dẫn đến sự tưởng nhớ đến nhau, đã đến ở đây, vì thế bài Kinh Kosambī này cũng trở thành vấn đề tiếp nối từ cùng một nguyên nhân. Sāraṇīyā (làm nhân dẫn đến sự ghi nhớ): khi thời gian trôi qua quá lâu không nên quên, do phối hợp với Pháp cần phải nhớ đến, người nào thực hành đầy đủ trong Pháp đó được tác thành sự yêu thương của những vị đồng Phạm hạnh, vì thế gọi là phương tiện tác thành sự yêu thương (piyakaraṇā). Garukaraṇā (tác thành sự kính trọng): làm cho khởi lên sự tôn trọng. Saṅgahāyā (đưa đến nhiếp phục): vì lợi ích cho việc nhiếp thủ. Avivādāya (vì sự không tranh cãi): vì lợi ích cho sự không cãi vã. Sāmaggiyā (vì sự hòa hợp): vì lợi ích của sự hợp nhất. Ekībhāvāya (vì tính nhất trí): vì lợi ích của sự đồng nhất, để làm cho không có sự khác biệt. saṃvattanti (dẫn đến): trở thành. mettaṃ kāyakammaṃ (Thân nghiệp hợp với từ tâm): thân nghiệp nên được người tạo ra với tâm từ. Kể cả Khẩu nghiệp và Ý nghiệp cũng chính phương thức này đây. Tâm từ này được thuyết dành cho tất cả chư Tỳ khưu nhưng cũng được sử dụng đối với người tại gia. Tâm từ là phương tiện để thực hành Pháp tăng thượng hành với tâm câu hữu với từ của chư Tỳ khưu gọi là Thân nghiệp hợp với tâm từ. Đối với người tại gia cư sĩ, nghiệp v.v, này là việc đi vì lợi ích của việc đảnh lễ Bảo tháp, đảnh lễ cây Bồ đề, thỉnh mời chư Tỳ khưu, việc nhìn thấy chư Tăng đi đến làng mạc để khất thực rồi tiếp đón, việc tiếp nhận bình bát, sự sắp xếp chỗ ngồi (trải tọa cụ), tùy thuận theo được gọi là Thân nghiệp hợp với từ tâm.
bhikkhūnaṃ V.2.289 mettacittena ācārapaññattisikkhāpadaṃ, kammaṭṭhānakathanaṃ dhammadesanā tepiṭakampi buddhavacanaṃ mettaṃ vacīkammaṃ nāma. gihīnañca, “cetiyavandanatthāya gacchāma, bodhivandanatthāya gacchāma, dhammassavanaṃ karissāma, padīpamālāpupphapūjaṃ karissāma, tīṇi sucaritāni samādāya vattissāma, salākabhattādīni dassāma, vassāvāsikaṃ dassāma, ajja saṅghassa M.2.293 cattāro paccaye dassāma, saṅghaṃ nimantetvā khādanīyādīni saṃvidahatha, āsanāni paññāpetha, pānīyaṃ upaṭṭhapetha, saṅghaṃ paccuggantvā ānetha, paññattāsane nisīdāpetvā chandajātā ussāhajātā veyyāvaccaṃ karothā”tiādikathanakāle mettaṃ vacīkammaṃ nāma.
Đối với vị Tỳ khưu việc nói đến chế định liên hệ đến hành vi và các học giới, và việc nói về nghiệp xứ, việc thuyết giảng Giáo Pháp, việc nói đến những lời Phật dạy chính là Tam Tạng như thế gọi là Khẩu nghiệp câu hữu với tâm từ. Còn đối với người tại gia trong lúc nói v.v, như sau “chúng ta đi vì mục đích đảnh lễ Bảo tháp, chúng ta đi nhằm mục đích đảnh lễ cây Bồ đề, sẽ đi nghe thuyết Pháp, thực hiện sự lễ bái bằng những ngọn đèn, tràng hoa, hương thơm, thọ trì 3 thiện hạnh, sẽ bố thí thực phẩm theo cách rút thăm v.v, sẽ dang y phục vào mùa an cư, cúng dường tứ vật dụng đến Tăng chúng trong ngày hôm nay, các Ngài hãy thỉnh chư Tăng rồi sắp xếp vật thực loại cứng và loại mềm v.v, sắp xếp chỗ ngồi (trải tọa cụ), đặt bình nước uống, hãy tiếp rước rồi từ mình hướng dẫn đưa chư Tăng đến, hãy thỉnh mời chư Tăng ngồi lên tọa cụ đã được trải sẵn, phát sanh sự hài lòng, tràn đầy nhiệt huyết, rồi hãy thực hiện sự nỗ lực như này của người cư sĩ gọi là Khẩu nghiệp câu hữu với tâm từ.
bhikkhūnaṃ pātova uṭṭhāya sarīrapaṭijagganaṃ cetiyaṅgaṇavattādīni ca katvā vivittāsane nisīditvā, “imasmiṃ vihāre bhikkhū sukhī hontu, averā abyāpajjhā”ti cintanaṃ mettaṃ manokammaṃ nāma. gihīnaṃ “ayyā sukhī hontu, averā abyāpajjhā”ti cintanaṃ mettaṃ manokammaṃ nāma.
Đối với vị Tỳ khưu thức dậy từ sớm khởi động thân thể, làm phận sự (quét dọn) Bảo tháp và khu vực xung quanh v.v, ngồi trên tọa cụ tĩnh tọa nghĩ rằng “Cầu mong chư Tỳ khưu trong tinh xá này, được sự an lạc, không kết oan trái, không có khổ não, thù hận” gọi là Ý nghiệp câu hữu với tâm từ. Đối với người cư sĩ suy nghĩ rằng: “Cầu mong cho tất cả chúng tôi được sự an lạc, không kết oan trái, không có khổ não, thù hận” gọi là Ý nghiệp câu hữu với tâm từ.
āvi ceva raho cāti sammukhā ca parammukhā ca. tattha navakānaṃ cīvarakammādīsu sahāyabhāvūpagamanaṃ sammukhā mettaṃ kāyakammaṃ nāma. therānaṃ pana pādadhovanavandanabījanadānādibhedampi sabbaṃ sāmīcikammaṃ sammukhā mettaṃ kāyakammaṃ nāma. ubhayehipi dunnikkhittānaṃ dārubhaṇḍādīnaṃ tesu avamaññaṃ akatvā attanā P.2.396 dunnikkhittānaṃ viya paṭisāmanaṃ parammukhā mettaṃ kāyakammaṃ nāma. devatthero tissattheroti evaṃ paggayha vacanaṃ sammukhā mettaṃ vacīkammaṃ nāma. vihāre asantaṃ pana paripucchantassa, kuhiṃ amhākaṃ devatthero, amhākaṃ tissatthero kadā nu kho āgamissatīti evaṃ mamāyanavacanaṃ parammukhā mettaṃ vacīkammaṃ nāma. mettāsinehasiniddhāni pana nayanāni ummīletvā suppasannena mukhena olokanaṃ sammukhā mettaṃ manokammaṃ nāma. devatthero, tissatthero arogo hotu appābādhoti samannāharaṇaṃ parammukhā mettaṃ manokammaṃ nāma.
