Kinh số 44 – Giải Thích Tiểu Kinh Phương Quảng

(Cuḷavedallasuttavaṇṇanā)

Xem Trung Bộ Kinh – Tiểu Kinh Phương Quảng

460. evaṃ V.2.251 M.2.255 me sutanti cūḷavedallasuttaṃ. tattha visākho upāsakoti visākhoti evaṃnāmako upāsako. yena dhammadinnāti yena dhammadinnā nāma bhikkhunī tenupasaṅkami. ko panāyaṃ visākho? kā dhammadinnā? kasmā upasaṅkamīti? visākho nāma dhammadinnāya gihikāle gharasāmiko. so yadā bhagavā sammāsambodhiṃ abhisambujjhitvā pavattavaradhammacakko yasādayo kulaputte vinetvā uruvelaṃ patvā tattha jaṭilasahassaṃ vinetvā purāṇajaṭilehi P.2.356 khīṇāsavabhikkhūhi saddhiṃ rājagahaṃ gantvā buddhadassanatthaṃ dvādasanahutāya parisāya saddhiṃ āgatassa bimbisāramahārājassa dhammaṃ desesi. tadā raññā saddhiṃ āgatesu dvādasanahutesu ekaṃ nahutaṃ upāsakattaṃ paṭivedesi, ekādasa nahutāni sotāpattiphale patiṭṭhahiṃsu saddhiṃ raññā bimbisārena.

460 Tiểu Kinh Phương Quảng được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, ‘nam cư sĩ Visākha’ nam cư sĩ vị có tên như vầy ‘Visākha’. Yena Dhammadinnā (Vào lúc nào Tỳ khưu ni Dhammadinnā…): đã đi đến chỗ Tỳ khưu ni tên là Dhammadinnā ở. Visakha này là ai vậy? Dhammadinnā là ai? Tại sao lại đến kiếm? Khi Dhammadinnā vẫn còn là cư sĩ, Visakha là người gia chủ (là chồng) khi đức Thế Tôn đó đã giác ngộ Chánh đẳng Chánh giác rồi chuyển vận bánh xe Pháp bảo tối thượng, đã hướng dẫn các thiện nam tử như Yasa v.v, sau khi chứng ngộ Ngài đi đến Uruvela, ở nơi đó đã hướng dẫn cả nghìn Jaṭila, rồi Ngài đi đến thành Rājagaha cùng với chư Tỳ khưu lậu tận Jaṭila cũ rồi thuyết giảng Giáo Pháp đến cho đại vương Bimbisāra đi cùng với hội chúng tháp tùng một trăm hai mươi nghìn người để diện kiến đức Phật. Trong số người đó trong lúc đó thì một nghìn người tuyên bố là cận sự nam, hơn nữa một trăm mười nghìn người vùng với vua Bimbisāra an trú trong Dự Lưu Thánh Quả

ayaṃ upāsako tesaṃ aññataro, tehi saddhiṃ paṭhamadassaneva sotāpattiphale patiṭṭhāya, puna ekadivasaṃ dhammaṃ sutvā sakadāgāmiphalaṃ patvā, tato aparabhāgepi ekadivasaṃ dhammaṃ sutvā anāgāmiphale patiṭṭhito. so anāgāmī hutvā gehaṃ āgacchanto yathā aññesu divasesu ito cito ca olokento sitaṃ kurumāno āgacchati, evaṃ anāgantvā santindriyo santamānaso hutvā agamāsi.

Thiện nam tử này là một người trong số đó khi đã an trú vào Dự Lưu Quả, trong lần gặp đầu tiên đó cùng với nhóm người đó, vào một ngày nọ cũng được lắng nghe Giáo Pháp chứng đắc Nhất Lai Thánh Quả, kể từ đó trở đi sau đó một ngày lắng nghe Pháp an trú trong Bất Lai Thánh Quả, sau khi trở thành bậc Thánh Bất Lai vị ấy quay trở về nhà, không còn nhìn tới nhìn lui như những ngày trước nữa, mỉm cười bước vào, trở thành người điềm tĩnh, có giác quan an tịnh, có tâm ý thanh tịnh đã trở về như vậy, vị nam cư sĩ

dhammadinnā sīhapañjaraṃ ugghāṭetvā vīthiṃ olokayamānā tassa āgamanākāraṃ disvā, “kiṃ nu kho etan”ti cintetvā tassa paccuggamanaṃ kurumānā sopānasīse ṭhatvā olambanatthaṃ hatthaṃ pasāresi. upāsako attano hatthaṃ samiñjesi. sā “pātarāsabhojanakāle jānissāmī”ti cintesi. upāsako pubbe tāya saddhiṃ ekato bhuñjati. taṃ divasaṃ pana taṃ anapaloketvā yogāvacarabhikkhu viya ekakova bhuñji. sā, “sāyanhakāle jānissāmī”ti cintesi. upāsako taṃdivasaṃ sirigabbhaṃ na pāvisi, aññaṃ gabbhaṃ paṭijaggāpetvā kappiyamañcakaṃ paññapāpetvā nipajji. upāsikā, “kiṃ nu khvassa bahiddhā patthanā atthi, udāhu kenacideva paribhedakena bhinno, udāhu mayheva koci doso atthī”ti balavadomanassā V.2.252 M.2.256 hutvā, “ekaṃ dve divase vasitakāle sakkā ñātun”ti tassa upaṭṭhānaṃ gantvā vanditvā aṭṭhāsi.

Nàng Dhammadinnā đã mở cánh cửa sổ nhìn ra đường biết được lý do vị ấy đi đến khởi lên suy nghĩ rằng: “Đây là cái gì vậy” đã đứng đợi ở đầu cầu thang để tiếp rước anh ta, (vị ấy) duỗi cánh tay ra cho nắm, (nhưng) nam cư sĩ đã rút cánh tay của mình lại. Nàng đã nghĩ rằng: “Tôi sẽ biết được vào lúc thọ dụng vật thực sáng”. Trước đó nam cư sĩ thọ dụng vật thực cùng với nàng, nhưng ngày hôm ấy đã không dòm ngó tới nàng, thực hành như một hành giả Tỳ khưu thọ dụng vật thực một mình. Nàng nghĩ rằng: “vào lúc đi ngủ ta sẽ biết” cận sự nam đã không đi vào hương phòng đó, mà ra lệnh sắp xếp một phòng khác, đặt một cái giường nhỏ vừa đủ rồi nằm nghỉ. Nữ cư sĩ đến nghĩ rằng: “chuyện gì xảy ra vậy, anh ta có ước muốn (người nữ) bên ngoài, hoặc có thể bị một người nào đó nói sau lưng để khiêu khích làm cho ly tán,? hoặc chính tôi có làm điều gì sai trái.” rồi sanh tâm sầu muộn dữ dội, quyết định rằng “suốt một hai ngày ở đây, (ta) phải biết cho bằng được” nên đã đi đến phục vụ, vái chào, rồi đứng một bên.

upāsako, “kiṃ dhammadinne akāle āgatāsī”ti pucchi. āma ayyaputta, āgatāmhi, na tvaṃ yathā purāṇo, kiṃ nu te bahiddhā patthanā atthīti? natthi dhammadinneti. añño koci paribhedako atthīti? ayampi natthīti. evaṃ sante mayheva koci doso bhavissatīti. tuyhampi doso natthīti. atha kasmā mayā saddhiṃ yathā pakatiyā ālāpasallāpamattampi na karothāti? so cintesi — “ayaṃ lokuttaradhammo nāma garu bhāriyo na pakāsetatabbo, sace kho panāhaṃ na kathessāmi, ayaṃ hadayaṃ P.2.357 phāletvā ettheva kālaṃ kareyyā”ti tassānuggahatthāya kathesi — “dhammadinne ahaṃ satthu dhammadesanaṃ sutvā lokuttaradhammaṃ nāma adhigato, taṃ adhigatassa evarūpā lokiyakiriyā na vaṭṭati. yadi tvaṃ icchasi, tava cattālīsa koṭiyo mama cattālīsa koṭiyoti asītikoṭidhanaṃ atthi, ettha issarā hutvā mama mātiṭṭhāne vā bhaginiṭṭhāne vā ṭhatvā vasa. tayā dinnena bhattapiṇḍamattakena ahaṃ yāpessāmi. athevaṃ na karosi, ime bhoge gahetvā kulagehaṃ gaccha, athāpi te bahiddhā patthanā natthi, ahaṃ taṃ bhaginiṭṭhāne vā dhituṭṭhāne vā ṭhapetvā posessāmī”ti.

Nam cữ sĩ hỏi “Dhammadinnā tại sao lại đến trái giờ vậy?”. (Dhammadinnā) “thưa phu quân, phu quân không giống như trước kia, xin hỏi phu quân một chút, (có phải) chàng có mong muốn người nữ bên ngoài hay chăng?” (Nam cư sĩ): Này Dhammadinnā ta không có. (Dhammadinnā): Có ai khác đã nói lời chia rẽ chăng? (Nam cư sĩ): chuyện đó cũng không. (Dhammadinnā): Nếu như vậy chính bản thân của thiếp đã làm điều gì sai trái hay sao? (Nam cư sĩ): Chính nàng cũng không có làm điều gì sai trái cả. (Dhammadinnā): Vậy tại sao phu quân không thực hiện dù chỉ là lời nói nhẹ nhàng đối với thiếp?” Vị ấy nghĩ rằng – “Pháp Siêu thế này là một gánh nặng không nên phơi bày, nhưng nếu như ta không nói cho Dhammadinnā thì trái tim của nàng ấy có thể tan nát ngay chính tại chỗ này,” vì lợi ích trợ giúp cho nàng nên đã nói rằng “Dhammadinnā, sau khi ta lắng nghe Pháp thoại của bậc Đạo đã chứng đắc Pháp Siêu thế, vị đã chứng đạt Pháp Siêu thế đó thì việc thực hành theo thế gian như vậy hẳn không diễn ra. Phần tài sản của nàng là 400 triệu, còn phần của ta cũng có 400 triệu tổng cộng là 800 triệu nếu như nàng muốn nàng hãy làm chủ số tài sản này, giữ cương vị người mẹ hoặc em gái của ta cũng được, còn ta sẽ duy trì nuôi mạng chỉ bằng vắt cơm mà nàng bố thí. Nếu như nàng không thực hiện như những gì đã nói thì nàng hãy mang số tài sản này quay trở về tư gia cũng được, và nếu như nàng có ước muốn một người đàn ông khác bên ngoài thì ta sẽ đặt nàng ở vị trí em gái, hoặc vị trí đứa con gái rồi chăm sóc.”

sā cintesi — “pakatipuriso evaṃ vattā nāma natthi. addhā etena lokuttaravaradhammo paṭividdho. so pana dhammo kiṃ puriseheva paṭibujjhitabbo, udāhu mātugāmopi paṭivijjhituṃ sakkotī”ti visākhaṃ etadavoca — “kiṃ nu kho eso dhammo puriseheva labhitabbo, mātugāmenapi sakkā laddhun”ti? kiṃ vadesi dhammadinne, ye paṭipannakā, te etassa dāyādā, yassa yassa upanissayo atthi, so so etaṃ paṭilabhatīti. evaṃ sante mayhaṃ pabbajjaṃ anujānāthāti. sādhu bhadde, ahampi taṃ etasmiṃyeva magge yojetukāmo, manaṃ pana te ajānamāno na kathemīti tāvadeva bimbisārassa rañño santikaṃ gantvā vanditvā aṭṭhāsi.

Nàng nghĩ rằng – Người đàn ông bình thường sẽ không ai nói những lời như vậy vị ấy chắc có lẽ đã chứng đắc Pháp Siêu thế, chỉ có người nam thôi sao mới có thể thấu triệt được, hay cả người nữ cũng có thể thấu triệt được.” Nàng đã nói với Visakha rằng “Pháp đó chỉ có ngươi nam mới có khả năng đạt được, hay người nữ cũng có thể đạt được?” (Nam cư sĩ): “Nàng nói sao Dhammadinnā? Người nghiêm chỉnh thực hành theo đạo lộ đó phải là người thừa tự Pháp, người có đủ nhân duyên để chứng đạt Pháp đó.” (Dhammadinnā): “Nếu như vậy xin phu quân hãy chấp nhận cho thiếp được xuất gia.” (Nam cư sĩ): “thật tốt lành thay, chính bản thân ta cũng muốn hướng dẫn trong đạo con đường này tương tự, nhưng không biết tâm ý của nàng thế nên không nói ra” rồi lập tức đi đến gặp vưa Bimbisāra, sau khi đãnh lễ rồi đứng sang một bên.

rājā M.2.257, “kiṃ, gahapati, akāle āgatosī”ti pucchi. dhammadinnā, “mahārāja, pabbajissāmī”ti vadatīti. kiṃ panassa laddhuṃ vaṭṭatīti? aññaṃ kiñci natthi, sovaṇṇasivikaṃ V.2.253 deva, laddhuṃ vaṭṭati nagarañca paṭijaggāpetunti. rājā sovaṇṇasivikaṃ datvā nagaraṃ paṭijaggāpesi. visākho dhammadinnaṃ gandhodakena nahāpetvā sabbālaṅkārehi alaṅkārāpetvā sovaṇṇasivikāya nisīdāpetvā ñātigaṇena parivārāpetvā gandhapupphādīhi pūjayamāno nagaravāsanaṃ karonto viya bhikkhuniupassayaṃ gantvā, “dhammadinnaṃ pabbājethāyye”ti āha. bhikkhuniyo “ekaṃ vā dve vā dose sahituṃ vaṭṭati gahapatī”ti āhaṃsu. natthayye koci doso, saddhāya pabbajatīti. athekā byattā therī tacapañcakakammaṭṭhānaṃ ācikkhitvā kese ohāretvā P.2.358 pabbājesi. visākho, “abhiramayye, svākkhāto dhammo”ti vanditvā pakkāmi.

