Kinh số 04 – Giải Thích Kinh Khiếp Đảm và Sợ Hãi

(Bhayabheravasuttavaṇṇanā)

Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Khiếp Đảm và Sợ Hãi  

  1. Evaṃme sutanti bhayabheravasuttaṃ. Tatrāyaṃ apubbapadavaṇṇanā – athāti avicchedanatthe nipāto. Khoti avadhāraṇatthe, bhagavato sāvatthiyaṃ vihāre avicchinneyevāti vuttaṃ hoti. Jāṇussoṇīti netaṃ tassa mātāpitūhi katanāmaṃ, apica kho ṭhānantarapaṭilābhaladdhaṃ. Jāṇussoṇiṭṭhānaṃ kira nāmetaṃ purohitaṭṭhānaṃ, taṃ tassa raññā dinnaṃ, tasmā ‘‘jānussoṇī’’ti vuccati. Brahmaṃ aṇatīti brāhmaṇo, mante sajjhāyatīti attho. Idameva hi jātibrāhmaṇānaṃ niruttivacanaṃ. Ariyā pana bāhitapāpattā brāhmaṇāti vuccanti.
    Bài Kinh Khiếp Đảm và Sợ Hãi được bắt đầu bằng Tôi đã nghe như vầy. Ở bài Kinh này được giải thích theo trình tự như sau— ‘atha’là một phân từ, trong ý nghĩa không gián đoạn. ‘Kho’ cũng là một phân từ, trong ý nghĩa bác bỏ ý nghĩa khác. Được giải thích rằng– Đức Thế Tôn an trú ở thành Sāvatthi không gián đoạn. Jāṇussoṇi: đây không phải là tên được đặt bởi cha mẹ của vị ấy, mà đây là tên gọi có được từ việc đạt được một tước vị. Được biết rằng tước vị Jāṇussoṇi đó là chức vụ của vị quan tế tự. Đức vua đã ban chức tước ấy cho vị ấy, vì vậy mọi người gọi vị ấy là Jāṇussoṇi. Bà-la-môn: vị tạo ra âm giọng Phạm thiên, giải thích rằng– việc trì tụng chú thuật. Bà-la-môn là ngôn ngữ dùng để gọi Bà-la-môn theo sanh chủng. Còn đối với các bậc Thánh nhân, các Ngài cũng được gọi là Bà-la-môn, bởi vì đã từ bỏ các ác pháp.

Yenabhagavā tenupasaṅkamīti yenāti bhummatthe karaṇavacanaṃ, tasmā yattha bhagavā, tattha upasaṅkamīti evamettha attho daṭṭhabbo. Yena vā kāraṇena bhagavā devamanussehi upasaṅkamitabbo, tena kāraṇena upasaṅkamīti evamettha attho daṭṭhabbo. Kena ca kāraṇena bhagavā upasaṅkamitabbo? Nānappakāraguṇavisesādhigamādhippāyena, sāduphalūpabhogādhippāyena dijagaṇehi niccaphalitamahārukkho viya.

Yena trong câu yena bhagavā tenupasaṅkami là sở dụng cách (tatiyāvibhatti) được sử dụng với ý nghĩa của định sở cách (sattamīvibhatti). Do đó, ý nghĩa của từ này nên được hiểu như sau: Đức Thế Tôn an trú ở chỗ nào? Bà-la-môn Jāṇussoṇi đến yết kiến ngài chỗ đó. Hơn nữa, nên biết ý nghĩa trong lời này như vậy. Hoặc, đức Thế Tôn được chư Thiên và loài người đến yết kiến với lý do nào? Bà-la-môn Jāṇussoṇi cũng đến yết kiến đức Thế Tôn với lý do đó. Đức Thế Tôn được các chư Thiên và nhân loại đến yết kiến lý do gì? Với ước muốn chứng đắc pháp cao thượng ở nhiều phương diện khác nhau, giống như cây cổ thụ không ngừng đơm hoa kết trái, nơi mà đàn chim bay đến với mong muốn ăn trái cây có hương vị ngon ngọt.

Upasaṅkamīti ca gatoti vuttaṃ hoti. Upasaṅkamitvāti upasaṅkamanapariyosānadīpanaṃ. Atha vā evaṃ gato tato āsannataraṃ ṭhānaṃ bhagavato samīpasaṅkhātaṃ gantvātipi vuttaṃ hoti. Bhagavatā saddhiṃ sammodīti yathā khamanīyādīni pucchanto bhagavā tena, evaṃ sopi bhagavatā saddhiṃ samappavattamodo ahosi, sītodakaṃ viya uṇhodakena sammoditaṃ ekībhāvaṃ agamāsi. Yāya ca ‘‘kacci te, bho gotama, khamanīyaṃ, kacci yāpanīyaṃ, kacci bhoto gotamassa gotamasāvakānañca appābādhaṃ appātaṅkaṃ lahuṭṭhānaṃ balaṃ phāsuvihāro’’tiādikāya kathāya sammodi, taṃ pītipāmojjasaṅkhātasammodajananato sammodituṃ yuttabhāvato ca sammodanīyaṃ, atthabyañjanamadhuratāya sucirampi kālaṃ sāretuṃ nirantaraṃ pavattetuṃ araharūpato saritabbabhāvato ca sārāṇīyaṃ. Suyyamānasukhato ca sammodanīyaṃ, anussariyamānasukhato ca sāraṇīyaṃ. Tathā byañjanaparisuddhatāya sammodanīyaṃ, atthaparisuddhatāya sāraṇīyanti evaṃ anekehi pariyāyehi sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā pariyosāpetvā niṭṭhāpetvā yenatthena āgato, taṃ pucchitukāmo ekamantaṃ nisīdi.

đến gặp (đức Thế Tôn) và được giải thích rằng ‘đã đi’. Sau khi đi đến là từ giải thích sự đi đến gần được kết thúc. Hoặc hơn nữa, được giải thích rằng đã đi đến như vậy, tiến gần hơn thế nữa được xem là ở chỗ gần đức Thế Tôn. Bhagavatā saddhiṃ sammodi (nói lên những lời chào đón hỏi thăm với Thế Tôn) nghĩa là đức Thế Tôn khi hỏi đến sự an lạc và đau khổ v.v, gọi là có tâm niềm nở với Bà-la-môn như thế nào, cả Bà-la-môn đó cũng có sự hân hoan cùng với đức Thế Tôn là đạt đến sự hân hoan, sự mật thiết với đức Thế Tôn, giống như nước lạnh với nước nóng được hòa lẫn thế ấy. và hơn nữa Bà-la-môn đó vui mừng (với đức Thế Tôn) do lời nói nào khởi đầu rằng “Thân thể của Ngài Gotama vẫn kham nhẫn được chăng? Thân thể của Ngài Gotama có điều hòa được chăng? Ngài Gotama và chư đệ tử của Ngài Gotama có ít bệnh, ít mệt mỏi, đi lại nhẹ nhàng, khỏe mạnh và sống an ổn chăng?” Những lời đó gọi là sammodanīya (làm nhân sanh sự vui mừng) bởi làm nhân khởi lên sự vui mừng là phỉ lạc và sự hân hoan, và bởi vì chúng là những lời nói thích hợp đem lại sự vui mừng. Sārāṇīyaṃ (làm nhân cho nhớ đến nhau) vì đó là từ thích hợp để cho (người nghe nhớ) mãi mãi, cả trong một thời gian dài, là làm cho không bị gián đoạn. Và bởi vì nó là một từ mà [bản thân người nói] cũng phải ghi nhớ, gọi là samodanīya bởi vì khi nghe cũng được hạnh phúc, gọi là saranīya bởi vì khi nhớ đến cũng được hạnh phúc. Hơn nữa, gọi là sammodanīya vì văn cú rõ ràng, gọi là samodanīya bởi vì ý nghĩa được sáng tỏ. Sau khi Bà-la-môn nói lời trao đổi xã giao thân thiện, đã hoàn tất, đã kết thúc với nhiều phương diện khác nhau, như đã được giải thích, có ý muốn hỏi về mục đích mà khiến bản thân phải đi đến, rồi ngồi xuống một bên phù hợp.

Ekamantanti bhāvanapuṃsakaniddeso, ‘‘visamaṃ candimasūriyā parivattantī’’tiādīsu (a. ni. 4.70) viya. Tasmā yathā nisinno ekamantaṃ nisinno hoti, tathā nisīdīti evamettha attho daṭṭhabbo. Bhummatthe vā etaṃ upayogavacanaṃ. Nisīdīti upāvisi. Paṇḍitā hi purisā garuṭṭhāniyaṃ upasaṅkamitvā āsanakusalatāya ekamantaṃ nisīdanti, ayañca nesaṃ aññataro, tasmā ekamantaṃ nisīdi.

Ekamantaṃ (ngồi xuống một bên) là từ trình bày bhāvanapuṃsaka (hành động đặc biệt] giống như “mặt trăng và mặt trời xoay quanh (quỹ đạo) không bằng nhau.[1]” Vì vậy nên hiểu vấn đề trong trường hợp này như vậy, Bà-la-môn ấy ngồi giống như vị ấy ngồi cùng nhau nơi thích hợp. Hơn nữa, ekamantaṃ là đối cách (dutiyāvibhatti) được sử dụng với ý nghĩa của định sở cách (sattamīvibhatti). nisīdi nghĩa là vào ngồi gần. Bởi một người trí sau khi đi đến yết kiến hạng người được đặt ở vị trí là thầy rồi ngồi xuống một bên thích hợp, do là bậc khéo léo trong chỗ ngồi và Bà-la-môn này cũng là một bậc trí trong số bậc trí đó, bởi thế vị ấy mới ngời xuống một bên thích hợp.

Kathaṃ nisinno pana ekamantaṃ nisinno hotīti. Cha nisajjadose vajjetvā. Seyyathidaṃ, atidūraṃ accāsannaṃ uparivātaṃ unnatapadesaṃ atisammukhaṃ atipacchāti. Atidūre nisinno hi sace kathetukāmo hoti, uccāsaddena kathetabbaṃ hoti. Accāsanne nisinno saṅghaṭṭanaṃ karoti. Uparivāte nisinno sarīragandhena bādhati. Unnatappadese nisinno agāravaṃ pakāseti. Atisammukhā nisinno sace daṭṭhukāmo hoti, cakkhunā cakkhuṃ āhacca daṭṭhabbaṃ hoti. Atipacchā nisinno sace daṭṭhukāmo hoti, gīvaṃ pasāretvā daṭṭhabbaṃ hoti. Tasmā ayampi ete cha nisajjadose vajjetvā nisīdi, tena vuttaṃ ‘‘ekamantaṃ nisīdī’’ti.

Hơn nữa, ngồi như thế nào được gọi là ngồi ở nơi thích hợp? — Sáu cách ngồi kiêng tránh lỗi lầm. — Sáu cách ngồi (gây ra) lỗi lầm gồm những gì? — (1) Nắng quá xa; (2) ngồi quá gần; (3) ngồi ngược chiều gió; (4) ngồi ở chỗ cao; (5) ngồi trực diện; (6) ngồi xa phía sau. (Bởi vì) người ngồi quá xa nếu muốn nói chuyện sẽ nói với âm giọng lớn; ngồi quá gần sẽ có sự cọ xát và tiếp xúc thân mật; ngồi ngược gió gây trở ngại do mùi hôi khó chịu của cơ thể; ngồi chỗ cao tỏ thái độ bất kính, ngồi trực diện nếu muốn nhìn nhau (mặt đối mặt) thì phải nhìn thẳng vào mắt nhau; ngồi xa phía sau nếu có ý muốn nhìn sẽ phải xoay cổ ra sau để nhìn. Vì vậy, vị Bà-la-môn này ngồi, từ bỏ sáu cách ngồi sai lầm này. Vì lý do đó Ngài nói rằng Bà-la-môn ngồi xuống một bên thích hợp.

Yemeti ye ime. Kulaputtāti duvidhā kulaputtā jātikulaputtā ācārakulaputtā. Tattha ‘‘tena kho pana samayena raṭṭhapālo nāma kulaputto tasmiṃyeva thullakoṭṭhike aggakulassa putto’’ti (ma. ni. 2.294) evaṃ āgatā uccākulappasutā jātikulaputtā nāma. ‘‘Ye te kulaputtā saddhā agārasmā anagāriyaṃ pabbajitā’’ti (ma. ni. 3.78) evaṃ āgatā pana yattha katthaci kule pasutāpi ācārasampannā ācārakulaputtā nāma. Idha pana dvīhipi kāraṇehi kulaputtāyeva.

Yeme chia từ thành ye ime (những thiện nam tử nào). Thiện nam tử: có 2 loại là thiện nam tử nhờ sanh chủng và thiện nam tử nhờ hạnh kiểm. Trong số đó thiện nam tử sanh ra từ dòng dõi cao quý như vầy— “Lúc bấy giờ, thiện nam tử tên là Raṭṭhapāla, là con trai của triệu phú Aggakulika trong làng Thullakoṭṭhika đó”, (ma. ni. 2.294); như vậy được gọi là thiện nam tử nhờ sanh chủng. Còn thiện nam tử được sanh ra trong bất kỳ gia đình nào, là người có đầy đủ phẩm hạnh đến như vầy— “Bất cứ thiện nam tử nào vì lòng tin xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình,” (ma. ni. 3.78); như vậy gọi là thiện nam tử nhờ hạnh kiểm.” Tuy nhiên, trong trường hợp này đề cập đến thiện nam tử với hai lý do đó.

Saddhāti saddhāya. Agārasmāti agārato. Anagāriyanti pabbajjaṃ bhikkhubhāvañca. Pabbajjāpi hi natthettha agāriyanti anagāriyā, agārassa hitaṃ kasigorakkhādikammamettha natthīti attho. Bhikkhupi natthetassa agāranti anagāro, anagārassa bhāvo anagāriyaṃ. Pabbajitāti upagatā, evaṃ sabbathāpi anagāriyasaṅkhātaṃ pabbajjaṃ bhikkhubhāvaṃ vā upagatāti vuttaṃ hoti. Pubbaṅgamoti purato gāmī nāyako. Bahukāroti hitakiriyāya bahūpakāro. Bhavaṃ tesaṃ gotamo samādapetāti te kulaputte bhavaṃ gotamo adhisīlādīni gāhetā sikkhāpetā. Sā janatāti so janasamūho. Diṭṭhānugatiṃ āpajjatīti dassanānugatiṃ paṭipajjati, yandiṭṭhiko bhavaṃ gotamo yaṃkhantiko yaṃruciko, tepi tandiṭṭhikā honti taṃkhantikā taṃrucikāti attho.

Đức tin: với niềm tin. Rời nhà: người xuất gia và vị thọ cụ túc giới. Người xuất gia cũng gọi là sống không nhà bởi người xuất gia không có nghề nghiệp hỗ trợ cho người tại gia, trong việc xuất gia này không có nghề nông nghiệp và nghề chăn nuôi, v.v, có lợi ích cho người gia chủ. Còn tỳ khưu cũng gọi là rời nhà bởi vì Ngài không có nhà, tính chất của việc không có nhà gọi là sống không nhà. Đã xuất gia: đạt đến, tức là đạt đến đời sống xuất gia và bản thể vị tỳ khưu, gọi là việc làm không giúp ít cho đời sống tại gia ở mọi phương diện như đã trình bày. Pubbaṅgamo: Người đi phía trước, là người dẫn đầu. Bahukāro: Người có nhiều ích lợi vì làm được nhiều lợi ích. Bhavaṃ tesaṃ gotamo samādapetā (Ðối với những vị này, Ngài Gotama là vị khích lệ sách tấn) nghĩa là Ngài Gotama làm cho các thiện nam tử đó được thọ nhận là các học giới như tăng thượng giới học v.v, Sā janatā: những vị đó. Diṭṭhānugatiṃ āpajjati (chấp nhận tuân theo quan điểm): thực hành theo theo quan điểm, Ngài Gotama có quan điểm như thế nào, có điều mong mỏi như thế nào, có sự thích ý như thế nào thì các vị ấy cũng có quan điểm thế ấy, có điều mong mỏi thế ấy, có sự thích ý thế ấy.