āvi ceva raho cā (dù trước hoặc ở sau lưng): dù ở trước mặt, hay ở sau lưng. Ở đó, tính chất bạn hữu của vị tân Tỳ khưu trong việc may vá y phục gọi là Thân nghiệp câu hữu với tâm từ trước mặt, còn toàn bộ hành động thích hợp chẳng hạn như việc rửa chân, tôn kính, quạt, bố thí v.v, cùng Trưởng lão được gọi là Thân nghiệp câu hữu với tâm từ trước mặt. Việc không dửng dưng trong những vật dụng bằng gỗ v.v, mà tỳ khưu cả hai phía cất giữ không cẩn thận, giống như đồ dùng mà bản thân cất giữ không tốt, rồi mang đi cất giữ đây gọi là Thân nghiệp câu hữu với tâm từ sau lưng. Việc nói lời tán thán như vầy rằng: “Trưởng lão Deva, Trưởng lão Tissa” gọi là Khẩu nghiệp câu hữu với tâm từ trước mặt. Đối với người hỏi đến vị Tỳ khưu không sống trong chùa, việc sử dụng lời nói dễ mến như vầy rằng “Trưởng lão Deva của chúng tôi đi đâu, sẽ trở về vào lúc nào vậy; Trưởng lão Tissa của chúng tôi đi đâu, sẽ trở về vào lúc nào vậy,” như vậy gọi là Khẩu nghiệp câu hữu với tâm từ sau lưng. Lại nữa, việc mở đôi mắt ra bằng từ tâm, yêu mến ngắm nhìn với gương mặt tươi sáng gọi là Ý nghiệp câu hữu với tâm từ trước mặt. Việc trở lại suy tư rằng: “ Cầu mong Trưởng lão Deva, Trưởng lão Tissa lìa xa ai luyến, ít bệnh tật” đây gọi là Ý nghiệp câu hữu với tâm từ sau lưng.
lābhāti cīvarādayo laddhapaccayā. dhammikāti kuhanādibhedaṃ micchājīvaṃ vajjetvā dhammena samena bhikkhācariyavattena uppannā. antamaso pattapariyāpannamattampīti pacchimakoṭiyā patte pariyāpannaṃ pattassa antogataṃ dvattikaṭacchubhikkhāmattampi. appaṭivibhattabhogīti ettha dve paṭivibhattāni V.2.290 nāma āmisapaṭivibhattaṃ puggalapaṭivibhattañca. tattha, “ettakaṃ dassāmi, ettakaṃ na dassāmī”ti evaṃ cittena vibhajanaṃ āmisapaṭivibhattaṃ nāma. “asukassa dassāmi, asukassa na dassāmī”ti evaṃ cittena vibhajanaṃ pana puggalapaṭivibhattaṃ nāma. tadubhayampi akatvā yo appaṭivibhattaṃ bhuñjati, ayaṃ appaṭivibhattabhogī nāma.
Lợi đắc: các món vật dụng nhận được có y phục v.v. dhammikā (phát sanh đúng Pháp): các món vật dụng phát sanh do việc đi khất thực chân chính đúng Pháp, loại trừ việc nuôi mạng phi Pháp bằng việc nói dối chẳng hạn v.v, antamaso pattapariyāpannamattampi (cho đến những tài vật thâu nhận chỉ trong bình bát): dầu vật thực nhận chỉ được 2-3 vá được gom chung trong bình bát, đặt ở trong bình bát sau cùng ở đằng sau. Appaṭivibhattabhogī (người thọ dụng vật thực vẫn không được san sẻ): gọi là người có vật thực được san sẻ có 2 là chia theo tài vật và chia theo các nhân. Trong việc cả 2 việc san sẻ đó việc chia với tâm như vầy “ta sẽ cho người đó, không cho người kia” gọi là chia theo cá nhân. Điều mà cá nhân không thực hiện cả 2 đó và thọ dụng vật thực không được san sẻ gọi là người thường thọ dụng vật thực không được san sẻ.
sīlavantehi M.2.294 sabrahmacārīhi sādhāraṇabhogīti ettha sādhāraṇabhogino idaṃ lakkhaṇaṃ, yaṃ yaṃ paṇītaṃ labbhati, taṃ taṃ neva lābhena lābhaṃ jigīsanāmukhena gihīnaṃ deti, na attanā paribhuñjati; paṭiggaṇhantova saṅghena sādhāraṇaṃ hotūti gahetvā gaṇḍiṃ paharitvā paribhuñjitabbaṃ saṅghasantakaṃ viya passati. idaṃ pana sāraṇīyadhammaṃ ko pūreti, ko na pūretīti? dussīlo tāva na pūreti. na hi tassa santakaṃ sīlavantā gaṇhanti. parisuddhasīlo pana vattaṃ akhaṇḍento pūreti.
sīlavantehi sabrahmacārīhi sādhāraṇabhogī (người thường thọ dụng vật thực chung với bạn đồng Phạm hạnh, vị có giới hạnh): có lời giải thích rằng vị Tỳ khưu thường thọ dụng vật thực có trạng thái như vầy, vị ấy có được vật dụng nào, thượng hạng, cũng không cho vật đó, với lợi đắc vị ấy ban lợi đắc cũng không cho cùng người gia chủ với mục đích tầm cầu lợi lộc với lợi lộc, cả bản thân cũng không thọ dụng khi thọ nhận cũng thọ nhận với suy nghĩ rằng: “là vật dụng chung cùng Tăng chúng” đã ra dấu nhìn giống như vật dụng của Tăng chúng nên đánh chuông để thỉnh mời thọ dụng. Vị nào thực hành Pháp làm nhân đưa đến sự tưởng nhớ, ai không thực hành? Trước hết người ác giới gọi là không thực hành bởi vì người có giới không thọ nhận đồ vật của người ác giới đó. Còn người có giới thanh tịnh, khi thực hành không bị đứt đoạn gọi là vị thực hành.
tatridaṃ vattaṃ — yo hi odissakaṃ katvā mātu vā pitu vā ācariyupajjhāyādīnaṃ vā deti, so dātabbaṃ deti, sāraṇīyadhammo P.2.397 panassa na hoti, palibodhajagganaṃ nāma hoti. sāraṇīyadhammo hi muttapalibodhasseva vaṭṭati, tena pana odissakaṃ dentena gilānagilānupaṭṭhākāagantukagamikānañceva navapabbajitassa ca saṅghāṭipattaggahaṇaṃ ajānantassa dātabbaṃ. etesaṃ datvā avasesaṃ therāsanato paṭṭhāya thokaṃ thokaṃ adatvā yo yattakaṃ gaṇhāti, tassa tattakaṃ dātabbaṃ. avasiṭṭhe asati puna piṇḍāya caritvā therāsanato paṭṭhāya yaṃ yaṃ paṇītaṃ, taṃ taṃ datvā sesaṃ paribhuñjitabbaṃ, “sīlavantehī”ti vacanato dussīlassa adātumpi vaṭṭati.
Trong câu đó thực hành Pháp đáng được nhớ như vầy – bởi người đã thực hiện việc chỉ định cùng mẹ cha hoặc thầy dạy học và thầy tế độ v.v, đó dâng những thứ đáng được dâng, người đó không thực hành đưa đến sự tưởng nhớ, mà chỉ là việc nuôi dưỡng với sự ràng buộc, Pháp đáng được nhớ chỉ thích hợp với hạng người đã thoát khỏi sự ràng buộc mà thôi. Vị ấy bố thí có sự chọn lựa nên cúng dường vị Tỳ khưu bệnh, vị chăm sóc Tỳ khưu bệnh, vị khách Tăng, người chuẩn bị đi xa, và vị mới xuất gia, vị vẫn chưa biết đắp y Tăng-già-lê và mang bình bát. Khi cúng dường đến những vị Tỳ khưu ấy từ sàn tọa dành cho vị Trưởng lão trở xuống mỗi vị từng ít một chỉ cần cúng dường bằng vừa đủ vị ấy nhận lãnh. Khi không có vật thực dư cũng cần phải đi khất thực tiếp, rồi cúng dường đồ thượng hạng đó kể từ sàn tọa vị Trưởng lão trở xuống rồi thọ dụng vật thực còn dư. Người có giới không cho đến người không có giới cũng được.
ayaṃ pana sāraṇīyadhammo susikkhitāya parisāya supūro hoti, no asikkhitāya parisāya. susikkhitāya hi parisāya yo aññato labhati, so na gaṇhāti, aññato alabhantopi pamāṇayuttameva gaṇhāti, na atirekaṃ. ayañca pana sāraṇīyadhammo evaṃ punappunaṃ piṇḍāya caritvā laddhaṃ laddhaṃ dentassāpi dvādasahi vassehi pūrati, na tato oraṃ. sace hi dvādasamepi vasse sāraṇīyadhammapūrako piṇḍapātapūraṃ pattaṃ āsanasālāyaṃ ṭhapetvā nahāyituṃ gacchati, saṅghatthero ca kasseso pattoti? sāraṇīyadhammapūrakassāti vutte — “āharatha nan”ti sabbaṃ V.2.291 piṇḍapātaṃ vicāretvā bhuñjitvā ca rittapattaṃ ṭhapeti. atha so bhikkhu rittapattaṃ disvā, “mayhaṃ asesetvāva paribhuñjiṃsū”ti domanassaṃ uppādeti, sāraṇīyadhammo bhijjati, puna dvādasa vassāni pūretabbo M.2.295 hoti, titthiyaparivāsasadiso hesa. sakiṃ khaṇḍe jāte puna pūretabbova. yo pana, “lābhā vata me, suladdhaṃ vata me, yassa me pattagataṃ anāpucchāva sabrahmacārī paribhuñjantī”ti somanassaṃ janeti, tassa puṇṇo nāma hoti.