Đức vua hỏi rằng: “Này người gia chủ, tại sao ngươi lại đến trái giờ”. Visakha: Tâu Đại vương, nàng Dhammadinnā nói rằng ‘nàng sẽ xuất gia’”. (Đức vua): Nàng thích hợp có được gì? (Visakha) không có gì khác, nên có được kiệu vàng và nên được sắp xếp trang hoàng thành phố thích hợp tâu Đại vương. Đức vua đã ban cho kiệu vàng rồi cho sửa soạn trạng hoàng thành phố. Visākha cho nàng Dhammadinnā tắm nước thơm, cho trang điểm bằng những đồ trang sức, cho ngồi trên kiệu vàng, được đoay quanh bởi những thân quyến, cúng dường hoa thơm v.v, như được làm cùng người dân thành phố, đi đến hội chúng Tỳ khưu ni rồi nói rằng “Thưa các ni sư, cầu xin cho nàng Dhammadinnā xuất gia”. Chúng Tỳ khưu ni nói rằng: “Người gia chủ mắc phải một hoặc hai lỗi lầm hãy nên kham nhẫn.” Visakha nói rằng: “Không có bất cứ lỗi lầm nào cả thưa các ni sư, nàng xuất gia vì lòng tin.” Sau đó, một Tỳ khưu ni có khả năng mói nói nhóm năm nghiệp xứ của da, cho cạo tóc rồi thọ giới. Visākha nói rằng “Thưa các ni sư, Giáo Pháp được đức Thế Tôn khéo thuyết, các vị hãy hoan hỷ” cúi chào rồi rời đi.

tassā pabbajitadivasato paṭṭhāya lābhasakkāro uppajji. teneva palibuddhā samaṇadhammaṃ kātuṃ okāsaṃ na labhati. athācariya-upajjhāyatheriyo gahetvā janapadaṃ gantvā aṭṭhatiṃsāya ārammaṇesu cittarucitaṃ kammaṭṭhānaṃ kathāpetvā samaṇadhammaṃ kātuṃ āraddhā, abhinīhārasampannattā pana nāticiraṃ kilamittha.

Kể từ ngày nàng xuất gia lợi lộc và sự cung kính cũng sanh khơi chính vì thế nàng bận rộn đến nỗi không có cơ hội để thực hành Sa-môn Pháp. Lúc đó các Tỳ khưu ni Trưởng lão là thầy dạy học và thầy tế độ mới đưa nàng đi sống ở ngoài làng, rồi cho học tập nghiệp xứ theo sở thích trong 38 đối tượng để bắt đầu thực hành Sa-môn Pháp, nàng chịu khó nhọc không bao lâu bởi là người có nguyện vọng thành tựu.

ito paṭṭhāya hi satasahassakappamatthake padumuttaro nāma satthā loke udapādi. tadā esā ekasmiṃ kule dāsī hutvā attano kese vikkiṇitvā sujātattherassa nāma aggasāvakassa dānaṃ datvā patthanamakāsi. sā tāya patthanābhinīhārasampattiyā nāticiraṃ kilamittha, katipāheneva arahattaṃ patvā cintesi — “ahaṃ yenatthena sāsane pabbajitā, so matthakaṃ patto, kiṃ me janapadavāsena, mayhaṃ ñātakāpi puññāni karissanti, bhikkhunisaṅghopi paccayehi na kilamissati, rājagahaṃ gacchāmī”ti bhikkhunisaṅghaṃ gahetvā rājagahameva agamāsi. visākho, “dhammadinnā kira āgatā”ti sutvā, “pabbajitvā nacirasseva janapadaṃ gatā, gantvāpi nacirasseva paccāgatā, kiṃ nu kho bhavissati, gantvā jānissāmī”ti dutiyagamanena bhikkhuniupassayaṃ agamāsi. tena vuttaṃ — “atha kho visākho upāsako yena dhammadinnā bhikkhunī tenupasaṅkamī”ti.

Tóm tắt như sau cuối một trăm nghìn kiếp Bhadda bậc Đạo sư hồng danh Padumuttara xuất hiện ở trên đời. Lúc đó nàng Dhammadinna là người hầu gái ở trong một gia đình, đã bán đi mái tóc của mình rồi cúng dường đến vị Thánh thinh văn hàng đầu la Trưởng lão Sujāta, sau đó thực hiện lời phát nguyện. Do đã thành tựu nguyện vọng đó nàng không cảm thấy mệt mỏi suốt 2-3 ngày rồi cũng thành tựu trở thành vị A-ra-hán rồi khởi lên suy nghĩ như sau: “Ta đã xuất gia trong Tôn giáo vì lợi ích nào thì ta cũng đã đạt đến lợi ích đó rồi, ta cư ngụ ở ngoài làng để tầm cầu lợi ích gì? Thần quyến của ta làm phước, đến chúng hội chúng Tỳ khưu ni không khó khăn về điều kiện, ta sẽ đi đến thành Rājagaha,” rồi đưa chúng Tỳ khưu ni quay trở lại thành Rājagaha. Visakha đa nghe rằng: “Vị ấy nói nàng Dhammadinnā đến” mới nghĩ rằng “Nàng đã xuất gia rồi đi ra ngoài làng không bao lâu, đã quay trở lại không lâu, sẽ như thế nào đây?” (sau đó) đã đi đến trú xứ của Tỳ khưu ni với lần đi thứ hai. Vì thế đại đức Ānanda mới nói rằng “chính lần đó nam cư sĩ Visākha đã đến chỗ Tỳ khưu ni Dhammadinna ở”.

etadavocāti M.2.258 etaṃ sakkāyotiādivacanaṃ avoca. kasmā avocāti? evaṃ kirassa ahosi — “abhiramasi nābhiramasi, ayye”ti evaṃ pucchanaṃ nāma na paṇḍitakiccaṃ, pañcupādānakkhandhe upanetvā pañhaṃ pucchissāmi, pañhabyākaraṇena tassā abhiratiṃ vā anabhiratiṃ V.2.254 vā jānissāmīti, tasmā avoca. taṃ sutvāva dhammadinnā ahaṃ, āvuso visākha, acirapabbajitā sakāyaṃ vā parakāyaṃ vā kuto jānissāmīti vā, aññattheriyo upasaṅkamitvā pucchāti vā avatvā upanikkhittaṃ sampaṭicchamānā viya, ekapāsakagaṇṭhiṃ mocentī viya gahanaṭṭhāne hatthimaggaṃ nīharamānā viya khaggamukhena P.2.359 samuggaṃ vivaramānā viya ca paṭisambhidāvisaye ṭhatvā pañhaṃ vissajjamānā, pañca kho ime, āvuso visākha, upādānakkhandhātiādimāha. tattha pañcāti gaṇanaparicchedo. upādānakkhandhāti upādānānaṃ paccayabhūtā khandhāti evamādinā nayenettha upādānakkhandhakathā vitthāretvā kathetabbā. sā panesā visuddhimagge vitthāritā evāti tattha vittāritanayeneva veditabbā. sakkāyasamudayādīsupi yaṃ vattabbaṃ, taṃ heṭṭhā tattha tattha vuttameva.

etadavoca (đã nói lời này): Đã nói lời này “sắc thân của tôi” này. Tai sao lại nói thế? Được biết rằng vị ấy có suy nghĩ như vầy “Việc hỏi như vậy, Ngài sống có thỏa thích chằng, hay không thỏa thích” không phải phận sự của bậc trí, ta sẽ hướng đến sự chấp lấy uẩn rồi hỏi đến vấn đề, với việc giải quyết vấn đề đo ta sẽ biết rằng nàng có thỏa thích hay không thỏa thích, cho nên đã nói. Tỳ khưu Dhammadinnā đã nghe lời đó không nói rằng “Này bạn Visakha, tôi mới xuất gia không bao lâu thì làm sao biết được thân của chính mình và thân của người khác” hoặc “Bạn hãy đi hỏi vị Trưởng lão khác” Khi an trú trong phạm vị là vị có Tuệ phân tích, trả lời vấn đề giống như nhận đồ của (người khác) ký gửi, tương tự như tháo gỡ một nút thắt, cũng giống như đi vào con đường bên trong rộng lớn thoải mái, cũng giống như cái đòn bẩy với thanh kiếm sắc bén nên đã nói rằng “Này Hiền giả Visākha, có năm thủ uẩn” v.v. Ở đó, ‘Năm’ là từ xác định số đếm. ‘Thủ Uẩn’ cần phải giảng giải chi tiết ý nghĩa thủ uẩn trong trường hợp này theo cách thức như vầy rằng “uẩn có sự chấp thủ làm duyên” Giải thích ý nghĩa về Năm Thủ Uẩn đó được giảng giải chi tiết trong bộ Thanh Tịnh Đạo, vì thế nên biết theo cách thức mà Ngài đã được hoàn thành chi tiết trong bộ Thanh Tịnh Đạo. Lời cần nói dầu chỉ là ‘sự tập khởi của thân’ v.v, cũng được nói hoàn chỉnh trong bộ đó trong đạo lộ tương tự.

idaṃ pana catusaccabyākaraṇaṃ sutvā visākho theriyā abhiratabhāvaṃ aññāsi. yo hi buddhasāsane ukkaṇṭhito hoti anabhirato, so evaṃ pucchitapucchitapañhaṃ saṇḍāsena ekekaṃ palitaṃ gaṇhanto viya, sinerupādato vālukaṃ uddharanto viya vissajjetuṃ na sakkoti. yasmā pana imāni cattāri saccāni loke candimasūriyā viya buddhasāsane pākaṭāni, parisamajjhe gato hi bhagavāpi mahātherāpi saccāneva pakāsenti; bhikkhusaṅghopi pabbajitadivasato paṭṭhāya kulaputte cattāri nāma kiṃ, cattāri ariyasaccānīti pañhaṃ uggaṇhāpeti. ayañca dhammadinnā upāyakosalle ṭhitā paṇḍitā byattā nayaṃ gahetvā sutenapi kathetuṃ samatthā, tasmā “na sakkā etissā ettāvatā saccānaṃ paṭividdhabhāvo ñātuṃ, saccavinibbhogapañhabyākaraṇena sakkā ñātun”ti cintetvā heṭṭhā kathitāni dve saccāni paṭinivattetvā guḷhaṃ katvā gaṇṭhipañhaṃ pucchissāmīti pucchanto taññeva nu kho, ayyetiādimāha.

