Kinh số 47 – Giải Thích Kinh Tư Sát
(Vīmaṃsakasuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Tư Sát
- evaṃ V.2.273 M.2.277 me sutanti vīmaṃsakasuttaṃ. tattha vīmaṃsakenāti tayo vīmaṃsakā — atthavīmaṃsako saṅkhāravīmaṃsako satthuvīmaṃsakoti. tesu, “paṇḍitā hāvuso, manussā vīmaṃsakā”ti (saṃ. ni. 3.2) ettha atthavīmaṃsako āgato. “yato kho, ānanda, bhikkhu dhātukusalo ca hoti, āyatanakusalo ca hoti, paṭiccasamuppādakusalo ca hoti, ṭhānāṭṭhānakusalo ca hoti, ettāvatā kho, ānanda, paṇḍito bhikkhu vīmaṃsakoti alaṃ vacanāyā”ti (ma. ni. 3.124) ettha saṅkhāravīmaṃsako āgato. imasmiṃ pana sutte satthuvīmaṃsako adhippeto. cetopariyāyanti cittavāraṃ cittaparicchedaṃ. samannesanāti esanā pariyesanā upaparikkhā. iti viññāṇāyāti evaṃ vijānanatthāya.
487.Kinh Tư Sát được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, vīmaṃsakenā (vị tư sát): vị tư sát có 3 là vị tư sát về ý nghĩa, vị tư sát về các hành, vị tư sát về bậc Đạo Sư. Vị tư sát đó, vị tư sát về ý nghĩa được nói đến như sau: “Này Hiền giả, tất cả người nhân loại, bậc trí giả là người tư sát” (saṃ. ni. 3.2). Vị tư sát trong các hành được nói đến như “Cho đến như vậy, này Ānanda, là vừa đủ để nói vị Tỳ khưu thiện xảo về Giới, thiện xảo về Xứ, thiện xảo về các Pháp tùy thuận duyên sanh và là người thiện xảo biết được điều nào đúng và điều nào sai, này Ānanda chỉ chừng ấy Tỳ khưu trở thành vị tư sát.” (ma. ni. 3.124). Nhưng trong bài Kinh này có ý muốn nói đến thiện xảo về bậc Đạo Sư. cetopariyāyaṃ (có thể nhận biết tập tánh): biết rõ tập tánh của tâm, việc xác định tâm. Samannesanā (việc tư sát, xem xét): việc tầm cầu, tìm kiếm, quan sát. iti viññāṇāyā (để nhận thức): vì mục đích nhận thức rõ như vậy.
- dvīsu dhammesu tathāgato samannesitabboti idha kalyāṇamittūpanissayaṃ dasseti. mahā hi esa kalyāṇamittūpanissayo P.2.379 nāma. tassa mahantabhāvo evaṃ veditabbo — ekasmiṃ hi samaye āyasmā ānando upaḍḍhaṃ attano ānubhāvena hoti, upaḍḍhaṃ kalyāṇamittānubhāvenāti cintetvā attano dhammatāya nicchetuṃ asakkonto bhagavantaṃ upasaṅkamitvā pucchi, — “upaḍḍhamidaṃ, bhante, brahmacariyassa, yadidaṃ kalyāṇamittatā kalyāṇasahāyatā kalyāṇasampavaṅkatā”ti.
dvīsu dhammesu tathāgato samannesitabbo (cần phải tìm hiểu về Như Lai trên hai loại Pháp): đức Thế Tôn thuyết giảng việc đến nương nhờ bạn hữu tốt lành. Bởi vì được xem là việc nương tựa bạn hữu tốt lành đó là vấn đề lớn lao. Nên biết ý nghĩa việc nương nhờ bạn hữu tốt lành là vấn đề lớn lao như sau: Một thuở nọ đại đức Ānanda nghĩ rằng: “Một nữa Phạm hạnh có được do oai lực của tự thân, một nữa còn lại có được nhờ oai lực của bạn hữu tốt lành, không thể tự lý giải theo lẽ thường được, mới đi đến gặp đức Thế Tôn để hỏi, – “Kinh bạch Ngài, một nửa của Phạm hạnh này là trạng thái người có bạn hữu tốt lành, có bạn đồng hành tốt lành, có bạn thâm niên tốt lành.”
bhagavā āha — “mā hevaṃ, ānanda, mā hevaṃ, ānanda, sakalamevidaṃ, ānanda, brahmacariyaṃ yadidaṃ kalyāṇamittatā kalyāṇasahāyatā, kalyāṇasampavaṅkatā. kalyāṇamittassetaṃ, ānanda, bhikkhuno pāṭikaṅkhaṃ kalyāṇasahāyassa kalyāṇasampavaṅkassa, ariyaṃ aṭṭhaṅgikaṃ maggaṃ bhāvessati, ariyaṃ aṭṭhaṅgikaṃ maggaṃ bahulīkarissati. kathañcānanda, bhikkhu kalyāṇamitto … pe … ariyaṃ aṭṭhaṅgikaṃ maggaṃ bhāveti, ariyaṃ aṭṭhaṅgikaṃ maggaṃ bahulīkaroti. idhānanda, bhikkhu sammādiṭṭhiṃ bhāveti … pe … sammāsamādhiṃ bhāveti vivekanissitaṃ evaṃ kho, ānanda, bhikkhu kalyāṇamitto … pe … bahulīkaroti, tadamināpetaṃ, ānanda, pariyāyena veditabbaṃ. yathā sakalamevidaṃ brahmacariyaṃ yadidaṃ kalyāṇamittatā kalyāṇasahāyatā kalyāṇasampavaṅkatā. mamañhi, ānanda, kalyāṇamittaṃ āgamma V.2.274 jātidhammā sattā jātiyā parimuccanti. jarādhammā … pe … sokaparidevadukkhadomanassupāyāsadhammā M.2.278 sattā sokaparidevadukkhadomanassupāyāsehi parimuccantī”ti (saṃ. ni. 5.2).
Đức Thế Tôn đáp rằng – “Này Ānanda, con không nên nói như vậy, này Ānanda, toàn bộ Phạm hạnh này là trạng thái người có bạn hữu tốt lành, có bạn đồng hành tốt lành, có bạn thâm niên tốt lành. Này Ānanda, Phạm hạnh đó vị Tỳ khưu có bạn hữu tốt lành, có bạn đồng hành tốt lành, có bạn thâm niên tốt lành có thể hy vọng được rằng ‘sẽ phát triển Thánh đạo Tám chi phần, sẽ làm sung mãn được Thánh đạo Tám chi phần.’ Này Ānanda, và như thế nào là vị Tỳ khưu có bạn hữu tốt lành…tu tập Thánh đạo Tám chi phần, làm cho sung mãn Thánh đạo Tám chi phần? Này Ānanda, vị Tỳ khưu trong Pháp và Luật này tu tập Chánh kiến…tu tập Chánh định y cứ viễn ly. Này Ānanda như vậy vị Tỳ khưu có bạn hữu tốt lành…được làm cho sung mãn Thánh đạo Tám chi phần. Với sự nhận thức này, này Ānanda, con nên biết với Pháp môn này. Trạng thái người có bạn hữu tốt lành, có bạn đồng hành tốt lành, có bạn thâm niên tốt lành là toàn phần đời sống Phạm hạnh này đây. Này Ananda, chính y cứ Ta là trạng thái người có bạn hữu tốt lành, nên các chúng sanh bị sanh được giải thoát khỏi sanh; các chúng sanh bị già được giải thoát khỏi già…các chúng sanh bị sầu, bi, khổ, ưu, não được giải thoát khỏi sầu, bi, khổ ưu, não. (saṃ. ni. 5.2).
bhikkhūnaṃ bāhiraṅgasampattiṃ kathentopi āha — “bāhiraṃ, bhikkhave, aṅganti karitvā nāññaṃ ekaṅgampi samanupassāmi, yaṃ evaṃ mahato atthāya saṃvattati, yathayidaṃ, bhikkhave, kalyāṇamittatā. kalyāṇamittatā, bhikkhave, mahato atthāya saṃvattatī”ti (a. ni. 1.113). mahācundassa kilesasallekhapaṭipadaṃ kathentopi, “pare pāpamittā bhavissanti, mayamettha kalyāṇamittā bhavissāmāti sallekho karaṇīyo”ti (ma. ni. 1.83) āha. meghiyattherassa vimuttiparipācaniyadhamme kathentopi, “aparipakkāya, meghiya, cetovimuttiyā pañca dhammā paripākāya saṃvattanti. katame pañca? idha, meghiya, bhikkhu P.2.380 kalyāṇamitto hoti”ti (udā. 31) kalyāṇamittūpanissayameva visesesi. piyaputtassa rāhulattherassa abhiṇhovādaṃ dentopi —
Đức Thế Tôn khi nói đến sự hội đủ với yếu tố ở bên ngoài cho các chư Tỳ khưu đã thuyết rằng – “Này chư Tỳ khưu, Ta không nhận thấy một yếu tố nào khác sau khi tạo thành yếu tố ở ngoại phần, dầu chỉ là một yếu tố được vận hành đưa đến có nhiều lợi ích như vậy, như trạng thái người có bạn hữu tốt lành này. Này các Tỳ khưu, trạng thái người có bạn hữu tốt lành, được diễn tiến vì lợi ích to lớn.” (a. ni. 1.113). Thậm chí khi nói đến đạo lộ thực hành đoạn giảm phiền não của vị Trưởng lão Cunda mới thuyết rằng: “Này chư Tỳ khưu cần phải thực hành sự đoạn giảm như sau ‘những người khác có bạn ác làm bạn, chúng ta sẽ có bạn hữu tốt lành.” (ma. ni. 1.83). Thậm chí việc nói Pháp đưa đến sự chín muồi của giải thoát của Trưởng lão Meghiya, cũng nói đến việc y cứ bạn hữu tốt lành là tối thượng, “Này Meghiya, khi sự giải thoát của tâm chưa được chín muồi, có năm pháp đưa đến sự chín muồi. Thế nào là năm? Này Meghiya, vị Tỳ khưu trong Pháp và Luật này có bạn hữu tốt lành” (udā. 31). Thậm chí việc ban lời huấn từ thường xuyên cùng Trưởng lão Rāhula con thương mới thuyết Pháp làm phương tiện đi đến y cứ bạn hữu tốt lành trước tất cả các Pháp rằng:
“mitte bhajassu kalyāṇe, pantañca sayanāsanaṃ.