Kasmā panāyaṃ evamāhāti? Esa kira pubbe aneke kulaputte agāramajjhe vasante devaputte viya pañcahi kāmaguṇehi paricāriyamāne anto ca bahi ca susaṃvihitārakkhe disvā, te aparena samayena bhagavato madhurarasaṃ dhammadesanaṃ sutvā saddhāya gharā nikkhamma pabbajitvā ghāsacchādanaparamatāya santuṭṭhe āraññakesu senāsanesu kenaci arakkhiyamānepi anussaṅkitāparisaṅkite haṭṭhapahaṭṭhe udaggudagge addasa, disvā ca imesaṃ kulaputtānaṃ ‘‘ayaṃ phāsuvihāro kaṃ nissāya uppanno’’ti cintento ‘‘samaṇaṃ gotama’’nti bhagavati pasādaṃ alattha. So taṃ pasādaṃ nivedetuṃ bhagavato santikaṃ āgato, tasmā evamāha.

Tại sao Bà-la-môn này đã nói như vậy? Nghe rằng người Bà-la-môn này đã nhìn thấy nhiều thiện nam tử ở giữa ngôi nhà, được làm cho thỏa mãn bởi năm loại dục như thể Thiên tử được khéo chăm sóc từ bên trong lẫn bên ngoài ngôi nhà. Một thời gian sau, các vị ấy sau khi lắng nghe bài thuyết Pháp đã nếm hương vị của Pháp Bảo của đức Thế Tôn, rồi vì lòng tin (họ) đã từ bỏ gia đình để xuất gia, người biết đủ với vật thực và y phục, thậm chí chẳng còn ai chăm sóc (như trước kia), không lo lắng và nghi ngờ, sống an vui hoan hỷ tại các trú xứ tại núi rừng hiu quạnh, và sau khi Bà-la-môn nhìn thấy cũng khởi suy nghĩ rằng: “sự sống như vậy của những thiện nam tử này, được xem là cách sống an ổn, cách sống an ổn này sanh ra do nương vào ai? Đã nhận được lời đáp rằng ‘do y cứ vào Ngài Gotama’ mới có lòng tịnh tín nơi đức Thế Tôn, để tuyến bố lòng tin đó, vị ấy đã đến hội chúng của đức Thế Tôn, do đó vị ấy đã nói những lời đã nói này.

Athassa bhagavā taṃ vacanaṃ sampaṭicchanto abbhanumodanto ca evametaṃ brāhmaṇātiādimāha. Vacanasampaṭicchanānumodanatthoyeva hi ettha ayaṃ evanti nipāto. Mamaṃ uddissāti maṃ uddissa. Saddhāti saddhāyeva. Na iṇaṭṭhā na bhayaṭṭātiādīni sandhāyāha. Īdisānaṃyeva hi bhagavā pubbaṅgamo, na itaresaṃ. Durabhisambhavāni hīti sambhavituṃ dukkhāni dussahāni, na sakkā appesakkhehi ajjhogāhitunti vuttaṃ hoti. Araññavanapatthānīti araññāni ca vanapatthāni ca. Tattha kiñcāpi abhidhamme nippariyāyena, ‘‘nikkhamitvā bahi indakhilā sabbametaṃ arañña’’nti vuttaṃ, tathāpi yantaṃ ‘‘pañcadhanusatikaṃ pacchima’’nti āraññikaṅganipphādakaṃ senāsanaṃ vuttaṃ, tadeva adhippetanti veditabbaṃ.

Tiếp sau đó, đức Thế Tôn khi đã chấp nhận và đã nói lời tùy hỷ nên Ngài đã nói rằng: “Này Bà-la-môn, thật sự là vậy…Này Bà-la-môn, thật sự là vậy này được giải thích như sau: ‘như vầy’ là phân từ được từ với ý nghĩa đã chấp thuận và đã hoan hỉ thọ lãnh lời nói (của người khác). Mamaṃ uddissa cụ thể là đấng Như Lai. Đức tin đức Thế Tôn ý muốn nói đến các nguyên nhân khác được bắt đầu như sau: “Với chính lòng tin, không phải (xuất gia) do mắc nợ, không phải do sợ hãi. Bởi vì đức Thế Tôn chính là trưởng nhóm của những thiện nam tử này, không phải của nhóm khác. Durabhisambhavāni hi (thật khó kham nhẫn những trú xứ xa vắng) nghĩa là thật khó sống an ổn, khó kham nhẫn được, tức là vị tỳ khưu không đủ năng lực thì không thể an trú được. Những trú xứ xa vắng trong rừng núi hoang vu! gồm những khu rừng và những nơi heo hút, hoang vu. những trú xứ xa vắng trong rừng núi hoang vu! đó có lời giải thích rằng: nói trực tiếp theo Abhidhamma thì tất cả những nơi cư trú ở ngoài thềm nhà Ngài gọi là ‘rừng’, tuy nhiên cũng nên biết rằng chỗ cư ngụ nào được tạo ra hạnh trú ẩn trong rừng mà Ngài nói rằng “cách căn nhà cuối cùng khoảng 500 cây cung tên”, Ngài có ý muốn nói đến trú xứ ấy mà thôi.

Vanapatthanti gāmantaṃ atikkamitvā manussānaṃ anupacāraṭṭhānaṃ, yattha na kasīyati na vapīyati. Vuttampi cetaṃ ‘‘vanapatthanti dūrānametaṃ senāsanānaṃ adhivacanaṃ, vanapatthanti vanasaṇḍānametaṃ senāsanānaṃ, vanapatthanti bhiṃsanakānametaṃ, vanapatthanti salomahaṃsānametaṃ, vanapatthanti pariyantānametaṃ, vanapatthanti na manussūpacārānametaṃ senāsanānaṃ adhivacana’’nti. Ettha ca pariyantānanti imamekaṃ pariyāyaṃ ṭhapetvā sesapariyāyehi vanapatthāni veditabbānī. Pantānīti pariyantāni atidūrāni. Dukkaraṃ pavivekanti kāyavivekaṃ dukkaraṃ. Durabhiramanti abhiramituṃ na sukhaṃ. Ekatteti ekībhāve. Kiṃ dasseti? Kāyaviveke katepi tattha cittaṃ abhiramāpetuṃ dukkaraṃ. Dvayaṃdvayārāmo hi ayaṃ lokoti. Haranti maññeti haranti viya ghasanti viya. Manoti manaṃ. Samādhiṃ alabhamānassāti upacārasamādhiṃ vā appanāsamādhiṃ vā alabhantassa. Kiṃ dasseti? Īdisassa bhikkhuno tiṇapaṇṇamigādisaddehi vividhehi ca bhiṃsanakehi vanāni cittaṃ vikkhipanti maññeti, sabbaṃ brāhmaṇo saddhāpabbajitānaṃ kulaputtānaṃ araññavāse (vibha. 529) vimhito āha.

Chỗ heo hút gồm khu vực vượt qua cuối làng, không có người thường xuyên lui tới, lời này phù hợp với lời mà Ngài đã nói: vanapatthaṃ là tên gọi của trú xứ ở xa (xóm làng), vanapatthaṃ là tên gọi của ven rừng, vanapatthaṃ là tên của một nơi kinh hoàng đáng sợ, vanapatthaṃ là nơi khiến cho lông tóc dựng ngược, vanapatthaṃ là tên gọi một nơi ở biên giới [pariyāya], vanapatthaṃ không phải là tên của trú xứ mà người thường lui tới. và ở đây ngoài ý nghĩa này thì nơi ở ở biên giới nên hiểu khu rừng ở biên giới, theo ý nghĩa còn lại. Pantāni gồm nơi ở cuối biên địa, nơi rất xa. Dukkaraṃ pavivekaṃ (thật khó khăn đời sống viễn ly) nghĩa là thân viễn ly là một điều rất khó thực hiện. Durabhiramaṃ (thật khó để vui thích) không dễ để vui thích. Ekatte: trong việc sống độc cư. Phật ngôn thuyết điều này để trình bày điều gì? Để chỉ ra rằng dẫu thân thực hành hạnh viễn ly, thì việc làm cho tâm vui thích trong hạnh viễn ly là điều khó thực hành, bởi vì con người trong thế gian vui thích trong việc sống chung với nhau (dvayaṃdvayārāmo). Haranti maññe (dường như mang đi) nghĩa là giống như được mang đi, giống như được lôi kéo đi. Mano là ý. Samādhiṃ alabhamānassa (chưa chứng thiền định): vị chưa chứng đạt cận định và an chỉ định. Phật ngôn thuyết điều này để trình bày điều gì? “Để chỉ ra rằng khu rừng dường như làm cho tâm của vì tỳ khưu này bị xao lãng, bằng nhiều loại âm thanh khác nhau như những âm thanh của cỏ, của lá và của cả động vật, và (gồm cả) những đối tượng (tạo cảm giác) rùng rợn đáng sợ. Tất cả những lời này các Bà-la-môn khởi lên sự kinh ngạc với việc sống an trú trong rừng của các thiện nam tử vì lòng tin đã xuất gia như đã nói.” (vibha. 529);

Giải Thích Phần Thân Nghiệp

  1. Athassa bhagavā purimanayeneva ‘‘evametaṃ brāhmaṇā’’tiādīhi taṃ taṃ vacanaṃ sampaṭicchitvā abbhanumoditvā ca yasmā soḷasasu ṭhānesu ārammaṇapariggaharahitānaṃyeva tādisāni senāsanāni durabhisambhavāni, na tesu ārammaṇapariggāhayuttānaṃ, attanā ca bodhisatto samāno tādiso ahosi, tasmā attano tādisānaṃ senāsanānaṃ durabhisambhavataṃ dassetuṃ, mayhampi khotiādimāha.
    Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn đã chấp thuận và đã nói lời tùy hỷ với lời nói của Bà-la-môn đó bằng Phật ngôn sau “Này Bà-la-môn, thật sự là vậy” theo chính cách thức đầu tiên, rồi mới nói rằng— ‘Này Bà-la-môn, xưa kia khi Ta chưa chứng ngộ’ để chỉ ra rằng trú xứ này là trú xứ thật khó để sống đối với chính Ngài, do trú xứ ấy là nơi khó kham nhẫn để sống đối với chư tỳ khưu bị 16 đối tượng chi phối, nhưng không khó khăn đối với chư tỳ khưu không liên kết vào sự bám víu vào đối tượng [đã chế ngự], bởi vì lý do ấy và chính Ngài dù là một vị Bồ-tát, cũng ở nơi như vậy.

Tattha pubbeva sambodhāti sambodhato pubbeva, ariyamaggappattito aparabhāgeyevāti vuttaṃ hoti. Anabhisambuddhassāti appaṭividdhacatusaccassa. Bodhisattasseva satoti bujjhanakasattasseva sammāsambodhiṃ adhigantuṃ arahasattasseva sato, bodhiyā vā sattasseva laggasseva sato. Dīpaṅkarassa hi bhagavato pādamūle aṭṭhadhammasamodhānena abhinīhārasamiddhito pabhuti tathāgato bodhiyā satto laggo ‘‘pattabbā mayā esā’’ti tadadhigamāya parakkamaṃ amuñcantoyeva āgato, tasmā bodhisattoti vuccati. Tassa mayhanti tassa evaṃ bodhisattasseva sato mayhaṃ. Ye kho keci samaṇā vā brāhmaṇā vāti ye keci pabbajjūpagatā vā bhovādino vā.

Pubbeva sambodhā (khi chưa chứng ngộ Toàn giá) nghĩa là trước khi giác ngộ, tức vào thời điểm khác khi Thánh đạo sanh khởi. Vẫn chưa chứng ngộ Toàn giác: vẫn chưa thấu triệt Tứ Thánh Đế. Bodhisattasseva sato: chúng sanh giác ngộ là chúng sanh sẽ chứng ngộ Chánh đẳng Chánh giác, hơn nữa còn có ý nghĩa chúng sanh có liên hệ với, dính chặt vào tuệ giác. Bởi vì từ khi bắt đầu abhinīhāra (nguyện vọng) thành tựu với sự hội đủ của 8 Pháp, dưới chân của đức Thế Tôn, hiệu là Dīpaṅkara, Như Lai là một vị Bồ tát hay một chúng sanh có liên hệ với sự giác ngộ này, Ta phải đạt được sự giác ngộ này cho bằng được, không bao giờ từ bỏ nỗ lực để đạt được sự giác ngộ đó, do đó được gọi là “Bồ-tát”. Này Bà-la-môn, rồi Ta suy nghĩ…: nghĩa là đối với Ta vị Như Lai ấy chính là chúng sanh giác ngộ như vậy. Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào: bất kỳ Sa-môn hay Bà-la-môn nào là vị đã đạt đến việc xuất gia hoặc hạng người đạt đến vị thế ‘Ngài, bậc trưởng thượng’.

Aparisuddhakāyakammantāti aparisuddhena pāṇātipātādinā kāyakammantena samannāgatā. Aparisuddhakāyakammantasandosahetūti aparisuddhassa kāyakammantasaṅkhātassa attano dosassa hetu, aparisuddhakāyakammantakāraṇāti vuttaṃ hoti. Haveti ekaṃsavacane nipāto. Akusalanti sāvajjaṃ akkhemañca. Bhayabheravanti bhayañca bheravañca. Cittutrāsassa ca bhayānakārammaṇassa cetaṃ adhivacanaṃ. Tatra bhayaṃ sāvajjaṭṭhena akusalaṃ, bheravaṃ akkhemaṭṭhenāti veditabbaṃ. Avhāyantīti pakkosanti. Kathaṃ? Te hi pāṇātipātādīni katvā ‘‘mayaṃ ayuttamakamhā, sace no te jāneyyuṃ, yesaṃ aparajjhimhā, idāni anubandhitvā anayabyasanaṃ āpādeyyu’’nti araññaṃ pavisitvā gacchantare vā gumbantare vā nisīdanti. Te ‘‘appamattakampi tiṇasaddaṃ vā paṇṇasaddaṃ vā sutvā, idānimhā naṭṭhā’’ti tasanti vittasanti, āgantvā parehi parivāritā viya baddhā vadhitā viya ca honti. Evaṃ taṃ bhayabheravaṃ attani samāropanaṭṭhena avhāyanti pakkosanti.