Khi Visākha đã nghe được việc giải đáp bốn chân lý này, vị ấy nhận ra rằng Trưởng lão ni rất hài lòng, bởi vì những người không hài lòng với Phật giáo không thể giải quyết được những vấn đề được hỏi đi hỏi lại, giống như việc lấy cây nhíp nhổ từng sợi tóc bạc, cũng giống chở cát ra khỏi chân núi Sineru. Do bởi bốn Chân lý này đã hiện hữu trong Phật giáo, giống như mặt trăng và mặt trời xuất hiện ở thế gian, bởi vì đức Phật và các Trưởng lão sống ở giữa hội chúng chỉ tuyên bố bốn Chân lý mà thôi.” Tên Si là gì? Cao quý Sajja Si” kể từ ngày xuất gia. Thậm chí chư Tỳ khưu cũng cho các thiện nam tử học vấn đề ‘cái gì gọi là bốn? Chân lý gọi là bốn, ngay từ lúc xuất gia. Visākha nghĩ rằng và Tỳ khưu ni Dhammadinnā đều là bậc trí giả an trú trong bản thể của bậc trí tuệ đúng đường lối nắm bắt được cách thức có thể nói kể cả phương pháp đã nghe qua, vì thế những ai không thể nhận biết sự thấu triệt Chân lý của nàng (Tỳ khưu Dhammadinnā) chỉ với chừng ấy lý do, cả ta cũng có thể biết được qua việc giải quyết liên hệ đến với việc phân tích bốn Chân lý” và nghĩ rằng “khi quay trở lại cả hai Chân lý đã nói ở phần trước làm che đậy rồi hỏi vấn đề có khúc mắc mới nói lời sau: “Này ni sư! (sự chấp thủ)…này là một phải chăng?

tassa vissajjane na kho, āvuso visākha, taññeva upādānanti upādānassa saṅkhārakkhandhekadesabhāvato na taṃyeva upādānaṃ te pañcupādānakkhandhā, nāpi aññatra pañcahi upādānakkhandhehi upādānaṃ. yadi hi taññeva M.2.259 siyā, rūpādisabhāvampi upādānaṃ siyā. yadi aññatra siyā, parasamaye cittavippayutto anusayo viya paṇṇatti viya nibbānaṃ viya ca khandhavinimuttaṃ vā siyā, chaṭṭho vā khandho paññapetabbo bhaveyya, tasmā evaṃ byākāsi. tassā V.2.255 P.2.360 byākaraṇaṃ sutvā “adhigatapatiṭṭhā ayan”ti visākho niṭṭhamagamāsi. na hi sakkā akhīṇāsavena asambaddhena avitthāyantena padīpasahassaṃ jālentena viya evarūpo guḷho paṭicchanno tilakkhaṇāhato gambhīro pañho vissajjetuṃ. niṭṭhaṃ gantvā pana, “ayaṃ dhammadinnā sāsane laddhapatiṭṭhā adhigatapaṭisambhidā vesārajjappattā bhavamatthake ṭhitā mahākhīṇāsavā, samatthā mayhaṃ pucchitapañhaṃ kathetuṃ, idāni pana naṃ ovattikasāraṃ pañhaṃ pucchissāmī”ti cintetvā taṃ pucchanto, kathaṃ panāyyetiādimāha.

Trong việc trả lời lại vấn đề đó Tỳ khưu ni Dhammadinnā đã nói lời sau “Này Hiền giả Visākha, đó không phải là sự chấp thủ và năm thủ uẩn không phải là một”, có lời giải thích rằng sự chấp thủ đó và năm thủ uẩn đó cũng không phải bởi sự chấp thủ là một phần của Hành uẩn và sự chấp thủ cũng không phải nằm ngoài cả năm thủ uẩn. Nếu thủ uẩn có thể trở thành chính sự chấp thủ đó thì ngay cả thực tính có Sắc v.v, cũng có thể trở thành sự chấp thủ. Nếu như sự chấp thủ có thể trở thành pháp nằm ngoài (tử Sắc v.v,) cũng sẽ trở thành sự giải thoát uẩn, cũng giống như Tùy miên, giống như paññatti (chế định), và cũng giống như Niết bàn được tách riêng với tâm (không phối hợp với tâm) vào thời điểm khác, nếu không thì cần phải chế định uẩn thứ 6 thêm nữa, vì thế Tỳ khưu ni Dhammadinnā đáp lời như vậy. Trong khi lắng nghe byākaraṇa của nàng thì Visākha chắc chắn rằng “Tỳ khưu ni này đã chứng ngộ sự thấu triệt (Chân lý)” rồi nghĩ rằng “người không phải bậc lậu tận, người không nhìn thấy rõ ràng, người không biết rộng rãi sẽ không thể giải quyết được vấn đề đã che giấu, thâm sâu đưa đến Tam tướng có hình thức như vậy tựa như người thấp lên hàng ngàn ngọn đèn, nhưng Tỳ khưu ni Dhammadinnā này đã đi đến mục đích cuối cùng (là Niết bàn), đã có chỗ nương tựa trong Tôn Giáo, đạt được trí tuệ thiện xảo, đạt đến sự dũng mãnh nhổ bỏ được các cõi trở thành bậc lậu tận, người vĩ đại có thể giải quyết mọi vấn đề được hỏi” mới nghĩ rằng “bây giờ ta sẽ hỏi thêm vấn đề phức tạp hơn cùng vị ấy” khi hỏi vấn đề đó mới nói rằng: “Như thế nào thưa ni sư” v.v.

461. tassa vissajjane assutavātiādi mūlapariyāye vitthāritameva. rūpaṃ attato samanupassatīti, “idhekacco rūpaṃ attato samanupassati. yaṃ rūpaṃ so ahaṃ, yo ahaṃ taṃ rūpanti rūpañca attañca advayaṃ samanupassati. seyyathāpi nāma telappadīpassa jhāyato yā acci so vaṇṇo, yo vaṇṇo sā accīti acciñca vaṇṇañca advayaṃ samanupassati. evameva idhekacco rūpaṃ attato samanupassati … pe … advayaṃ samanupassatī”ti (paṭi. ma. 1.131) evaṃ rūpaṃ attāti diṭṭhipassanāya passati. rūpavantaṃ vā attānanti arūpaṃ attāti gahetvā chāyāvantaṃ rukkhaṃ viya taṃ attānaṃ rūpavantaṃ samanupassati. attani vā rūpanti arūpameva attāti gahetvā pupphasmiṃ gandhaṃ viya attani rūpaṃ samanupassati. rūpasmiṃ vā attānanti arūpameva attāti gahetvā karaṇḍāya maṇiṃ viya attānaṃ rūpasmiṃ samanupassati. vedanaṃ attatotiādīsupi eseva nayo.

Trong việc giải đáp vấn đề đó, câu được bắt đầu như sau: ‘assutavā (vị chưa từng được nghe)’ Ngài đã giải thích chi tiết trong bài Kinh Pháp Môn Căn Bản. rūpaṃ attato samanupassati (nhận thấy sắc là tự ngã), “một số người trên đời này thường nhận thấy sắc là tự ngã. Cái gì là sắc, cái ấy là tôi; Cái gì là tôi, cái ấy là sắc; quán sát thấy sắc và tự ngã không phải là hai (chỉ là một); cũng giống như đối với ngọn đèn dầu đang cháy sáng (người ấy nghĩ rằng): cái gì là ngọn lửa, cái ấy là ánh sáng; cái gì là ánh sáng, cái ấy là ngọn lửa, (vị ấy) nhận thấy ngọn lửa và ánh sáng chỉ là một như thế nào. Và cũng như thế ấy, một số người trên đời gian này quán sát thấy sắc là tự ngã…quán sất thấy sắc và tự ngã không phải là hai (chỉ là một)….” (paṭi. ma. 1.131). Như vậy gọi là thấy bởi tà kiến rằng: ‘Sắc là tự ngã.’ Rūpavantaṃ vā attānaṃ (Hoặc nhận thấy tự ngã có sắc): do chấp thủ ‘sắc là tự ngã’ (vị ấy) nhận thấy rằng ‘tự ngã có sắc’, giống như cội cây là có bóng vậy. Attani vā rūpaṃ (hoặc nhận thấy sắc trong tự ngã): do chấp thủ ‘chính phi sắc đó là tự ngã’ (vị ấy) nhận thấy rằng ‘sắc trong ta’ giống như mùi thơm ở trong bông hoa. Rūpasmiṃ vā attānaṃ (hoặc là thấy tự ngã trong sắc): do chấp thủ ‘phi sắc đó là tự ngã’ (vị ấy) nhận thấy rằng ‘tự ngã đó trong sắc’ giống như nhìn thấy ngọc mani được đựng ở trong hộp nữ trang. Ngay cả việc nhận thấy Vedanaṃ attato (thọ là tự ngã) v.v… cũng cách thức tương tự như thế.

tattha, rūpaṃ attato samanupassatīti suddharūpameva attāti kathitaṃ. rūpavantaṃ vā attānaṃ, attani vā rūpaṃ, rūpasmiṃ vā attānaṃ. vedanaṃ attato… saññaṃ… saṅkhāre… viññāṇaṃ attato samanupassatīti imesu sattasu ṭhānesu M.2.260 arūpaṃ attāti kathitaṃ. vedanāvantaṃ vā attānaṃ, attani vā vedanaṃ, vedanāya vā attānanti evaṃ catūsu khandhesu tiṇṇaṃ P.2.361 tiṇṇaṃ vasena dvādasasu ṭhānesu rūpārūpamissako attā kathito. tattha rūpaṃ attato samanupassati… vedanaṃ… saññaṃ… saṅkhāre… viññāṇaṃ attato samanupassatīti imesu pañcasu ṭhānesu ucchedadiṭṭhi kathitā, avasesesu sassatadiṭṭhīti. evamettha pannarasa bhavadiṭṭhiyo, pañca vibhavadiṭṭhiyo honti. na rūpaṃ attatoti ettha rūpaṃ attāti na samanupassati. aniccaṃ dukkhaṃ anattāti pana samanupassati. na rūpavantaṃ attānaṃ … pe … na viññāṇasmiṃ attānanti ime V.2.256 pañcakkhandhe kenaci pariyāyena attato na samanupassati, sabbākārena pana aniccā dukkhā anattāti samanupassati.

Trong các câu đó, rūpaṃ attato samanupassati (nhận thấy sắc là tự ngã): Ngài chỉ muốn nói đến sắc thuần túy là tự ngã. Ngài nói đến phi sắc là tự ngã ở trong bảy vị trí này là “nhận thấy thấy tự ngã có sắc, hoặc sắc có trong tự ngã, hoặc tự ngã có trong sắc, thọ là tự ngã…tưởng…hành…thức là tự ngã”. Ngài nói đến sắc và phi sắc được hoà trộn với nhau là tự ngã ở trong 12 vị trí do mãnh lực theo 3 biểu hiện trong 4 uẩn như sau: “tự ngã có thọ, hoặc thọ có trong tự ngã, hoặc tự ngã có trong thọ”. Ở đó, Ngài đã nói đến đoạn kiến ở trong 5 vị trí là “nhận thấy sắc là tự ngã; nhận thấy thọ…tưởng…hành…thức là tự ngã”, nói đến thường kiến ở những vị trí còn lại. Theo cách này ở nơi đây sẽ có hữu kiến là 15 loại và phi hữu kiến là 5 loại. Na rūpaṃ attato (nhận thấy sắc không phải là tự ngã): này đây không nhận thấy rằng “sắc là tự ta” mà nhận thấy rằng: “sắc là vô thường, là khổ não, là vô ngã”. Tức là không nhận thấy năm uẩn này theo bất kỳ một phương pháp nào rằng: không nhận thấy tự ngã có sắc…không nhận thấy tự ngã thức, hơn nữa nhận thấy với tất cả biểu hiện: “vô thương, khổ não, vô ngã”.

ettāvatā theriyā, “evaṃ kho, āvuso visākha, sakkāyadiṭṭhi hotī”ti evaṃ purimapañhaṃ vissajjentiyā ettakena gamanaṃ hoti, āgamanaṃ hoti, gamanāgamanaṃ hoti, vaṭṭaṃ vattatīti vaṭṭaṃ matthakaṃ pāpetvā dassitaṃ. evaṃ kho, āvuso visākha, sakkāyadiṭṭhi na hotīti pacchimaṃ pañhaṃ vissajjentiyā ettakena gamanaṃ na hoti, āgamanaṃ na hoti, gamanāgamanaṃ na hoti, vaṭṭaṃ nāma na vattatīti vivaṭṭaṃ matthakaṃ pāpetvā dassitaṃ.

Trưởng lão Ni trả lời câu thứ nhất với lời nói chỉ có bấy nhiêu: “Này Hiền giả Visākha! Như vậy là sự nhận thức sai trái về thân” cũng là điều mà Ni sư thuyết giảng vaṭṭa cho đến tận cùng rằng: “Với nhân chỉ chừng ấy, là việc đi đến (thế giới này), việc ra đi (đến thế giới khác), việc đi và đến, sự luân chuyển của kiếp sống được xoay vần”. Còn khi giải đáp câu sau, Ni sư cũng chỉ trả lời rằng: “Hiền giả Visākha! Như vậy không phải là sự nhận thức sai lầm về thân” cũng là điều mà Ni sư thuyết giảng vivaṭṭa cho đến tận cùng rằng: “Với nhân chỉ chừng ấy, là không có việc đi đến, là không có việc đi ra, không có việc đi và cũng không có việc đến, sự luân chuyển của kiếp sống cũng dừng lại”.