vivittaṃ appanigghosaṃ, mattaññū hohi bhojane.
cīvare piṇḍapāte ca, paccaye sayanāsane.
etesu taṇhaṃ mākāsi, mā lokaṃ punarāgamī”ti. (su. ni. 340, 341) —
kalyāṇamittūpanissayameva sabbapaṭhamaṃ kathesi. evaṃ mahā esa kalyāṇamittūpanissayo nāma. idhāpi taṃ dassento bhagavā dvīsu dhammesu tathāgato samannesitabboti desanaṃ ārabhi. paṇḍito bhikkhu dvīsu dhammesu tathāgataṃ esatu gavesatūti attho. etena bhagavā ayaṃ mahājaccoti vā, lakkhaṇasampannoti vā, abhirūpo dassanīyoti vā, abhiññāto abhilakkhitoti vā, imaṃ nissāyāhaṃ cīvarādayo paccaye labhissāmīti vā, evaṃ cintetvā maṃ nissāya vasanakiccaṃ V.2.275 natthi. yo pana evaṃ sallakkheti, “pahoti me esa satthā hutvā satthukiccaṃ sādhetun”ti, so maṃ bhajatūti sīhanādaṃ nadati. buddhasīhanādo kira nāmesa suttantoti.
Con hãy thân cận những người bạn tốt lành, chỗ nằm và chỗ ngồi thanh vắng, tịch tịnh, ít tiếng động. Con hãy biết chừng mực trong việc thọ dụng vật thực.
Con chớ tạo ra sự tham ái trong các món vật dụng này: ở y phục, ở đồ ăn khất thực, ở thuốc men chữa bệnh, ở chỗ nằm ngồi. Con chớ đi đến thế gian lần nữa. (su. ni. 340, 341)
Gọi Pháp là phương tiện đi vào y cứ bạn hữu tốt lành này là vấn đề (ân đức) to lớn như vậy. Khi thuyết giảng Giáo Pháp kể cả trong bài Kinh này đức Thế Tôn ra sức thuyết rằng: “Này chư Tỳ khưu có thể tư sát Như Lai trong hai Pháp.” Tỳ khưu thiện xảo hãy tầm cầu Như Lai trong 2 Pháp bởi 2 lý do, đức Thế Tôn gầm lên tiếng gầm sư tử “người nào suy nghĩ như vậy rằng: ‘Đức Thế Tôn này thuộc tầng lớp cao quý, thành tựu bởi các tướng, sắc xinh đẹp đáng ngắm nhìn, có danh tiếng mà họ tôn trọng nhất,’ như thế cũng có, hoặc ta y cứ vị này sẽ nhận được những món vật dụng như y phục v.v, như này cũng có, không cần đến nương tựa Như Lai, còn người nào xác định như vầy rằng: ‘Như Lai này có thể làm phận sự của ta trong Tôn giáo được thành tựu, hạng người đó hãy đến gặp ta.” Bài Kinh này mới gọi là gầm lên tiếng gầm sư tử của đức Phật cũng được.
idāni M.2.279 te dve dhamme dassento cakkhusotaviññeyyesūti āha. tattha satthu kāyiko samācāro vīmaṃsakassa cakkhuviññeyyo dhammo nāma. vācasiko samācāro sotaviññeyyo dhammo nāma. idāni tesu samannesitabbākāraṃ dassento ye saṃkiliṭṭhātiādimāha. tattha saṃkiliṭṭhāti kilesasampayuttā. te ca na cakkhusotaviññeyyā. yathā pana udake calante vā pupphuḷake vā muñcante anto maccho atthīti viññāyati, evaṃ pāṇātipātādīni vā karontassa, musāvādādīni vā bhaṇantassa kāyavacīsamācāre disvā ca sutvā ca taṃsamuṭṭhāpakacittaṃ saṃkiliṭṭhanti viññāyati. tasmā evamāha. saṃkiliṭṭhacittassa hi kāyavacīsamācārāpi saṃkiliṭṭhāyeva nāma.
Bây giờ, khi thuyết 2 Pháp đó, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Có thể nhận thức bằng mắt và tai trong Pháp đó.” Hành vi diễn tiến qua lộ thân của bậc Đạo sư được gọi là Pháp có thể nhận thức được bằng mắt, hành vi được diễn biến thông qua lời nói gọi là Pháp có thể nhận thức được bằng tai đối với vị tư sát. Bây giờ khi thuyết biểu hiện có thể tư sát trong 2 Pháp đó đức Thế Tôn mới thuyết rằng “Pháp nào đã ô nhiễm” v.v. Ở đó, ‘ô nhiễm’: phối hợp với phiền não và những Pháp đó không thể nhận thức được bằng mắt và tai. Giống như sự chuyển động trong nước, hoặc bong bóng nước bắn lên con người biết được rằng: bên trong có cá thế nào, con người sau khi thấy và sau khi nghe hành động qua thân và khẩu của người thực hiện việc sát sanh hoặc nói dối v.v, cũng biết được rằng: Tâm làm cho bất thiện pháp có việc sát sanh v.v, được thiết lập là tâm đã bị nhiễm ô. Vì thế đã nói như vậy. Đối với hạng người có tâm ô nhiễm ngay cả hành vi qua lộ thân và khẩu cũng bị nhiễm ô.
na te tathāgatassa saṃvijjantīti na te tathāgatassa atthi. na upalabbhantīti evaṃ jānātīti attho. natthitāyeva hi te na upalabbhanti na paṭicchannatāya. tathā hi bhagavā ekadivasaṃ imesu dhammesu bhikkhusaṅghaṃ P.2.381 pavārento āha — “handa dāni, bhikkhave, pavāremi vo, na ca me kiñci garahatha kāyikaṃ vā vācasikaṃ vā”ti. evaṃ vutte āyasmā sāriputto uṭṭhāyāsanā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā yena bhagavā tenañjaliṃ paṇāmetvā bhagavantaṃ etadavoca — “na kho mayaṃ, bhante, bhagavato kiñci garahāma kāyikaṃ vā vācasikaṃ vā. bhagavā hi, bhante, anuppannassa maggassa uppādetā, asañjātassa maggassa sañjānetā, anakkhātassa maggassa akkhātā, maggaññū maggavidū maggakovido. maggānugā ca, bhante, etarahi sāvakā viharanti pacchāsamannāgatā”ti (saṃ. ni. 1.215).
Những Pháp ô nhiễm đó không hiện hữu cùng Như Lai: họ biết như vầy những Pháp đó của Như Lai không có, không thể tìm thấy. Cũng bởi trạng thái Pháp đó chắc chắn không có, vì không được che giấu nên mới không thể tìm thấy những Pháp đó. Thật vậy, một ngày nọ đức Thế Tôn khi hành lễ pavāranā trong hội chúng Tỳ khưu trong Pháp này đã nói rằng: “bây giờ đây, này chư Tỳ khưu, Ta sẽ hành lễ pavāranā cùng các ông ‘các ông có khiển trách gì về những hành vi qua lộ thân và khẩu của Ta chăng?” Khi đức Thế nói như vậy, Tôn giả Sārīputta đã đứng dậy từ chỗ ngồi, làm cho y vai trái lệch sang một bên, chắp tay cung kính hướng về đức Thế Tôn đang an trú, đã đáp lời này cùng đức Thế Tôn – “Kính bạch Ngài, chúng con không chỉ trích bất kỳ hành động gì diễn tiến qua lộ thân hoặc khẩu của đức Thế Tôn. Thật vậy, đức Thế Tôn, kính thưa Ngài, Ngài là vị làm sanh khởi Đạo Lộ chưa được sanh khởi, là vị làm sanh ra Đạo Lộ chưa được sanh ra, là vị tuyên thuyết Đạo Lộ chưa được tuyên thuyết, là vị biết về Đạo Lộ, là vị hiểu rõ về Đạo Lộ, là vị rành rẽ về Đạo Lộ. Kính bạch Ngài, và những người đi theo Đạo Lộ là các đệ tử của Ngài hiện nay đang an trú và sau này sẽ thành tựu (Đạo Lộ ấy). (saṃ. ni. 1.215).