Thân nghiệp không thanh tịnh: sự thành tựu với thân nghiệp không thanh tịnh như sát sanh v.v. Do nguyên nhân nhiễm trước, thân nghiệp không thanh tịnh: do nhân lỗi lầm của chính mình, được gọi là thân nghiệp không thanh tịnh, tức là do nhân của thân nghiệp không được trong sạch. Have là phân từ được sử dụng với ý nghĩa một phần duy nhất. Bất thiện: pháp lỗi lầm đáng quở trách và không an toàn. Sợ hãi và khiếp đảm: sự sợ hãi và những đối tượng làm cho ghê sợ. Sợ hãi và khiếp đảm là cách gọi sự ghê sợ của tâm và những đối tượng đáng sợ. Sự sợ hãi và những đối tượng làm cho đáng sợ, cả 2 điều đó. Sự ghê sợ nên biết rằng là bất thiện, bởi ý nghĩa là có lỗi lầm. Những thứ đáng sợ nên biết là bất thiện bởi có ý nghĩa là không an toàn. Avhāyanti: khẩn khoản, nài xin. — ‘khẩn khoản’ như thế nào? — Những Sa-môn và Bà-la-môn ấy khi tạo nghiệp bất thiện như sát-sanh v.v, rồi nghĩ rằng “ta đã làm không đúng, nếu người mà ta đã xúc phạm họ, (họ) biết ta (là người gây ra) quyết lòng đi theo trả thù, mới trốn vào rừng và ngồi ẩn mình giữa những bụi cây hoặc bụi rậm, khi nghe tiếng cỏ hay tiếng lá thậm chí tiếng động nhẹ cũng giật mình với ý nghĩ: bây giờ tôi đã xong rồi, vị ấy (cảm thấy) sẽ giống như bị những người khác vây quanh và giống như bị bắt và bị giết như thế. Khi ấy Sa-môn và Bà-la-môn được gọi là khẩn khoản [avhāyanti] là sự sợ hãi và những cảnh đáng sợ đến tìm kiếm [khởi lên] nơi vị ấy.

Nakho panāhaṃ…pe… paṭisevāmīti ahaṃ kho pana aparisuddhakāyakammanto hutvā araññavanapatthāni pantāni senāsanāni na paṭisevāmi. Ye hi voti ettha voti nipātamattaṃ. Ariyā vuccanti buddhā ca buddhasāvakā ca. Parisuddhakāyakammantāti īdisā hutvā. Tesamahaṃ aññataroti tesaṃ ahampi eko aññataro. Bodhisatto hi gahaṭṭhopi pabbajitopi parisuddhakāyakammantova hoti. Bhiyyoti atirekatthe nipāto. Pallomanti pannalomataṃ, khemaṃ sotthibhāvanti attho. Āpādinti āpajjiṃ, atirekaṃ sotthibhāvaṃ atirekena vā sotthibhāvamāpajjinti vuttaṃ hoti. Araññe vihārāyāti araññe vihāratthāya.

Na kho panāhaṃ … pe … paṭisevāmi: Ta là người không có thân nghiệp không thanh tịnh, mới sống nơi trú xứ thanh vắng trong khu rừng và những nơi heo hút, hoang vu. Từ vo trong cụm từ yohi vo chỉ là phân từ. Chư Phật và các đệ tử của Ngài được gọi là ‘Thánh nhân’. Thân nghiệp thanh tịnh: các bậc Thánh là như vậy (có thân nghiệp thanh tịnh). Tesamahaṃ aññataro: cả Như Lai cũng là một trong số Thánh nhân ấy. Thực ra, Bồ-tát dầu là cư sĩ hay tu sĩ, cũng đều là những vị có thân nghiệp thanh tịnh. Bhiyyo là phân từ sử dụng với nghĩa là vượt trội. Pallomaṃ: người có lông trên cơ thể nằm xuống (không bị dựng ngược), tức là sống an toàn yên ổn. Āpādiṃ: đạt đến, có nghĩa là đã đạt đến sự an toàn, hoặc sự an ổn ở mọi phương diện. Araññe vihārāya: vì lợi ích cho việc sống ở rừng.

Giải Thích Phần Thân Nghiệp Kết Thúc

 

Giải Thích Phần Khẩu Nghiệp – Ý Nghiệp – Sự Nuôi Mạng

  1. Esa nayo sabbattha. Ayaṃ pana viseso, vacīkammantavāre tāva aparisuddhavacīkammantāti aparisuddhena musāvādādinā vacīkammantena samannāgatā. Te kathaṃ bhayabheravaṃ avhāyanti? Te musāvādena parassa atthaṃ bhañjitvā, pisuṇavācāya mittabhedaṃ katvā pharusavācāya paresaṃ parisamajjhe mammāni tuditvā niratthakavācāya parasattānaṃ kammante nāsetvā ‘‘mayaṃ ayuttamakamhā, sace no te jāneyyuṃ, yesaṃ aparajjhimhā, idāni anubandhitvā anayabyasanaṃ pāpeyyu’’nti araññaṃ pavisitvā gacchantare vā gumbantare vā nisīdanti. Te ‘‘appamattakampi tiṇasaddaṃ vā paṇṇasaddaṃ vā sutvā idānimhā naṭṭhā’’ti tasanti vittasanti āgantvā parehi parivāritā viya baddhā vadhitā viya ca honti. Evaṃ taṃ bhayabheravaṃ attani samāropanaṭṭhena avhāyanti, pakkosanti.
    Các câu đều có cách như này, nhưng khác biệt như sau: Trong phần khẩu nghiệp, aparisuddhavacīkammantā (khẩu nghiệp không thanh tịnh): sự thành tựu với khẩu nghiệp không thanh tịnh có nói dối v.v. — Sa-môn và Bà-la-môn những vị có khẩu nghiệp không thanh tịnh đó sẽ khẩn khoản tìm kiếm sự sợ hãi và cảnh đáng sợ như thế nào? — Những vị Sa-môn và Bà-la-môn khi phá hủy lợi ích của người khác bằng cách nói dối, làm tổn thương bạn bè bằng những lời vu khống, phá hủy sự thương yêu của người khác bằng những lời lẽ thô tục giữa hội chúng, khiến cho công việc của người khác bị tổn hại bằng những lời vô ích rồi nghĩ rằng: “Ta đã không làm đúng. nếu người đã làm sai với họ, (họ) biết rằng tôi (người đã làm điều đó) sẽ đến và trả thù ta ngay bây giờ. do đó đã bỏ trốn vào rừng ngồi giữa những bụi cây hay những bụi rậm, khi nghe thấy tiếng cỏ hay tiếng lá, hoặc chỉ là những tiếng động nhỏ cũng giật mình, nghĩ rằng lần này tôi đã xong, vị ấy (cảm thấy) dường như bị người khác bao vây, và giống như bị bắt và bị giết.” Những Sa-môn và Bà-la-môn đó được gọi là khẩn khoản. Đó được gọi là khẩn khoản, là sự khẩn khoản tìm kiếm sự sợ hãi và những cảnh đáng sợ đến tìm kiếm (khởi lên) nơi vị ấy.

Manokammantavāre aparisuddhamanokammantāti aparisuddhena abhijjhādinā manokammantena samannāgatā. Te kathaṃ bhayabheravaṃ avhāyanti? Te paresaṃ rakkhitagopitesu bhaṇḍesu abhijjhāvisamalobhaṃ uppādetvā parassa kujjhitvā parasatte micchādassanaṃ gāhāpetvā mayaṃ ayuttamakamhā…pe… attani samāropanaṭṭhena avhāyanti pakkosanti.

Trong phần ý nghiệp, aparisuddhamanokammantā (ý nghiệp không thanh tịnh) nghĩa là sự thành tựu với ý nghiệp không thanh tịnh như tham đắm (abhijjhā) v.v. — Sa-môn và Bà-la-môn những vị có ý nghiệp không thanh tịnh đó sẽ khẩn khoản tìm kiếm sự sợ hãi và cảnh đáng sợ như thế nào? — Những vị Sa-môn và Bà-la-môn khi  khởi lên tham đắm và tà tham đối với vật phẩm mà người khác gìn giữ bảo vệ, đã nổi giận người khác và làm cho người khác chấp vào những quan điểm sai lầm, rồi suy nghĩ rằng ta đã không làm đúng…là sự khẩn khoản tìm kiếm sự sợ hãi và những cảnh đáng sợ đến tìm kiếm [khởi lên] nơi vị ấy.

Ājīvavāre aparisuddhājīvāti aparisuddhena vejjakammadūtakammavaḍḍhipayogādinā ekavīsatianesanabhedena ājīvena samannāgatā. Te kathaṃ bhayabheravaṃ avhāyanti? Te evaṃ jīvikaṃ kappetvā suṇanti – ‘‘sāsanasodhakā kira tepiṭakā bhikkhū sāsanaṃ sodhetuṃ nikkhantā, ajja vā sve vā idhāgamissantī’’ti araññaṃ pavisitvā gacchantare vā…pe… tasanti vittasanti. Te hi āgantvā parivāretvā gahitā viya odātavatthanivāsitā viya ca hontīti. Sesaṃ tādisameva.

Trong phần sự nuôi mạng, aparisuddhājīvā (sự nuôi mạng không thanh tịnh): sự thành tựu với sự nuôi mạng không thanh tịnh, được phân loại thành 21 loại tà mạng (nuôi mạng không chân chánh) như làm nghề thầy thuốc, làm đại sứ, gửi tin tức và buôn bán kiếm lời v.v, Những Sa-môn và Bà-la-môn có nghề nghiệp bất tịnh sẽ khẩn khoản tìm kiếm sự sợ hãi và cảnh đáng sợ như thế nào? Những vị Sa-môn và Bà-la-môn đó khi nuôi mạng như thế, nghe rằng – “Các vị tỳ khưu thông thuộc tam tạng làm phận sự thanh lọc Tôn giáo cho thanh tịnh, đang đi ra dọn sạch sẽ Tôn giáo, hôm nay hoặc ngày mai sẽ đến đây (sau khi nghe như vậy), nên vị ấy chạy trốn vào rừng và ngồi ẩn mình giữa bụi cây hoặc những bụi rậm, v.v. run sợ tột độ, vị ấy (cảm thấy) giống như các tỳ khưu vay quanh bắt lấy và như thể bị (trục xuất) cho mặc vào tấm vải trắng. Các từ còn lại tương tự như đã trình bày.

  1. Ito paraṃ abhijjhālūtiādīsu kiñcāpi abhijjhābyāpādā manokammantena saṅgahitā tathāpi nīvaraṇavasena puna vuttāti veditabbā. Tattha abhijjhālūti parabhaṇḍādiabhijjhāyanasīlā. Kāmesu tibbasārāgāti vatthukāmesu bahalakilesarāgā, te kathaṃ bhayabheravaṃ avhāyanti? Te avavatthitārammaṇā honti, tesaṃ avavatthitārammaṇānaṃ araññe viharantānaṃ divā diṭṭhaṃ rattiṃ bhayabheravaṃ hutvā upaṭṭhāti – ‘‘te ākulacittā appamattakenapi tasanti vittasanti, rajjuṃ vā lataṃ vā disvā sappasaññino honti, khāṇuṃ disvā yakkhasaññino, thalaṃ vā pabbataṃ vā disvā hatthisaññino sappādīhi anayabyasanaṃ āpāditā viya hontī’’ti. Sesaṃ tādisameva.
    Ito paraṃ abhijjhālu v.v, giải thích rằng tham đắm và sân hận nhiếp hợp lại trong ý nghiệp, mặc dầu vậy cũng nên biết rằng Ngài đã nói lập lại lần nữa với mãnh lực của pháp ngăn che. Trong số đó, abhijjhālū (người tham đắm) bao gồm người thường nhìn chăm chú tài sản của người khác. Có ái luyến mạnh mẽ trong các dục bao gồm người có phiền não như ái luyến mãnh liệt trong các sắc dục. — Những Sa-môn và Bà-la-môn có phiền não như ái luyến mãnh liệt ấy sẽ khẩn khoản tìm kiếm sự sợ hãi và cảnh đáng sợ như thế nào? — Những vị Sa-môn và Bà-la-môn đó không quán sát đối tượng cẩn trọng, trong khi không quán sát đối tượng cho thật kỹ lưỡng, khi sống trong rừng những thứ nhìn thấy vào buổi sáng sẽ hiện khởi trở nên nguy hiểm và đáng sợ vào ban đêm. Vị ấy có tâm bất thiện (đã tồn tại) và sẽ run sợ bởi sự sợ hãi và những đối tượng đáng sợ dầu nhỏ nhất. Tức là nhìn thấy sợi dây thừng hay dây leo, cũng tưởng rằng đó là con rắn, nhìn thấy gốc cây tưởng rằng đó là Dạ-xoa, nhìn thấy gò mối hay núi lại tưởng rằng đó là voi, giống như bị con thú dữ như rắn tấn công v.v. Các từ còn lại tương tự như trên.
    Byāpannacittāti pakatibhāvavijahanena vipannacittā. Kilesānugatañhi cittaṃ pakatibhāvaṃ vijahati, purāṇabhattabyañjanaṃ viya pūtikaṃ hoti. Paduṭṭhamanasaṅkappāti paduṭṭhacittasaṅkappā, abhadrakena paresaṃ anatthajanakena cittasaṅkappena samannāgatāti vuttaṃ hoti. Te kathaṃ bhayabheravaṃ avhāyanti? Bhayabheravāvhāyanaṃ ito pabhuti abhijjhāluvāre vuttanayeneva veditabbaṃ. Yattha pana viseso bhavissati, tattha vakkhāma. Na kho panāhaṃ byāpannacittoti ettha pana mettacitto ahaṃ hitacittoti dasseti, īdisā hi bodhisattā honti. Evaṃ sabbattha vuttadosapaṭipakkhavasena bodhisattassa guṇā vaṇṇetabbā.
  2. Byāpannacittā (có tâm sân hận): Có tâm hủy diệt (vipannacitta) bởi đánh mất bản chất tự nhiên. Bởi vì tâm đã được hòa trộn với phiền não sẽ đánh mất tính chất tự nhiên (của nó) trở nên suy thoái giống như cơm canh và thức ăn đã ôi thiu. Có tâm tư xấu xa: Có tâm suy nghĩ theo chiều hướng sái quấy, tức là sự thành tựu với suy nghĩ của tâm bất thiện, là làm cho người khác mất lợi ích. — Sa-môn và Bà-la-môn có tâm hủy diệt suy nghĩ theo chiều hướng sái quấy sẽ khẩn khoản tìm kiếm sự sợ hãi và cảnh đáng sợ như thế nào? — Kể từ đây việc khẩn khoản tìm kiếm sự sợ hãi và cảnh đáng sợ nên biết theo cách thức đã nói từ lúc nói về abhijjhālū (người tham đắm). Tuy nhiên, bất kỳ chỗ nào có những điểm khác biệt Tôi sẽ giải thích những điểm ấy. Lại nữa, Phật ngôn ở đây na kho panāhaṃ byāpannacitto (Ta không có tâm sân hận, không có tâm tư xấu xa) đức Thế Tôn chỉ ra rằng Như Lai có tâm câu hữu với từ, có tâm suy nghĩ giúp đỡ. Theo lẽ thường các đức Bồ-tát đều như thế cả. Như vậy, bậc trí nên giảng giải đức hạnh của Bồ-tát với sức mạnh theo cách đối nghịch lại với lỗi lầm như đã nói trong các câu.

39.Thinamiddhapariyuṭṭhitāti cittagelaññabhūtena thinena sesanāmakāyagelaññabhūtena middhena ca pariyuṭṭhitā, abhibhūtā gahitāti vuttaṃ hoti. Te niddābahulā honti.

Thinamiddhapariyuṭṭhitā (bị hôn trầm thụy miên chi phối): Hôn trầm là tình trạng bệnh hoạn (khuyết tật) của tâm và Thụy miên là sự khuyết tật của các danh uẩn còn lại (thọ, tưởng, hành) đã thâm nhập, tức là chế ngự, xâm lấn. Sa-môn và Bà-la-môn bị hôn trầm và thuỵ miên thâm nhập sẽ ngủ.