462. katamo panāyye, ariyo aṭṭhaṅgiko maggoti ayaṃ pañho theriyā paṭipucchitvā vissajjetabbo bhaveyya — “upāsaka, tayā heṭṭhā maggo pucchito, idha kasmā maggameva pucchasī”ti. sā pana attano byattatāya paṇḍiccena tassa adhippāyaṃ sallakkhesi — “iminā upāsakena heṭṭhā paṭipattivasena maggo pucchito bhavissati, idha pana taṃ saṅkhatāsaṅkhatalokiyalokuttarasaṅgahitāsaṅgahitavasena pucchitukāmo bhavissatī”ti. tasmā appaṭipucchitvāva yaṃ yaṃ pucchi, taṃ taṃ vissajjesi. tattha saṅkhatoti cetito kappito pakappito āyūhito kato nibbattito samāpajjantena samāpajjitabbo.

katamo panāyye, ariyo aṭṭhaṅgiko maggo (thưa Ni sư, thế nào là Thánh đạo Tám chi phần?) này trở thành vấn đề mà Trưởng lão Ni hỏi ngược lại rồi mới trả lời: “Này nam cư sĩ, ông hỏi đến đạo lộ bậc thấp rồi, tại sao ở đây ông lại hỏi đến đạo lộ nữa?” rồi mới trả lời. Những Trưởng lão Ni ấy biết được nguyện vọng của vị cư sĩ do bản thân là bậc tinh thông, là bậc trí giả. Ni sư nghĩ rằng – “Nam cư sĩ này có lẽ hỏi đến đạo lộ bậc thấp do mãnh lực pháp hành, nhưng trong trường hợp này chắc có lẽ (vị ấy) muốn hỏi đến đạo lộ ấy với sức mạnh của pháp bị tạo tác (Hữu vi), pháp không bị tạo tác (Vô vi), Hiệp thế , Siêu thế, thâu nhiếp, bất thâu nhiếp. Vì thế, năm cư sĩ hỏi câu nào nhiều thì Ni sư trả lời câu ấy mà không hỏi ngược lại nữa. Ở đó “pháp bị tạo tác” là Pháp bị nghĩ, bị suy tính, bị cân nhắc, bị xem xét lại, bị thu gom, bị tạo tác, bị làm cho sanh ra mà người đạt đến cần đạt đến.

tīhi ca kho, āvuso visākha, khandhehi ariyo aṭṭhaṅgiko maggo saṅgahitoti ettha yasmā maggo sappadeso, tayo khandhā nippadesā, tasmā ayaṃ sappadesattā nagaraṃ viya rajjena nippadesehi tīhi khandhehi saṅgahito. tattha sammāvācādayo tayo sīlameva, tasmā te sajātito sīlakkhandhena saṅgahitāti. kiñcāpi hi pāḷiyaṃ sīlakkhandheti bhummena P.2.362 viya niddeso kato, attho pana karaṇavasena veditabbo. sammāvāyāmādīsu pana M.2.261 tīsu samādhi attano dhammatāya ārammaṇe ekaggabhāvena appetuṃ na sakkoti. vīriye pana paggahakiccaṃ sādhente satiyā ca apilāpanakiccaṃ sādhentiyā laddhūpakāro hutvā sakkoti.

Trong câu “Tīhi ca kho āvuso Visākha khandhehi ariyo aṭṭhaṅgiko maggo saṅgahitoti (Lại nữa, này Hiền giả Visākha, Thánh Đạo tám chi phần được thâu nhiếp với ba uẩn” này được giải thích rằng do đạo lộ có trú xứ, còn 3 uẩn (giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn) thì không có trú xứ cho nên Ngài mới lấy đạo lộ này đến nhiếp thâu với 3 uẩn không có trú xứ, giống như đem thành phố xếp vào vương quyền bởi vì đạo lộ có trú xứ. Trong các chi đạo đó, 3 chi đạo có chánh ngữ v.v, chính là giới uẩn, vì thế các chi đạo ấy được thâu nhiếp vào thành giới uẩn bởi chúng đồng sanh với nhau. Mặc dù trong Pāḷī, Ngài đưa ra để mô tả tựa như định sở cách: “trong giới uẩn” nhưng thật sự nên hiểu ý nghĩa theo sở dụng cách (với giới uẩn). Về phần định trong 3 chi đạo có chánh tinh tấn v.v, định được áp chặt không thể tách rời được với tính chất nhất tâm trong đối tượng nhờ vào bản thể của chính nó. Trong khi tinh tấn làm đang thực hiện nhiệm vụ nâng đỡ cho hoàn thành và niệm cũng đang thực hiện nhiệm vụ không lơ đễnh (không lẫn lộn) cho hoàn thành thì định là pháp tánh có được sự hỗ trợ nên thể áp sát (không thể tách rời được trong đối tượng).

tatrāyaṃ upamā — yathā hi “nakkhattaṃ kīḷissāmā”ti uyyānaṃ paviṭṭhesu tīsu sahāyesu eko supupphitaṃ campakarukkhaṃ disvā hatthaṃ ukkhipitvāpi gahetuṃ na sakkuṇeyya. athassa dutiyo onamitvā piṭṭhiṃ dadeyya, so tassa piṭṭhiyaṃ ṭhatvāpi kampamāno gahetuṃ na sakkuṇeyya V.2.257. athassa itaro aṃsakūṭaṃ upanāmeyya, so ekassa piṭṭhiyaṃ ṭhatvā ekassa aṃsakūṭaṃ olubbha yathāruci pupphāni ocinitvā piḷandhitvā nakkhattaṃ kīḷeyya. evaṃsampadamidaṃ daṭṭhabbaṃ. ekato uyyānaṃ paviṭṭhā tayo sahāyakā viya hi ekato jātā sammāvāyāmādayo tayo dhammā. supupphitacampako viya ārammaṇaṃ. hatthaṃ ukkhipitvāpi gahetuṃ asakkonto viya attano dhammatāya ārammaṇe ekaggabhāvena appetuṃ asakkonto samādhi. piṭṭhiṃ datvā onatasahāyo viya vāyāmo. aṃsakūṭaṃ datvā ṭhitasahāyo viya sati. yathā tesu ekassa piṭṭhiyaṃ ṭhatvā ekassa aṃsakūṭaṃ olubbha itaro yathāruci pupphaṃ gahetuṃ sakkoti, evamevaṃ vīriye paggahakiccaṃ sādhente, satiyā ca apilāpanakiccaṃ sādhentiyā laddhupakāro samādhi sakkoti ārammaṇe ekaggabhāvena appetuṃ. tasmā samādhiyevettha sajātito samādhikkhandhena saṅgahito. vāyāmasatiyo pana kiriyato saṅgahitā honti.

Trong vấn đề chi đạo này có cách so sánh như sau: giống như có 3 người bạn bước vào hoa viên với ý định như sau: “Chúng ta sẽ vui chơi ở lễ hội thường niên”. Một người thấy cây hoa Campā đang nở hoa bèn đưa tay lên nhưng không thể hái được; khi đó, người thứ nhì liền cúi lưng xuống cho người thứ nhất, dầu vậy vị ấy cũng đứng không vững trên lưng của người thứ hai vẫn không thể hái được; Lúc ấy, người còn lại đứng giương vai cho người thứ nhất, khi người thứ nhất đứng trên lưng một người rồi vịn vai của người còn lại, sau khi hái được hoa đã đem đi trang điểm tùy theo ý thích rồi tiếp tục vui chơi lễ hội. Câu chuyện này như thế nào thì việc các chi đạo đem ra so sánh ở đây cũng như thế ấy. Cả ba Pháp có chánh tinh tấn v.v, đồng sanh như 3 người bạn cùng đi vào hoa viên; đối tượng giống như cây Campā đang nở hoa; định không thể đạt đến thiền do bản thể của chính nó giống như người đưa tay lên nhưng không thể hái được hoa. Sự tinh tấn tựa như người bạn khom lưng xuống, niệm giống như người bạn đứng. Định khi có sự tinh tấn đang hoàn thành nhiệm vụ nâng đỡ và có niệm đang hoàn thành nhiệm vụ không lơ đễnh, được sự hỗ trợ có thể áp sát vào tính chất nhất tâm trong đối tượng, giống như người đứng ở lưng của một người trong số ba người đó và vịn vai của người còn lại mới có thể hái được bông hoa theo ý muốn như thế nào cũng như thế đó. Vì thế, Ngài mới lấy chánh định nhiếp hợp vào định uẩn bởi đồng sanh. Còn chánh tinh tấn và chánh niệm được Ngài nhiếp hợp vào định uẩn do việc thực hành nhiệm vụ.

sammādiṭṭhisammāsaṅkappesupi paññā attano dhammatāya aniccaṃ dukkhaṃ anattāti ārammaṇaṃ nicchetuṃ na sakkoti, vitakke pana ākoṭetvā ākoṭetvā dente sakkoti. kathaṃ? yathā hi heraññiko kahāpaṇaṃ hatthe ṭhapetvā sabbabhāgesu oloketukāmo samānopi na cakkhudaleneva parivattetuṃ sakkoti, aṅgulipabbehi pana parivattetvā ito cito ca oloketuṃ sakkoti. evameva na paññā attano dhammatāya aniccādivasena ārammaṇaṃ nicchetuṃ sakkoti, abhiniropanalakkhaṇena P.2.363 pana āhananapariyāhananarasena vitakkena ākoṭentena viya parivattentena viya ca ādāyā dinnameva vinicchetuṃ sakkoti. tasmā M.2.262 idhāpi sammādiṭṭhiyeva sajātito paññākkhandhena saṅgahitā. sammāsaṅkappo pana kiriyato saṅgahito hoti. iti imehi tīhi khandhehi maggo saṅgahaṃ gacchati. tena vuttaṃ — “tīhi ca kho, āvuso visākha, khandhehi ariyo aṭṭhaṅgiko maggo saṅgahito”ti.

Kể cả tuệ trong chánh kiến và chánh tư duy cũng không thể nhận rõ đối tượng rằng: “vô thường, khổ, vô ngã” nhờ vào bản tánh của chính nó, còn suy tầm phân biệt từ từ cũng có thể quyết định được. Như thế nào? Giống như nhân viên kiểm toán đặt đồng tiền trên tay, dẫu muốn quan sát ở mọi khía cạnh cũng không thể lật qua lật lại bằng ánh mắt, nhưng khi dùng ngón tay lật qua lật lại thì có thể quan sát mặt này mặt kia ở toàn bộ khía cạnh thế nào; tuệ cũng tương tự như thế đó không thể đưa ra quyết định được đối tượng với mãnh lực của sự vô thường v.v.” dựa vào tính chất của nó, nhưng có thể đưa ra quyết định từ đối tượng bởi suy tầm có sự nhấn chìm xuống (tâm) làm trạng thái, có sự cân nhắc kỹ lưỡng làm phận sự, giống như đưa ra quyết định đồng tiền được nhận lấy với việc gõ nhẹ xem, với việc lật qua lật lại xem. Do vậy, trong trường hợp này Ngài nhiếp chánh kiến (trí tuệ) vào tuệ uẩn do đồng sanh khởi. Về phần chánh tư duy được nhiếp hợp vào tuệ uẩn bởi do thực hiện phận sự. Đạo mới được nhiếp hợp với 3 uẩn này. Vì thế, Trưởng lão Ni Dhammadinnā đã nói: “Này hiền hữu Visākha, Thánh Đạo tám chi phần được nhiếp hơp với 3 uẩn là như vậy”.

idāni ekacittakkhaṇikaṃ maggasamādhiṃ sanimittaṃ saparikkhāraṃ pucchanto, katamo panāyyetiādimāha. tassa vissajjane cattāro satipaṭṭhānā maggakkhaṇe catukiccasādhanavasena uppannā sati, sā samādhissa paccayatthena nimittaṃ. cattāro sammappadhānā catukiccasādhanavaseneva uppannaṃ vīriyaṃ, taṃ parivāraṭṭhena parikkhāro hoti. tesaṃyeva dhammānanti tesaṃ maggasampayuttadhammānaṃ. āsevanātiādīsu ekacittakkhaṇikāyeva āsevanādayo vuttāti.

Bây giờ, khi hỏi về định trong đạo được vận hành chỉ trong một sát-na tâm, cùng với pháp làm dấu hiệu (tướng) và với pháp làm phương tiện hỗ trợ nên đã nói rằng: “Thưa Ni sư, định như thế nào?”. Trong khi trả lời câu hỏi đó, bốn sự thiết lập niệm là chánh niệm đã sinh khởi với sức mạnh thực hiện bốn phận sự ở trong sát-na đạo cho được thành tựu, chánh niệm này trở thành tướng với nghĩa là trợ duyên cho chánh định. Tứ chánh cần là tinh tấn đã sinh khởi với mãnh lực thực hiện bổn phận sự cho thành tựu, tinh tấn này là pháp hỗ trợ với ý nghĩa là phương tiện hỗ trợ. Tesaṃyeva dhammānaṃ (của các Pháp ấy) là Pháp phối hợp với các đạo ấy. Sự luyện tập v.v, Ngài nói đến sự luyện tập diễn tiến chỉ trong một sát-na tâm.

vitaṇḍavādī V.2.258 pana, “ekacittakkhaṇiko nāma maggo natthi, ‘evaṃ bhāveyya satta vassānī’ti hi vacanato sattapi vassāni maggabhāvanā hoti, kilesā pana lahu chijjantā sattahi ñāṇehi chijjantī”ti vadati. so “suttaṃ āharā”ti vattabbo. addhā aññaṃ apassanto, “yā tesaṃyeva dhammānaṃ āsevanā bhāvanā bahulīkamman”ti idameva suttaṃ āharitvā, “aññena cittena āsevati, aññena bhāveti, aññena bahulīkarotī”ti vakkhati. tato vattabbo — “kiṃ panidaṃ, suttaṃ neyyatthaṃ nītatthan”ti. tato vakkhati — “nītatthaṃ yathā suttaṃ tatheva attho”ti. tassa idaṃ uttaraṃ — evaṃ sante ekaṃ cittaṃ āsevamānaṃ uppannaṃ, aparampi āsevamānaṃ, aparampi āsevamānanti evaṃ divasampi āsevanāva bhavissati, kuto bhāvanā, kuto bahulīkammaṃ? ekaṃ vā bhāvayamānaṃ uppannaṃ aparampi bhāvayamānaṃ aparampi bhāvayamānanti evaṃ divasampi bhāvanāva bhavissati, kuto āsevanā kuto bahulīkammaṃ? ekaṃ vā bahulīkarontaṃ uppannaṃ, aparampi bahulīkarontaṃ, aparampi bahulīkarontanti evaṃ divasampi P.2.364 bahulīkammameva bhavissati kuto āsevanā, kuto bhāvanāti.