evaṃ parisuddhā tathāgatassa kāyavacīsamācārā. uttaropi sudaṃ māṇavo tathāgatassa kāyavacīdvāre anārādhanīyaṃ kiñci passissāmīti satta māse anubandhitvā likkhāmattampi na addasa. manussabhūto vā esa buddhabhūtassa kāyavacīdvāre kiṃ anārādhanīyaṃ passissati? māropi devaputto bodhisattassa sato mahābhinikkhamanato paṭṭhāya chabbassāni gavesamāno kiñci anārādhanīyaṃ nāddasa, antamaso cetoparivitakkamattampi. māro kira cintesi — “sacassa vitakkitamattampi akusalaṃ passissāmi, tattheva naṃ muddhani paharitvā pakkamissāmī”ti. so chabbassāni adisvā buddhabhūtampi ekaṃ vassaṃ anubandhitvā kiñci vajjaṃ apassanto gamanasamaye vanditvā —
Đức Thế Tôn là vị có hạnh nghiệp về thân và khẩu thanh tịnh như vậy. Được biết rằng thanh niên Uttara nghĩ rằng “ta sẽ nhìn thấy lỗi lầm gì, không đáng hài lòng ở trong thân môn và khẩu môn của Như Lai?” Rồi theo dõi suốt bảy tháng cũng không nhìn thấy (bất cứ lỗi gì) dù chỉ là một lỗi nhỏ bằng trứng con rận. Hơn nữa, thanh niên Uttara là con người (gì) sẽ nhìn thấy lỗi lầm gì không đáng hoan hỷ trong thân môn và khẩu môn của người trở thành bản thể Phật như thế nào? Ngay cả Ma vương Thiên tử tìm kiếm suốt năm kể từ khi đức Thế Tôn là Bồ-tát thực hiện sự xuất gia vĩ đại cũng không thể nhìn thấy bất cứ lỗi lầm gì mà không đáng vừa lòng, cuối cùng dầu chỉ sự suy tầm bằng lộ tâm. Ma vương nghĩ rằng: “Và nếu như tôi nhìn thấy bất thiện khởi lên nơi Bồ tát dù chỉ là sự suy tầm, do lỗi đó đó, tôi sẽ đánh Bồ tát đó ở trên đầu rồi biến mất.” Vị ấy đã không nhìn thấy bất kỳ lỗi lầm nào của Bồ tát xuyên suốt 6 năm, theo dõi đức Phật thêm 1 năm nữa cũng không thể nhìn thấy lỗi lầm gì mới đảnh lễ trong lúc đi mới nói lên câu kệ rằng:
“mahāvīra V.2.276 M.2.280 mahāpuññaṃ, iddhiyā yasasā jalaṃ.
sabbaverabhayātītaṃ, pāde vandāmi gotaman”ti. (saṃ. ni. 1.159) —
gāthaṃ vatvā gato.
“Kính thưa Sa-môn Gotama, bậc đại hùng, đại trí tuệ, vị chói sáng nhờ vào thần lực và danh tiếng. Vị đã vượt qua tất cả sự thù nghịch và sự sợ hãi, tôi xin đảnh lễ dưới đôi chân của Ngài.” Như thế rồi biến mất.
vītimissāti kāle kaṇhā, kāle sukkāti evaṃ vomissakā. vodātāti parisuddhā nikkilesā. saṃvijjantīti vodātā dhammā atthi upalabbhanti. tathāgatassa hi parisuddhā kāyasamācārādayo. tenāha — “cattārimāni, bhikkhave, tathāgatassa arakkheyyāni. katamāni cattāri? parisuddhakāyasamācāro, bhikkhave, tathāgato, natthi tathāgatassa kāyaduccaritaṃ, yaṃ tathāgato rakkheyya, ‘mā me idaṃ paro aññāsī’ti. parisuddhavacīsamācāro… parisuddhamanosamācāro… parisuddhājīvo, bhikkhave, tathāgato P.2.382, natthi tathāgatassa micchājīvo, yaṃ tathāgato rakkheyya, mā me idaṃ paro aññāsī”ti (a. ni. 7.58).
Vītimissā (trộn vào nhau): hòa trộn với nhau như vầy, thỉnh thoảng có đen, thỉnh thoảng có trắng. Vodātā (trắng):Thanh tịnh không có phiền não. Saṃvijjanti (tồn tại): Pháp trong sạch tồn tại, tìm kiếm được. Thật vậy, Như Lai có hạnh nghiệp về thân v.v, thanh tịnh, vì thế đức Thế Tôn mới thuyết rằng: “Này chư Tỳ khưu, có bốn điều Như Lai không cần thiết phải chú ý đến. Thế nào là bốn? Này chư Tỳ khưu, Như Lai là vị có hạnh nghiệp về thân thanh tịnh, Như Lai không có thân hành ác, Như Lai không cần thiết phải chú ý đến rằng: ‘Mong người khác đừng biết việc này của Ta.’ Này các Tỳ khưu, Như Lai là vị có hạnh nghiệp về khẩu thanh tịnh…có hành nghiệp về tâm thanh tịnh…có sự nuôi mạng thanh tịnh, Như Lai không có tà nghiệp mà Như Lai phải chú ý đến rằng ‘Mong người khác đừng biết tà nghiệp của Ta.’” (a. ni. 7.58).
imaṃ kusalaṃ dhammanti imaṃ anavajjaṃ ājīvaṭṭhamakasīlaṃ. “ayamāyasmā satthā kiṃ nu kho dīgharattaṃ samāpanno aticirakālato paṭṭhāya iminā samannāgato, udāhu ittarasamāpanno hiyyo vā pare vā parasuve vā divase samāpanno”ti evaṃ gavesatūti attho. ekaccena hi ekasmiṃ ṭhāne vasantena bahu micchājīvakammaṃ kataṃ, taṃ tattha kālātikkame paññāyati, pākaṭaṃ hoti. so aññataraṃ paccantagāmaṃ vā samuddatīraṃ vā gantvā paṇṇasālaṃ kāretvā āraññako viya hutvā viharati. manussā sambhāvanaṃ uppādetvā tassa paṇīte paccaye denti. janapadavāsino bhikkhū tassa parihāraṃ disvā, “atidappito vatāyaṃ āyasmā, ko nu kho eso”ti pariggaṇhantā, “asukaṭṭhāne asukaṃ nāma micchājīvaṃ katvā pakkantabhikkhū”ti ñatvā na sakkā iminā saddhiṃ uposatho vā pavāraṇā vā kātunti sannipatitvā dhammena samena ukkhepanīyādīsu aññataraṃ kammaṃ karonti. evarūpāya paṭicchannapaṭipattiyā atthibhāvaṃ vā natthibhāvaṃ vā vīmaṃsāpetuṃ evamāha.
imaṃ kusalaṃ dhammaṃ (các Pháp thiện này): giới có sự nuôi mạng là thứ 8. Giải thích rằng vị ấy hãy tìm kiếm như vậy “bậc Đạo Sư thành tựu trong suốt khoảng thời gian dài, thành tựu đầy đủ bởi giới vững trú từ rất lâu, hoặc thành tựu đầy đủ trong khoảng thời gian ngắn, là thành tựu ngày hôm qua, ngay mai, hay ngày kia.” Bởi vì một số vị Tỳ khưu ở một số nơi đã tạo nghiệp nuôi mạng bất chính rất nhiều, thời gian sau nghiệp đó sẽ hiện khởi ở nơi đó, vị ấy khi đi đến bất kỳ ngôi làng ở ngoại ô, hoặc ở ven bờ đại dương rồi tạo một am tranh giống như cư dân trong rừng. Nhóm người khởi lên sự tán thán rồi cúng dường các món vật dụng cho vị ấy. Nhóm Tỳ khưu sống ở vùng nông thôn sau khi nhìn thấy cách sống của vị ấy mới đưa mắt quan sát, (thấy rằng) “Vị này thật quá tự đắc, vị ấy là ai?” Sau khi biết được rằng: “là vị Tỳ khưu thực hành tà nghiệp, có tên thế đó ở nơi đó rồi trốn đến đây.” Mợi tụ hội bàn luận với nhau “chúng ta không thể hành uposatha hoặc lễ pavāraṇā chung với vị này được.” Đã tạo bất kỳ nghiệp nào trong các nghiệp chẳng hạn như bị tăng phạt ukkhepanīyakamma[1] v.v, theo đúng Pháp. Đức Thế Tôn thuyết giảng như vậy để cho chư Tỳ khưu đó tư sát đến pháp hành đã bị che giấu bằng hình thức như vậy về trạng thái có hoặc trạng thái không có.
evaṃ V.2.277 jānātīti dīgharattaṃ samāpanno, na ittarasamāpannoti jānāti. anacchariyaṃ cetaṃ. yaṃ tathāgatassa etarahi sabbaññutaṃ pattassa dīgharattaṃ ājīvaṭṭhamakasīlaṃ M.2.281 parisuddhaṃ bhaveyya. yassa bodhisattakālepi evaṃ ahosi.