  1. Uddhatāti uddhaccapakatikā vipphandamānacittā, uddhaccena hi ekārammaṇe cittaṃ vipphandati dhajayaṭṭhiyaṃ vātena paṭākā viya. Avūpasantacittāti anibbutacittā, idha kukkuccaṃ gahetuṃ vaṭṭati.
  2. Phóng dật: có sự phóng dật, là có tâm nỗ lực đấu tranh, tức là tâm nỗ lực tranh đấu từ một đối tượng với phóng dật giống như tấm vải [làm cờ] bay phấp phới ở đỉnh cột cờ do có gió (tác động). Tâm không an tịnh: có tâm, có đối tượng không tĩnh lặng trường hợp này đề cập đến hối hận cũng được.
  3. Kaṅkhī vicikicchīti ettha ekamevidaṃ pañcamaṃ nīvaraṇaṃ. Kiṃ nu kho idanti ārammaṇaṃ kaṅkhanato kaṅkhā, idamevidanti nicchetuṃ asamatthabhāvato vicikicchāti vuccati, tena samannāgatā samaṇabrāhmaṇā ‘‘kaṅkhī vicikicchī’’ti vuttā.
    Trong Phật ngôn này ‘nghi hoặc, do dự’ là từ có cùng một ý nghĩa bởi vì pháp ngăn che thứ 5 đức Thế Tôn gọi là ‘nghi hoặc’ do hoài nghi về đối tượng, đối tượng này như vầy phải không? gọi là ‘do dự’ bởi không thể quyết định được đối tượng này là như vầy. Sa-môn và Bà-la-môn thành tựu với pháp đó được gọi là ‘nghi hoặc, do dự’.
  4. Attukkaṃsanakā paravambhīti ye attānaṃ ukkaṃsenti ukkhipanti, ucce ṭhāne ṭhapenti, parañca vambhenti garahanti nindanti, nīce ṭhāne ṭhapenti, tesametaṃ adhivacanaṃ. Te kathaṃ bhayabheravaṃ avhāyanti? Te parehi ‘‘asuko ca kira asuko ca attānaṃ ukkaṃsenti, amhe garahanti, dāse viya karonti, gaṇhatha ne’’ti anubaddhā palāyitvā araññaṃ pavisitvā gacchantare vā gumbantare vāti kāyakammantasadisaṃ vitthāretabbaṃ.
    Attukkaṃsanakā paravambhī (tự khen mình, chê người): những Sa-môn và Bà-la-môn tự nâng mình lên là tự đề cao bản thân; và bắt nạt là khinh thường, bao gồm chỉ trích người khác, có nghĩa là đặt người khác ở dưới (thấp hơn mình). Hai câu đó tự khen mình và chê người là từ để gọi những Sa-môn và Bà-la-môn đó. Những Sa-môn và Bà-la-môn tự khen mình chê người khẩn khoản tìm kiếm sự sợ hãi và cảnh đáng sợ như thế nào? Việc khẩn khoản tìm kiếm sự sợ hãi và cảnh đáng sợ của những Sa-môn và Bà-la-môn tự khen mình chê người bật trí cần làm rõ ràng chi tiết giống như trong phần thân nghiệp, những Sa-môn và Bà-la-môn tự khen mình chê người (sẽ) bị người khác đi theo bắt với tội danh rằng: được biết Ngài tên đó và tên đó đề cao bản thân, chỉ trích chúng tôi, làm cho chúng tôi trở thành như người nô lệ, hãy bắt giữ cho bằng được, bỏ trốn vào rừng rồi ngồi ẩn núp giữa những bụi cây hay những bụi rậm.

43.Chambhīti kāyathambhanalomahaṃsanakarena thambhena samannāgatā. Bhīrukajātikāti bhīrukapakatikā, gāmadārakā viya bhayabahulā asūrā kātarāti vuttaṃ hoti.

Kinh hãi: phối hợp với sự sửng sốt vì kinh sợ khiến cho thần kinh thân run rẩy và lông tóc dựng đứng. Bhīrukajātikā: cảm giác quá sợ hãi, nghĩa là không dám trông giống như những đứa trẻ trong làng hay sợ hãi.

44. Lābhasakkārasilokanti ettha labbhatīti lābho, catunnaṃ paccayānametaṃ adhivacanaṃ. Sakkāroti sundarakāro, paccayā eva hi paṇītapaṇītā sundarasundarā ca abhisaṅkharitvā katā sakkārāti vuccanti. Yā ca parehi attano gāravakiriyā pupphādīhi vā pūjā. Silokoti vaṇṇabhaṇanaṃ etaṃ , lābhañca sakkārañca silokañca lābhasakkārasilokaṃ. Nikāmayamānāti patthayamānā. Bhayabheravāvhāyanaṃ abhijjhāluvārasadisameva. Tadatthadīpakaṃ panettha piyagāmikavatthuṃ kathenti –
Lābhasakkārasilokaṃ (ham muôn lợi lộc và cung kính) ở đây gọi là lợi đắc với ý nghĩa là thứ con người đạt được, lợi đắc ấy là tên để gọi bốn món vật dụng. Sự cung kính là thể hiện hành động tốt đẹp, tức là các món vật dụng mà vị ấy chuẩn bị tươm tất thượng hạng, tinh lương và tốt đẹp gọi là lễ vật, kể cả việc vị ấy thể hiện sự kính trọng, hoặc lễ bái bằng những vật phẩm lễ bái như tràng hoa v.v. (người khác). Siloko: nói lời khen ngợi giới đức; lợi đắc, sự cung kính, nói lời khen ngợi giới đức (cả 3 điều này) gọi là lābha-sakkāra-siloka. Nikāmayamānā: có ý ham muốn. Việc khẩn khoản tìm kiếm sự sợ hãi và cảnh đáng sợ như đã nói ở phần người tham đắm. Còn ở trường hợp này các bậc trưởng thượng nói đến câu chuyện của tỳ khưu Piyagāmika để làm minh chứng cho vấn đề ấy.

Eko kira piyagāmiko nāma bhikkhu samādinnadhutaṅgānaṃ bhikkhūnaṃ lābhaṃ disvā ‘‘ahampi dhutaṅgaṃ samādiyitvā lābhaṃ uppādemī’’ti cintetvā sosānikaṅgaṃ samādāya susāne vasati. Athekadivasaṃ eko kammamutto jaraggavo divā gocare caritvā rattiṃ tasmiṃ susāne pupphagumbe sīsaṃ katvā romanthayamāno aṭṭhāsi. Piyagāmiko rattiṃ caṅkamanā nikkhanto tassa hanusaddaṃ sutvā cintesi ‘‘addhā maṃ lābhagiddho esa susāne vasatīti ñatvā devarājā viheṭhetuṃ āgato’’ti, so jaraggavassa purato añjaliṃ paggahetvā ‘‘sappurisa devarāja ajja me ekarattiṃ khama, sve paṭṭhāya na evaṃ karissāmī’’ti namassamāno sabbarattiṃ yācanto aṭṭhāsi. Tato sūriye uṭṭhite taṃ disvā kattarayaṭṭhiyā paharitvā palāpesi ‘‘sabbarattiṃ maṃ bhiṃsāpesī’’ti.

Được biết rằng một vị tỳ khưu tên là Piyagāmika sau khi nhìn thấy lợi đắc của các  tỳ khưu thọ trì hạnh đầu đà (dhutaṇga), đã khởi lên suy nghĩ rằng “tôi sẽ thọ trì hạnh đầu đà để làm cho lợi lộc khởi lên [nơi ta], như vậy rồi thọ trì hạnh hạnh ngụ ở mộ địa (sosānikaṅgaṃ), rồi cư ngụ tại bãi tha ma mộ địa. Một ngày nọ có một con bò già chủ nhân của nó không sử dụng để làm việc (thả đi) ban ngày đi lang thang để kiếm ăn, ban đêm đi vào nghĩa trang, (nó) đứng sợ sệt [lông dựng đứng], vùi đầu vào đống rác. Tỳ khưu Piyagāmika rời khỏi chỗ đi kinh hành vào lúc nửa đêm, nghe âm thanh hàm trên của con bò tiếp xúc với nhau nghĩ rằng: Vua trời Đế Thích có lẽ biết ta mong cầu lợi lộc mới đến cư ngụ nơi bãi tha ma mộ địa, chắc chắn đến làm hại ta, nên vị này đã đứng chắp tay trước mặt con bò già cầu nguyện suốt đêm, kính thưa Ngài Sakka bậc đại nhân xin hãy tha thứ tội cho bần tăng chỉ một đêm này thôi, rồi từ ngày mai bần tăng sẽ không bao giờ làm điều này thêm nữa. Sau đó, khi mặt trời mọc vị ấy thấy con bò già ấy (không phải Vua trời Sakka) vì thế đã cầm lấy gậy đánh (con bò) để xua đuổi nó một cách điên cuồng cùng những lời nói: “Mày làm tao run sợ cả đêm cho đến bình minh”.

45.Kusītāti kosajjānugatā. Hīnavīriyāti hīnā vīriyena virahitā viyuttā, nibbīriyāti vuttaṃ hoti. Tattha kusītā kāyikavīriyārambhavirahitā honti, hīnavīriyā cetasikavīriyārambhavirahitā. Te ārammaṇavavatthānamattampi kātuṃ na sakkonti. Tesaṃ avavatthitārammaṇānanti sabbaṃ pubbasadisameva.
Biếng nhác: đã rơi vào sự lười biếng. Tinh tấn suy giảm: thối giảm, từ bỏ, thiếu tinh tấn, tức là không có sự cố gắng nỗ lực. Trong 2 hạng người đó, người biếng nhác từ bỏ sự khởi đầu nổ lực bằng thân, người thiếu tinh tấn từ bỏ sự khởi đầu nỗ lực của tâm, (tóm lại) cả 2 hạng người đó không thể thực hiện thậm chị việc xác định đối tượng. Tesaṃ avavatthitārammaṇānaṃ tương tự y như ý nghĩa đã nói trước đó [không thể xác định được đối tượng đó].

46. Muṭṭhassatīti naṭṭhassatī. Asampajānāti paññārahitā, imassa ca paṭipakkhe ‘‘upaṭṭhitassatīhamasmī’’ti vacanato satibhājaniyamevetaṃ. Paññā panettha satidubbalyadīpanatthaṃ vuttā. Duvidhā hi sati paññāsampayuttā paññāvippayuttā ca. Tattha paññāsampayuttā balavatī, vippayuttā dubbalā, tasmā yadāpi tesaṃ sati hoti, tadāpi asampajānantā muṭṭhassatīyeva te, dubbalāya satiyā satikiccābhāvatoti etamatthaṃ dīpetuṃ ‘‘asampajānā’’ti vuttaṃ. Te evaṃ muṭṭhassatī asampajānā ārammaṇavavatthānamattampi kātuṃ na sakkontīti sabbaṃ pubbasadisameva.
Thất niệm: buông bỏ niệm (không có niệm). Không có sự nhận biết rõ: không có trí tuệ, vì Phật ngôn đã nói rằng— ‘Như Lai là người có niệm đã được thiết lập vững chắc’, ý nghĩa đối nghịch với từ ‘thất niệm’, đức Phật nói rằng ‘không có sự nhận biết rõ’ này chỉ là từ để diễn giải ‘niệm’. Còn tuệ ở đây đức Thế Tôn thuyết để nói đến sự yếu kém của niệm. Bởi vì niệm có 2 loại là niệm phối hợp với tuệ, và niệm không phối hợp với tuệ. Ở đây, niệm phối hợp với tuệ có sức mạnh sung mãn, niệm không phối hợp với tuệ là yếu ớt (không có sức mạnh). Bởi thế, đức Thế Tôn đã nói rằng asampajānā [không có trí tuệ] để trình bày ý nghĩa này thậm chí trong lúc vị tỳ khưu đó có niệm vẫn gọi là có niệm bị quên lãng, bởi không có trí tuệ do niệm yếu ớt, không thể làm nhiệm vụ của niệm. Vị tỳ khưu đó có niệm bị quên lãng, không tỉnh giác [trí tuệ] như đã nói thì không thể thực hiện dù chỉ xác định đối tượng. từ còn lại có ý nghĩa tương tự y như ý nghĩa đã được trình bày trước đó.

47. Asamāhitāti upacārappanāsamādhivirahitā. Vibbhantacittāti ubbhantacittā. Samādhivirahena laddhokāsena uddhaccena tesaṃ samādhivirahānaṃ cittaṃ nānārammaṇesu paribbhamati, vanamakkaṭo viya vanasākhāsu uddhaccena ekārammaṇe vipphandati. Pubbe vuttanayenena te evaṃ asamāhitā vibbhantacittā ārammaṇavavatthānamattampi kātuṃ na sakkontīti sabbaṃ pubbasadisameva.
Không định tĩnh: tránh khỏi cận định và an chỉ định. Tâm bị tán loạn: có tâm vượt ra khỏi con đường, là tâm đi loay quanh trong nhiều đối tượng khác, do sự trống rỗng của định tâm, điều đó là nhân để phóng dật có cơ hội (sanh khởi) giống như những con khỉ trong rừng nhảy từ cành cây này sang cành cây khác trong rừng. Chư tỳ khưu đó (có tâm) không định tĩnh trong một đối tượng, là có tâm đi lang thang theo cách đã nói ngay lúc đầu do phóng dật [làm nhân] không thể thực hành thậm chí xác định đối tượng.