Những kẻ ngụy biện cũng nói rằng: “Đạo được gọi là vận hành chỉ trong một sát-na tâm không có, nếu có thể như thế sẽ có việc tu tập đạo đến tận 7 năm, vì có lời nói rằng ‘bảy năm’, nhưng về phần phiền não khi bị cắt đứt cũng sẽ bị cắt đứt bởi cả bảy loại trí tuệ một cách nhanh chóng”. Mọi người nên nói lại với họ rằng: “Đem kinh điển ra dẫn chứng”. Chắc chắn khi họ không nhìn thấy con đường nào khác thì họ sẽ đưa chính lời Kinh này: “Sự luyện tập, sự phát triển, việc làm cho tăng trưởng các pháp ấy” này rồi nói rằng: “Luyện tập bằng một tâm khác, phát triển bằng một tâm khác, làm cho tăng trưởng bằng một tâm khác”. Sau đó họ có thể nói rằng: “Bài Kinh này có nội dung cần được hiểu biết, có nội dung như thế nào?” Rồi họ sẽ tiếp tục nói rằng: “Kinh này có nội dung như đã được mang đến thuyết giảng”, nhiều của họ cũng chừng này. Khi đã như thế thì cũng chỉ có sự luyện tập mà thôi dẫu suốt ngày là như này: “một tâm sanh khởi đang luyện tập, lại một tâm khác cũng sanh khởi đang luyện tập, và một tâm khác cũng sinh khởi đang luyện tập”; sự tu tiến có từ đâu? sự làm cho tăng trưởng có từ đâu? hoặc “khi một tâm sanh khởi đang tu tiến, một tâm khác sinh khởi đang tu tiến, lại một tâm khác sinh khởi đang tu tiến”, kiểu này cả ngày chỉ có sự tu tiến mà thôi thì sự luyện tập có từ đâu? sự làm cho tăng trưởng có từ đâu? Hoặc là “một tâm sanh khởi đang làm cho tăng trưởng, một tâm khác sanh khởi đang làm cho tăng trưởng, lại một tâm khác sanh khởi đang làm cho tăng trưởng”, như thế cả ngày chỉ có sự làm cho trưởng mà thôi thì sự luyện tập có từ đâu? sự tu tập có từ đâu?

atha vā evaṃ vadeyya — “ekena cittena āsevati, dvīhi bhāveti, tīhi bahulīkaroti. dvīhi vā āsevati, tīhi bhāveti, ekena bahulīkaroti M.2.263. tīhi vā āsevati, ekena bhāveti, dvīhi bahulīkarotī”ti. so vattabbo — “mā suttaṃ me laddhanti yaṃ vā taṃ vā avaca. pañhaṃ vissajjentena nāma ācariyassa santike vasitvā buddhavacanaṃ uggaṇhitvā attharasaṃ viditvā vattabbaṃ hoti. ekacittakkhaṇikāva ayaṃ āsevanā, ekacittakkhaṇikā bhāvanā, ekacittakkhaṇikaṃ bahulīkammaṃ. khayagāmilokuttaramaggo bahulacittakkhaṇiko nāma natthi, ‘ekacittakkhaṇikoyevā’ti saññāpetabbo. sace sañjānāti, sañjānātu, no ce sañjānāti, gaccha pātova vihāraṃ pavisitvā yāguṃ pivāhī”ti uyyojetabbo.

Lại nữa, họ có thể nói như vầy: “luyện tập bằng một tâm, tu tiến bằng hai tâm, làm cho tăng trưởng bằng ba tâm”. Hoặc là “luyện tập bằng hai tâm, tu tiến bằng ba tâm, làm cho tăng trưởng bằng một tâm”. Hoặc là “luyện tập bằng ba tâm, tu tiến bằng một tâm, làm cho tăng trưởng bằng hai tâm”. Họ có thể bị nói như sau: “Ông đừng có nói linh tinh rằng: ‘Tôi có Kinh điển đấy nhé’”; Thường người giải đáp vấn đề cần phải sống ở trong trú xứ với thầy, học tập Phật ngôn, hiểu biết được ý nghĩa rồi mới từ từ nói. Sự luyện tập này phối hợp với một sát-na tâm, sự tu tiến phối hợp với một sát-na tâm, sự làm cho tăng trưởng này cũng phối hợp với một sát-na tâm. Thông thường Siêu thế đạo đạt đến sự diệt tận phiền não không có nhiều sát-na tâm, chỉ có phối hợp với duy nhất trong một sát-na tâm mà thôi”. Nên cho họ chấp nhận những điều đã được nói. Nếu như họ chấp nhận thì hãy chấp nhận, còn nếu như không chấp nhận thì nên đưa đi bằng lới nói sau: “Hãy vào chùa từ lúc sáng sớm rồi nước cháo!”

463. kati panāyye saṅkhārāti idha kiṃ pucchati? ye saṅkhāre nirodhetvā nirodhaṃ samāpajjati, te pucchissāmīti pucchati. tenevassa adhippāyaṃ ñatvā therī, puññābhisaṅkhārādīsu anekesu saṅkhāresu vijjamānesupi, kāyasaṅkhārādayova ācikkhantī, tayome V.2.259, āvusotiādimāha. tattha kāyapaṭibaddhattā kāyena saṅkharīyati karīyati nibbattīyatīti kāyasaṅkhāro. vācaṃ saṅkharoti karoti nibbattetīti vacīsaṅkhāro. cittapaṭibaddhattā cittena saṅkharīyati karīyati nibbattīyatīti cittasaṅkhāro. katamo panāyyeti idha kiṃ pucchati? ime saṅkhārā aññamaññamissā āluḷitā avibhūtā duddīpanā. tathā hi, kāyadvāre ādānagahaṇamuñcanacopanāni pāpetvā uppannā aṭṭha kāmāvacarakusalacetanā dvādasa akusalacetanāti evaṃ kusalākusalā vīsati cetanāpi assāsapassāsāpi kāyasaṅkhārātveva vuccanti. vacīdvāre hanusaṃcopanaṃ vacībhedaṃ pāpetvā uppannā vuttappakārāva vīsati cetanāpi vitakkavicārāpi vacīsaṅkhārotveva vuccanti. kāyavacīdvāresu copanaṃ apattā raho nisinnassa cintayato uppannā kusalākusalā ekūnatiṃsa cetanāpi saññā ca vedanā cāti ime dve dhammāpi cittasaṅkhārotveva vuccanti. evaṃ P.2.365 ime saṅkhārā aññamaññamissā āluḷitā avibhūtā duddīpanā. te pākaṭe vibhūte katvā kathāpessāmīti pucchati.

kati panāyye saṅkhārā (thưa Ni sư, hành có mấy loại?) này nam cư sĩ Visākha hỏi đến điều gì? (Hỏi ) “hành giả diệt những hành nào mới nhập thiền diệt, tôi xin hỏi về những hành đó”. Khi Trưởng lão ni biết được ý định của nam cư sĩ ấy thông qua vấn đề ấy liền nói đến thân hành v.v, trong số nhiều hành đang hiện có chẳng hạn như phúc hành v.v, mới nói lời như sau: “này Hiền hữu Visākha, có ba loại hành này…”. Trong ba loại hành ấy, gọi là thân hành bởi ý nghĩa thân tạo tác làm cho sanh khởi bởi thực tính ràng buộc với thân; gọi là khẩu hành vì do khẩu tạo tác làm sanh khởi bởi thực tính ràng buộc với khẩu; gọi là tâm hành vì do tâm tạo tác làm phát sinh bởi thực tính ràng buộc với tâm. Nam cư sĩ Visākha hỏi đến điều gì trong câu sau: “thưa Ni sư, thân hành là (có ý nghĩa) thế nào?” Các hành này hòa lẫn với nhau, làm xáo trộn, không rõ ràng, thật khó để thể hiện. Thật vậy, 20 loại Tư tâm sở gồm thiện và bất thiện như vầy: Tư tâm sở trong 8 tâm thiện dục giới, Tư tâm sở trong 12 tâm bất thiện sanh khởi dẫn dắt chúng sanh đến với việc chấp thủ, việc nắm lấy, việc thoát khỏi, việc buông bỏ ở trong thân môn cũng như hơi thở ra và hơi thở vào được gọi là thân hành. Ngài gọi 20 loại Tư tâm sở có cách như đã trình bày sanh khởi làm cho sự lay chuyển dẫn đến thốt ra lời nói ở trong khẩu môn cũng như tầm và tứ được Ngài gọi là khẩu hành. 29 loại Tư tâm sở gồm cả thiện và bất thiện sanh khởi nhưng chưa đến mức độ làm cho lay chuyển thân môn và khẩu môn của người đang ngồi suy nghĩ nơi thanh tịnh, cũng như hai pháp này là thọ và tưởng được Ngài gọi là tâm hành. Các hành này hòa lẫn với nhau, làm xáo trộn, không rõ ràng, thật khó để thể hiện. Tôi xin Ngài hãy mang Pháp đó đến để thuyết giảng làm cho hiển lộ rõ ràng.

kasmā panāyyeti idha kāyasaṅkhārādināmassa padatthaṃ pucchati. tassa vissajjane kāyappaṭibaddhāti kāyanissitā, kāye sati honti, asati M.2.264 na honti. cittappaṭibaddhāti cittanissitā, citte sati honti, asati na honti.

Thưa ni sư, tại sao…? Ở đây, nam cư sĩ Visākha hỏi đến ý nghĩa của từ gọi là thân hành v.v. Trong việc trả lời câu hỏi đó, nên biết rằng ‘nương vào thân’ nghĩa là hơi thở vào và hơi thở ra nương vào thân, khi có thân thì có thân hành (hơi thở vào và hơi thở ra), còn khi không có thân thì thân hành (hơi thở vào và hơi thở ra) cũng không có. ‘nương vào tâm’ nghĩa là tưởng và thọ nương vào tâm; khi có tâm thì có tâm hành (tưởng và thọ), còn khi không có tâm thì tâm hành (tưởng và thọ) cũng không có.

464. idāni kiṃ nu kho esā saññāvedayitanirodhaṃ valañjeti, na valañjeti. ciṇṇavasī vā tattha no ciṇṇavasīti jānanatthaṃ pucchanto, kathaṃ panāyye, saññāvedayitanirodhasamāpatti hotītiādimāha. tassa vissajjane samāpajjissanti vā samāpajjāmīti vā padadvayena nevasaññānāsaññāyatanasamāpattikālo kathito. samāpannoti padena antonirodho. tathā purimehi dvīhi padehi sacittakakālo kathito, pacchimena acittakakālo. pubbeva tathā cittaṃ bhāvitaṃ hotīti nirodhasamāpattito pubbe addhānaparicchedakāleyeva, ettakaṃ kālaṃ acittako bhavissāmīti addhānaparicchedacittaṃ bhāvitaṃ hoti. yaṃ taṃ tathattāya upanetīti yaṃ evaṃ bhāvitaṃ cittaṃ, taṃ puggalaṃ tathattāya acittakabhāvāya upaneti.