Evaṃ jānāti (biết được như vậy): biết được thành tựu trong suốt khoảng thời gian dài, không phải thời tựu trong thời gian ngắn. Giới có sự nuôi mạng là thứ tám của Như Lai vị đã chứng đắc Toàn giác trí ngay lúc này có thể thanh tịnh trong suốt khoảng thời gian dài, đây không đáng ngạc nhiên, thậm chí trong thời gian là Bồ tát thì giới hạnh của Ngài cũng đã như vậy.
atīte kira gandhārarājā ca vedeharājā ca dvepi sahāyakā hutvā kāmesu ādīnavaṃ disvā rajjāni puttānaṃ niyyātetvā isipabbajjaṃ pabbajitvā ekasmiṃ araññagāmake piṇḍāya caranti. paccanto nāma dullabhaloṇo hoti. tato aloṇaṃ yāguṃ labhitvā ekissāya sālāya nisīditvā pivanti. antarantare manussā loṇacuṇṇaṃ āharitvā denti. ekadivasaṃ eko vedehisissa paṇṇe pakkhipitvā loṇacuṇṇaṃ adāsi P.2.383. vedehisi gahetvā upaḍḍhaṃ gandhārisissa-santike ṭhapetvā upaḍḍhaṃ attano santike ṭhapesi. tato thokaṃ paribhuttāvasesaṃ disvā, “mā idaṃ nassī”ti paṇṇena veṭhetvā tiṇagahane ṭhapesi. puna ekasmiṃ divase yāgupānakāle satiṃ katvā olokento taṃ disvā gandhārisiṃ upasaṅkamitvā, “ito thokaṃ gaṇhatha ācariyā”ti āha. kuto te laddhaṃ vedehisīti? tasmiṃ divase paribhuttāvasesaṃ “mā nassī”ti mayā ṭhapitanti. gandhārisi gahetuṃ na icchati, aloṇakaṃyeva yāguṃ pivitvā vedehaṃ isiṃ avoca —
Biết rằng trong thời quá khứ hai vị vua là đức vua trong xứ Gandhāra và đức vua trong xứ Videha, là bạn đồng hành, nhìn thấy lỗi lầm trong các dục đã trao lại vương quyền cho hoàng tử, xuất gia trở thành vị ẩn sĩ đi khất thực trong một ngôi làng ở rừng. Ở biên giới tìm kiếm muối khó khăn. Cả hai vị ẩn sĩ ấy nhận được cháo nhưng lại không có được muối, đã ngồi thọ dụng ở một túp lều. Nhóm người ở khu vực gần đó đã làm muối bột mang đến cúng dường. Một ngày nọ, một người đã dùng lá cây gói bột muối lại cúng dường đến ẩn sĩ Vedeha, ẩn sĩ Vedeha thọ nhận rồi chia ra để trong trú xứ của ẩn sĩ Gandhāra một nửa, trú xứ của mình một nửa. Do đó, vị ẩn sĩ ấy nhìn thấy còn lại ít muối từ việc thọ dụng vật thực đã nói rằng “muối này chớ có hư” rồi dùng lá cây gói lại đặt xuống bụi cỏ. Ẩn sĩ Gandhāra: “Ẩn sĩ Vedeha, Ngài có được muối này từ đâu?” Ẩn sĩ Vedeha: “Ít muối còn lại sau khi thọ dụng vật thực, tôi đã cất giữ với suy nghĩ ‘muối này chớ có hư.’” Ẩn sĩ Gandhāra không mong muốn tiếp nhận, đã uống nước cháo không có muối đó, rồi nói cùng với ẩn sĩ Vedeha rằng:
“hitvā gāmasahassāni, paripuṇṇāni soḷasa.
koṭṭhāgārāni phītāni, sannidhiṃ dāni kubbasī”ti. (jā. 1.7.76).
“Ngài đã từ bỏ mười sáu ngàn ngôi làng hoàn chỉnh và các nhà kho tràn đầy, giờ đây ông lại thực hiện việc tích trữ nữa.
vedehisi avoca — “tumhe rajjaṃ pahāya pabbajitā, idāni kasmā loṇacuṇṇamattasannidhikāraṇā pabbajjāya anucchavikaṃ na karothā”ti? kiṃ mayā kataṃ vedehisīti? atha naṃ āha —
Ẩn sĩ Vedeha đã nói rằng – “Ngài đã từ bỏ vương quyền, bây giờ vì lý do gì mà không tạo các nghiệp thích hợp đối với việc xuất gia. Chỉ vì việc tích trữ muối bột thôi sao? Ẩn sĩ Gandhāra: “Tôi đã làm gì, Ngài ẩn sĩ Vedeha”. Tiếp đó ẩn sĩ Vedeha đã nói với ẩn sĩ Gandhāra rằng:
“hitvā gandhāravisayaṃ, pahūtadhanadhāriyaṃ.
pasāsanato nikkhanto, idha dāni pasāsasī”ti. (jā. 1.7.77).
Sau khi từ bỏ khu vực Gandhāra giàu có với tài sản dồi dào, trong khi đi ra khỏi sự giáo huấn, rồi lúc này, ngài lại giáo huấn ở chỗ này nữa.
gandhāro āha —
“dhammaṃ V.2.278 bhaṇāmi vedeha, adhammo me na ruccati.
dhammaṃ me bhaṇamānassa, na pāpamupalimpatī”ti. (jā. 1.7.78).
Ẩn sĩ Gandhāra đã nói –
Này Hiền giả Vedeha, ta nói đúng pháp, không đúng pháp không được ta thích thú. Trong khi ta nói đúng pháp, tội lỗi không vấy bẩn đến ta.
vedeho M.2.282 āha —
“yena kenaci vaṇṇena, paro labhati ruppanaṃ.
mahatthiyampi ce vācaṃ, na taṃ bhāseyya paṇḍito”ti. (jā. 1.7.79).
Ẩn sĩ Vedeha đã nói –
Với bất cứ lời nói nào khiến người khác nhận lãnh sự thương tổn, dầu cho nó có lợi ích lớn bậc trí giả cũng không nên nói lời ấy.
gandhāro āha —
“kāmaṃ ruppatu vā mā vā, bhusaṃva vikirīyatu.
dhammaṃ me bhaṇamānassa, na pāpamupalimpatī”ti. (jā. 1.7.80).
Ẩn sĩ Gandhāra đã nói –
Người bị nhắc nhở có thể bị bực tức hoặc không bị bực tức, giống như vỏ trấu được bắn ra tung tóe. Trong khi ta nói đúng pháp, tội lỗi không vấy bẩn đến ta.
tato vedehisi yassa sakāpi buddhi natthi, ācariyasantike vinayaṃ na sikkhati, so andhamahiṃso viya vane caratīti cintetvā āha —
Sau đó ẩn sĩ Vedeha nghĩ rằng: “người nào không có sự hiểu biết của chính mình, không được học tập luật lệ trong trú xứ của thầy dạy học, vị ấy sẽ đi quanh quẩn cũng giống như con trâu đi mò mẫm ở trong rừng.
“no P.2.384 ce assa sakā buddhi, vinayo vā susikkhito.
vane andhamahiṃsova, careyya bahuko jano.
yasmā ca panidhekacce, āceramhi susikkhitā.
tasmā vinītavinayā, caranti susamāhitā”ti. (jā. 1.7.81-82).
Nếu bản thân không có trí tuệ, hoặc luật lệ không được học tập kỹ lưỡng, nhiều người sẽ đi quanh quẩn giống như con trâu bị mù mò mẫm ở trong khu rừng.
Và ngược lại, bởi vì một số người ở đây được học tập kỹ lưỡng về hạnh kiểm, vì thế, với luật lệ đã được huấn luyện, họ thực hành, có tâm khéo được định tĩnh.”
evañca pana vatvā vedehisi ajānitvā mayā katanti gandhārisiṃ khamāpesi. te ubhopi tapaṃ caritvā brahmalokaṃ agamaṃsu. evaṃ tathāgatassa bodhisattakālepi dīgharattaṃ ājīvaṭṭhamakasīlaṃ parisuddhaṃ ahosi.