Lại nữa, Pháp đáng được nhớ này là điều mà hội chúng không được học tập, không được thực hành, bởi hội chúng đã được học tập, người nhận được vật thực từ nơi khác sẽ không giữ lấy, ngay cả khi không được từ chỗ khác cũng lấy đủ chừng ấy, không lấy hơn. Cũng vậy vị Tỳ khưu đi khất thực rồi lại đi khất thực nữa, cúng dường vật thực suốt 12 năm thực hành Pháp đáng được nhớ thành tựu đầy đủ, không được ít hơn 12 năm. Nếu như vào năm thứ 12 vị Tỳ khưu thực hành Pháp đáng được nhớ đặt bình bát ở nơi đầy vật thực khất thực ở nhà ăn rồi đi tắm gội. Vị Tỳ khưu Trưởng lão hỏi rằng “đây là bình bát của ai?” khi vị ấy đáp rằng: “đây là bình bát của vị Tỳ khưu thực hành Pháp đáng được nhớ” mới nói rằng “mang lại đây, mang bình bát đó lại đây,” san sẻ hết vật thực trong bình bát đó rồi đặt bình không ở đó. Vị Tỳ khưu ấy khởi lên sự buồn rầu “chỉ còn lại cái bát không, thọ dụng hết không còn phần của ta.” Pháp đáng được nhớ sẽ bị đứt, vị ấy phải thực hành lại 12 năm. Pháp đáng được nhớ này tương tự như việc hành biệt trú (titthiyaparivāsa) khi bị đứt cũng cần phải thực hành lại từ đầu. Nhưng vị Tỳ khưu nào khởi lên sự hoan hỷ rằng: “Điều mà vị Tỳ khưu bạn đồng Phạm hạnh thọ dụng vật thực trong bình bát không nói, quả thật đó là lợi đắc cho ta, quả thật lợi ích nhiều cho ta” vị Tỳ khưu đó được gọi là thực hành Pháp đáng được nhớ đầy đủ.
evaṃ pūritasāraṇīyadhammassa pana neva issā, na macchariyaṃ hoti, so manussānaṃ piyo hoti, sulabhapaccayo; pattagatamassa dīyamānampi na khīyati, bhājanīyabhaṇḍaṭṭhāne aggabhaṇḍaṃ labhati, bhaye vā chātake vā sampatte devatā ussukkaṃ āpajjanti.
Sự ganh tị và sự bỏn xẻn không có nơi vị Tỳ khưu thực hành Pháp đáng được nhớ như vậy. Vị ấy trở thành người được yêu mến của loài người, cả các vật dụng cũng dễ dàng tìm kiếm hơn, vật dụng trong bình bát dù có cho người khác cũng không hết, được nhận vật dụng thượng hạng ở trong chỗ phân phát, khi cảm nghiệm sự sợ hãi hoặc cảm nghiệm sự đói khát thì chúng chư Thiên cũng sẽ đến giúp đỡ.
tatrimāni vatthūni — leṇagirivāsī tissatthero kira mahāgirigāmaṃ upanissāya vasati. paññāsa mahātherā nāgadīpaṃ P.2.398 cetiyavandanatthāya gacchantā girigāme piṇḍāya caritvā kiñci aladdhā nikkhamiṃsu. thero pavisanto te disvā pucchi — “laddhaṃ, bhante”ti? vicarimhā, āvusoti. so aladdhabhāvaṃ ñatvā āha — “yāvāhaṃ, bhante, āgacchāmi, tāva idheva hothā”ti. mayaṃ, āvuso, paññāsa janā pattatemanamattampi na labhimhāti. nevāsikā nāma, bhante, paṭibalā honti, alabhantāpi bhikkhācāramaggasabhāvaṃ jānantīti. therā āgamiṃsu. thero gāmaṃ pāvisi.
Trong vấn đề đó có câu chuyện như sau – kể rằng Trưởng lão Tissa trú ngụ ở tịnh xá Leṇagirī y cứ làng Mahāgirī khi 50 vị Trưởng lão đi đến hòn đảo Nāga đế đảnh lễ Bảo tháp, đi khất thực ở làng Giri không được bất cứ thứ gì quay trở lại. Khi Trưởng lão đến đã gặp đại Trưởng lão đó hỏi rằng “Ngài có được gì không?” Này hiền giả, chúng tôi đã đi du hành. Vị Trưởng lão đó biết được vị đại Trưởng lão ấy không nhận được gì nên đã nói rằng – “Xin các Ngài hãy đợi ở đây cho đến khi tôi quay trở lại.” Này Hiền giả, chúng tôi có tới 50 vị, vẫn chưa nhận được vật thực dù chỉ để làm ướt bình bát. Thưa Ngài, thông thường vị sống thường trực ở đây sẽ có khả năng, dầu không được cũng biết được con đường để đi khất thực. Nhóm vị đại Trưởng lão đã chờ đợi ở đó. Vị Trưởng lão đi vào làng.
dhurageheyeva mahāupāsikā khīrabhattaṃ sajjetvā theraṃ olokayamānā ṭhitā therassa dvāraṃ sampattasseva pattaṃ pūretvā adāsi. so taṃ ādāya therānaṃ santikaṃ gantvā, “gaṇhatha, bhante”ti saṅghattheramāha. thero, “amhehi ettakehi kiñci na laddhaṃ, ayaṃ sīghameva gahetvā āgato, kiṃ nu kho”ti sesānaṃ mukhaṃ olokesi. thero olokanākāreneva ñatvā — “dhammena samena laddhapiṇḍapāto, nikkukkuccā gaṇhatha bhante”tiādito paṭṭhāya sabbesaṃ yāvadatthaṃ datvā attanāpi yāvadatthaṃ bhuñji.
Đại tín nữ trong làng cúng dường thường xuyên đã chuẩn bị sẵn cơm nấu với sữa đang đứng đợi Trưởng lão, khi Trưởng lão đến trước cổng đã cúng dường đầy bình bát. Trưởng lão ôm bình bát đến gặp nhóm vị đại Trưởng lão rồi nói với vị Trưởng lão Tăng rằng “Kinh bạch Ngài, xin Ngài hãy nhận lãnh” vị Trưởng lão nhìn các vị Trưởng lão còn lại nghĩ rằng “Chúng ta nhiêu đây không được bất cứ thứ gì, vị Tỳ khưu này nhận được vật thực một cách nhanh chóng, chuyện gì xảy ra vậy?” Vị Trưởng lão biết được qua biểu hiện ngay từ cái nhìn mới nói rằng: “Đi khất thực, tôi có được đúng Pháp, xin các Ngài hãy đừng ghét bỏ mà hãy thọ lãnh,” rồi đã dâng đến các Trưởng lão theo nhu cầu kể từ lúc bắt đầu, ngay cả bản thân cũng thọ dụng theo ý muốn.
atha naṃ bhattakiccāvasāne therā pucchiṃsu — “kadā, āvuso, lokuttaradhammaṃ paṭivijjhī”ti? natthi me, bhante, lokuttaradhammoti. jhānalābhīsi, āvusoti? etampi me, bhante, natthīti. nanu, āvuso, pāṭihāriyanti? sāraṇīyadhammo me, bhante, pūrito, tassa me V.2.292 dhammassa pūritakālato M.2.296 paṭṭhāya sacepi bhikkhusatasahassaṃ hoti, pattagataṃ na khīyatīti. sādhu sādhu, sappurisa, anucchavikamidaṃ tuyhanti. idaṃ tāva pattagataṃ na khīyatīti ettha vatthu.