464 Bây giờ, khi nam cư sĩ Visäkha hỏi để biết: “Sự thể nhập này này vạch ra sự diệt tận của tưởng và của thọ hay không cần vạch ra, hoặc là người cần huân tập thuần thục hay không cần huân tập sự thuần thục trong sự diệt tận của tưởng và của thọ?” mới nói lời bắt đầu như sau: “Thưa ni sư, sự thệ nhập thiền diệt của tưởng và của thọ là như thế nào?” Trong việc giải đáp vấn đề đó Ngài nói đến thời gian thể nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ lúc định với hai câu sau: “ta sẽ nhập thiền chứng” hoặc “ta đang nhập thiền chứng”; Ngài đã nói đến bên trong sự thể nhập thiền diệt Ngài đã nói bằng câu: “ta đã nhập…” Hơn nữa, thời gian mà tâm vẫn còn tiếp nhận đối tượng thì Ngài nói bằng hai câu đầu tiên, thời gian không tiếp nhận đối tượng Ngài nói bằng câu sau. Tâm của vị này đã được tu tập trước như vậy: tâm đã được xác định khoảng thời gian: “Tôi sẽ không tiếp nhận đối tượng trong suốt thời gian ngần này” là điều mà Ngài đã được tu tập trong việc xác định khoảng thời gian trước khi thể nhập thiền diệt. Hướng vị ấy đến trạng thái như thế: Tâm đã được tu tập như vậy hướng hành giả đến trạng thái như thế ấy tức là trạng thái hành giả có tâm không tiếp nhận đối tượng.

paṭhamaṃ nirujjhati vacīsaṅkhāroti sesasaṅkhārehi paṭhamaṃ dutiyajjhāneyeva nirujjhati. tato kāyasaṅkhāroti V.2.260 tato paraṃ kāyasaṅkhāro catutthajjhāne nirujjhati. tato cittasaṅkhāroti tato paraṃ cittasaṅkhāro antonirodhe nirujjhati. vuṭṭhahissanti vā vuṭṭhahāmīti vā padadvayena antonirodhakālo kathito. vuṭṭhitoti padena phalasamāpattikālo. tathā purimehi dvīhi padehi acittakakālo kathito, pacchimena sacittakakālo. pubbeva tathā cittaṃ bhāvitaṃ hotīti nirodhasamāpattito pubbe addhānaparicchedakāleyeva ettakaṃ kālaṃ acittako hutvā tato paraṃ sacittako bhavissāmīti addhānaparicchedacittaṃ bhāvitaṃ hoti. yaṃ taṃ tathattāya upanetīti yaṃ evaṃ bhāvitaṃ cittaṃ, taṃ puggalaṃ tathattāya sacittakabhāvāya upaneti. iti heṭṭhā nirodhasamāpajjanakālo gahito, idha nirodhato vuṭṭhānakālo.

Paṭhamaṃ nirujjhati vacīsaṅkhāro (khẩu hành diệt trước): Khẩu hành diệt trước so với các hành còn lại ở nhị thiền. Tato kāyasaṅkhāro (tiếp đến là thân hành diệt): từ khẩu hành đó tiếp đến thân hành diệt tại tứ thiền. Tato cittasaṅkhāro (tiếp đến là tâm hành): từ thân hành đó tâm hành diệt ở bên trong thiền diệt. Với hai câu: “ta sẽ xuất thiền” hoặc “ta đang xuất thiền” Ngài có ý muốn nói đến khoảng thời gian ở bên trong thiền diệt. ‘Đã xuất khỏi thiền” Ngài có ý muốn đến khoảng thời gian sống trong sự thể nhập quả. Hơn nữa, thời gian tâm không nhận biết đối tượng Ngài đã nói với hai câu đầu, còn thời gian tâm nhận biết đối tượng Ngài nói đến câu sau. pubbeva tathā cittaṃ bhāvitaṃ hotī (tâm vị này đã được tu tập trước như vậy): Trong việc xác định khoảng thời gian trước khi thể nhập thiền diệt cũng tu tập tâm cho xác định khoảng thời gian dài rằng: “Ta sẽ không tiếp nhận đối tượng suốt khoảng thời gian chừng này, rồi sau đó sẽ tiếp nhận đối tượng.” Yaṃ taṃ tathattāya upaneti (đưa vị ấy đến trạng thái như thế): Tâm đã được tu tập như vậy hướng hành giả đến trạng thái như thế, là để đưa đến trạng thái người có tâm tiếp nhận đối tượng. Thời gian của hành giả nhập thiền diệt đã được nói đến trước đó. Ở đây nói đến chỉ nói đến việc xuất thiền diệt.

idāni P.2.366 nirodhakathaṃ kathetuṃ vāroti nirodhakathā kathetabbā siyā, sā panesā, “dvīhi balehi samannāgatattā tayo ca saṅkhārānaṃ paṭippassaddhiyā soḷasahi ñāṇacariyāhi navahi samādhicariyāhi vasībhāvatāpaññā nirodhasamāpattiyā ñāṇan”ti mātikaṃ ṭhapetvā sabbākārena visuddhimagge kathitā. tasmā tattha kathitanayeneva gahetabbā M.2.265. ko panāyaṃ nirodho nāma? catunnaṃ khandhānaṃ paṭisaṅkhā appavatti. atha kimatthametaṃ samāpajjantīti. saṅkhārānaṃ pavatte ukkaṇṭhitā sattāhaṃ acittakā hutvā sukhaṃ viharissāma, diṭṭhadhammanibbānaṃ nāmetaṃ, yadidaṃ nirodhoti etadatthaṃ samāpajjanti.

Bây giờ, là phần sẽ nói đến vấn đề thiền diệt (nirodhakathā), do đó vấn đề thiền diệt là chuyện cần phải nói đến. Thật vậy, nirodhakathā này đã được đặt thành mẫu đề trong bộ Thanh Tịnh Đạo ở mọi khía cạnh: “Tuệ đã được tu tập đến thuần thục với việc thực hành 16 tuệ và với việc thực hành 9 định do phối hợp với 2 lực và do yên tĩnh của 3 hành gọi là trí trong sự thể nhập thiền diệt”. Do vậy, người muốn hiểu cần phải nắm lấy theo phương thức đã được nói trong bộ Thanh Tịnh Đạo đó. Cái gọi là sự diệt này bao gồm điều gì? bao gồm là sự không vận hành của việc quán sát bốn uẩn. Nếu hỏi rằng: Khi đã như thế thì thể nhập thiền diệt để làm gì?” Đáp rằng: “Sự thể nhập thiền diệt vì điều này là ‘Ta sẽ không bức rức trong sự vận hành của các hành, sẽ không có tâm tiếp nhận đối tượng sống an lạc chừng 7 ngày; thiền diệt này đây cũng chính là Niết bàn hiện tại.”

paṭhamaṃ uppajjati cittasaṅkhāroti nirodhā vuṭṭhahantassa hi phalasamāpatticittaṃ paṭhamaṃ uppajjati. taṃsampayuttaṃ saññañca vedanañca sandhāya, “paṭhamaṃ uppajjati cittasaṅkhāro”ti āha. tato kāyasaṅkhāroti tato paraṃ bhavaṅgasamaye kāyasaṅkhāro uppajjati. kiṃ pana phalasamāpatti assāsapassāse na samuṭṭhāpetīti? samuṭṭhāpeti. imassa pana catutthajjhānikā phalasamāpatti, sā na samuṭṭhāpeti. kiṃ vā etena phalasamāpatti paṭhamajjhānikā vā hotu, dutiyatatiyacatutthajjhānikā vā, santāya samāpattiyā vuṭṭhitassa bhikkhuno assāsapassāsā abbohārikā honti. tesaṃ abbohārikabhāvo sañjīvattheravatthunā veditabbo. sañjīvattherassa hi samāpattito vuṭṭhāya kiṃsukapupphasadise vītaccitaṅgāre maddamānassa gacchato cīvare aṃsumattampi na jhāyi, usumākāramattampi nāhosi, samāpattiphalaṃ nāmetanti vadanti. evamevaṃ santāya V.2.261 samāpattiyā vuṭṭhitassa bhikkhuno assāsapassāsā abbohārikā hontīti bhavaṅgasamayenevetaṃ kathitanti veditabbaṃ.

paṭhamaṃ uppajjati cittasaṅkhāro (tâm hành sanh khởi trước): Thật vậy khi thoát khỏi thiền diệt, tâm trong sự thể nhập quả sanh lên trước. Ngài có ý muốn nói đến tưởng và thọ tương ưng trong sự thể nhập quả đó. Tato kāyasaṅkhāro (tiếp đó thân hành sanh khởi): Từ tâm hành trở đi, thân hành khởi lên trong thời của tâm hộ kiếp. Hỏi “Sự thể nhập quả không làm cho hơi thở ra hơi thở vào sanh khởi sao?” Đáp rằng: làm cho sanh khởi được. Nhưng sự thể nhập thánh quả của vị hành giả này phối hợp với tứ thiền, nên sự thể nhập quả ấy làm cho hơi thở ra và hơi thở vào không thể sanh khởi. Không cần nói đến tứ thiền hoặc sự thể nhập thánh quả phối hợp với sơ thiền hay nhị thiền, tam thiền hoặc tứ thiền đi nữa thì hơi thở ra và hơi thở vào của vị Tỳ khưu xuất khỏi xuất khỏi sự thể nhập được an tịnh là điều có cũng giống như không có sao? (là điều không thể nói được). Việc mà các hơi thở vào và hơi thở ra có giống như không có ấy nên biết được qua câu chuyện của Trưởng lão Sañjīva, được tóm tắt như sau: Sau khi Trưởng lão Sañjīva xuất khỏi định đã đi trên lửa than cháy đỏ rực mà họ phân tán giống như hoa kiṃsuka đang trổ hoa, tới mép y cũng không cháy, ngay cả hiện tượng nóng cũng không có. Mọi người nói với nhau rằng: “Đây gọi là quả của sự thể nhập”. Hơi thở ra và hơi thở vào của vị tỳ khưu xuất khỏi thiền chứng được an tịnh là điều không thể nói được như đã nêu vậy; do đó, nên biết rằng lời này được Ngài nói trong thời của hộ kiếp mà thôi.

tato vacīsaṅkhāroti tato paraṃ kiriyamayapavattavaḷañjanakāle vacīsaṅkhāro uppajjati. kiṃ bhavaṅgaṃ vitakkavicāre na samuṭṭhāpetīti? samuṭṭhāpeti. taṃsamuṭṭhānā pana vitakkavicārā vācaṃ abhisaṅkhātuṃ na sakkontīti P.2.367 kiriyamayapavattavaḷañjanakālenevataṃ kathitaṃ. suññato phassotiādayo saguṇenāpi ārammaṇenāpi kathetabbā. saguṇena tāva suññatā nāma phalasamāpatti, tāya sahajātaṃ phassaṃ sandhāya suññato phassoti vuttaṃ. animittāpaṇihitesupieseva nayo. ārammaṇena pana nibbānaṃ rāgādīhi suññattā suññaṃ nāma, rāganimittādīnaṃ abhāvā animittaṃ, rāgadosamohappaṇidhīnaṃ abhāvā appaṇihitaṃ. suññataṃ nibbānaṃ ārammaṇaṃ katvā uppannaphalasamāpattiyaṃ phasso suññato nāma. animittāpaṇihitesupi eseva nayo.

tato vacīsaṅkhāro (từ đo khẩu hành mới sanh khởi): Tiếp sau thân hành ấy thì khẩu hành sẽ khởi lên trong thời gian diễn tiến của sự thành tựu từ các tâm tố. Hỏi: “Hộ kiếp làm cho tầm và tứ sanh khởi không được sao?” Đáp: sanh khởi được. Nhưng tầm và tứ sanh khởi từ hộ kiếp ấy vẫn không thể tạo tác (thành) lời nói được. Do vậy lời đó được Ngài nói theo thời gian diễn ra của sự thành tựu chỉ sanh lên từ tâm tố. Xúc v.v, ‘suññato phasso (trống không xúc)’ cần nói đến bởi phận sự (thực tính) và bởi đối tượng. Nói đến phận sự trước. Sự thể nhập quả được gọi là trống không, Trưởng lão nói rằng: “trống không xúc” mong muốn lấy xúc đồng sanh với sự trống không đó, ngay cả vô tướng xúc và vô nguyện xúc cũng được làm tương tự. Qua đối tượng Niết bàn gọi là trống rỗng bởi vì không có ái luyến, v.v…; gọi là vô tướng vì không có tướng là tham, sân, si; gọi là vô nguyện vì không có ái luyến v.v,. Xúc ở trong sự thể nhập quả sanh khởi lấy Niết bàn làm khoảng không làm đối tượng gọi là trống rỗng, cho nên thậm chí trong vô tướng xúc và vô nguyện xúc cũng được thực hiện theo cách thứ đó.

aparā M.2.266 āgamaniyakathā nāma hoti, suññatā, animittā, appaṇihitāti hi vipassanāpi vuccati. tattha yo bhikkhu saṅkhāre aniccato pariggahetvā aniccato disvā aniccato vuṭṭhāti, tassa vuṭṭhānagāminivipassanā animittā nāma hoti. yo dukkhato pariggahetvā dukkhato disvā dukkhato vuṭṭhāti, tassa appaṇihitā nāma. yo anattato pariggahetvā anattato disvā anattato vuṭṭhāti, tassa suññatā nāma. tattha animittavipassanāya maggo animitto nāma, animittamaggassa phalaṃ animittaṃ nāma. animittaphalasamāpattisahajāte phasse phusante animitto phasso phusatīti vuccati. appaṇihitasuññatesupi eseva nayo. āgamaniyena kathite pana suññato vā phasso animitto vā phasso appaṇihito vā phassoti vikappo āpajjeyya, tasmā saguṇena ceva ārammaṇena ca kathetabbaṃ. evañhi tayo phassā phusantīti sameti.