Khi nói như vậy ẩn sĩ Vedeha nói tiếp “Nhân này tôi đã thực hành do không hiểu biết” xin ẩn sĩ Gandhāra tha tội. Cả 2 vị ẩn sĩ thực hành sự khắc khổ sau đó đi vào thế giới Phạm thiên. Đến thời gian mà Như Lai là Bồ tát (thực hành) tám giới có chánh mạng là thứ tám cũng được thanh tịnh trong suốt khoảng thời gian dài như vậy.
uttajjhāpanno ayamāyasmā bhikkhu yasapattoti ayamāyasmā amhākaṃ satthā bhikkhu ñattaṃ paññātabhāvaṃ V.2.279 pākaṭabhāvaṃ ajjhāpanno nu kho, sayañca parivārasampattiṃ patto nu kho noti. tena cassa paññātajjhāpannabhāvena yasasannissitabhāvena ca kiṃ ekacce ādīnavā sandissanti udāhu noti evaṃ samannesantūti dasseti. na tāva, bhikkhaveti, bhikkhave, yāva bhikkhu na rājarājamahāmattādīsu abhiññātabhāvaṃ vā parivārasampattiṃ vā āpanno hoti, tāva ekacce mānātimānādayo ādīnavā na saṃvijjanti upasantūpasanto viya sotāpanno viya sakadāgāmī viya ca viharati. ariyo nu kho puthujjano nu khotipi ñātuṃ na sakkā hoti.
uttajjhāpanno ayamāyasmā bhikkhu yasapatto (Vị Tôn giả Tỳ khưu này là vị có danh tiếng): Đức Thế Tôn thuyết giảng rằng vị Tỳ khưu tư sát như vầy ‘vị Tôn giả Tỳ khưu này là thầy của ta, đạt đến trạng thái được nhiều người biết, có danh tiếng, đã hiện hữu hay không? và bản thân đã đạt được đến (vị) có đồ chúng dồi dào hay chưa?. Vì thế ông hãy tư sát như vậy rằng: “Với trạng thái bản thân là người có danh tiếng hiện hữu và trạng thái bản thân y cứ danh vọng đó có một số lỗi lầm xuất hiện hay không xuất hiện.” Này chư Tỳ khưu (một số lỗi lầm ở đời này) chừng ấy không có: Suốt khoảng thời gian mà vị Tỳ khưu vẫn chưa được biết đến ở trong lòng đức vua và các quan đại thần của nhà vua v.v, hoặc vẫn chưa đạt đến (vị) có đồ chúng dồi dào, một số lỗi lầm như kiêu mạn, và sự xem thường Ngài v.v, không có. Vị ấy sống như vị tịch tịnh, như vị Thánh Nhập Lưu, và giống như vị Thánh Nhất Lai, mọi người không thể chỉ ra rằng vị ấy là Thánh nhân hay là Phàm nhân.
yato M.2.283 ca kho, bhikkhaveti yadā pana idhekacco bhikkhu ñāto hoti parivārasampanno vā, tadā tiṇhena siṅgena gogaṇaṃ vijjhanto duṭṭhagoṇo viya, migasaṅghaṃ abhimaddamāno dīpi viya ca aññe bhikkhū tattha tattha vijjhanto agāravo asabhāgavutti aggapādena bhūmiṃ phusanto viya carati. ekacco pana kulaputto yathā yathā ñāto hoti yasassī, tathā tathā phalabhārabharito viya sāli suṭṭhutaraṃ onamati, rājarājamahāmattādīsu upasaṅkamantesu akiñcanabhāvaṃ paccavekkhitvā samaṇasaññaṃ upaṭṭhapetvā chinnavisāṇausabho viya, caṇḍāladārako viya ca sorato nivāto nīcacitto hutvā bhikkhusaṅghassa ceva sadevakassa ca lokassa, hitāya sukhāya paṭipajjati. evarūpaṃ paṭipattiṃ sandhāya “nāssa idhekacce ādīnavā”ti āha.
yato ca kho, bhikkhave (Này chư Tỳ khưu khi nào?): Khi nào một số Tỳ khưu trong Tôn giáo này, là người có danh tiếng, hoặc là người có đồ chúng dồi dào, khi đó vị ấy đi làm tổn hại những vị Tỳ khưu khác ở nơi đó giống như con bò dữ tợn lấy cặp sừng sắc nhọn hút đàn bò và tựa như con cọp vằn tấn công đàn nai, là người không có sự tôn trọng, có hành vi không phù hợp đi du hành, tựa như lấy gót chân giẫm lên mặt đất. Nhưng một số thiện nam tử là người có danh tiếng, có danh vọng bằng cách nào cũng cúi mình tựa như cây lúa Sālī trĩu xuống do sức nặng của chùm lúa bằng cách đó, trong khi đức vua hay các quan hầu cận của đức vua v.v, đến tìm kiếm, vị ấy quán xét thấy không có phiền não, Pháp trở ngại, đi đến thiết lập tầm quan trọng trong bản thể Sa-môn, là vị tịch tịnh, không phô trương, có tâm hòa nhã, giống như con bò đực bị cưa sừng, và giống như trẻ Caṇḍāla thực hành vì lợi ích và sự an lạc cũng chư Tỳ khưu Tăng, cho thế giới loài người và cả thế giới chư Thiên. Đức Thế Tôn muốn đề cập đến việc thực hành bằng hình thức như vậy mới thuyết rằng: “một số nguy hiểm trong đời này không khởi lên cho vị này.”
tathāgato pana aṭṭhasu lokadhammesu tādī, so hi lābhepi tādī, alābhepi P.2.385 tādī, yasepi tādī, ayasepi tādī, pasaṃsāyapi tādī, nindāyapi tādī, sukhepi tādī, dukkhepi tādī, tasmā sabbākārena nāssa idhekacce ādīnavā saṃvijjanti. abhayūparatoti abhayo hutvā uparato, accantūparato satatūparatoti attho. na vā bhayena uparatotipi abhayūparato. cattāri hi bhayāni kilesabhayaṃ vaṭṭabhayaṃ duggatibhayaṃ upavādabhayanti. puthujjano catūhipi bhayehi bhāyati. sekkhā tīhi, tesañhi duggatibhayaṃ pahīnaṃ, iti satta sekkhā bhayūparatā, khīṇāsavo abhayūparato nāma, tassa hi ekampi bhayaṃ natthi. kiṃ paravādabhayaṃ natthīti? natthi. parānuddayaṃ pana paṭicca, “mādisaṃ khīṇāsavaṃ paṭicca sattā mā nassantū”ti upavādaṃ rakkhati. mūluppalavāpivihāravāsī yasatthero viya.
Lại nữa, Như Lai tự tại trong tám Pháp thế gian, bởi vì Ngài là vị tự tại về lợi lộc, tự tại về không lợi lộc, tự tại về danh vọng, tự tại về không danh vọng, tự tại về lời khen, tự tại về lời chê, tự tại về hạnh phúc, tự tại về khổ đau, vì thế bất kỳ lỗi lầm nào trong thế gian này không có nơi Ngài ở tất cả mọi khía cạnh. Abhayūparato (là người không có sự sợ hãi): là vị không có sự sợ hãi, đã được từ bỏ, tức là người đã từ bỏ hoàn toàn, tức là đã đoạn tận liên tiếp.” Lại nữa, gọi là người không có sự sợ hãi bởi trạng thái không đi vào hoan hỷ trong sự sợ hãi đó như thế cũng được. Sự sợ hãi có bốn là sự sợ hãi sanh khởi từ phiền não, sự sợ hãi sanh khởi từ vòng luân hồi, sự sợ hãi sanh khởi từ khổ cảnh, sự sợ hãi sanh khởi từ sự khiển trách. Hạng Phàm nhân sợ hãi cả bốn sự hãi, bậc Hữu học sợ hãi trong 3 sự sợ hãi bởi vì bậc Hữu học đã đoạn trừ sự sợ hãi khởi lên từ khổ cảnh, vì thế mà 7 hạng Hữu học vẫn là người có sự sợ hãi. Bậc lậu tận được gọi là người không có sợ hãi. Bậc lậu tận được gọi là vị đã an toàn, bởi vì dù chỉ một sự sợ hãi cũng không có, “sự sợ hãi khởi lên từ việc khiển trách của người khác cũng không có”. Vị ấy y cứ quan sát người khác, rồi bảo vệ người bị khiển trách với suy nghĩ như sau: “tất cả chúng sanh nương nhờ các bậc lậu tận giống như ta, đừng làm hại” giống như Trưởng lão Yasa cư ngụ ở tịnh xá Mūluppalavāpi.
thero V.2.280 kira mūluppalavāpigāmaṃ piṇḍāya pāvisi. athassa upaṭṭhākakuladvāraṃ pattassa pattaṃ gahetvā thaṇḍilapīṭhakaṃ nissāya āsanaṃ paññapesuṃ. amaccadhītāpi taṃyeva pīṭhakaṃ nissāya paratobhāge nīcataraṃ āsanaṃ paññāpetvā nisīdi. eko nevāsiko bhikkhu pacchā piṇḍāya paviṭṭho dvāre ṭhatvāva olokento thero amaccadhītarā saddhiṃ ekamañce nisinnoti sallakkhetvā, “ayaṃ paṃsukūliko vihāreva upasantūpasanto M.2.284 viya viharati, antogāme pana upaṭṭhāyikāhi saddhiṃ ekamañce nisīdatī”ti cintetvā, “kiṃ nu kho mayā duddiṭṭhan”ti punappunaṃ oloketvā tathāsaññīva hutvā pakkāmi. theropi bhattakiccaṃ katvā vihāraṃ gantvā vasanaṭṭhānaṃ pavisitvā dvāraṃ pidhāya nisīdi. nevāsikopi katabhattakicco vihāraṃ gantvā, “taṃ paṃsukūlikaṃ niggaṇhitvā vihārā nikkaḍḍhissāmī”ti asaññatanīhārena therassa vasanaṭṭhānaṃ gantvā paribhogaghaṭato uluṅkena udakaṃ gahetvā mahāsaddaṃ karonto pāde dhovi.