48. Duppaññāti nippaññānametaṃ adhivacanaṃ. Paññā pana duṭṭhā nāma natthi. Eḷamūgāti elamukhā, kha-kārassa ga-kāro kato. Lālamukhāti vuttaṃ hoti. Duppaññānañhi kathentānaṃ lālā mukhato galati, lālā ca elāti vuccati. Yathāha ‘‘passelamūgaṃ uragaṃ dujjivha’’nti. Tasmā te ‘‘eḷamūgā’’ti vuccanti. ‘‘Elamukhā’’tipi pāṭho. ‘‘Elamugā’’ti keci paṭhanti, apare ‘‘elamukā’’tipi, sabbattha ‘‘elamukhā’’ti attho. Te kathaṃ bhayabheravaṃ avhāyanti? Te duppaññā eḷamūgā ārammaṇavavatthānamattampi kātuṃ na sakkonti. Tesaṃ avavatthitārammaṇānaṃ araññe viharantānaṃ divā diṭṭhaṃ rattiṃ bhayabheravaṃ hutvā upaṭṭhāti ‘‘te ākulacittā appamattakenapi tasanti vittasanti, rajjuṃ vā lataṃ vā disvā sappasaññino honti, khāṇuṃ disvā yakkhasaññino, thalaṃ vā pabbataṃ vā disvā hatthisaññino sappādīhi anayavyasanaṃ āpāditā viya hontī’’ti. Evaṃ taṃ bhayabheravaṃ attani samāropanaṭṭhena avhāyanti pakkosanti. Paññāsampannohamasmīti ettha paññāsampannoti paññāya sampanno samannāgato, no ca kho vipassanāpaññāya, na maggapaññāya, apica kho pana imesu soḷasasu ṭhānesu ārammaṇavavatthānapaññāyāti attho. Sesaṃ sabbattha vuttanayamevāti.
Có tuệ tồi: đây là từ dùng để gọi kẻ không có trí tuệ. Nhưng trí tuệ gọi là xấu ác thì chắc chắn không có. Elamūgā: có miệng đầy nước dãi, Ngài đã thay phụ âm ‘kha’ thành phụ âm ‘ga’ (hình thành elamūgā), tức là có miệng đầy nước dãi. Bởi vì khi người thiểu trí nói chuyện nước dãi sẽ chảy ra từ miệng, và nước dãi được gọi là ela. Tương tự như Ngài đã nói ‘passelamūgaṃ uragaṃ dujjivhaṃ [ông hãy nhìn con rắn với cái miệng chảy nước dãi (thè lưỡi) có cái lưỡi chẻ đôi]”. Do đó, vị tỳ khưu trí tuệ yếu kém được đức Thế Tôn gọi là elamūgā. Văn bản ‘elamukhā’ như thế cũng có, một số thầy A-xà-lê nói là ‘elamukā’, nhưng một số khác lại nói rằng ‘elamukā’ thế này cũng có. (Dầu thế nào đi nữa) trong tất cả câu có ý nghĩa là elamukhā (miệng có nước dãi chảy dài). — Vị tỳ khưu có tuệ tồi đó khẩn khoản tìm kiếm sự nguy hiểm và cảnh đáng sợ như thế nào? — Vị tỳ khưu có tuệ tồi miệng đầy nước dãi chảy dài, sẽ không thể làm dầu chỉ thực hành xác định đối tượng, khi vị ấy không xác định được đối tượng, sống trong rừng, những thứ nhìn thấy vào ban ngày, sẽ hiện bày vào ban đêm trở thành sự nguy hiểm và cảnh đáng sợ. Vị ấy có tâm tán loạn bởi những đối tượng dù nhỏ bé, sau khi nhìn thấy sợi dây thừng hoặc dây leo, (vị ấy) tưởng là con rắn, nhìn thấy gốc cây tưởng rằng Dạ-xoa, nhìn thấy chỗ cao hay ngọn núi tưởng là con voi [run sợ] như bị thú dữ có rắn v.v, tấn công. Vị tỳ khưu có tuệ tồi ấy gọi là khẩn khoản, là khẩn khoản sự sợ hãi và cảnh đáng sợ, khiến vị ấy tìm kiếm chính mình như đã giải thích. Ở đây, paññāsampannohamasmi (Ta là một trong những bậc Thánh thành tựu trí tuệ) vị đã thành tựu là vị đã hội đủ với trí tuệ, nhưng không phải với tuệ minh sát (vipassanāpaññā), không phải với Đạo tuệ, và hơn nữa phối hợp cùng với trí tuệ và phương tiện xác định đối tượng bởi 16 nguyên nhân ấy. từ còn lại có ý nghĩa tương tự y như ý nghĩa đã được trình bày trước đó.

Giải thích khẩu nghiệp được kết thúc

Việc xác định đối tượng với 16 nguyên nhân được kết thúc

 

Giải Thích Bhaya-bherava-senāsana

  1. Tassamayhanti ko anusandhi? Bodhisatto kira imāni soḷasārammaṇāni pariggaṇhanto ca bhayabheravaṃ adisvā bhayabheravaṃ nāma evarūpāsu rattīsu evarūpe senāsane ca paññāyati, handa naṃ tatthāpi gavesissāmīti bhayabheravagavesanamakāsi, etamatthaṃ bhagavā idāni brāhmaṇassa dassento tassa mayhantiādimāha.
    Tassa mayhaṃ: có sự liên kết (ý nghĩa) như thế nào? Kể rằng Bồ-tát xác định 16 đối tượng, khi nhìn không thấy sự sợ hãi và cảnh đáng sợ, do đó mới đã tìm kiếm sự sợ hãi và cảnh đáng sợ đó, nghĩ rằng nỗi sợ hãi và cảnh đáng sợ sẽ tự nhiên xuất hiện ở những trú xứ thế này vào ban đêm. Đủ rồi, Ta sẽ tìm ra nỗi sợ hãi và cảnh đáng sợ đó ở trú xứ khác vào ban đêm. Do đó đã tìm kiếm sự sợ hãi và cảnh đáng sợ. Bấy giờ, đức Thế Tôn khi thuyết ý nghĩa này cho Bà-la-môn, Ngài đã nói rằng tassa mayhaṃ.

Tattha yā tāti ubhayametaṃ rattīnaṃyeva uddesaniddesavacanaṃ. Abhiññātāti ettha abhīti lakkhaṇatthe upasaggo. Tasmā abhiññātāti candapāripūriyā candaparikkhayenāti evamādīhi lakkhaṇehi ñātāti veditabbā. Abhilakkhitāti ettha upasaggamattameva, tasmā abhilakkhitāti lakkhaṇīyā icceva attho, uposathasamādānadhammassavanapūjāsakkārādikaraṇatthaṃ lakkhetabbā sallakkhetabbā upalakkhetabbāti vuttaṃ hoti.

Ở đây, yā tā ấy là từ duy nhất để chỉ ra buổi tối được trình bày. Từ abhi trong từ abhiṇṇāta là tiền tố và được dùng với ý nghĩa tính chất (quyết định), vì vậy từ abhiṇṇata nên biết rằng các đêm được xác định bởi đặc tính của chúng, chẳng hạn: đêm trăng tròn, đêm không trăng. Còn từ abhi trong từ abhilakkhitā chỉ là tiền tố mà thôi, do đó từ abhilakkhitā chỉ có nghĩa là lakkhaṇīyā (cần được xác định). Tất cả những đêm mà bậc trí cần phải xác định. Cần phải được xác định rõ là cần xác định thật chất chắn để làm nhiệm vụ như việc thọ trì bát quan trai giới uposatha, nghe Pháp và lễ bái, v.v.

Cātuddasīti pakkhassa paṭhamadivasato pabhuti catuddasannaṃ pūraṇī ekā ratti. Evaṃ pañcadasī aṭṭhamī ca. Pakkhassāti sukkapakkhassa kaṇhapakkhassa ca. Etā tisso tisso katvā cha rattiyo, tasmā sabbattha pakkhavacanaṃ yojetabbaṃ ‘‘pakkhassa cātuddasī pakkhassa pañcadasī pakkhassa aṭṭhamī’’ti. Atha pañcamī kasmā na gahitāti? Asabbakālikattā. Buddhe kira bhagavati anuppannepi uppajjitvā aparinibbutepi pañcamī anabhilakkhitāyeva, parinibbute pana dhammasaṅgāhakattherā cintesuṃ ‘‘dhammassavanaṃ cirena hotī’’ti. Tato sammannitvā pañcamīti dhammassavanadivasaṃ ṭhapesuṃ, tato pabhuti sā abhilakkhitā jātā, evaṃ asabbakālikattā ettha na gahitāti.

Được gọi là đêm mười bốn, tức là một đêm tròn đủ mười bốn ngày, bắt đầu tính từ ngày đầu tiên của nửa mỗi tháng (thời gian 14 đêm, hoặc 2 tuần). Đêm mười lăm và đêm mồng tám (có ý nghĩa) là như vậy. Của mỗi nửa tháng: nửa tháng đầu và nửa tháng sau. Bởi vì gồm những đêm đó lại kết hợp với nhau, 3 đêm mỗi hai tuần, thành 6 đêm. Vì vậy, mới cần được phối hợp từ mỗi nửa tháng’ vào mỗi từ là ‘đêm mười bốn âm lịch mỗi nửa tháng’, ‘đêm mười lăm âm lịch mỗi nửa tháng’, ‘đêm mồng tám âm lịch mỗi nửa tháng’. — Khi như thế, tại sao Ngài không xếp âm lịch thành 5? — bởi vì ngày mồng 5 âm lịch không kéo dài mãi, nên biết rằng ngày xưa khi đức Thế Tôn chưa xuất hiện, hay đã xuất hiện, hay chưa tịch diệt Niết Bàn, ngày mùng 5 âm lịch Ngài đã không xác định, chỉ khi đức Thế Tôn đã viên tịch Niết Bàn, các trưởng lão Dhammasaṅgāhaka đồng nghĩ rằng thỉnh thoảng mới được nghe Pháp, nên người ta cho rằng ngày mùng 5 âm lịch được xác định là dhammassavanaṃ (thính Pháp). Kể từ đó, ngày mùng 5 âm lịch trở thành ngày được Ngài xác định. vì chu kỳ mùng 5 âm lịch không kéo dài mãi. Cho nên Ngài không gộp chung chúng lại ở đây.

Tathārūpāsūti tathāvidhāsu. Ārāmacetiyānīti pupphārāmaphalārāmādayo ārāmā eva ārāmacetiyāni. Cittīkataṭṭhena hi cetiyānīti vuccanti, pūjanīyaṭṭhenāti vuttaṃ hoti. Vanacetiyānīti baliharaṇavanasaṇḍasubhagavanadevasālavanādīni vanāniyeva vanacetiyāni. Rukkhacetiyānīti gāmanigamādidvāresu pūjanīyarukkhāyeva rukkhacetiyāni. Lokiyā hi dibbādhivatthāti vā maññamānā tesuyeva vā dibbasaññino hutvā ārāmavanarukkhe cittīkaronti , pūjenti, tena te sabbepi cetiyānīti vuccanti. Bhiṃsanakānīti bhayajanakāni, passatopi suṇatopi bhayaṃ janenti. Salomahaṃsānīti saheva lomahaṃsena vattanti, pavisamānasseva lomahaṃsajananato. Appeva nāma passeyyanti api nāma taṃ bhayabheravaṃ passeyyameva. Aparena samayenāti, ‘‘etadahosi yaṃnūnāha’’nti evaṃ cintitakālato paṭṭhāya aññena kālena.

tathārūpāsu cũng là tathāvidhāsu (như thế ấy, như vậy đó). Ārāmacetiyāni (đền thờ trong khuôn viên) nghĩa là vùng đất mang lại niềm vui chẳng hạn như vườn hoa, vườn trái cây v.v, gọi là ārāmacetiya. Vì nơi đó gọi là đền thờ (cetiya), với ý nghĩa là nơi tôn kính, (và) với ý nghĩa là nơi mà mọi người nên lễ bái. Vanacetiyāni (đền thờ tại các khu rừng) nghĩa là các khu rừng chẳng hạn như bìa rừng để mang những lễ vật dâng cúng cho các vị thần, khu rừng Subhaga và khu rừng đặt điện thờ của các vị thiên, v.v. chúng được gọi là vanacetiya. Rukkhacetiyāni (đền thờ tại các cây cối) nghĩa là cây cối đáng được lễ bái tại các cổng vào làng và khu dân cư, v.v., được gọi là rukkhacetiya. Bởi vì mọi người trên thế giới cho rằng Thiên nhân đến cư ngụ, cho rằng ở những nơi đó là nơi có sự màu nhiệm. Vì thế, họ cùng nhau đến để bày tỏ lòng tôn kính, lễ bái tất cả những lâm viên đó và các loại cây cối. Cho nên, họ gọi là đền thờ (cetiya). Làm kinh hãi: khiến khởi lên sự sợ hãi là làm cho sự sợ hãi sanh khởi cả người thấy và cả người nghe. Khiến lông dựng đứng: xảy ra bằng sự dựng đứng của lông tóc, vì bất cứ ai đi vào (các trú xứ hãi hùng) cũng sẽ dựng tóc gáy. Appeva nāma passeyyaṃ: Làm thế nào Ta có thể thấy được nỗi sợ hãi và đối tượng đáng sợ đó? Aparena samayena: vào lúc khác kể từ lúc (Như Lai đó) đã khởi lên suy nghĩ rằng ‘đã có suy nghĩ như vầy, làm sao Ta?’

Tattha ca me brāhmaṇa viharatoti tathārūpesu senāsanesu yaṃ yaṃ manussānaṃ āyācanaupahārakaraṇārahaṃ yakkhaṭṭhānaṃ pupphadhūpamaṃsaruhiravasāmedapihakapapphāsasurāmerayādīhi okiṇṇakilinnadharaṇitalaṃ ekanipātaṃ viya yakkharakkhasapisācānaṃ, yaṃ divāpi passantānaṃ hadayaṃ maññe phalati, taṃ ṭhānaṃ sandhāyāha ‘‘tattha ca me, brāhmaṇa, viharato’’ti. Mago vā āgacchatīti siṅgāni vā khurāni vā koṭṭento gokaṇṇakhaggadīpivarāhādibhedo mago vā āgacchati, sabbacatuppadānañhi idha magoti nāmaṃ. Katthaci pana kāḷasiṅgālopi vuccati. Yathāha –

Tattha ca me brāhmaṇa viharato (này Bà-la-môn khi Như Lai cư ngụ ở nơi đó) nghĩa là ở các trú xứ đó, trú xứ nào là nơi của Dạ-xoa được nhiều người cầu nguyện và mang lễ vật để vào cúng tế, mặt sàn ướt đẫm đầy các lễ vật tế lễ và các lễ phẩm như hoa, nhang, thịt, máu, mỡ đặt, mỡ lỏng, lá lách, phổi, rượu men và rượu nấu v.v, giống như một nơi tụ hội của Dạ-xoa Rakkhasa và Dạ-xoa Pisāca, khi mọi người đến và nhìn thấy chúng vào ban ngày có vẻ như (họ) vỡ tim. Đức Thế Tôn có ý muốn nói đến nơi đó mới thuyết rằng— “Này Bà-la-môn, trong khi Ta ở tại các chỗ ấy.Mago vā āgacchati: thịt được phân loại như hươu, nai, tê giác, hổ vàng và lợn rừng, v.v. Khi đi bộ hoặc đá bằng móng guốc, mago ở đây chỉ các loài vật bốn chân, nhưng ở một số chỗ mago (thịt) đã được Ngài nói rằng: gồm cả con cáo mù. Giống như loài thú đã nói (tâng bốc con cáo mù) rằng:

‘‘Usabhasseva te khandho, sīhasseva vijambhitaṃ;

Magarāja namo tyatthu, api kiñci labhāmase’’ti. (jā. 1.3.133);

Thân hình của ngài tựa như con bò mộng, sự vươn vai của ngài tựa như loài sư tử. Thưa vị vua của loài thú, xin kính lễ ngài! Chúng tôi có nhận được vật gì (từ ngài)?” (jā. 1.3.133);

Moro vā kaṭṭhaṃ pātetīti moro vā sukkhakaṭṭhaṃ rukkhato cāletvā pāteti. Moraggahaṇena ca idha sabbapakkhiggahaṇaṃ adhippetaṃ, tena yo koci pakkhīti vuttaṃ hoti. Atha vā moro vāti vā saddena añño vā koci pakkhīti. Esa nayo purime magaggahaṇepi. Vāto vā paṇṇakasaṭaṃ eretīti vāto vā paṇṇakacavaraṃ ghaṭṭeti. Etaṃ nūna taṃ bhayabheravaṃ āgacchatīti yametaṃ āgacchati, taṃ bhayabheravaṃ nūnāti. Ito pabhuti ca ārammaṇameva bhayabheravanti veditabbaṃ. Parittassa ca adhimattassa ca bhayassa ārammaṇattā sukhārammaṇaṃ rūpaṃ sukhamiva. Kiṃ nu kho ahaṃ aññadatthu bhayapaṭikaṅkhī viharāmīti ahaṃ kho kiṃ kāraṇaṃ ekaṃseneva bhayaṃ ākaṅkhamāno icchamāno hutvā viharāmi.