Ngoài ra còn có những từ ngữ khác cần được thêm vào, kể cả tuệ minh sát Ngài cũng gọi là “trống không, vô tướng, vô nguyện”. Ở đây, vị Tỳ khưu nào quán sát các hành là vô thường, khi đã nhìn thấy được tính chất vô thường rồi thoát khỏi vô thường, tuệ minh sát dẫn đến thoát khỏi các kiết sử của vị Tỳ khưu ấy gọi là vô tướng minh sát. Vị Tỳ khưu nào quán sát các hành là khổ đau, khi đã nhìn thấy được tính chất khổ đau rồi thoát khỏi khổ, tuệ minh sát dẫn đến thoát khỏi mọi khổ đau của vị Tỳ khưu ấy gọi là vô nguyện minh sát. Vị Tỳ khưu nào quán sát các hành với tính chất vô ngã, khi đa nhìn thấy được tính chất vô ngã rồi thoát khỏi vô ngã, tuệ minh sát dẫn đến thoát khỏi vô ngã của tỳ khưu ấy gọi là trống không minh sát. Trong những minh sát đó, đạo trong vô tướng minh sát của vị Tỳ khưu ấy gọi là vô tướng đạo, quả của vô tướng đạo gọi là vô tướng quả. Khi xúc đồng sanh với sự thể nhập quả vô tướng bị xúc chạm gọi là “xúc vô tướng xúc chạm” Cũng vậy, trong vô nguyện và trống không cũng được thực hiện theo cách thứ đó. Với những từ ngữ thêm vào như đã được nói đến, xúc cần đi đến một lựa chọn nào đó: “Trống không xúc hay vô tướng xúc hoặc vô nguyện xúc”, do vậy cần nói đến xúc thông qua cả về phận sự và về đối tượng. Bởi vì khi nói như thế thì từ ngữ sẽ kết hợp lại với nhau: “ba loại xúc tiếp chạm”.

vivekaninnantiādīsu nibbānaṃ viveko nāma, tasmiṃ viveke ninnaṃ onatanti vivekaninnaṃ. aññato āgantvā yena viveko, tena vaṅkaṃ viya hutvā ṭhitanti vivekapoṇaṃ. yena viveko, tena patamānaṃ viya ṭhitanti vivekapabbhāraṃ.

Niết bàn được gọi là sự tịch tịnh trong câu “hướng đến sự tịch tịch (vivekaninnaṃ)”, gọi là hướng đến sự tịch tịnh bởi vì đổ về, hướng về sự tịch tịnh ấy. Gọi là nghiêng về sự tịch tịnh (vivekaponaṃ) cũng bởi đến từ nơi khác rồi vững trú giống như (khiến cho có khuynh hướng) đi vào nơi tịch tịnh ấy. Gọi là ngã theo sự tịch tịnh (vivekapabbhāraṃ) bởi vì vững trú lại giống như rơi vào sự tịch tịnh ấy.

465. idāni V.2.262 yā vedanā nirodhetvā nirodhasamāpattiṃ samāpajjati, tā pucchissāmīti pucchanto kati panāyye, vedanāti āha. kāyikaṃ vātiādīsu pañcadvārikaṃ sukhaṃ P.2.368 kāyikaṃ nāma, manodvārikaṃ cetasikaṃ nāmāti veditabbaṃ. tattha sukhanti sabhāvaniddeso. sātanti tasseva madhurabhāvadīpakaṃ vevacanaṃ. vedayitanti vedayitabhāvadīpakaṃ, sabbavedanānaṃ sādhāraṇavacanaṃ. sesapadesupi eseva nayo. ṭhitisukhā vipariṇāmadukkhātiādīsu sukhāya vedanāya atthibhāvo sukhaṃ, natthibhāvo dukkhaṃ. dukkhāya vedanāya atthibhāvo dukkhaṃ, natthibhāvo sukhaṃ. adukkhamasukhāya vedanāya jānanabhāvo sukhaṃ, ajānanabhāvo dukkhanti attho.

465 Bây giờ khi nam cư sĩ Visākha hỏi “Tôi xin hỏi thọ mà vị Tỳ khưu đã diệt tận mới nhập vào sự thể nhập thiền diệt” mới nói lời rằng: “Thưa Ni sư, có bao nhiêu thọ”. Sự an lạc diễn tiến qua năm môn trong câu sau: “Hoặc diễn tiến qua lộ thân” gọi là sự an lạc thuộc về thân, diễn tiến qua ý môn nên biết rằng gọi là sự an lạc thuộc về tâm. Trong vấn đề của thọ ấy thì từ “lạc thọ” là từ giải thích rõ trạng thái. “Sự vui thích” là từ dùng để thay thế để miêu tả sự ngọt ngào của chính lạc thọ ấy. “Sự cảm thọ” là từ chung chung của mọi loại cảm thọ được trình bày là sự thọ lãnh. Các từ còn lại cũng được thực hiện theo cách thức như thế. Trong câu bắt đầu bằng: “Sự vững trú là lạc, sự biến hoại là khổ” là sự tồn tại của lạc thọ gọi là lạc, sự không tồn tại (của lạc) gọi là khổ. Sự tồn tại của khổ thọ gọi là khổ, sự không tồn tại (của khổ) gọi là lạc. Sự hiểu biết bản chất bất khổ bất lạc thọ gọi là lạc, sự không biết bản chất gọi là khổ.

kiṃ anusayo anusetīti katamo anusayo anuseti. appahīnaṭṭhena sayito viya hotīti anusayapucchaṃ pucchati. na kho, āvuso M.2.267 visākha, sabbāya sukhāya vedanāya rāgānusayo anusetīti na sabbāya sukhāya vedanāya rāgānusayo anuseti. na sabbāya sukhāya vedanāya so appahīno, na sabbaṃ sukhaṃ vedanaṃ ārabbha uppajjatīti attho. esa nayo sabbattha. kiṃ pahātabbanti ayaṃ pahānapucchā nāma.

Có tùy miên nào đang ngủ ngầm” cư sĩ Visākha hỏi về tùy miên rằng tùy miên như thế nào đang ngủ ngầm giống như người đang nằm ngủ bởi ý nghĩa vẫn chưa từ bỏ chưa được. “Na kho, āvuso visākha, sabbāya sukhāya vedanāya rāgānusayo anuseti (Này hiền hữu Visākha, tham ái tùy miên không phải ngủ ngầm trong mọi lạc thọ đâu)”: nghĩa là ái tùy miên không phải ngủ ngầm trong tất cả các lạc thọ, ái tùy miên ấy không phải không được đoạn diệt trong tất cả các lạc thọ, tức là ái tùy miên không nương vào tất cả lạc thọ để sinh khởi. Ở trong mọi chỗ cũng thực hiện theo cách thức tương tự. “Nên từ bỏ cái gì” đây là lời hỏi đến việc từ bỏ.

rāgaṃ tena pajahatīti ettha ekeneva byākaraṇena dve pucchā vissajjesi. idha bhikkhu rāgānusayaṃ vikkhambhetvā paṭhamajjhānaṃ samāpajjati, jhānavikkhambhitaṃ rāgānusayaṃ tathā vikkhambhitameva katvā vipassanaṃ vaḍḍhetvā anāgāmimaggena samugghāteti. so anāgāmimaggena pahīnopi tathā vikkhambhitattāva paṭhamajjhāne nānuseti nāma. tenāha — “na tattha rāgānusayo anusetī”ti.

rāgaṃ tena pajahati (từ bỏ ái luyến bằng Sơ thiền đó) này Trưởng lão Ni Dhammadinna trả lời câu hỏi thứ hai. Vị tỳ khưu trong Pháp và Luật này sau khi đè nén được ái tùy miên, nhập vào sơ thiền, làm cho ái tùy miên bị thiền đè nén trở thành cái bị đè nén như thế, rồi tu tập minh sát, bứng tận gốc hoàn toàn bằng Thánh Đạo A-na-hàm. Ái tùy miên này mặc dù đã được dứt bỏ bởi Thánh Đạo A-na-hàm vẫn còn gọi là ngủ ngầm ở sơ thiền bởi vì tính chất của nó bị sơ thiền đè nén như thế. Cho nên, Trưởng lão Ni Dhammadinnā đã nói rằng: “Ái tùy miên không ngủ ngầm ở sơ thiền (lạc thọ) đó”.

tadāyatananti taṃ āyatanaṃ, paramassāsabhāvena patiṭṭhānabhūtaṃ arahattanti attho. iti anuttaresūti evaṃ anuttarā vimokkhāti laddhanāme arahatte. pihaṃ upaṭṭhāpayatoti patthanaṃ paṭṭhapentassa. uppajjati pihāpaccayā domanassanti patthanāya paṭṭhapanamūlakaṃ domanassaṃ uppajjati. taṃ panetaṃ na patthanāya paṭṭhapanamūlakaṃ uppajjati, patthetvā alabhantassa pana alābhamūlakaṃ uppajjamānaṃ, “uppajjati pihāpaccayā”ti vuttaṃ. tattha kiñcāpi domanassaṃ nāma ekantena akusalaṃ, idaṃ pana sevitabbaṃ domanassaṃ vaṭṭatīti vadanti.

Tadāyatanaṃ” chia thành taṃ + āyatanaṃ nghĩa là bậc Thánh Quả A-ra-hán được gọi là nơi nương tựa bởi bản chất (tâm) cao thượng. Iti anuttaresu (tối thượng như vậy) vị thiết lập sự ước nguyện trong quả vị A-ra-hán được gọi là sự giải thoát tối thượng như vậy. Pihaṃ upaṭṭhāpayato (do vị Tỳ khưu đặt ước nguyện): nghĩa là khi vị ấy đặt nguyện vọng, uppajjati pihāppaccayā domanassaṃ (thọ ưu sanh khởi do sự ước muốn làm duyên): sanh khởi ưu phiền làm gốc để cho ước muốn được thiết lập, tuy nhiên Ngài nói rằng ưu phiền ấy không sanh khởi do có căn gốc được thiết lập trực tiếp từ sự ước muốn. Nhưng ưu phiền ấy có tính chất không được làm căn gốc đó, khi đã sanh khởi cùng người có ước muốn không được, Ngài mới nói rằng “sanh khởi do duyên mong cầu”. Một số vị lại nói: “Dẫu rằng ưu phiền trong sự ước nguyện không được mong cầu ấy chỉ là một phần bất thiện, nắm lấy điều đó cũng có thể lãnh thọ ưu phiền, ưu phiền này cần thiết.

yogino hi P.2.369 temāsikaṃ chamāsikaṃ vā navamāsikaṃ vā paṭipadaṃ gaṇhanti. tesu yo taṃ taṃ paṭipadaṃ gahetvā antokālaparicchedeyeva arahattaṃ pāpuṇissāmīti ghaṭento vāyamanto na sakkoti yathāparicchinnakālena V.2.263 pāpuṇituṃ, tassa balavadomanassaṃ uppajjati, āḷindikavāsimahāphussadevattherassa viya assudhārā pavattanti. thero kira ekūnavīsativassāni gatapaccāgatavattaṃ pūresi. tassa, “imasmiṃ vāre arahattaṃ gaṇhissāmi, imasmiṃ vāre visuddhipavāraṇaṃ pavāressāmī”ti mānasaṃ bandhitvā samaṇadhammaṃ karontasseva ekūnavīsativassāni atikkantāni. pavāraṇādivase āgate therassa assupātena muttadivaso nāma nāhosi. vīsatime pana vasse arahattaṃ pāṇuṇi.