Kể rằng Trưởng lão đi vào làng Mūluppalavāpi để khất thực. Sau đó, mọi người tiếp nhận bình bát của Ngài, đi đến trước cửa gia đình người thị giả trải tọa cụ trên ghế ngồi không có chỗ tựa (lưng), còn con gái quan đại thần cho đặt chỗ ngồi thấp hơn rồi trải tọa cụ ở một bên thích hợp phía trước rồi ngồi xuống. Một vì Tỳ khưu địa phương đi vào khất thực phía sau đứng quan sát ở cổng nhà vị Tỳ khưu này ngồi chung trên một chiếc giường cùng với con gái của quan đại thần” mới suy nghĩ rằng “vị Tỳ khưu mặc y phấn tảo này ở trong tịnh xá như thể tịch tịnh nhưng lại ngồi chung một giường với con gái của quan đại thần người hầu cận trong nhà” rồi quan sát đi quan sát lại “cái gì vậy, ta đã nhìn nhầm rồi hay sao?” đã hiểu sai vấn đề như thế rồi bỏ đi. Còn vị Trưởng lão sau khi thọ dụng vật thực xong rồi đi trở về chùa, vào chỗ ở của mình, đóng cửa lại, ngồi xuống. Còn vị Trưởng lão địa phương sau khi thọ dụng vật thực xong cũng quay về tịnh xá, nghĩ rằng: “Ta sẽ hăm dọa vị ấy, rồi đuổi vị Tỳ khưu mặc y phấn tảo ra khỏi tịnh xá” rồi đi đến chỗ vị ấy ở của vị Trưởng lão với kiểu cách đi du hành của người không thu thúc, lấy cái muôi múc nước từ bình nước để uống, tạo ra tiếng ồn, rồi rửa chân.
thero, “ko nu kho ayaṃ asaññatacāriko”ti āvajjanto sabbaṃ ñatvā, “ayaṃ mayi manaṃ padosetvā apāyūpago mā ahosī”ti vehāsaṃ abbhuggantvā kaṇṇikāmaṇḍalasamīpe pallaṅkena nisīdi. nevāsiko duṭṭhākārena ghaṭikaṃ ukkhipitvā dvāraṃ vivaritvā anto paviṭṭho theraṃ apassanto, “heṭṭhāmañcaṃ paviṭṭho P.2.386 bhavissatī”ti oloketvā tatthāpi apassanto nikkhamituṃ ārabhi. thero ukkāsi. itaro uddhaṃ olokento disvā adhivāsetuṃ asakkonto evamāha — “patirūpaṃ te, āvuso, paṃsukūlika evaṃ ānubhāvasampannassa upaṭṭhāyikāya saddhiṃ ekamañce nisīditun”ti. pabbajitā nāma, bhante, mātugāmena saddhiṃ na ekamañce nisīdanti, tumhehi pana duddiṭṭhametanti. evaṃ khīṇāsavā parānuddayāya upavādaṃ rakkhanti.
Vị Trưởng lão suy nghĩ “người này là ai, người du hành không thu thúc” biết được toàn bộ sự việc, nghĩ rằng “người này chớ là người làm tổn hại đến tôi rồi rơi vào địa ngục” (vị ấy) bay lên ngồi với tư thế kiết già gần nóc nhà. Vị Tỳ khưu địa phương mang bình với biểu hiện giận dữ, mở cửa đi vào bên trong không nhìn thấy Trưởng lão nghĩ rằng “Trưởng lão sẽ đi vào dưới chỗ nằm” quan sát không thấy Trưởng lão ngay cả ở trong chỗ đó thêm lần nữa rồi đi ra. Trưởng lão mới tầng hắng lên, vị Tỳ khưu địa phương ngoài ra nhìn lên trên đã thấy, không thể kham nhẫn mới nói như vầy rằng: “Này Hiền giả, vị mặc y phấn tảo, việc ngồi trên cùng một giường với con gái quan đại thần hầu cầu phù hop cùng Ngài, người thành tựu đầy đủ oai lực như vậy sao?” Thưa Ngài, gọi là các vị xuất gia, ngồi cùng một giường chung với nữ nhân thật không phải, (có lẽ) Ngài đã nhìn nhầm rồi.” Các bậc lậu tận bảo vệ người chỉ trích với cách nhìn từ người khác như vậy.
khayā rāgassāti rāgassa khayeneva. vītarāgattā kāme na paṭisevati, na paṭisaṅkhāya vāretvāti. tañceti evaṃ tathāgatassa kilesappahānaṃ ñatvā tattha tattha ṭhitanisinnakālādīsupi catuparisamajjhe alaṅkatadhammāsane nisīditvāpi itipi satthā vītarāgo vītadoso vītamoho vantakileso pahīnamalo abbhā muttapuṇṇacando viya suparisuddhoti evaṃ tathāgatassa kilesappahāne vaṇṇaṃ kathayamānaṃ taṃ vīmaṃsakaṃ bhikkhuṃ pare evaṃ puccheyyuṃ ceti attho.
khayā rāgassa (do cận kiệt ái luyến): không thọ dụng các dục bởi sự cạn kiệt của chính ái luyến, không phải ngăn chặn bằng việc quán xét (nhìn thấy lỗi lầm). Tañce (nếu như…những người khác có thể hỏi) vị Tỳ khưu đó: Những người khác có thể hỏi như vầy cùng vị Tỳ khưu tư sát ấy, vị biết việc từ bỏ phiền não của Như Lai như thế, kể cả trong thời gian đứng và ngồi v.v, ở chỗ đó, thậm chí ngồi trên Pháp tọa đã được trang trí ở giữa bốn hội chúng nói lời tán dương việc đoạn trừ phiền não của Như Lai như sau: “Mặc dù vậy bậc Đạo Sư là vị đã lìa ái luyến, lìa sân hận, lìa si mê, đã nôn ra phiền não, đã dứt trừ cấu uế được thanh tịnh tốt đẹp tựa như mặt trăng rằm thoát khỏi mây.”
ākārāti kāraṇāni. anvayāti anubuddhiyo. saṅghe vā viharantoti appekadā aparicchinnagaṇanassa bhikkhusaṅghassa majjhe viharanto. eko vā viharantoti icchāmahaṃ, bhikkhave V.2.281, aḍḍhamāsaṃ paṭisallīyitunti, temāsaṃ paṭisallīyitunti evaṃ paṭisallāne ceva pālileyyakavanasaṇḍe ca ekako viharanto. sugatāti suṭṭhugatā suppaṭipannā kārakā yuttapayuttā. evarūpāpi hi ekacce bhikkhū atthi. duggatāti M.2.285 duṭṭhugatā duppaṭipannā kāyadaḷhibahulā vissaṭṭhakammaṭṭhānā. evarūpāpi ekacce atthi. gaṇamanusāsantīti gaṇabandhanena baddhā gaṇārāmā gaṇabahulikā hutvā gaṇaṃ pariharanti. evarūpāpi ekacce atthi. tesaṃ paṭipakkhabhūtā gaṇato nissaṭā visaṃsaṭṭhā vippamuttavihārinopi atthi.
Ākāra (biểu hiện): gồm lý do. Anvaya (đi theo): nhận biết theo. saṅghe vā viharanto (thỉnh thoảng sống trong hội chúng): Thỉnh thoảng sống ở giữa chúng Tỳ khưu không thể xác định được (số lượng). eko vā viharanto (đôi lúc sống một mình): một người duy nhất sống ở chỗ cô tịch, và trong rừng rậm Pālileyyaka như sau: “này chư Tỳ khưu! Ta ước muốn sống (nơi) cô tịch trong nửa tháng, hay trong 3 tháng.” Sugatā (đi đến nơi an lạc): người đi đến nơi tốt đẹp, là người thực hành khéo léo, là người liên hệ phù hợp cùng nguyên nhân. Cũng có một số vị Tỳ khưu như thế. Duggatā (đi đến khổ cảnh): Người đi đến nơi không tốt (khổ cảnh) là người thực hành ác, có công việc qua lộ thân nặng nề, là người từ bỏ nghiệp xứ, một số vị Tỳ khưu như thế cũng có. gaṇamanusāsanti (giảng dạy hội chúng): được gọi là người liên hệ bởi liên quan đến hội chúng, là người hoan hỷ trong hội chúng, hội hợp (vì mục đích sai quấy) cùng với hội chúng, bảo vệ hội chúng, một số vị Tỳ khưu như thế cũng có. Những vị Tỳ khưu đó là những vị chống lại nhóm Tỳ khưu ấy, là vị thoát khỏi, tách khỏi không còn mối liên hệ với hội chúng cũng có.