Tiếp đó, sau khi thọ dụng xong các Trưởng lão mới hỏi Ngài rằng “Này Hiền giả, Ngài đã thấy triệt Pháp Siêu thế khi nào?” Thưa Ngài, Tôi vẫn chưa chứng đắc Pháp Siêu thế. Hiền giả chứng đắc thiền chăng? Ngay cả điều đó cũng không. Hiền giả, đạt được thần thông phải không? Thưa Ngài, tôi thực hành Pháp đáng được nhớ, kể từ khi thực hành Pháp đáng được nhớ, dầu có cả nghìn Tỳ khưu thì vật thực trong bình bát cũng không hết. Tốt lành thay, tốt lành thay, bậc Đại nhân, điều này thật xứng đáng. Vật thực trong bình bát của Ngài cũng không hết trước có câu chuyện như sau.
ayameva pana thero cetiyapabbate giribhaṇḍamahāpūjāya dānaṭṭhānaṃ gantvā, “imasmiṃ ṭhāne kiṃ varabhaṇḍan”ti pucchati. dve sāṭakā, bhanteti. ete mayhaṃ pāpuṇissantīti. taṃ sutvā amacco rañño ārocesi — “eko daharo evaṃ vadatī”ti. “daharassevaṃ cittaṃ, mahātherānaṃ pana sukhumasāṭakā vaṭṭantī”ti vatvā, “mahātherānaṃ dassāmī”ti ṭhapesi. tassa bhikkhusaṅghe paṭipāṭiyā ṭhite dentassa matthake ṭhapitāpi te sāṭakā hatthaṃ nārohanti, aññeva ārohanti. daharassa dānakāle pana hatthaṃ āruḷhā. so P.2.399 tassa hatthe ṭhapetvā amaccassa mukhaṃ oloketvā daharaṃ nisīdāpetvā dānaṃ datvā saṅghaṃ vissajjetvā daharassa santike nisīditvā, “kadā, bhante, imaṃ dhammaṃ paṭivijjhitthā”ti āha.
Lại nữa, vị Trưởng lão này nữa đã đi đến chỗ cúng dường, trong nơi tôn thờ lớn của tịnh xá Giribhaṇḍa ở Cetiyapabbata hỏi rằng “Bố thí này có gì là thượng hạng”. “Hai tấm y thưa Ngài”. “Hai tấm y đó đến cho ta chắc”. Quan đại thần nghe được lời đó mới thuật lại cho đức vua “Thưa thánh thượng, vị Tỳ khưu trẻ đã nói như vậy.” Đức vua nói rằng: “Vị Tỳ khưu trẻ nghĩ hoàn toàn phù hợp, những tấm y tốt này phù hợp với tất cả các đại Trưởng lão” rồi đặt xuống với suy nghĩ rằng “Ta sẽ cúng dường tất cả các đại Trưởng lão.” Trong khi Ngài cúng dường đến các Tỳ khưu đã đứng theo thứ tự, nhưng 2 tấm y được đặt ở trên đầu của Ngài, người đang cúng dường không đến tay Ngài dù chỉ là một tấm y, chỉ có những tấm y khác được đến tay, nhưng đến lúc cúng dường cho vị Tỳ khưu trẻ thì cả 2 tấm y lại xuống tay Ngài, đức vua đặt lên tay của vị Tỳ khưu trẻ ấy rồi nhìn sang vị quan cận thần, mời vị Tỳ khưu trẻ ngồi xuống rồi cúng dường, rời khỏi chư Tăng đến gần vị Tỳ khưu trẻ nói rằng “Thưa Ngài, Pháp này Ngài đã thấu triệt khi nào?”
so pariyāyenapi asantaṃ avadanto, “natthi mayhaṃ, mahārāja, lokuttaradhammo”ti āha. nanu, bhante, pubbeva avacutthāti? āma, mahārāja, sāraṇīyadhammapūrako ahaṃ, tassa me dhammassa pūritakālato paṭṭhāya bhājanīyabhaṇḍaṭṭhāne aggabhaṇḍaṃ pāpuṇātīti. sādhu sādhu, bhante, anucchavikamidaṃ tumhākanti vanditvā pakkāmi. idaṃ bhājanīyabhaṇḍaṭṭhāne aggabhaṇḍaṃ pāpuṇātīti ettha vatthu.
Khi không nói điều không tồn tại theo cách gián tiếp, đã nói rằng “Tâu đại vương, bần Tăng không có (chứng đạt) Pháp Siêu thế.” Ngài đại đức đã nói trước đó rồi không phải sao? Phải, tâu đại vương, bần Tăng thực hành Pháp đáng được nhớ kể từ khi bần Tăng thực hiện Pháp đó tới bây giờ cũng luôn nhận được đồ vật thượng hạng ở nơi phân phát. Tốt lành thay, tốt lành thay, thưa Ngài, vật thí này xứng đáng cho Ngài, sau khi đãnh lễ rồi rời đi. ‘Nhận được vật thí thượng hạng ở chỗ phân phát’ này có câu chuyện như sau:
brāhmaṇatissabhaye pana bhātaragāmavāsino nāgattheriyā anārocetvāva palāyiṃsu. therī paccūsakāle, “ativiya appanigghoso gāmo, upadhāretha tāvā”ti daharabhikkhuniyo āha. tā gantvā sabbesaṃ gatabhāvaṃ ñatvā āgamma theriyā ārocesuṃ. sā sutvā, “mā tumhe tesaṃ gatabhāvaṃ cintayittha, attano uddesaparipucchāyonisomanasikāresuyeva yogaṃ karothā”ti vatvā bhikkhācāravelāya pārupitvā attadvādasamā gāmadvāre nigrodharukkhamūle aṭṭhāsi. rukkhe adhivatthā devatā dvādasannampi bhikkhunīnaṃ piṇḍapātaṃ datvā, “ayye, aññattha mā gacchatha, niccaṃ idheva ethā”ti āha. theriyā pana kaniṭṭhabhātā M.2.297 nāgatthero nāma atthi. so, “mahantaṃ bhayaṃ, na sakkā idha yāpetuṃ, paratīraṃ gamissāmāti attadvādasamova attano vasanaṭṭhānā nikkhanto theriṃ disvā gamissāmī”ti bhātaragāmaṃ āgato. therī, “therā āgatā”ti sutvā tesaṃ santikaṃ gantvā, kiṃ ayyāti pucchi. so taṃ pavattiṃ ācikkhi. sā, “ajja ekadivasaṃ vihāreyeva vasitvā sveva gamissathā”ti āha. therā vihāraṃ agamaṃsu.
Lại nữa, người dân sống trong làng Bhātara do khởi lên sự sợ hãi từ tinh xá Brāhmaṇatissa không nói lời từ giã với vị Trưởng lão Ni tên là Nāgā đã bỏ đi. Trưởng lão Ni đã nói với nhóm Tỳ khưu ni vào lúc rạng sáng rằng: “Ngôi làng không một chút tiếng động các Ngài hãy cân nhắc suy xét trước.” Những Tỳ khưu ni trẻ ấy đi xem biết được rằng tất cả dân làng đã đi hết, trở về báo lại cho vị Trưởng lão Ni. Trưởng lão Ni sau khi nghe đã nói rằng: “Các Ngài đừng suy nghĩ đến việc ra đi của những người dân làng đó nữa, hãy chú tâm thực hành sự tinh tấn trong việc học tập của chính mình” khi đến thời đi khất thực mới đắp y, đứng ở gốc cây đa trở thành vị thứ 12 ở gần cổng làng. Vị Thiên nhân trú ngụ ở đó cũng đã cúng dường vật thực đến 12 vị Tỳ khưu ni, đã nói rằng: “Thưa các Ngài, xin đừng đi nơi khác, hãy thường xuyên đi đến đây.” Trưởng lão Ni có một người em trai tên là Trưởng lão Nāga. Trưởng lão Nāga nghĩ rằng “Nỗi sợ hãi quá lớn, ta không thể duy trì sự sống, cần phải đi đến bờ bên kia” là vị thứ 12 đi ra khỏi nơi ở của mình, rồi đến làng Bhātara với suy nghĩ như sau: “ta sẽ nhìn vị Trưởng lão Ni rồi sẽ đi.” Trưởng lão Ni khi nghe nhóm Trưởng lão Tăng đến kiếm nhóm Trưởng lão ấy hỏi rằng “Do nguyên nhân gì, thưa quý Ngài,” Ngài đã nói đến sự diễn biến đó. Trưởng lão Ni nói rằng: “Hôm nay xin thỉnh quý Ngài nghỉ ngơi tại tịnh xá một đêm, ngày mai rồi hãy đi.” Các vị Trưởng lão đã đi đến tịnh xá.