Moro vā kaṭṭhaṃ pāteti (một con công làm rơi một cành cây) nghĩa là con công làm nhánh cây khô từ trên cây rơi xuống, và với từ mora trong từ này, Ngài muốn nói đến tất cả các loại chim. Vì lý do đó Ngài đổi thành “Yo koci pakhi (bất kỳ loài chim nào)”. Lại nữa với từ trong cụm từ moro vā Ngài đổi thành ‘một loài chim khác hoặc điềm báo’, từ maga là từ đầu tiên (trước từ moro) cũng có cách thức này. Vāto vā paṇṇakasaṭaṃ ereti (gió thổi xào xạc làm lá cây gãy rụng): gió thổi xào xạc các lá cây gãy rụng. Etaṃ nūna taṃ bhayabheravaṃ āgacchati (nay sự sợ hãi và cảnh đáng sợ ấy đã đến) nghĩa là những đối tượng nào đến (hiện hữu), những đối tượng đó được xem là sự sợ hãi và cảnh đáng sợ. Và kể từ đây đối tượng ấy nên biết rằng là sự sợ hãi và cảnh đáng sợ. Bởi có cả đối tượng nhở và cả đối tượng lớn, đối tượng mới được gọi là sự sợ hãi và cảnh đáng sợ, tương tự y như sắc có sự an lạc làm đối tượng, và cũng được gọi là sự an lạc. Kiṃ nu kho ahaṃ aññadatthu bhayapaṭikaṅkhī viharāmi (Vì sao Ta ở đây, chỉ để mong đợi sự sợ hãi và cảnh đáng sợ chớ không gì khác?): Như Lai sống hy vọng, do nguyên nhân gì trong khi mong đợi làm một phần của nỗi sợ hãi và cảnh đáng sợ đó tồn tại?

Yathābhūtaṃ yathābhūtassāti yena yena iriyāpathena bhūtassa bhavitassa sato vattamānassa samaṅgībhūtassa vā. Meti mama santike. Tathābhūtaṃ tathābhūto vāti tena teneva iriyāpathena bhūto bhavito santo vattamāno samaṅgībhūto vāti attho. So kho ahaṃ…pe… paṭivinemīti bodhisattassa kira caṅkamantassa tasmiṃ magasiṅgakhurasaddādibhede bhayabheravārammaṇe āgate neva mahāsatto tiṭṭhati, na nisīdati na sayati, atha kho caṅkamantova parivīmaṃsanto parivicinanto bhayabheravaṃ na passati, magasiṅgakhurasaddādimattameva cetaṃ hoti, so taṃ ñatvā idaṃ nāmetaṃ, na bhayabheravanti tato tiṭṭhati vā nisīdati vā sayati vā. Etamatthaṃ dassento ‘‘so kho aha’’ntiādimāha. Esa nayo sabbapeyyālesu. Ito parañca iriyāpathapaṭipāṭiyā avatvā āsannapaṭipāṭiyā iriyāpathā vuttāti veditabbā, caṅkamantassa hi bhayabherave āgate na ṭhito na nisinno na nipanno ṭhitassāpi āgate na caṅkamīti evaṃ tassa āsannapaṭipāṭiyā vuttāti.

Yathābhūtaṃ yathābhūtassa (trong bất cứ hành vi cử chỉ nào): Tồn tại là sự hiện hữu hoặc thành tựu với bất kỳ oai nghi nào? Me là trong hội chúng của Như Lai. Tathābhūtaṃ tathābhūto (trong bất cứ hành vi cử chỉ ấy): tồn tại là sự hiện hữu hoặc thành tựu với bất kỳ oai nghi ấy. So kho ahaṃ … pe … paṭivinemi (rồi Ta…khi Ta diệt trừ): được biết rằng khi đức Bồ-tát đi kinh hành, trong khi đối tượng là nỗi sợ hãi và những thứ đáng sợ có nhiều loại chẳng hạn như maga (động vật bốn chân) và âm thanh của động vật móng guốc v.v, đến xuất hiện, bậc Đại Sĩ đứng im lặng, không ngồi, không nằm. ngược lại Ngài tiếp tục đi kinh hành cân nhắc, xem xét kỹ lưỡng (cho đến khi) không thấy sự sợ hãi và cảnh đáng sợ nữa, đó chỉ là (tiếng) maga [động vật bốn chân] và âm thanh của động vật móng guốc v.v, Khi nhận ra rằng đối tượng đó tên này, không phải là nỗi sợ hãi hay những thứ đáng sợ, từ đó Ngài đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm. Sau khi thuyết ý nghĩa như vậy đức Thế Tôn đã nói rằng: “so kho ahaṃ (như vậy Ta…)” v.v. Nên áp dụng cách này cho tất cả các đoạn kinh lặp lại. Và kể từ đây nên biết rằng đức Thế Tôn được trình bày theo thứ tự gần nhau của các oai nghi, chớ không trình bày liên tiếp các oai nghi. Giải thích rằng đức Thế Tôn nói theo sự nối tiếp gần nhau của các oai nghi như thế này: Trong lúc Như Lai đang đi kinh hành nỗi sợ hãi và cảnh đáng sợ xuất hiện, Như Lai không đứng, không ngồi, không nằm; ngay cả khi Như Lai dừng lại đứng yên, nỗi sợ hãi và cảnh đáng sợ xuất hiện xuất hiện, Như Lai cũng không đi kinh hành.

Giải thích sự sợ hãi, cảnh đáng sợ, trú xứ kết thúc

 

Giải Thích Sống Không Có Si Mê

  1. Evaṃ bhiṃsanakesupi ṭhānesu attano bhayabheravābhāvaṃ dassetvā idāni jhāyīnaṃ sammohaṭṭhānesu attano asammohavihāraṃ dassetuṃ santi kho pana, brāhmaṇātiādimāha.
    Sau khi đức Thế Tôn thuyết giảng về tính chất không có sự sợ hãi và cảnh đáng sợ của Ngài ở nơi kinh hãi như vậy, bây giờ để thuyết về việc Ngài sống không có sự si ám ở vị trí được thiết lập của sự si ám của hạng người chứng đắc các thiền, nên Ngài đã nói rằng “Này Bà-la-môn, có một số Sa-môn, Bà-la-môn nghĩ rằng….”.

Tattha santīti atthi saṃvijjanti upalabbhanti. Rattiṃyeva samānanti rattiṃyeva santaṃ, divāti sañjānantīti ‘‘divaso aya’’nti sañjānanti. Divāyeva samānanti divasaṃyeva santaṃ. Rattīti sañjānantīti ‘‘ratti aya’’nti sañjānanti. Kasmā panete evaṃsaññino hontīti. Vuṭṭhānakosallābhāvato vā sakuṇarutato vā. Kathaṃ? Idhekacco odātakasiṇalābhī divā parikammaṃ katvā divā samāpanno divāyeva vuṭṭhahāmīti manasikāraṃ uppādeti, no ca kho addhānaparicchede kusalo hoti. So divasaṃ atikkamitvā rattibhāge vuṭṭhāti. Odātakasiṇapharaṇavasena cassa visadaṃ hoti vibhūtaṃ suvibhūtaṃ. So, divā vuṭṭhahāmīti uppāditamanasikāratāya odātakasiṇapharaṇavisadavibhūtatāya ca rattiṃyeva samānaṃ divāti sañjānāti. Idha panekacco nīlakasiṇalābhī rattiṃ parikammaṃ katvā rattiṃ samāpanno rattiṃyeva vuṭṭhahāmīti manasikāraṃ uppādeti, no ca kho addhānaparicchede kusalo hoti. So rattiṃ atikkamitvā divasabhāge vuṭṭhāti. Nīlakasiṇapharaṇavasena cassa avisadaṃ hoti avibhūtaṃ. So rattiṃ vuṭṭhahāmīti uppāditamanasikāratāya nīlakasiṇapharaṇāvisadāvibhūtatāya ca divāyeva samānaṃ rattīti sañjānāti. Evaṃ tāva vuṭṭhānakosallābhāvato evaṃsaññino honti.

Ở đây, santi đồng nghĩa với atthi (có, tồn tại) là saṃvijjanti (có tồn tại, có hiện hữu), gồm upalabbhanti (có được chắc chắn). Ngày c: thời gian vào ban đêm. Nghĩ rằng ban ngày : tưởng tri rằng “thời gian này là thời gian vào ban ngày”. Đêm giống như ngày: thời gian vào ban ngày. rattīti sañjānanti: tưởng tri rằng “thời gian này là thời gian vào ban đêm”. — Tại sao hạng người đắc thiền như vậy lại tưởng tri như thế? — bởi không thiện xảo trong việc xuất khỏi thiền hoặc do tiếng chim hót. Tại sao? — Một số người đắc được đề mục thiền định màu trắng [odātakasiṇa] trong thế giới này khởi lên tác ý rằng– Tôi đã chuẩn bị vào buổi sáng sớm, nhập thiền vào ban ngày và xuất thiền vào ban ngày. Nhưng vì Ngài không thiện xảo trong việc xác định thời gian xuất thiền. Vì thế mà Ngài đã nhập thiền quá thời gian ấn định vào buổi sáng qua thời gian ban đêm, và với sức mạnh lan tỏa của đề mục thiền định màu trắng [odātakasiṇa] mà biến xứ trắng của Ngài thật trong sáng và rõ ràng. Ngài cho rằng thời gian ban đêm ấy là thời gian ban ngày. Vì lý do sanh khởi tác ý sẽ xuất thiền vào ban ngày, và vì sự lan rộng của ‘biến xứ trắng’ trong sáng và rõ ràng.

Sakuṇarutato pana idhekacco antosenāsane nisinno hoti. Atha divā ravanakasakuṇā kākādayo candālokena divāti maññamānā rattiṃ ravanti, aññehi vā kāraṇehi. So tesaṃ saddaṃ sutvā rattiṃyeva samānaṃ divāti sañjānāti. Idha panekacco pabbatantare gambhīrāya ghanavanappaṭicchannāya giriguhāya sattāhavaddalikāya vattamānāya antarahitasūriyāloke kāle nisinno hoti. Atha rattiṃ ravanakasakuṇā ulūkādayo majjhanhikasamayepi tattha tattha samandhakāre nilīnā rattisaññāya vā aññehi vā kāraṇehi ravanti. So tesaṃ saddaṃ sutvā divāyeva samānaṃ rattīti sañjānāti. Evaṃ sakuṇarutato evaṃsaññino hontīti. Idamahanti idaṃ ahaṃ evaṃ sañjānanaṃ . Sammohavihārasmiṃ vadāmīti sammohavihārapariyāpannaṃ antogadhaṃ, sammohavihārānaṃ aññataraṃ vadāmīti vuttaṃ hoti.

Còn phần ‘do tiếng chim hót’ (điều này là như vậy), tức là một số người đắc thiền trong thế gian này ngồi bên trong trú xứ này kia, muôn thú như loài chim và loài quạ, v.v., hót vào ban ngày, tưởng tri rằng đây là thời gian ban ngày vì ánh sáng của mặt trăng truyền âm thanh tiếng chim hót vào ban đêm hoặc truyền tiếng chim hót vì những lý do khác. Ngài đã nghe thấy âm thanh của những loài thú rừng ấy, rồi Ngài cho rằng thời gian ban đêm ấy lại là thời gian ban ngày. Nhưng một số người đắc thiền trên thế gian này ngồi trong hang động ẩn sau những rừng rậm sâu trong hang núi. Vào lúc ánh sáng biến mất, trời đổ mưa suốt bảy ngày, lúc bấy giờ muôn thú có loài chim hót vào ban đêm và những con cú mèo, v.v., mòn mỏi trong nơi u ám đó, ngay cả vào buổi trưa truyền âm thanh bằng suy tưởng (sai) rằng đó là ban đêm hoặc vì bất kỳ lý do nào khác. Những hạng người đắc thiền ấy đã nghe âm thanh của những loài thú rừng, suy tưởng rằng thời gian này chắc chắn là thời gian ban ngày, chắc chắn rằng đây là thời gian ban đêm. bởi vì âm thanh vọng lại như đã được giải thích, hạng người đắc thiền mới có tưởng tri như vậy. Idamahanti nghĩa là Như Lai đã nói điều này là sự tưởng tri. Sammohavihārasmiṃ vadāmi (Như Lai nói…sống trong si ám) có lời giải thích rằng Như Lai đã nói [việc xác định ý nghĩa] đây là sự cộng trú, cụ thể là xếp vào sự cộng trú với si ám, đó là để nói rằng đây là một trong những người sống một cách mù quáng si mê.

Sakuṇarutato pana idhekacco antosenāsane nisinno hoti. Atha divā ravanakasakuṇā kākādayo candālokena divāti maññamānā rattiṃ ravanti, aññehi vā kāraṇehi. So tesaṃ saddaṃ sutvā rattiṃyeva samānaṃ divāti sañjānāti. Idha panekacco pabbatantare gambhīrāya ghanavanappaṭicchannāya giriguhāya sattāhavaddalikāya vattamānāya antarahitasūriyāloke kāle nisinno hoti. Atha rattiṃ ravanakasakuṇā ulūkādayo majjhanhikasamayepi tattha tattha samandhakāre nilīnā rattisaññāya vā aññehi vā kāraṇehi ravanti. So tesaṃ saddaṃ sutvā divāyeva samānaṃ rattīti sañjānāti. Evaṃ sakuṇarutato evaṃsaññino hontīti. Idamahanti idaṃ ahaṃ evaṃ sañjānanaṃ . Sammohavihārasmiṃ vadāmīti sammohavihārapariyāpannaṃ antogadhaṃ, sammohavihārānaṃ aññataraṃ vadāmīti vuttaṃ hoti.

Ahaṃ kho pana brāhmaṇa … pe … sañjānāmi (còn Ta, này Bà-la-môn, ta nghĩ rằng…) nghĩa là việc xác định thời gian ban đêm, ban ngày của Bồ-tát đã xuất hiện, thậm chí khi trời mưa suốt 7 ngày đến khi mặt trăng và mặt trời không chiếu sáng Bồ-tát chắc chắn sẽ biết rằng chính lúc này đến giờ thọ dụng vật thực vào buổi sáng, khoảng thời gian này là thời gian sau bữa ăn, khoảng thời gian này là canh đầu, khoảng thời gian này là canh giữa”. Bởi thế đức Thế Tôn đã nói như vậy, và không có gì đáng ngạc nhiên khi một vị Bồ-tát có ba-la-mật đã được thực hành tròn đủ (sẽ) biết như vậy. Thậm chí cả chư Thánh đệ tử được vững trú trong sự hiểu biết có hạn chế [padesañāṇa] cũng trở nên hiện hữu sự xác định thời gian ban đêm và ban ngày.

Kalyāṇiyamahāvihāre kira godattatthero dvaṅgulakāle bhattaṃ gahetvā aṅgulakāle bhuñjati. Sūriye adissamānepi pātoyeva senāsanaṃ pavisitvā tāya velāya nikkhamati. Ekadivasaṃ ārāmikā ‘‘sve therassa nikkhamanakāle passāmā’’ti bhattaṃ sampādetvā kālatthambhamūle nisīdiṃsu. Thero dvaṅgulakāleyeva nikkhamati. Tato pabhuti kira sūriye adissamānepi therassa nikkhamanasaññāya eva bheriṃ ākoṭenti.

Chuyện kể rằng trưởng lão Godatta trong Đại tự Kalyāṇiya nhận vật thực trong thời gian 2 aṅgulī, rồi chỉ thọ dụng vật thực trong 2 aṅgulī khi mặt trời chưa ló dạng, vị ấy cũng đi vào trú xứ từ sáng, và đi ra trong thời gian tương tự đó. Một ngày nọ nhóm người ở chùa nghĩ rằng chúng tôi sẽ gặp Ngài khi Ngài đi ra ngoài vào ngày mai. Vì vậy, họ đã chuẩn bị thức ăn và ngồi (chờ đợi) gần điểm đánh dấu thời gian, vị trưởng lão đi ra cũng vào lúc 2 aṅgulī tương tự. Được biết rằng kể từ đó dù mặt trời chưa ló dạng, người trong chùa cũng đánh trống báo hiệu trưởng lão đi ra.