āmisesu sandissantīti āmisagiddhā āmisacakkhukā catupaccayāamisatthameva āhiṇḍamānā āmisesu sandissamānakabhikkhūpi atthi. āmisena anupalittā catūhi paccayehi P.2.387 vinivattamānasā abbhā muttacandasadisā hutvā viharamānāpi atthi. nāyamāyasmā taṃ tena avajānātīti ayaṃ āyasmā satthā tāya tāya paṭipattiyā taṃ taṃ puggalaṃ nāvajānāti, ayaṃ paṭipanno kārako, ayaṃ gaṇato nissaṭo visaṃsaṭṭho. ayaṃ āmisena anupalitto paccayehi vinivattamānaso abbhā mutto candimā viyāti evamassa gehasitavasena ussādanāpi natthi. ayaṃ duppaṭipanno akārako kāyadaḷhibahulo vissaṭṭhakammaṭṭhāno, ayaṃ gaṇabandhanabaddho, ayaṃ āmisagiddho lolo āmisacakkhukoti evamassa gehasitavasena apasādanāpi natthīti attho. iminā kiṃ kathitaṃ hoti? tathāgatassa sattesu tādibhāvo kathito hoti. ayañhi —
āmisesu sandissanti (dính mắc trong tài vật): Nhóm Tỳ khưu mong muốn trong các tài vật, là vị tham đắm trong tài vật, nhìn chằm chằm vào tài vật, đi du hành vì mục đích tài vật là bốn món vật dụng cũng có. Chư Tỳ khưu có tài vật không bị vấy bẩn, là vị có tâm không dính mắc trong bốn món vật dụng tợ như mặt trăng thoát khỏi may cũng có. nāyamāyasmā taṃ tena avajānātī (vị Tôn giả này không vì vậy mà khinh thường họ vì lý do này): việc đề cao bản thân theo khuynh hướng người y cứ ở trong nhà gia chủ sẽ không có cùng vị ấy như sau ‘này Tôn giả đây là thầy, không xem thường người đó với Pháp hành đó, người này là vị thực hành khéo léo, là hành giả, đây là người đã rời khởi, đã tách biệt với hội chúng, người này là vị có tài vật không bị vấy bẩn, là vị có tâm trong sáng từ các món vật dụng, giống như mặt trăng thoát khỏi mây mù.” Sự hù dọa với sức mạnh dựa vào nhà gia chủ không có cùng vị ấy như sau “Người này là vị thực hành không tốt, không phải hành giả, là vị có thân thể nặng nề, từ bỏ nghiệp xứ, người này là vị liên hệ với hội nhóm, tham đắm trong tài vật, không đúng mực, có mặt (chỉ) nhìn chằm chằm vào tài vật.” Hỏi rằng vị Tỳ khưu này nói đến điều gì? (Đáp) Ngài muốn nói đến trạng thái người chắc chắn trong tất cả chúng sanh của Như Lai,
“vadhakassa devadattassa, corassaṅgulimālino.
dhanapāle rāhule ca, sabbesaṃ samako munī”ti. (mi. pa. 6.6.5).
Từ kẻ sát nhân, (kẻ phá hoại) Devadatta, kẻ cướp Aṅgulimāla, con voi Dhanapāla, và (người con trai) Rāhula, bậc Hiền Trí có tâm bình đẳng đối với tất cả.
- tatra, bhikkhaveti tesu dvīsu vīmaṃsakesu. yo, “ke panāyasmato ākārā”ti pucchāyaṃ āgato gaṇṭhivīmaṃsako ca, yo “abhayūparato ayamāyasmā”ti āgato mūlavīmaṃsako ca. tesu mūlavīmaṃsakena tathāgatova uttari paṭipucchitabbo. so hi pubbe parasseva kathāya niṭṭhaṅgato. paro ca nāma jānitvāpi katheyya ajānitvāpi. evamassa kathā bhūtāpi hoti abhūtāpi, tasmā parasseva kathāya niṭṭhaṃ agantvā tato uttari tathāgatova paṭipucchitabboti attho.
489.tatra, bhikkhave (này chư Tỳ khưu, trong số vị Tỳ khưu tư sát đó): trong số vị Tỳ khưu, vị tư sát cả hai loại này, vị Tỳ khưu này đây đến trong câu hỏi sau – “cái gì là dữ kiện của Tôn giả”, đây là vị tư sát về nút thắt của vấn đề. Lại nữa, vị nào đến với suy rằng “vị Tôn giả này là người không có sự sợ hãi” đây là vị tư sát về gốc rễ vấn đề. Trong cả 2 hạng người tư sát đó, vị tư sát gốc rễ vấn đề có thể trở lại hỏi đấng Như Lai (vấn đề) xa hơn nữa. Câu đầu dầu vị ấy đạt đến sự chấp thuận với lời nói của người khác, cũng được gọi là người khác (dầu) biết hay không biết cũng có thể nói, lời nói của vị ấy là lời nói thật (cũng có thể) là lời nói không thật, vì thế vị ấy không đạt đến sự chấp thuận trong lời chính lời nói của người khác, có thể hỏi Như Lai xa hơn thế nữa.
byākaramānoti V.2.282 ettha yasmā tathāgatassa micchābyākaraṇaṃ nāma natthi, tasmā sammā micchāti avatvā byākaramānotveva vuttaṃ. etaṃ pathohamasmi M.2.286 etaṃ gocaroti esa mayhaṃ patho esa gocaroti attho. “etāpātho”tipi pāṭho, tassattho mayhaṃ ājīvaṭṭhamakasīlaṃ parisuddhaṃ, svāhaṃ tassa parisuddhabhāvena vīmaṃsakassa bhikkhuno ñāṇamukhe etāpātho, evaṃ āpāthaṃ gacchāmīti vuttaṃ hoti. no ca tena tammayoti tenapi cāhaṃ parisuddhena sīlena na tammayo, na sataṇho, parisuddhasīlattāva nittaṇhohamasmīti dīpeti.
Byākaramāno (trong khi trả lời): bởi được gọi rằng Như Lai không có trả lời sai, vì thế đức Thế Tôn không thuyết “chân chánh hoặc lệch lạc” mà lại thuyết rằng: “Ta là người (thực hành) tám giới có chánh mạng là thứ tám cũng được thanh tịnh, đây là đạo lộ của Ta, đây là hành xứ của Ta. Pāḷī ‘etāpātho’ cũng có. ‘Etāpātho’ đó có giải thích như sau Ta là người (thực hành) tám giới có chánh mạng là thứ tám thanh tịnh, chính Ta được gọi là người (thực hành) tám giới có chánh mạng là thứ tám làm đạo lộ, dẫn đầu là trí tuệ của vị Tỳ khưu, người được gọi là tư sát đó, bởi trạng thái người thanh tịnh. Có nghĩa là ‘Ta đến hiện hữu như vậy.” no ca tena tammayo (vì thế Ta là người không có tham ái): đức Thế Tôn thuyết giảng rằng, dầu là nguyên nhân đó, với giới thanh tịnh, ta là người không có sự dính mắc, là người không diễn tiến với tham ái, tức là người đã lìa xa tham ái, bởi nhờ giới thanh tịnh.
uttaruttariṃ paṇītapaṇītanti uttaruttariṃ ceva paṇītatarañca katvā deseti. kaṇhasukkasappaṭibhāganti kaṇhaṃ ceva sukkañca, tañca kho sappaṭibhāgaṃ savipakkhaṃ katvā, kaṇhaṃ paṭibāhitvā sukkanti sukkaṃ paṭibāhitvā kaṇhanti evaṃ sappaṭibhāgaṃ katvā kaṇhasukkaṃ deseti. kaṇhaṃ desentopi saussāhaṃ savipākaṃ deseti, sukkaṃ desentopi saussāhaṃ savipākaṃ deseti. abhiññāya idhekaccaṃ dhammaṃ dhammesu niṭṭhaṃ gacchatīti tasmiṃ desite dhamme ekaccaṃ paṭivedhadhammaṃ abhiññāya tena paṭivedhadhammena desanādhamme niṭṭhaṃ gacchati. satthari pasīdatīti evaṃ dhamme niṭṭhaṃ gantvā bhiyyosomattāya sammāsambuddho so bhagavāti satthari pasīdati. tena pana bhagavatā yo dhammo akkhāto, sopi svākkhāto bhagavatā dhammo niyyānikattā. yvāssa taṃ dhammaṃ paṭipanno saṅgho, sopi suppaṭipanno vaṅkādidosarahitaṃ paṭipadaṃ paṭipannattāti evaṃ dhamme saṅghepi pasīdati. tañceti taṃ evaṃ pasannaṃ tattha tattha tiṇṇaṃ ratanānaṃ vaṇṇaṃ kathentaṃ bhikkhuṃ.
uttaruttariṃ paṇītapaṇītaṃ (càng lúc càng cao, càng lúc càng vi tế): Đức Thế Tôn thuyết giảng càng lúc càng cao, và càng lúc càng vi tế. So sánh để cho thấy cả trắng lẫn đen (kaṇhasukkasappaṭibhāgaṃ): cả pháp trắng và pháp đen. Đức Thế Tôn làm cho thấy cả Pháp đen và Pháp trắng, chỉ ra cho thấy rằng đen nói trắng như vầy, là làm so sánh đen và trắng đó (là hai phần) đối nghịch; đóng lại Pháp đen, rồi trình bày Pháp trắng và đóng Pháp trắng lại rồi trình bày Pháp đen. Cũng bởi vì khi trình bày phần Pháp đen cũng đồng thời trình bày luôn cả sự nỗ lực và quả của nghiệp. Khi trình bày phần Pháp trắng cùng đồng thời trình bày luôn cả sự nỗ lực và quả của nghiệp. abhiññāya idhekaccaṃ dhammaṃ dhammesu niṭṭhaṃ gacchati (sau khi chứng tri trong pháp ấy, đạt đến sự cứu cánh của từng pháp một): đạt đến sự chứng tri trong Pháp thoại thông qua Pháp là sự thấu triệt biết rõ, với sự chứng tri từng Pháp trong Pháp đã được thuyết giảng. satthari pasīdati (khởi lên tịnh tín đối với bậc Đạo Sư): dựa vào Pháp như vậy rồi khởi lên tịnh tín đối với bậc Đạo Sư nhiều hơn nữa “đức Thế Tôn là bậc Chánh đẳng Chánh giác” v.v. Tịnh tín cả trong Giáo Pháp và Chúng Tăng như vầy: “Pháp nào mà đức Thế Tôn đã thuyết, Pháp đó được gọi là Pháp đã được Thế Tôn khéo thuyết, bởi vì là phương tiện dẫn ra khỏi (vòng luân hồi).” Chư Tăng nào thực hành Pháp đó của đức Thế Tôn đó thì Chư Tăng đó được gọi là khéo thực hành, bởi vì thực hành Pháp hành lìa bỏ sân hận có sự uốn cong (sự thật) v.v. tañce (nếu vị Tỳ khưu đó): Vị Tỳ khưu đó sau khi tịnh tín như vậy đã nói lời tán dương ân đức Tam bảo ở tại nơi đó.