therī V.2.293 punadivase rukkhamūle piṇḍāya caritvā theraṃ upasaṅkamitvā, “imaṃ piṇḍapātaṃ paribhuñjathā”ti āha. thero, “vaṭṭissati therī”ti vatvā tuṇhī aṭṭhāsi. dhammiko tātā piṇḍapāto P.2.400 kukkuccaṃ akatvā paribhuñjathāti. vaṭṭissati therīti. sā pattaṃ gahetvā ākāse khipi, patto ākāse aṭṭhāsi. thero, “sattatālamatte ṭhitampi bhikkhunībhattameva, therīti vatvā bhayaṃ nāma sabbakālaṃ na hoti, bhaye vūpasante ariyavaṃsaṃ kathayamāno, ‘bho piṇḍapātika bhikkhunībhattaṃ bhuñjitvā vītināmayitthā’ti cittena anuvadiyamāno santhambhetuṃ na sakkhissāmi, appamattā hotha theriyo”ti maggaṃ āruhi.
Rạng sáng vị Trưởng lão Ni đã đi khất thực ở góc cây ấy, rồi đến tìm các vị Trưởng lão nói rằng “Xin quý Ngài hãy thọ dụng vật thực khất thức này.” Trương lão nói rằng “Trưởng lão ni thích hợp chăng?” mới đứng im lặng. Trưởng lão ni đáp: “Thưa quý Ngài, vật thực khất thực này đúng Pháp, quý Ngài chớ đừng ghét bỏ mà hãy thọ dụng” Trưởng lão nói rằng “Trưởng lão ni thích hợp chăng?” Bà cầm lấy bình bát ném lên trong hư không, bình bát lơ lửng trong hư không, Trưởng lão nói rằng “Vật thực của vị Trưởng lão ni lơ lửng ước chừng dài khoảng 7 cây tāla” khi nói rằng: “Khởi lên rằng sự sợ hãi không phải tồn tại ở mọi thời, sự sợ hãi được yên tĩnh, khi nói về truyền thống bậc Thánh đã nói rằng: ‘Ngài thọ dụng vật thực của Tỳ khưu ni có được từ việc đi khất thực, buông bỏ thời gian trôi qua như vậy, khi thực hành theo sự suy nghĩ cũng không thể trợ giúp được, Trưởng lão ni xin các Ngài chớ đừng sống phóng dật” rồi đi lên con đường.
rukkhadevatāpi, “sace thero theriyā hatthato piṇḍapātaṃ paribhuñjissati, na naṃ nivattessāmi, sace pana na paribhuñjissati, nivattessāmī”ti cintayamānā ṭhatvā therassa gamanaṃ disvā rukkhā oruyha pattaṃ, bhante, dethāti pattaṃ gahetvā theraṃ rukkhamūlaṃyeva ānetvā āsanaṃ paññāpetvā piṇḍapātaṃ datvā katabhattakiccaṃ paṭiññaṃ kāretvā dvādasa bhikkhuniyo, dvādasa ca bhikkhū satta vassāni upaṭṭhahi. idaṃ devatā ussukkaṃ āpajjantīti ettha vatthu, tatra hi therī sāraṇīyadhammapūrikā ahosi.
Vị Thiên trú ngụ ở cây nghĩ rằng: “nếu Trưởng lão thọ dụng vật thực khất thực từ tay của vị Trưởng lão ni, ta sẽ không cho vị ấy quay lại” nhìn thấy Trưởng lão đi vị ấy xuất khỏi cây nói rằng “kính thưa Ngài, xin hãy cho bình bát” rồi tiếp nhận bình bát, vị Trưởng lão đến gốc cây đó trải tọa cụ cúng dường đồ ăn khất thực cho Trưởng lão thọ dụng thực hành lời hứa rồi cấp dưỡng 12 vị Tỳ khưu ni, 12 vị Tỳ khưu Tăng suốt 7 năm. Đây là câu chuyện trong cụm từ devatā ussukkaṃ āpajjanti (chư Thiên ra sức nỗ lực giúp đỡ), cũng trong chuyện này Trưởng lão Ni là vị thực hành Pháp đáng được nhớ (sāraṇīyadhamma).
akhaṇḍānītiādīsu yassa sattasu āpattikkhandhesu ādimhi vā ante vā sikkhāpadaṃ bhinnaṃ hoti, tassa sīlaṃ pariyante chinnasāṭako viya khaṇḍaṃ nāma. yassa pana vemajjhe bhinnaṃ, tassa majjhe chiddasāṭako viya chiddaṃ nāma hoti. yassa pana paṭipāṭiyā dve tīṇi bhinnāni, tassa piṭṭhiyaṃ vā kucchiyaṃ vā uṭṭhitena visabhāgavaṇṇena kāḷarattādīnaṃ aññataravaṇṇā gāvī viya sabalaṃ nāma hoti. yassa pana antarantarā bhinnāni, tassa M.2.298 antarantarā visabhāgabinducitrā gāvī viya kammāsaṃ nāma hoti. yassa pana sabbena sabbaṃ abhinnāni, tassa tāni sīlāni akhaṇḍāni acchiddāni asabalāni akammāsāni nāma honti. tāni panetāni taṇhādāsabyato mocetvā bhujissabhāvakaraṇato bhujissāni.
Có giới không bị bể vỡ v.v, vị nào có học giới bị phá vỡ (hư hoại) ở chặng đầu hoặc chặng cuối trong nhóm 7 āpatti thì vị đó có giới bị bễ vỡ giống như tấm vải bị đứt xung quanh viền. Lại nữa, vị nào có các học giới bị bể vỡ ở chặng giữa thì vị đó gọi là có giới bị lủng tựa như tấm vải bị thủng ở chặng giữa. Vị nào làm hư hoại 2-3 giới học theo tuần tự thì vị đó gọi là có giới bị lấm nhơ giống như bất kỳ một con bò nào có màu đen hoặc màu hồng v.v, với các màu khác ở trên lưng hoặc dưới bụng. Vị nào có các học giới bị hư hoại thành từng đoạn từng đoạn thì vị đó gọi là có giới bị khuyết điểm tựa như con bò có đốm đốm khắp thân mình. Vị tỳ khưu nào có các học giới không hư hoại theo tất cả mọi cách thì vị tỳ khưu đó có giới không bị bể vỡ, không bị lủng, không bị lấm nhơ, không bị khuyết điểm. Cũng giới này đây gọi là tạo ra sự tự do bởi vì làm cho thoát khỏi cảnh nô lệ của tham ái trở nên được tự do.
buddhādīhi viññūhi pasatthattā viññuppasatthāni. taṇhādiṭṭhīhi aparāmaṭṭhattā, “idaṃ nāma tvaṃ āpannapubbo”ti kenaci parāmaṭṭhuṃ asakkuṇeyyattā ca aparāmaṭṭhāni. upacārasamādhiṃ vā appanāsamādhiṃ vā saṃvattayantīti samādhisaṃvattanikānīti vuccanti. sīlasāmaññagato P.2.401 viharatīti tesu tesu disābhāgesu viharantehi bhikkhūhi saddhiṃ samānabhāvūpagatasīlo viharati V.2.294. sotāpannādīnañhi sīlaṃ samuddantarepi devalokepi vasantānaṃ aññesaṃ sotāpannādīnaṃ sīlena samānameva hoti, natthi maggasīle nānattaṃ, taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ.