Ajagaravihārepi kāḷadevatthero antovasse yāmagaṇḍikaṃ paharati, āciṇṇametaṃ therassa. Na ca yāmayantanāḷikaṃ payojeti, aññe bhikkhū payojenti. Atha nikkhante paṭhame yāme there muggaraṃ gahetvā ṭhitamatteyeva ekaṃ dve vāre paharanteyeva vā yāmayantaṃ patati, evaṃ tīsu yāmesu samaṇadhammaṃ katvā thero pātoyeva gāmaṃ pavisitvā piṇḍapātaṃ ādāya vihāraṃ āgantvā bhojanavelāya pattaṃ gahetvā divā vihāraṭṭhānaṃ gantvā samaṇadhammaṃ karoti. Bhikkhū kālatthambhaṃ disvā therassa adisvā āgamanatthāya pesenti. So bhikkhu theraṃ divā vihāraṭṭhānā nikkhamantameva vā antarāmagge vā passati. Evaṃ padesañāṇe ṭhitānaṃ sāvakānampi rattindivaparicchedo pākaṭo hoti, kimaṅgaṃ pana bodhisattānanti.

Ngay cả trưởng lão Kāḷadeva ở Tịnh xá Ajagara, (vị ấy) đánh chuông để báo thời gian trong mùa an cư kiết hạ, việc đáng chuông để báo thời gian trở thành thói quen hàng ngày của trưởng lão, nhưng trưởng lão từ chối sử dụng đồng hồ. Các nhà sư khác thì sử dụng nó. Sau đó, khi canh đầu trôi qua, trưởng lão cầm gậy đứng đó đánh vào (cái chuông) hoặc chỉ đánh vào cái chuông hai lần, và đồng hồ cũng reo lên. Trong trường hợp này, trưởng lão thực hành Sa-môn Pháp trong cả 3 thời và đi vào làng từ sáng sớm để nhận đồ ăn khất thực rồi trở lại chùa, trong thời gian thọ dụng cũng ôm bình bát đi về chỗ trú xứ nghĩ ngơi vào ban ngày thực hành Sa-môn Pháp. Sau khi chư tỳ khưu đã thấy thời gian ấn định [kālatthambhaṃ], các vị ấy cử vị tỳ khưu đi để thỉnh mời trưởng lão đến. Vị ấy đã gặp trưởng lão (trong khi) đang đi ra khỏi từ chỗ ở của mình vào ban ngày trên đường đi. Ngay cả những đệ tử sống trong Patesana cũng xác định thời gian là ngày và đêm như thế này. Tôi sẽ nói với tất cả chư Bồ tát rằng tôi bị bệnh. Thậm chí cả chư Thánh đệ tử được vững trú trong sự hiểu biết có hạn chế [padesañāṇa] xác định thời gian rằng là ban đêm và ban ngày như vầy. Còn nói gì nữa đến chu Bồ-tát.

Yaṃ kho taṃ brāhmaṇa…pe… vadeyyāti ettha pana ‘‘yaṃ kho taṃ, brāhmaṇa, asammohadhammo satto loke uppanno…pe… sukhāya devamanussāna’’nti vacanaṃ vadamāno koci sammā vadeyya, sammā vadamāno siyā, na vitathavādī assa. Mameva taṃ vacanaṃ vadamāno sammā vadeyya, sammā vadamāno siyā, na vitathavādī assāti evaṃ padasambandho veditabbo.

Yaṃ kho taṃ brāhmaṇa … pe … vadeyya này nên biết rằng là từ liên kết như vậy “này Bà-la-môn, những ai nói rằng loài hữu tình nào không có si pháp đã xuất hiện trong đời…mang lại hạnh phúc cho chư Thiên và nhân loại”. Được gọi là nói chân chánh, là người nói đúng đắn, nói không sai sự thật, chỉ khi vị ấy nói lời nói đó với Như Lai nên mới được gọi là nói chân chánh, là người nói đứng đắn, nói không sai sự thật.

Tattha asammohadhammoti asammohasabhāvo. Loketi manussaloke. Bahujanahitāyāti bahujanassa hitatthāya, paññāsampattiyā diṭṭhadhammikasamparāyikahitūpadesakoti. Bahujanasukhāyāti bahujanassa sukhatthāya, cāgasampattiyā upakaraṇasukhassa dāyakoti. Lokānukampāyāti lokassa anukampatthāya, mettākaruṇāsampattiyā mātāpitaro viya lokassa rakkhitā gopayitāti. Atthāya hitāya sukhāya devamanussānanti idha devamanussaggahaṇena ca bhabbapuggalaveneyyasatteyeva gahetvā tesaṃ nibbānamaggaphalādhigamāya attano uppattiṃ dassetīti veditabbo. Atthāyāti hi vutte paramatthatthāya nibbānāyāti vuttaṃ hoti. Hitāyāti vutte taṃ sampāpakamaggatthāyāti vuttaṃ hoti, nibbānasampāpakamaggato hi uttari hitaṃ nāma natthi. Sukhāyāti vutte phalasamāpattisukhatthāyāti vuttaṃ hoti, tato uttari sukhābhāvato. Vuttañcetaṃ ‘‘ayaṃ samādhi paccuppannasukho ceva āyatiñca sukhavipāko’’ti (dī. ni. 3.355; a. ni. 5.27; vibha. 804).

Ở đây, asammohadhammo: có thực tính không si ám. Thế gian: chúng sanh trong thế gian. Vì sự lợi ích cho nhiều người: vì lợi ích cho đa số chúng sanh, tức là (chúng sanh ấy) là người chỉ đường để mang lại lợi ích cả ở hiện tại và cả tương lai sự thành tựu của trí tuệ. Vì sự an lạc cho nhiều người: vì sự hạnh phúc cho đa số chúng sanh, tức là (chúng sanh ấy) là người cho tài sản trợ giúp hạnh phúc với sự thành tựu của việc dứt bỏ. Vì lòng bi mẫn đối với thế gian: có nghĩa là vì lợi ích của thế giới, tức là (chúng sanh ấy) là người  sóc, là người bảo vệ thế gian, giống như cha mẹ (bảo vệ con cái) với sự thành tựu của lòng từ và lòng bi mẫn. Và với từ chư Thiên và nhân loại trong câu ‘vì sự tấn hóa, vì sự lợi ích, vì sự an lạc của chư Thiên và nhân loại,’ học giả nên biết rằng đức Thế Tôn có ý muốn nói đến chúng sanh loài hữu tình, là người cần được giác ngộ [bhabbapuggala] và sau đó trình bày sự xuất hiện của đức Thế Tôn để cho chúng sanh loài hữu tình đó đạt được Đạo Quả và Niết Bàn. Bởi vì khi đức Thế Tôn nói “vì sự tấn hóa” muốn nói đến ‘vì lợi ích tối thượng là Niết Bàn’.  Khi Ngài nói, “vì lợi ích trợ giúp” có nghĩa là vì lợi ích của Đạo lộ đưa đến chứng đạt Niết Bàn đó. Bởi vì không có (lợi ích nào khác) được gọi là vượt trội hơn lợi ích trợ giúp Đạo lộ đưa đến chứng đạt Niết Bàn. Khi đức Thế Tôn nói vì hạnh phúc, điều đó có nghĩa là vì lợi ích của hạnh phúc sanh lên từ sự thể nhập Thánh Quả. Vì không có hạnh phúc (nào khác) vượt trội hơn hạnh phúc sanh lên từ sự thể nhập thánh Quả. Điều đó đã được Đức Thế Tôn thuyết như vầy: “thiền định này mang lại sự hạnh phúc ngay hiện tại và có sự hạnh phúc là quả (trong tương lai).[2]

Giải thích về sự sống không có si ám kết thúc

 

Giải thích pháp hành sơ khởi (Pubbabhāgapaṭipadā)

  1. Evaṃ bhagavā buddhaguṇapaṭilābhāvasānaṃ attano asammohavihāraṃ brāhmaṇassa dassetvā idāni yāya paṭipadāya taṃ koṭippattaṃ asammohavihāraṃ adhigato, taṃ pubbabhāgato pabhuti dassetuṃ āraddhaṃ kho pana me brāhmaṇātiādimāha.
    Như vậy, sau khi đức Thế Tôn thuyết giảng về sự sống không si mê (asammohavihāraṃ) của Ngài, có việc chứng đắc đức hạnh của đức Phật là tối thắng như đã giải thích, bây giờ để thuyết giảng pháp hành làm nhân để đạt được sự sống không si ám cho đến tối thượng, kể từ lúc bắt đầu nên Ngài đã nói rằng “āraddhaṃ kho pana me brāhmaṇa (này Bà-la-môn, Ta tinh cần…)” v.v.

Keci panāhu ‘‘imaṃ asammohavihāraṃ sutvā brāhmaṇassa cittamevaṃ uppannaṃ ‘kāya nu kho paṭipadāya imaṃ patto’ti, tassa cittamaññāya imāyāhaṃ paṭipadāya imaṃ uttamaṃ asammohavihāraṃ pattoti dassento evamāhā’’ti.

Một số vị A-xà-lê nói rằng Bà-la-môn đã nghe cách sống không si ám này, đã khởi lên suy nghĩ rằng bằng con đường thực hành gì mà Sa-môn Gotama đạt đến sự sống không bị si ám? Đức Thế Tôn biết được suy nghĩ của Bà-la-môn đó, khi thuyết giảng rằng Như Lai đã đạt đến sự sống không bị si ám tối thắng bằng con đường thực hành này nên mới thuyết như vậy.

Tattha āraddhaṃ kho pana me, brāhmaṇa, vīriyaṃ ahosīti, brāhmaṇa, na mayā ayaṃ uttamo asammohavihāro kusītena muṭṭhassatinā sāraddhakāyena vikkhittacittena vā adhigato, apica kho tadadhigamāya āraddhaṃ kho pana me vīriyaṃ ahosi, bodhimaṇḍe nisinnena mayā caturaṅgavīriyaṃ āraddhaṃ ahosi, paggahitaṃ asithilappavattitanti vuttaṃ hoti. Āraddhattāyeva ca metaṃ asallīnaṃ ahosi.

Ở đây, āraddhaṃ kho pana me, brāhmaṇa, vīriyaṃ ahosi (Này Bà-la-môn, Ta tinh cần, tinh tấn) có lời giải thích rằng này Bà-la-môn việc sống không si ám tối thượng này; không phải Như Lai lười biếng, không có niệm, với thân thể không an tịnh, hoăc với tâm phóng dật đã đạt đến, thực tế Như Lai đã bắt đầu sự tinh tấn để đạt đến sự sống không si ám, tức là Như Lai ngồi dưới cội Bồ-đề đã bắt đầu nỗ lực tinh tấn có 4 yếu tố [aṅga] cho vận hành không lỏng lẻo [vững chắc], cũng chính do có sự cố gắng ấy sự tinh tấn phối hợp với 4 yếu tố đó của Như Lai mới không lỏng lẻo.

Upaṭṭhitā sati asammuṭṭhāti na kevalañca vīriyameva, satipi me ārammaṇābhimukhībhāvena upaṭṭhitā ahosi. Upaṭṭhitattāyeva ca asammuṭṭhā. Passaddho kāyoti kāyacittappassaddhisambhavena kāyopi me passaddho ahosi. Tattha yasmā nāmakāye passaddhe rūpakāyopi passaddhoyeva hoti, tasmā nāmakāyo rūpakāyoti avisesetvāva passaddho kāyoti vuttaṃ. Asāraddhoti so ca kho passaddhattāyeva asāraddho, vigatadarathoti vuttaṃ hoti. Samāhitaṃ cittaṃ ekagganti cittampi me sammā āhitaṃ suṭṭhu ṭhapitaṃ appitaṃ viya ahosi. Samāhitattā eva ca ekaggaṃ acalaṃ nipphandananti, ettāvatā jhānassa pubbabhāgapaṭipadā kathitā hoti.

Upaṭṭhitā sati asammuṭṭhā (Ta an trú chánh niệm, không tán loạn): và không phải chỉ có sự tinh tấn mà còn cả niệm của Như Lai cũng vững chắc với tính chất tiến lên phía trước nắm bắt đối tượng và đã an trú chắc chắn, niệm mới không bị lãng quên. Có thân được khinh an: do có thân và tâm an tịnh, và cả thân của Như Lai cũng an tịnh. Ở đây, bởi do danh thân an tịnh thì cả sắc thân cũng an tịnh tương tự như thế, bởi thế đức Thế Tôn mới thuyết (chung lại) rằng thân an tịnh, không thuyết tách rời danh thân và sắc thân. Không có dao động: chính do đã an tỉnh rồi, thân ấy mới gọi là không bất an, tức là lìa xa sự bực bội, khó chịu. Samāhitaṃ cittaṃ ekaggaṃ (tâm được định tĩnh, nhất hành): Ngay cả tâm của Ta cũng đã được an trú đúng đắn, giống như (nắm bắt) khéo đặt xuống và bởi đặt để (tâm) chân chánh ấy mới có tên gọi là đối tượng duy nhất không lây động, không xao động, đức Thế Tôn thuyết giảng con đường thực hành là phần khởi đầu của Thiền, chỉ với chừng ấy lời.

Idāni imāya paṭipadāya adhigataṃ paṭhamajjhānaṃ ādiṃ katvā vijjāttayapariyosānaṃ visesaṃ dassento so kho ahantiādimāha. Tattha vivicceva kāmehi…pe… catutthajjhānaṃ upasampajjavihāsinti ettha tāva yaṃ vattabbaṃ siyā, taṃ sabbaṃ visuddhimagge pathavīkasiṇakathāyaṃ vuttaṃ. Kevalañhi tattha ‘‘upasampajja viharatī’’ti āgataṃ, idha ‘‘vihāsi’’nti, ayameva viseso. Kiṃ katvā pana bhagavā imāni jhānāni upasampajja vihāsīti, kammaṭṭhānaṃ bhāvetvā. Kataraṃ? Ānāpānassatikammaṭṭhānaṃ.

Bây giờ, đức Thế Tôn thuyết giảng pháp cao thượng từ lúc bắt đầu từ sơ thiền (paṭhamajjhāna) cho đến 3 minh vijjā là cuối cùng mà Ngài đã đắc được bằng con đường thực hành này nên Ngài đã nói lời sau: so kho ahaṃ v.v, như vậy. Phật ngôn đó lời nào cần được nói lúc này vivicceva kāmehi … pe … catutthajjhānaṃ upasampajja vihāsiṃ (Ta viễn ly các dục… Ta chứng và an trú Thiền thứ tư) cả lời đó đã được nói trong lúc nói về biến xứ đất [pathavīkasiṇa] trong bộ Thanh Tịnh Đạo. Ở đây, chỉ có một sự khác biệt (tức là) trong Thanh Tịnh Đạo đến bằng động từ “đạt đến và trú” (nhưng) ở đây là vihāsiṃ (ta trú). — đức Thế Tôn làm như thế nào mới nhập thiền này được? — Ngài đã phát triển đề mục thiền định. Hỏi: Nghiệp xứ nào? — Đề mục thiền định niệm hơi thở vào và hơi thở ra.