- imehi ākārehīti imehi satthuvīmaṃsanakāraṇehi. imehi padehīti imehi akkharasampiṇḍanapadehi. imehi byañjanehīti imehi idha vuttehi akkharehi. saddhā niviṭṭhāti okappanā patiṭṭhitā. mūlajātāti sotāpattimaggavasena sañjātamūlā. sotāpattimaggo hi saddhāya mūlaṃ nāma. ākāravatīti kāraṇaṃ pariyesitvā gahitattā sakāraṇā. dassanamūlikāti sotāpattimaggamūlikā. so hi dassananti vuccati. daḷhāti thirā. asaṃhāriyāti harituṃ na sakkā. samaṇena vāti samitapāpasamaṇena vā. brāhmaṇena vāti bāhitapāpabrāhmaṇena vā. devena vāti upapattidevena vā. mārena vāti vasavattimārena M.2.287 vā, sotāpannassa hi vasavattimārenāpi saddhā asaṃhāriyā hoti sūrambaṭṭhassa viya.
Với biểu hiện này: bởi lý do là phương tiện tư sát bậc Đạo Sư này. Với câu này: câu tập hợp lại các mẫu tự này. Với văn tự này: bởi các mẫu tự đã được nói ở đây trong chỗ này. Đức tin vững chắc: Tâm kiên cố đã được thiết lập. Có sự sanh làm gốc: có gốc đồng sanh với mãnh lực Nhập Lưu Đạo, Nhập Lưu Đạo được gọi là gốc của đức tin. Có nguyên nhân: gọi là có nguyên nhân bởi vì Ngài tầm cầu nhân rồi mới tin. Có cái thấy làm gốc: làm gốc của Nhập Lưu Đạo, Nhập Lưu Đạo được Ngài gọi là sự thấy. Chắc chắn: lâu dài. Không thể làm dao động: điều bất cứ ai cũng không thể đem đi được. Hoặc Sa-môn: hoặc bởi Sa-môn vị có ác pháp đã an tịnh. Hoặc Bà-là-môn: hoặc bởi Bà-la-môn vị có ác pháp đã được thả trôi. Hoặc Thiên nhân: chư thiên do tái sinh. Hoặc Ma vương Vasavatti. Đức tin của vị Nhập Lưu đó là thực tính mà chư Thiên hoặc Ma vương Vasavatti cũng không thể tác động được, tựa như đức tin của ông Sura người sống trong rừng xoài.
so kira satthu dhammadesanaṃ sutvā sotāpanno hutvā gehaṃ āgato. atha māro dvattiṃsavaralakkhaṇappaṭimaṇḍitaṃ buddharūpaṃ māpetvā tassa P.2.389 gharadvāre ṭhatvā — “satthā āgato”ti sāsanaṃ pahiṇi. sūro cintesi, “ahaṃ idāneva satthu santikā dhammaṃ sutvā āgato, kiṃ nu kho bhavissatī”ti upasaṅkamitvā satthusaññāya vanditvā aṭṭhāsi. māro āha — “yaṃ te mayā, sūrambaṭṭha, rūpaṃ aniccaṃ … pe … viññāṇaṃ aniccanti kathitaṃ, taṃ anupadhāretvāva sahasā mayā evaṃ vuttaṃ. tasmā tvaṃ rūpaṃ niccaṃ … pe … viññāṇaṃ niccanti gaṇhāhī”ti. sūro cintesi — “aṭṭhānametaṃ, yaṃ buddhā anupadhāretvā apaccakkhaṃ katvā kiñci katheyyuṃ, addhā ayaṃ mayhaṃ vibādhanatthaṃ māro āgato”ti.
Được biết rằng ông Sūra sau khi nghe Pháp của bậc Đạo Sư đã trở thành vị Thánh Nhập Lưu rồi đi trở về nhà Thầy. Sau đó, Ma vương đã hoa ra một hình tướng giống như một vị Phật trang nghiêm với 32 tướng tốt và đứng trước cửa nhà nam cư sĩ Sūra, truyền tin như sau: “Bậc Đạo Sư đã đến”. Nam cư sĩ Sūra nghĩ rằng: “Ta đã nghe thuyết Pháp từ trú xứ của bậc Đạo Sư, vậy bây giờ lý do là gì?” Ông bước vào gặp rồi đứng chấp tay đảnh lễ với suy nghĩ đó là bậc Đạo Sư. Ma vương đã nói: “Này Sūrambaṭṭha, lời nào mà Ta đã nói với ngươi: “Sắc là vô thường…thức là vô thường” lời nói đó không đúng, Ta nói như vậy bởi do không suy xét. Do dó ngươi hãy nắm lấy như vầy: “Sắc là thường…thức là thường.” Sūra nghĩ rằng “điều mà chư Phật đã nói mà không suy xét trước, không làm cho rõ ràng rồi thuyết vấn đề nào đó thì điều không thể xảy ra, người này chắc chắn chính là Ma vương đến để làm cho ta suy nghĩ lệch lạc.”
tato naṃ tvaṃ māroti āha. so musāvādaṃ kātuṃ nāsakkhi, āma mārosmīti paṭijāni. kasmā āgatosīti vutte tava saddhācālanatthanti āha. kaṇha pāpima, tvaṃ tāva ekako tiṭṭha, tādisānaṃ mārānaṃ satampi sahassampi mama saddhaṃ cāletuṃ asamatthaṃ, maggena āgatā saddhā nāma silāpathaviyaṃ patiṭṭhitasineru viya acalā hoti, kiṃ tvaṃ etthāti accharaṃ pahari. so ṭhātuṃ asakkonto tatthevantaradhāyi. brahmunā vāti brahmakāyikādīsu aññatarabrahmunā vā. kenaci vā lokasminti ete samaṇādayo ṭhapetvā aññenapi kenaci vā lokasmiṃ harituṃ na sakkā. dhammasamannesanāti sabhāvasamannesanā. dhammatāsusamanniṭṭhoti dhammatāya susamanniṭṭho, sabhāveneva suṭṭhu samannesito hotīti attho. sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
Sau đó đã nói cùng với Ma vương rằng “Ngài là ai?” Ma vương không thể nói dối nên mới chấp nhận rằng: “ờ…ta là Ác ma”, bị nam cư sĩ Sūra hỏi: “Ngài đến đây để làm gì?” Ma vương đáp: “Để làm cho đức tin của Ngài chao đảo.” Nam cư sĩ Sūra búng tay cho biết rằng: “Này Ác ma dơ bẩn, người có ác pháp, đừng nói là chỉ một mình ngươi, những hạng Ác ma cả trăm, cả nghìn cũng không thể làm cho đức tin của ta lay chuyển được, (như vậy) gọi là đức tin đến bởi Đạo không lay động, giống như ngọn núi Suneru đứng vững trên mặt đất, ngươi còn đứng đây làm gì? Ma vương không thể đứng tiếp tục ở đó nữa, ngay lập tức biến mất tại chỗ đó. brahmunā vā (hoặc Phạm thiên): hoặc bất kỳ Phạm thiên nào trong số Phạm thiên v.v, kenaci vā lokasmiṃ (hoặc bất cứ ai trong thế gian này): ngoại trừ Sa-môn v.v, này, hoặc bất kỳ ai trong thế gian cũng không thể mang đi được. Việc tư sát theo thực tính gọi là việc tư sát về Pháp. dhammatāsusamanniṭṭho (vững trú trong việc khéo tư sát theo Pháp): diễn tiến trong việc khéo thẩm vấn theo Pháp. tức là người bị thẩm vấn một cách khéo léo theo đúng thực tính. Từ còn lại trong các câu đơn giản.
Giải Thích Kinh Tư Sát Kết Thúc.
[1] Ukkhepanīyakamma: nghĩa đen là Bị Bỏ Rơi, một cách xử phạt của tăng chúng đối với vị tỳ kheo nào có thái độ ngoan cố hay cố chấp cứng về đời sống giới luật hay về kiến giải giáo lý. Đương sự tạm thời không được sống trung trú xá với chư tăng, hoặc không được góp mặt trong các buổi sinh hoạt tập thể của tăng chúng. Nếu vị này hoàn tục sau khi bị xử phạt, thì trước khi muốn thọ giới trở lại cũng phải bày tỏ thái độ hối lỗi về những sai phạm ngày trước của mình. Được vậy, tăng chúng mới nên chấp nhận. (Thuật ngữ Luật Tạng, Tỳ khưu Giác Nguyên)