Được các bậc trí tán thán: bởi các bậc trí có đức Phật v.v, ngợi khen. Không bị chấp thủ: không bị bám chặt vào bởi tham ái và tà kiến, và bất cứ ai cũng không thể hiểu lầm – “Ngài đã từng sai phạm điều học này?” Vận hành đưa đến cận định hoặc an chỉ định, vì thế ngài gọi là vận hành để đưa đến định. Được đầy đủ giới sẽ sống…: Các vị có giới hạnh đồng đẳng sẽ sống cùng với các vị tỳ khưu sống ở các phương. Thật vậy, giới hạnh của vị Thánh Nhập Lưu v.v, đồng đẳng với các vị Thánh Nhập Lưu khác, người sống ở giữa biển, hay ở thế giới chư Thiên thì không có sự khác biệt về giới trong chi Đạo. Ngài muốn đề cập đến điều đó mới thuyết lời này.
yāyaṃ diṭṭhīti maggasampayuttā sammādiṭṭhi. ariyāti niddosā. niyyātīti niyyānikā. takkarassāti yo tathākārī hoti. dukkhakkhayāyāti sabbadukkhakkhayatthaṃ. diṭṭhisāmaññagatoti samānadiṭṭhibhāvaṃ upagato hutvā viharati. agganti jeṭṭhakaṃ. sabbagopānasiyo saṅgaṇhātīti saṅgāhikaṃ. sabbagopānasīnaṃ saṅghāṭaṃ karotīti saṅghāṭanikaṃ. saṅghāṭaniyanti attho. yadidaṃ kūṭanti yametaṃ kūṭāgārakaṇṇikāsaṅkhātaṃ kūṭaṃ nāma. pañcabhūmikādipāsādā hi kūṭabaddhāva tiṭṭhanti. yasmiṃ patite mattikaṃ ādiṃ katvā sabbe patanti. tasmā evamāha. evameva khoti yathā kūṭaṃ kūṭāgārassa, evaṃ imesampi sāraṇīyadhammānaṃ yā ayaṃ ariyā diṭṭhi, sā aggā ca saṅgāhikā ca saṅghāṭaniyā cāti daṭṭhabbā.
Đối với (chánh) kiến: Chánh kiến tương ưng với Đạo. Thuộc bậc Thánh: không có lỗi lầm. Đưa đến: đưa đến (giải thoát). Người thực hành theo điều ấy: người nào là người thực hành theo như thế. Vì sự chấm dứt khổ đau: Vì sự dứt trừ tất cả khổ. Có đầy đủ (chánh) kiến: là vị đạt đến đạt đến bản thể chánh kiến đồng đẳng, đã an trú. Aggaṃ (tối thắng): cao cả nhất. Saṅgāhikaṃ (nhiếp thâu): nắm lấy tập hợp toàn bộ cây đà. tức là làm (giềng mối) cho tất cả cây đà gắn kết với nhau, vì thế gọi là kết nối lại với nhau. Yadidaṃ kūṭa (đỉnh chóp): điểm kết nối mái nhà với cột chống vì lý do đó gọi là mái nhọn. Lâu đài 5 tầng v.v, ở trên đỉnh (mái nhọn) đó được cố định hoàn toàn để có thể đứng vững. Khi đỉnh đó rơi xuống toàn bộ bắt đầu từ đất đẻo cũng sụp đổ. Vì vậy, Thế Tôn đã nói như vậy. Chính vì vậy: cái thấy tối thượng và cao cả nhất của người thực hành Pháp đáng được nhớ này đây nên thấy rằng là cái tập hợp và cái liên kết giống như đỉnh của ngôi nhà mái nhọn.
- kathañca, bhikkhave, yāyaṃ diṭṭhīti ettha, bhikkhave, yāyaṃ sotāpattimaggadiṭṭhi ariyā niyyānikā niyyāti takkarassa sammā dukkhakkhayāyāti vuttā, sā kathaṃ kena kāraṇena niyyātīti attho. pariyuṭṭhitacittova hotīti ettāvatāpi pariyuṭṭhitacittoyeva nāma hotīti attho. esa nayo sabbattha. suppaṇihitaṃ me mānasanti mayhaṃ cittaṃ suṭṭhu ṭhapitaṃ. saccānaṃ bodhāyāti catunnaṃ saccānaṃ bodhatthāya. ariyantiādīsu taṃ ñāṇaṃ yasmā ariyānaṃ hoti, na puthujjanānaṃ, tasmā ariyanti vuttaṃ. yesaṃ pana lokuttaradhammopi atthi, tesaṃyeva hoti, na M.2.299 aññesaṃ, tasmā lokuttaranti vuttaṃ. puthujjanānaṃ pana abhāvato asādhāraṇaṃ puthujjanehīti vuttaṃ. esa nayo sabbavāresu.
493. Kathañca, bhikkhave, yāyaṃ diṭṭhīti (Này các Tỳ khưu, cái thấy này, như thế nào?): Này các Tỳ khưu cái thấy trong của vị Nhập Lưu Đạo, Ngài nói rằng “xa rời từ kẻ thù, là thực tính đem ra khỏi, được đem ra, để dứt trừ sự khổ đau chân chánh của vị hành giả.” Cái thấy đó đem ra khỏi như thế nào? đem ra do nhân gì? Gọi là có tâm bị các phiền não loại trung vây hãm: được xem là người có tâm đã bị bao vay, chỉ với nguyên nhân này. Trong các câu cũng có phương thức này. Suppaṇihitaṃ me mānasaṃ (tâm của ta được đặt khéo léo): Tâm của ta đã được đặt khéo léo. Saccānaṃ bodhāyā (để nhận biết các Chân lý: vì lợi ích nhận biết bốn Chân lý. Ariyaṃ (là bậc Thánh): do nhờ trí tuệ đó có được nơi bậc Thánh, không có nơi kẻ Phàm nhân, vì thế được gọi là Thánh nhân. Hơn nữa, dầu Pháp Siêu thế của nhóm người nào có mặt, cũng chỉ là của nhóm người đó mà thôi, không có nơi nhóm người khác, vì thế Ngài gọi là Siêu thế (Pháp vượt ngoài thế gian). gọi là không phổ biến với những kẻ Phàm nhân bởi vì không có cùng Phàm nhân. Trong các phần cũng phương thức này.
- labhāmi paccattaṃ samathanti attano citte samathaṃ labhāmīti attho. nibbutiyampi eseva nayo. ettha ca samathoti ekaggatā. nibbutīti kilesavūpasamo.
labhāmi paccattaṃ samathaṃ (có được sự tĩnh lặng riêng mình): nghĩa là ta có được sự an tịnh ở trong tâm của mình. Kể cả trong sự diệt tắt cũng theo cách thức này. Và ở đây cả tính chất đi đến một đối tượng. nibbuti (sự diệt): sự vắng lặng phiền não.
- tathārūpāya diṭṭhiyāti evarūpāya sotāpattimaggadiṭṭhiyā.
tathārūpāya diṭṭhiyā (với cái thấy bằng hình thức như thế): Với cái nhìn của Nhập Lưu Đạo bằng hình thức như vậy.
- dhammatāyāti sabhāvena. dhammatā esāti sabhāvo P.2.402 esa. vuṭṭhānaṃ paññāyatīti saṅghakammavasena V.2.295 vā desanāya vā vuṭṭhānaṃ dissati. ariyasāvako hi āpattiṃ āpajjanto garukāpattīsu kuṭikārasadisaṃ, lahukāpattīsu sahaseyyādisadisaṃ acittakāpattiṃyeva āpajjati, tampi asañcicca, no sañcicca, āpannaṃ na paṭicchādeti. tasmā atha kho naṃ khippamevātiādimāha. daharoti taruṇo. kumāroti na mahallako. mandoti cakkhusotādīnaṃ mandatāya mando. uttānaseyyakoti atidaharatāya uttānaseyyako, dakkhiṇena vā vāmena vā passena sayituṃ na sakkotīti attho. aṅgāraṃ akkamitvāti ito cito ca pasāritena hatthena vā pādena vā phusitvā. evaṃ phusantānaṃ pana manussānaṃ na sīghaṃ hattho jhāyati, tathā hi ekacce hatthena aṅgāraṃ gahetvā parivattamānā dūrampi gacchanti. daharassa pana hatthapādā sukhumālā honti, so phuṭṭhamatteneva dayhamāno cirīti saddaṃ karonto khippaṃ paṭisaṃharati, tasmā idha daharova dassito. mahallako ca dayhantopi adhivāseti, ayaṃ pana adhivāsetuṃ na sakkoti. tasmāpi daharova dassito. desetīti āpattipaṭiggāhake sabhāgapuggale sati ekaṃ divasaṃ vā rattiṃ vā anadhivāsetvā rattiṃ caturaṅgepi tame sabhāgabhikkhuno vasanaṭṭhānaṃ gantvā desetiyeva.