Quả thật, các hành giả ấy nhận đề mục thực hành trong khoảng thời gian 3 tháng, 6 tháng hoặc 9 tháng. Trong số các hành giả đó, những vị nhận lấy đề mục đó đó rồi ra sức nỗ lực tinh cần với suy nghĩ rằng: “Trong khoảng thời gian chừng này, ta có thể chứng đắc quả vị A-ra-hán” nhưng không thể chứng đắc trong thời gian được ấn định đã khởi lên nỗi buồn dữ dội, hai dòng nước mắt lăn dài giống như chuyện của trưởng lão Mahāphussa sống ở vùng Āḷindaka. Được biết Trưởng lão thực hành bổn phận nắm lấy đề mục nghiệp xứ đi kinh hành trong suốt khoảng thời gian 19 năm, khi Trưởng lão ấy hạ quyết tâm rằng: “Lần này ta sẽ nắm lấy (chứng đắc) cho được quả vị A-ra-hán,” hoặc “Lần này ta sẽ tự tứ với lời tự tứ thanh tịnh” rồi thực hành Sa-môn pháp ấy suốt 19 năm trôi qua; khi đến ngày tự tứ cũng không có ngày của vị được giải thoát, (trong suốt khoảng thời gian ấy) do nhưng giọt nước mắt rơi của trưởng lão, nhưng vào năm thứ 20 ngài mới chứng đạt được quả vị A-ra-hán.

paṭighaṃ M.2.268 tena pajahatīti ettha domanasseneva paṭighaṃ pajahati. na hi paṭigheneva paṭighappahānaṃ, domanassena vā domanassappahānaṃ nāma atthi. ayaṃ pana bhikkhu temāsikādīsu aññataraṃ paṭipadaṃ gahetvā iti paṭisañcikkhati — “passa bhikkhu, kiṃ tuyhaṃ sīlena hīnaṭṭhānaṃ atthi, udāhu vīriyena, udāhu paññāya, nanu te sīlaṃ suparisuddhaṃ vīriyaṃ supaggahitaṃ paññā sūrā hutvā vahatī”ti. so evaṃ paṭisañcikkhitvā, “na dāni puna imassa domanassassa uppajjituṃ dassāmī”ti vīriyaṃ daḷhaṃ katvā antotemāse vā antochamāse vā antonavamāse vā anāgāmimaggena taṃ samugghāteti. iminā pariyāyena paṭigheneva paṭighaṃ, domanasseneva domanassaṃ pajahati nāma.

paṭighaṃ tena pajahati (đoạn trừ sân hận bằng ưu phiền ấy) này có nghĩa là lấy ưu phiền để đoạn trừ sân hận là không được, hoặc lấy chính sân hận để đoạn trừ sân hận cũng không được, hoặc lấy ưu phiền đoạn trừ ưu phiền cũng không thể. Tuy nhiên vị Tỳ khưu này nhận lấy một đề mục thực hành nào đó trong các đề mục (thực hành) chẳng hạn như có thời gian 3 tháng v.v… rồi quán sát như vầy: “Này Tỳ khưu, hãy xem ông có nền tảng hạ liệt về giới,về tinh tấn hay về trí tuệ? giới của ông thanh tịnh rồi không phải sao? ông duy trì sự tinh tấn không phải sao? trí tuệ của ông là pháp mạnh mẽ dẫn lối không phải sao?” Khi đã quán sát như thế rồi vị ấy thấy rằng: “Bây giờ, ta sẽ không để cho ưu phiền này khởi lên nữa” nên đã làm cho tinh tấn trở nên dõng mãnh trong vòng 3 tháng, 6 tháng hoặc 9 tháng cũng đã nhổ lên phẫn nộ ấy bằng Thánh đạo A-na-hàm một cách hoàn toàn; theo cách như thế gọi là đã dùng chính phẫn nộ ấy để đoạn trừ phẫn nộ, dùng chính ưu phiền để dứt trừ ưu phiền.

na tattha paṭighānusayo anusetīti tattha evarūpe domanasse paṭighānusayo nānuseti. na taṃ ārabbha uppajjati, pahīnova tattha paṭighānusayoti attho. avijjaṃ tena pajahatīti idha bhikkhu avijjānusayaṃ vikkhambhetvā catutthajjhānaṃ samāpajjati, jhānavikkhambhitaṃ avijjānusayaṃ tathā vikkhambhitameva katvā vipassanaṃ vaḍḍhetvā arahattamaggena samugghāteti. so arahattamaggena pahīnopi tathā vikkhambhitattāva catutthajjhāne P.2.370 nānuseti nāma. tenāha — “na tattha avijjānusayo anusetī”ti.

Phẫn nộ tùy miên không ngủ ngầm trong thọ ưu ấy: có nghĩa là trong ưu phiền kiểu như thế, phẫn nộ tùy miên không ngủ ngầm, phẫn nộ tùy miên không mở lối để ưu phiền đó sanh khởi, phẫn nộ tùy miên bị đoạn tận ở trong ưu phiền đó. Avijjaṃ tena pajahati (Đoạn tận vô minh bằng A-ra-hán đạo ấy): vị tỳ khưu ở trong Pháp và Luật này đè nén vô minh tùy miên rồi nhập vào tứ thiền, làm cho vô minh tùy miên bị thiền đè nén, trở thành pháp bị đè nén như vậy, rồi phát triển tuệ minh sát và đoạn tận được hoàn toàn bằng A-ra-hán đạo. Vô minh tùy miên ấy dù bị A-ra-hán đạo đoạn tận nhưng vẫn gọi là ngủ ngầm ở tứ thiền bởi bị tứ thiền đè nén như thế. Do vậy ni sư Dhammadinnä mới nói: “Vô minh tùy miên không ngủ ngầm ở tứ thiền (A-ra-hán đạo)”.

466. idāni paṭibhāgapucchaṃ pucchanto sukhāya panāyyetiādimāha. tassa vissajjane yasmā sukhassa dukkhaṃ, dukkhassa ca sukhaṃ paccanīkaṃ, tasmā dvīsu vedanāsu visabhāgapaṭibhāgo kathito. upekkhā pana andhakārā avibhūtā duddīpanā, avijjāpi tādisāvāti tenettha sabhāgapaṭibhāgo kathito. yattakesu pana ṭhānesu avijjā tamaṃ karoti, tattakesu V.2.264 vijjā tamaṃ vinodetīti visabhāgapaṭibhāgo kathito.

Bây giờ, khi hỏi câu hỏi về phần tương đương (để so sánh), nam cư sĩ Visākha đã nói rằng: “Thưa ni sư cái gì là Pháp để so sánh của lạc thọ”. Trong việc giải đáp câu hỏi ấy (nên biết đặt nội dung như sau): vì khổ là đối nghịch với lạc và lạc là đối nghịch của khổ, cho nên Ngài mới nói so sánh sự khác biệt trong cả hai loại cảm thọ. Về phần thọ xả là Pháp bị bóng tối bao phủ, không rõ ràng, khó làm sáng tỏ, thậm chí cả vô minh cũng như thọ xả vậy. Do đó, Ngài mới nói so sánh cả phần tương đương trong trường hợp này bằng cách so sánh. Lại nữa, con người đã làm điều tăm tối tức là vô minh ở nơi có sự ước lượng chừng nào thì sẽ làm tiêu tan sự tối tăm tức là vô minh ở nơi có sự ước lượng chừng ấy, cho nên mới nói cả phần tương đương và phần đối nghịch ở chỗ này.

avijjāya kho, āvusoti ettha ubhopete dhammā anāsavā lokuttarāti sabhāgapaṭibhāgova kathito. vimuttiyā kho, āvusoti ettha anāsavaṭṭhena lokuttaraṭṭhena abyākataṭṭhena ca sabhāgapaṭibhāgova kathito. accayāsīti ettha pañhaṃ atikkamitvā gatosīti attho. nāsakkhi pañhānaṃ pariyantaṃ gahetunti pañhānaṃ paricchedapamāṇaṃ gahetuṃ nāsakkhi, appaṭibhāgadhammassa paṭibhāgaṃ pucchi. nibbānaṃ nāmetaṃ appaṭibhāgaṃ M.2.269, na sakkā nīlaṃ vā pītakaṃ vāti kenaci dhammena saddhiṃ paṭibhāgaṃ katvā dassetuṃ. tañca tvaṃ iminā adhippāyena pucchasīti attho.

avijjāya kho, āvuso (này hiền hữu, của vô minh): và Ngài nói đến cả phần tương đương và phần đối nghịch: “Cả hai pháp này không có lậu hoặc, là Pháp Siêu thế pháp”. Ngài nói cả về phần tương đương và phần đối nghịch với ý nghĩa không có lậu hoặc, với ý nghĩa là Pháp Siêu thế và với y nghĩa vô ký trong câu này rằng: “vimuttiyā kho, āvuso (này hiền hữu, của giải thoát)”. Accayāsi (ông đã vượt quá vấn đề): ông là người đã hỏi vấn đề đi quá xa (vượt ra ngoài giới hạn). Nasakkhi pañhānaṃ pariyantaṃ gahetuṃ (ông không thể nắm lấy tận cùng của vấn đề): ông không thể lấy được chừng mực của việc xác định câu định nên mới hỏi về sự tương đồng của pháp không tương đồng; Niết bàn này là pháp bất đồng, không ai có thể thực hiện được phép so sánh với một số Pháp khác như màu xanh hay màu vàng rồi đem ra thuyết giảng, và ông hỏi về Niết bàn ấy với ước muốn này.

ettāvatā cāyaṃ upāsako yathā nāma sattame ghare salākabhattaṃ labhitvā gato bhikkhu satta gharāni atikkamma aṭṭhamassa dvāre ṭhito sabbānipi satta gehāni viraddhova na aññāsi, evamevaṃ appaṭibhāgadhammassa paṭibhāgaṃ pucchanto sabbāsupi sattasu sappaṭibhāgapucchāsu viraddhova hotīti veditabbo. nibbānogadhanti nibbānabbhantaraṃ nibbānaṃ anupaviṭṭhaṃ. nibbānaparāyananti nibbānaṃ paraṃ ayanamassa parā gati, na tato paraṃ gacchatīti attho. nibbānaṃ pariyosānaṃ avasānaṃ assāti nibbānapariyosānaṃ.

Với lời nói chỉ bằng chứng ấy, vị cư sĩ hỏi sự tương đồng của pháp không tương đồng là điều mà chúng ta nên biết rằng: là người sai sót trong việc hỏi liên quan đến phần tương đồng ở mọi câu; giống như vị Tỳ khưu nhận được phiếu bốc thăm thực phẩm tại căn nhà thứ 7 rồi đi qua 7 ngôi nhà và đứng lại trước cửa của nhà thứ 8 mà không biết rằng đã sai cả 7 căn nhà. Nibbānogadhaṃ (để thể nhập vào Niết-bàn) là đi vào bên trong Niết bàn, tức là nhập vào Niết bàn. Nibbānaparāyana (có Niết bàn là điểm đến): Niết bàn là nơi đi đến phía trước của vị ấy, có nghĩa là (vị ấy) không đi nơi khác ngoài Niết bàn đó. Nibbānapariyosānaṃ (để đạt đến cứu cánh Niết bàn): Niết bàn là (mục đích) cuối cùng của ta.

467. paṇḍitāti paṇḍiccena samannāgatā, dhātukusalā āyatanakusalā paṭiccasamuppādakusalā ṭhānāṭṭhānakusalāti attho. mahāpaññāti mahante atthe mahante dhamme mahantā P.2.371 niruttiyo mahantāni paṭibhānāni pariggaṇhanasamatthāya paññāya samannāgatā. yathā taṃ dhammadinnāyāti yathā dhammadinnāya bhikkhuniyā byākataṃ, ahampi taṃ evamevaṃ byākareyyanti. ettāvatā ca pana ayaṃ suttanto jinabhāsito nāma jāto, na sāvakabhāsito. yathā hi rājayuttehi likhitaṃ paṇṇaṃ yāva rājamuddikāya na lañchitaṃ hoti, na tāva rājapaṇṇanti saṅkhyaṃ gacchati; lañchitamattaṃ pana rājapaṇṇaṃ nāma hoti, tathā, “ahampi taṃ evameva byākareyyan”ti imāya jinavacanamuddikāya lañchitattā ayaṃ suttanto āhaccavacanena jinabhāsito nāma jāto. sesaṃ sabbattha uttānatthamevāti.

Vị đã thành tựu bản thể bậc trí gọi là ‘bậc trí giả’ nghĩa là vị thiện xảo trong các giới (dhātu), thiện xảo trong các xứ (āyatana), thiện xảo trong lý duyên khởi (paṭiccasamuppāda), vị thiện xảo biết được điều gì có thể là có thể, và điều gì không thể là không thể (ṭhānāṭṭhāna). Có tuệ vĩ đại là vị có đạt được trí tuệ đầy đủ, có khả năng nắm giữ các ý nghĩa vĩ đại, nắm giữ các pháp vĩ đại, nắm giữ các ngôn từ vĩ đại, nắm giữ các phép biện giải vĩ đại. Yathā taṃ Dhammadinnāya (như Tỳ khưu Ni Dhammadinna…đã trả lời): ngay cả Ta (đức Phật) cũng trả lời giống như Tỳ khưu Ni Dhammadinnā đã trả lời. Hơn nữa, do Phật ngôn chỉ chừng ấy nên bài Kinh này trở thành kim ngôn của đấng Chiến Thắng, không phải là lời của đệ tử. Giống như lời nói trong bản chiếu chỉ do quan thư biên soạn ra nhưng vẫn chưa được đóng ấn triện của đức vua thì chưa được gọi là chiếu chỉ vua ban trong suốt thời gian còn chưa đóng ấn triện của đức vua; cho đến khi nào văn thư đó được đóng ấn triện xong thì văn thư ấy mới được gọi là chiếu chỉ như thế nào, và cũng như thế đó bài Kinh này trở thành lời Phật ngôn của Đấng Chiến Thắng thông qua việc xem xét rồi xác nhận do nội dung, tức là lời chỉ dạy của Đấng Chiến Thắng đã được đóng dấu (xác chứng): “Ngay cả Như Lai cũng trả lời như thế”. Các câu từ còn lại đều đơn giản dễ hiểu.

Giải Thích Tiểu Kinh Phương Quảng Kết Thúc