dhammatāya (theo Pháp tánh) là theo đúng thực tính. Pháp tánh này: có thực tính này. vuṭṭhānaṃ paññāyati (sự xuất khỏi…hiện hữu): việc ra khỏi với mãnh lực hành Tăng sự chung (saṅghakamma) hoặc việc sám hội lỗi lầm được xuất hiện. Thật vậy, Thánh đệ tử khi cần sám hối trong số các tội nặng chẳng hạn như xây dựng kuṭi, trong số các tội nhẹ như việc ngủ chung nơi có mái che, nơi khuất, khi cần phải sám hối tội bởi sự không chủ ý, do không có ý định, không cố ý, sám hối rồi không không phải che giấu. Vì thế đức Thế Tôn thuyết lời rằng: nếu như vậy vị Thánh đệ tử cũng vội sám hối…lỗi lầm đó. Daharo (nhỏ): vẫn còn non. Kumāro (đứa bé trai): không phải người già. Mando (vẫn còn non): gọi là yếu, bởi vì mắt và tai còn yếu. Uttānaseyyako (nằm ngửa): gọi là người nằm ngửa do còn quá yếu, không thể nằm nghiêng bên phải hoặc bên trái. aṅgāraṃ akkamitvā (đã chạm vào than đỏ): lấy tay hoặc chân giẫm chỗ này, giẫm chỗ kia chạm phải than đỏ. Khi nhóm người chạm như vậy sẽ rút tay ra nhanh chóng, chứ không thể chậm được. Thậm chí vào thời điểm đó, mọi người lấy tay bên này hay bên kia đổi qua đổi lại để đi được xa. Nhưng tay và chân của trẻ thơ vẫn mềm mỏng. Đứa trẻ đó chỉ cần lửa chạm qua cũng nóng rát liền vứt bỏ ngay. Vì thế đức Thế Tôn miêu tả đứa trẻ thơ ở trong trường hợp này. Người lớn tuổi khi bị lửa chạm vẫn kham nhẫn được. Nhưng đứa trẻ này thì không thể kham nhẫn được. Vì thế chỉ thuyết về đứa trẻ mà thôi. Thuyết giảng: Khi có người đồng đẳng với nhau là người thừa nhận sám hối lỗi lầm cũng không cần phải chờ đợi đến hết ngày hay đêm, ngay cả vào ban đêm hội đủ 4 vị đi đến chỗ vị đổng đẳng sám hối chính lỗi lầm đó ngay lập tức.
- uccāvacānīti uccanīcāni. kiṃ karaṇīyānīti kiṃ karomīti evaṃ vatvā kattabbakammāni. tattha uccakammaṃ nāma cīvarassa karaṇaṃ rajanaṃ cetiye sudhākammaṃ uposathāgāracetiyagharabodhigharesu kattabbakammanti evamādi. avacakammaṃ nāma pādadhovanamakkhanādikhuddakakammaṃ, atha vā cetiye M.2.300 sudhākammādi uccakammaṃ nāma. tattheva kasāvapacanaudakānayanakucchakaraṇa niyyāsabandhanādi avacakammaṃ nāma. ussukkaṃ āpanno hotīti ussukkabhāvaṃ kattabbataṃ paṭipanno hoti. tibbāpekkho hotīti bahalapatthano hoti. thambañca P.2.403 ālumpatīti tiṇañca ālumpamānā khādati. vacchakañca apacinātīti vacchakañca apaloketi. taruṇavacchā hi gāvī araññe ekato āgataṃ vacchakaṃ ekasmiṃ ṭhāne nipannaṃ pahāya dūraṃ na gacchati, vacchakassa āsannaṭṭhāne caramānā tiṇaṃ ālumpitvā gīvaṃ ukkhipitvā ekantaṃ vacchakameva ca viloketi, evameva sotāpanno uccāvacāni kiṃ karaṇīyāni karonto tanninno hoti, asithilapūrako tibbacchando bahalapatthano hutvāva karoti.
Uccāvacāni (phận sự lớn nhỏ): cả (việc) lớn lẫn việc nhỏ. kiṃ karaṇīyāni (phận sự cần làm): ta sẽ thực hành như thế nào rồi làm theo đó, gọi là phận sự nên làm thế nào. Trong phận sự đó phận sự v.v, như vậy việc thực hành hoặc nhuộm y, việc làm ở Bảo điện, việc làm cần được làm ở nhà hành lễ uposatha, gian nhà ở nơi Bảo điện, gian nhà ở cội Bồ đề gọi là việc làm cao quý. Việc làm nhỏ chẳng hạn như rửa ráy và thoa chân v.v gọi là việc làm thấp. Hơn nữa, việc làm chẳng hạn như tô trét vôi v.v, ở Bảo điện gọi là việc làm cao quý. Trong số những việc làm ở bảo tháp đó, việc nấu vải nhuộm nước chát, việc dẫn nước đến, làm cái bay (của thợ hồ), việc buộc thang gọi là việc làm thấp. ussukkaṃ āpanno hoti (đạt đến sự nỗ lực): là người có sự thực hành về bản thể sự nỗ lực cần phải làm. tibbāpekkho hoti (khởi lên sự ước ao mãnh liệt): là vị có sự ước muốn mãnh liệt. thambañca ālumpati (và nhổ lùm cỏ lên ăn): nhỏ lùm cỏ lên nhai. vacchakañca apacināti (vẫn chú tâm đến con bê): nhìn và quan sát con bê. Cũng giống như bò mẹ buông để những bê con cùng nhau vào rừng, nằm ngủ ở một nơi, không đi xa, ăn cỏ ở nơi gần những con bê con, chỉ ngước cổ quan sát những con bê con. Vị Thánh Nhập Lưu cũng tương tự y như thế đó thực hành phận sự nên làm cả cao lẫn thấp, hướng đến những phận sự đó là người thực hành không thấp kém, có sự hài lòng mãnh liệt, là vị có ước muốn dày đặc (nhiều) để thực hiện.
tatridaṃ V.2.296 vatthu — mahācetiye kira sudhākamme kariyamāne eko ariyasāvako ekena hatthena sudhābhājanaṃ, ekena kucchaṃ gahetvā sudhākammaṃ karissāmīti cetiyaṅgaṇaṃ āruḷho. eko kāyadaḷhibahulo bhikkhu gantvā therassa santike aṭṭhāsi. thero aññasmiṃ sati papañco hotīti tasmā ṭhānā aññaṃ ṭhānaṃ gato. sopi bhikkhu tattheva agamāsi. thero puna aññaṃ ṭhānanti evaṃ katipayaṭṭhāne āgataṃ, — “sappurisa mahantaṃ cetiyaṅgaṇaṃ kiṃ aññasmiṃ ṭhāne okāsaṃ na labhathā”ti āha. na itaro pakkāmīti.
Trong câu đó có câu chuyện minh họa như này – Kể rằng trong khi đang tô trét vôi ở Đại Bảo điện, một vị Thánh đệ tử một tay cầm thùng đựng vôi, một tay cầm cái bay nghĩ rằng “Tô trét vôi rồi bước vào sân Bảo điện”, một vị Tỳ khưu có thân hình săn chắc đến đứng gần Trưởng lão, Trưởng lão nghĩ rằng “khi có người khác sẽ làm công việc trở nên chậm chạp” bởi thế mới từ chỗ đó đi chuyển sang chỗ khác, vị Tỳ khưu đó cũng đi theo đến chỗ đó nữa. Trưởng lão cũng đi chuyển sang chỗ khác nữa, vị Trưởng lão đã nói với vị Tỳ khưu đi theo 2-3 chỗ như vậy rằng “Bậc chân nhân, sân Bảo điện rộng lớn, Ngài không có được khoảng trống ở chỗ khác hay sao?” Lại một vị Trưởng lão khác cũng không chịu rời đi.
- balatāya samannāgatoti balena samannāgato. aṭṭhiṃ katvāti atthikabhāvaṃ katvā, atthiko hutvāti attho. manasikatvāti manasmiṃ karitvā. sabbacetasā samannāharitvāti appamattakampi vikkhepaṃ akaronto sakalacittena samannāharitvā. ohitasototi ṭhapitasoto. ariyasāvakā hi piyadhammassavanā honti, dhammassavanaggaṃ gantvā niddāyamānā vā yena kenaci saddhiṃ sallapamānā vā vikkhittacittā vā na nisīdanti, atha kho amataṃ paribhuñjantā viya atittāva honti dhammassavane, atha aruṇaṃ uggacchati. tasmā evamāha.
498.balatāya samannāgato (có sự hội đủ bởi sức mạnh): có sự phối hợp với sức mạnh. aṭṭhiṃ katvā (thực hiện sự ước muốn): thực hiện trạng thái có lợi ích, là người có lợi ích. Manasikatvā (tác ý): sau khi đã khéo chú ý mọi thứ bởi tâm, không tạo ra sự phóng tâm dầu chỉ chút ít đã khéo tác ý với tất cả tâm. Ohitasoto (lắng tai nghe): có nhĩ đã được thiết lập. Chư Thánh Thinh văn là những vị yêu thích lắng nghe Pháp, đi nghe thuyết Pháp cũng không ngồi ngủ gật, không đàm luận với bất kỳ ai hoặc không có tâm phóng dật. Thật sự các Ngài là những người không biết no đủ trong việc lắng nghe Pháp giống như việc uống nước bất tử, lắng nghe Pháp cho đến khi mặt trời mọc vì thế đức Thế Tôn mới thuyết như vậy.
- dhammatā M.2.301 susamanniṭṭhā hotīti sabhāvo suṭṭhu samannesito hoti. sotāpattiphalasacchikiriyāyāti karaṇavacanaṃ P.2.404, sotāpattiphalasacchikatañāṇenāti attho. evaṃ sattaṅgasamannāgatoti evaṃ imehi sattahi mahāpaccavekkhaṇañāṇehi samannāgato. ayaṃ tāva ācariyānaṃ samānakathā. lokuttaramaggo hi bahucittakkhaṇiko nāma natthi.
Dhammatā susamanniṭṭhā (pháp tánh được khéo an trú): Thực tính Pháp mà ngài đã tầm cầu tốt đẹp. sotāpattiphalasacchikiriyāya (với việc chứng ngộ Nhập Lưu Thánh Quả): đây là từ nói đến nguyên nhân. tức là nhờ trí tuệ đã tác chứng Nhập Lưu Thánh Quả. Evaṃ sattaṅgasamannāgato (hội đủ bảy chi phần như vậy): Phối hợp với trí tuệ về việc quán xét lại to lớn này như vậy. Đây là lời nói đối nghịch lại với các thầy A-xà-lê trước. Còn Đạo Siêu thế được gọi là không có nhiều sát-na tâm.
vitaṇḍavādī pana ekacittakkhaṇiko nāma maggo natthi, “evaṃ bhāveyya satta vassānī”ti hi vacanato sattapi vassāni maggabhāvanā honti. kilesā pana lahu chijjantā sattahi ñāṇehi chijjantīti vadati. so suttaṃ āharāti vattabbo, addhā aññaṃ suttaṃ apassanto, “idamassa paṭhamaṃ ñāṇaṃ adhigataṃ hoti, idamassa dutiyaṃ ñāṇaṃ … pe … idamassa sattamaṃ ñāṇaṃ adhigataṃ hotī”ti imameva āharitvā dassessati. tato vattabbo kiṃ panidaṃ suttaṃ neyyatthaṃ nītatthanti.
Đối với những vị thích nói đùa giỡn nói rằng: Đạo được gọi là có một sát-na tâm không có, bởi vì “cần phải tu tập suốt 7 năm” việc tu tập Đạo sử dụng thời gian 7 năm. Còn phiền não khi bị cắt bỏ ngay tức khắc bị cắt đứt bởi 7 loại trí. Vị A-xà-lê sẽ bị anh ta nói rằng: “Hãy đem Kinh ra dẫn chứng.” Chắc chắn khi không nhìn thấy bài Kinh khác anh ta cũng đem bài Kinh này ra trình bày rằng: “Đây là trí thứ nhất, đây là trí thứ hai…đây là trí thứ bảy của bài Kinh này mà vị Thánh Thinh văn đó đã chứng đắc.” Từ đó vị ấy cũng nói rằng: “Bài kinh này có ý nghĩa nên biết, có ý nghĩa nên hướng dẫn như thế nào?”
tato vakkhati — “nītatthatthaṃ, yathāsuttaṃ tatheva attho”ti. so vattabbo — “dhammatā susamanniṭṭhā hoti sotāpattiphalasacchikiriyāyāti ettha ko attho”ti? addhā sotāpattiphalasacchikiriyāyatthoti vakkhati. tato pucchitabbo, “maggasamaṅgī V.2.297 phalaṃ sacchikaroti, phalasamaṅgī”ti. jānanto, “phalasamaṅgī sacchikarotī”ti vakkhati. tato vattabbo, — “evaṃ sattaṅgasamannāgato kho, bhikkhave, ariyasāvako sotāpattiphalasamannāgato hotīti idha maggaṃ abhāvetvā maṇḍūko viya uppatitvā ariyasāvako phalameva gaṇhissati. mā suttaṃ me laddhanti yaṃ vā taṃ vā avaca. pañhaṃ vissajjentena nāma ācariyasantike vasitvā buddhavacanaṃ uggaṇhitvā attharasaṃ viditvā vattabbaṃ hotī”ti. “imāni satta ñāṇāni ariyasāvakassa paccavekkhaṇañāṇāneva, lokuttaramaggo bahucittakkhaṇiko nāma natthi, ekacittakkhaṇikoyevā”ti saññāpetabbo. sace sañjānāti sañjānātu. no ce sañjānāti, “gaccha pātova vihāraṃ pavisitvā yāguṃ pivāhī”ti uyyojetabbo. sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
Kể từ đó cũng sẽ nói rằng: “Có ý nghĩa như đã hướng dẫn. Bài Kinh này thế nào thì ý nghĩa như thế đó.” Vị đó nên nói rằng: “Pháp tánh khéo được suy xét đưa đến tác chứng Nhập Lưu Thánh Quả, lợi ích cũng chỉ bấy nhiêu.” Vị ấy nên đáp rằng: “Lợi ích từ việc tác chứng Nhập Lưu Thánh Quả có thật vậy. Từ đó nên hỏi rằng, “Vị đắc Đạo chứng ngộ Quả, rồi đắc Quả”. Trong khi biết, “tác chứng hội đủ bốn Quả.” Từ đó nên nói rằng, – “Ở đây, vị Thánh đệ tử, vị không tu tập Đạo” trong lời Phật dạy này “Như vậy, này các Tỳ khưu, vị Thánh đệ tử thành tựu bảy chi này tức là đã thành tựu Nhập Lưu Quả,” cũng nhảy tới cướp lấy quả giống như con ếch nhảy lên mà thôi, như thế Ngài không nên nói những lời không đúng mục đích ‘Tôi đã học Kinh rồi’ thường vị Tỳ khưu trả lời vấn đề cần phải ở trong trú xứ vị thầy dạy học, sau khi học tập Phật ngôn, nếm được hương vị lợi ích rồi mới trả lời. “Bảy loại trí này được xem chính là trí tuệ quán xét lại của vị Thánh đệ tử, Đạo Siêu thế được gọi là có nhiều sát-na tâm (điều này) không có, cần phải cho vị Tỳ khưu đó chấp nhận rằng ‘chỉ có một sát-na Tâm”. Nếu vị ấy tưởng tri hãy tưởng tri. Nếu vị ấy không tưởng tri nên trục xuất “Ngài hãy đi đến tịnh xá vào sáng sớm rồi uống nước cháo trước.” Những từ còn lại trong các câu đơn giản.
Giải Thích Kinh Kosambiya Kết Thúc.