Imāni ca pana cattāri jhānāni kesañci cittekaggatatthāni honti, kesañci vipassanāpādakāni, kesañci abhiññāpādakāni, kesañci nirodhapādakāni, kesañci bhavokkamanatthāni. Tattha khīṇāsavānaṃ cittekaggatatthāni honti. Te hi samāpajjitvā ekaggacittā sukhaṃ divasaṃ viharissāmāti iccevaṃ kasiṇaparikammaṃ katvā aṭṭha samāpattiyo nibbattenti. Sekkhaputhujjanānaṃ samāpattito vuṭṭhāya samāhitena cittena vipassissāmāti nibbattentānaṃ vipassanāpādakāni honti. Ye pana aṭṭha samāpattiyo nibbattetvā abhiññāpādakajjhānaṃ samāpajjitvā samāpattito vuṭṭhāya ‘‘ekopi hutvā bahudhā hotī’’ti (dī. ni. 1.238; paṭi. ma. 1.102) vuttanayā abhiññāyo patthentā nibbattenti, tesaṃ abhiññāpādakāni honti.

Và lại nữa bốn tầng Thiền đối với một số hành giả có sự định tâm là quả (sự gom thâu tâm vào một đối tượng), đối với một số hành giả là nền tảng của Minh sát, đối với một số hành giả là nền tảng của thần thông, đối với một số hành giả là nền tảng của sự diệt tận, đối với một số hành giả có sự tiến vào các cõi là quả. Ở đây, đối với các bậc Lậu Tận hoặc bốn tầng thiền có sự định tâm là quả. Bởi vì, sau khi nhập thiền, chúng tôi sẽ sống một ngày an lạc với tâm chuyên nhất, đã thực hiện công việc sơ bộ cần phải được chuẩn bị trước khi hành thiền, làm tám thiền chứng sanh khởi. Đối với bậc hữu học và hạng phàm phu khi xuất khỏi các thiền chứng và sẽ thực hành Minh sát với tâm định tĩnh làm cho sanh khởi (như vậy) được gọi là nền tảng của Minh sát. Còn người nào sau khi làm sanh khởi tám thiền chứng, đã thể nhập thiền làm nền tảng của thần thông, rồi xuất khỏi thiền chứng và mong muốn đạt được các thần thông theo cách thức đã được nói— “là một hóa thành nhiều, v.v… (dī. ni. 1.238; paṭi. ma. 1.102);  đối với hạng người đắc thiền ấy, các thiền chứng này trở thành nền tảng của thần thông.

Ye pana aṭṭha samāpattiyo nibbattetvā nirodhasamāpattiṃ samāpajjitvā sattāhaṃ acittā hutvā diṭṭheva dhamme nirodhaṃ nibbānaṃ patvā sukhaṃ viharissāmāti nibbattenti, tesaṃ nirodhapādakāni honti. Ye pana aṭṭha samāpattiyo nibbattetvā aparihīnajjhānā brahmaloke uppajjissāmāti nibbattenti, tesaṃ bhavokkamanatthāni honti.

Còn người nào sau khi làm sanh khởi các thiền chứng , rồi thể nhập về sự diệt tận– “Ta sẽ sống an lạc sau khi đã đạt được sự diệt tận là Niết Bàn ngay ở hiện tại (trạng thái) không có Tâm Hành suốt 7 ngày, các tầng thiền này là nền tảng của sự diệt tận. Còn người nào sau khi làm sanh khởi các thiền chứng nghĩ rằng— Ta sẽ sanh vào thế giới Phạm thiên có thiền không bị hư hoại, các tầng thiền này là sự tiến vào các hữu là Quả.

Bhagavatā panidaṃ catutthajjhānaṃ bodhirukkhamūle nibbattitaṃ, taṃ tassa vipassanāpādakañceva ahosi abhiññāpādakañca sabbakiccasādhakañca, sabbalokiyalokuttaraguṇadāyakanti veditabbaṃ.

Hơn nữa, tứ thiền này đức Thế Tôn đã làm cho sanh khởi ở tại cội Bồ-đề, tứ thiền đó đức Thế Tôn ấy đã làm trở thành nền tảng của Minh sát, là nền tảng của thần thông và sự hoàn thành mọi phận sự, và nên được biết rằng cũng là sự ban tặng các ân đức ở Hiệp Thế và Siêu Thế ở mọi phương diện.

Giải thích pháp hành sơ khởi được kết thúc

 

Giải thích trí biết về tiền kiếp (Pubbenivāsānussatiñāna)

  1. Yesañca guṇānaṃ dāyakaṃ ahosi, tesaṃ ekadesaṃ dassento so evaṃ samāhite cittetiādimāha. Tattha dvinnaṃ vijjānaṃ anupadavaṇṇanā ceva bhāvanānayo ca visuddhimagge vitthārito. Kevalañhi tattha ‘‘so evaṃ samāhite citte…pe… abhininnāmetī’’ti vuttaṃ, idha ‘‘abhininnāmesi’’nti. Ayaṃ kho me brāhmaṇāti ayañca appanāvāro tattha anāgatoti ayameva viseso. Tattha soti so ahaṃ. Abhininnāmesinti abhinīhariṃ. Abhininnāmesinti ca vacanato soti ettha so ahanti evamattho veditabbo.
    Và tứ thiền đó tạo ra ân đức nào làm cho đức Thế Tôn khi trình bày một vài phần của ân đức ấy, nên Ngài nói rằng— So evaṃ samāhite citte (và như vậy với tâm định tĩnh) v.v. 2 loại Minh (vijjā) trong bài kinh đó (trí biết về tiền kiếp và trí biết về sanh tử) được giải thích theo thứ tự câu và lộ trình tu tập đã được trình bày trong bộ Thanh Tịnh Đạo. Ở đây, trong bộ Thanh Tịnh Đạo với ở trường hợp này có một sự khác biệt như vầy là trong Thanh Tịnh Đạo đã được Ngài nói động từ là “so evaṃ samāhite citte … pe … abhininnāmeti” nhưng ở đây đức Thế Tôn thuyết động từ thành ​​abhininnāmesiṃ (Ta dẫn tâm, hướng tâm). Và trong phần nói về an chỉ định như vầy— “Này Bà-la-môn, trong đêm canh đầu Ta chứng được minh thứ nhất….” cũng không đến trong bộ Thanh Tịnh Đạo. Ở đây, từ so là “so ahaṃ (Ta, Như Lai đó)”. Abhininnāmesiṃ: hướng tâm đến, do Phật ngôn rằng Abhininnāmesiṃ trong từ so này nên biết ý nghĩa như vậy so ahaṃ (Ta, Như Lai đó).

Yasmā cidaṃ bhagavato vasena pubbenivāsānussatiñāṇaṃ āgataṃ, tasmā ‘‘so tato cuto idhūpapanno’’ti ettha evaṃ yojanā veditabbā. Ettha hi so tato cutoti paṭinivattantassa paccavekkhaṇaṃ. Tasmā idhūpapannoti imissā idhūpapattiyā anantaraṃ. Amutra udapādinti tusitabhavanaṃ sandhāyāhāti veditabbo. Tatrāpāsiṃ evaṃnāmoti tatrāpi tusitabhavane setaketu nāma devaputto ahosiṃ. Evaṃgottoti tāhi devatāhi saddhiṃ ekagotto. Evaṃvaṇṇoti suvaṇṇavaṇṇo. Evamāhāroti dibbasudhāhāro. Evaṃsukhadukkhappaṭisaṃvedīti evaṃ dibbasukhapaṭisaṃvedī. Dukkhaṃ pana saṅkhāradukkhamattameva . Evamāyupariyantoti evaṃ sattapaññāsavassakoṭisaṭṭhivassasatasahassāyupariyanto. Sotato cutoti so ahaṃ tato tusitabhavanato cuto. Idhūpapannoti idha mahāmāyāya deviyā kucchimhi nibbatto.

Chính vì trí biết về tiền kiếp (pubbenivāsānussatiñāṇaṃ) này đã đến do nhờ oai lực của đức Thế Tôn, nên biết sự hội tụ này như vậy trong lời này Như Lai đã chết từ cõi đó và sanh ra trong cõi này. Ở đây, nên biết (giải thích thêm) rằng chữ ‘Ta’ tức ‘Như Lai’ chết từ cõi ấy. Đó là sự quán xét của Bồ-tát quán chiếu ngược lại. Do đó nên biết rằng trong chữ idhūpapanno (được sanh ra ở đây), đức Thế Tôn có ý nói đến cõi Đâu Suất như sau: Ta, Như Lai, đã sanh ra ở cõi Đâu Suất trước khi đến sanh ra ở cõi này. Tatrāpāsiṃ evaṃnāmo (tại chỗ này, Ta có tên như thế này) nghĩa là trong cõi Đâu Suất, Như Lai là thiên tử có tên là Setaketu. Evaṃgotto (dòng họ như thế này) là có cùng dòng giống với chư Thiên ấy. Evaṃvaṇṇo (màu da như thế này) là có màu da trong sáng như vàng rồng. Evamāhāro (có thức ăn như thế này)dibbasudhāhāro (tịnh thực cõi trời). Evaṃsukhadukkhappaṭisaṃvedī [người thọ hưởng lạc-khổ như thế này) nghĩa là người thọ hưởng sự an lạc ở thiên giới như vầy, còn khổ chỉ có hành khổ mà thôi. Evamāyupariyanto (tuổi thọ đến mức như thế này) nghĩa là có tuổi thọ 57 koṭi và 6 triệu năm. so tato cuto nghĩa là Như Lai chết từ cõi đó là cõi Đâu Suất. idhūpapanno: đã sanh ra từ cõi này, tức là (sanh ra) từ bào thai của Hoàng hậu Mahāmāyā.

Ayaṃ kho me brāhmaṇātiādīsu meti mayā. Vijjāti viditakaraṇaṭṭhena vijjā. Kiṃ viditaṃ karoti? Pubbenivāsaṃ. Avijjāti tasseva pubbenivāsassa aviditakaraṇaṭṭhena tappaṭicchādako moho vuccati. Tamoti sveva moho paṭicchādakaṭṭhena ‘‘tamo’’ti vuccati. Ālokoti sāyeva vijjā obhāsakaraṇaṭṭhena ‘‘āloko’’ti vuccati. Ettha ca vijjā adhigatāti ayaṃ attho, sesaṃ pasaṃsāvacanaṃ. Yojanā panettha ayaṃ kho me vijjā adhigatā, tassa me adhigatavijjassa avijjā vihatā, vinaṭṭhāti attho. Kasmā? Yasmā vijjā uppannā. Esa nayo itarasmimpi padadvaye.

Me trong cụm từ ayaṃ kho me brāhmaṇa v.v, là mayā. Vijjā (Minh, ánh sáng) được gọi là Minh bởi vì ý nghĩa làm cho biết rõ (giác ngộ). ​​Khi được hỏi mình làm cho biết rõ điều gì? Đáp: uẩn (cõi) đã từng nương tựa ở kiếp trước. Avijja [vô minh] với ý nghĩa rằng là không làm cho biết rõ uẩn y cứ trong tiền kiếp, vô minh đã được đức Thế Tôn gọi là si mê [(moha) để che đậy uẩn y cứ trong tiền kiếp đó. Tamo cũng chính là si mê, được đức Thế Tôn gọi là tama (bóng tối) vì nó có ý nghĩa là che đậy. Ánh sáng nghĩa là Minh ​​ấy được Đức Thế Tôn gọi là ánh sáng, vì có nghĩa là tạo ra ánh sáng. Và ở đây, có ý nghĩa thế này: Vijjā adhigatā: Minh mà Như Lai đã đạt đến. Từ còn lại là những lời tán dương. Ngoài ra, trong Phật ngộn này có sự kết hợp ý nghĩa như sau— Minh này Như Lai đã đạt được, khi Như Lai đã đạt đến Minh thì Vô minh bị phá tan, có nghĩa là bị tiêu diệt. Hỏi: tại sao vô minh lại bị tiêu diệt? Đáp: bởi vì minh đã sanh khởi. Cả 2 từ còn lại cũng có cách này.

Yathātanti ettha yathāti opamme. Tanti nipāto. Satiyā avippavāsena appamattassa. Vīriyātāpena ātāpino. Kāye ca jīvite ca anapekkhatāya pahitattassa, pesitattassāti attho. Idaṃ vuttaṃ hoti ‘‘yathā appamattassa ātāpino pahitattassa viharato avijjā vihaññeyya, vijjā uppajjeyya. Tamo vihaññeyya, āloko uppajjeyya. Evameva mama avijjā vihatā, vijjā uppannā. Tamo vihato, āloko uppanno. Etassa me padhānānuyogassa anurūpameva phalaṃ laddha’’nti.

Yathā trong từ yathātaṃ sử dụng với ý nghĩa so sánh. Taṃ là phân từ. Hạng người gọi là không xao lãng bởi không xa lìa niệm. Có sự tinh cần bởi sức nóng thiêu đốt phiền nào gọi là tinh tấn. gọi là có bản tánh [tâm] kiên quyết bởi không có sự liên quan tới thân và mạng quyền. Pahitattassa: có bản tánh kiên quyết. (giải thích thêm) khi hành giả sống không xao lãng, có sự tinh cần, có bản tánh [tâm] kiên quyết, vô mình đáng được phá tan, minh đáng được sanh khởi, bóng tối đáng bị xua tan, ánh sáng đáng được xuất hiện thế nào, đối với Như Lai cũng như thế đó tương tự như thế vô minh bị được phá tan, vô minh cũng sanh khởi, bóng tối bị xua tan, ánh sáng cũng xuất hiện. Như Lai nhận được kết quả thích hợp với việc thực hành sự nhiệt tâm.

Giải thích trí biết về tiền kiếp kết thúc

 

Giải thích trí về thiên nhãn

  1. Cutūpapātakathāyaṃ yasmā idha bhagavato vasena pāḷi āgatā, tasmā ‘‘passāmi pajānāmī’’ti vuttaṃ, ayaṃ viseso. Sesaṃ visuddhimagge vuttasadisameva.
    Trong lời nói về cutūpapātañāṇa (trí biết về sanh tử) cần được giải thích như sau: cũng nguyên nhân ở trường hợp này, Pāḷi đã đến do nhờ oai lực của đức Thế Tôn, do đó đức Thế Tôn mới nói rằng: “ Ta thấy, Ta biết”, đây là sự khác biệt. Từ còn lại tương tự như đã trình bày trong bộ Thanh Tịnh Đạo.

Ettha pana vijjāti dibbacakkhuñāṇavijjā. Avijjāti sattānaṃ cutipaṭisandhipaṭicchādikā avijjā. Sesaṃ vuttanayamevāti. Yasmā ca pūritapāramīnaṃ mahāsattānaṃ parikammakiccaṃ nāma natthi. Te hi citte abhininnāmitamatteyeva anekavihitaṃ pubbenivāsaṃ anussaranti, dibbena cakkhunā satte passanti. Tasmā yo tattha parikammaṃ ādiṃ katvā bhāvanānayo vutto, na tena idha atthoti.

Lại nữa ở đây Minh: Trí về thiên nhãn minh. Vô minh: Vô mình che đậy sự tử và sự tục sanh của các chúng sanh. Từ còn lại tương tự như đã trình bày. Chính vì tất cả các bậc Đại Nhân đã thực hành (tròn đủ) ba-la-mật, mới không cần thiết thực hành parikamma [sự sơ khởi], bởi vì các Ngài chỉ cần hướng tâm đến đối tượng mà thôi cũng (có thể) nhớ lại vô số các uẩn y cứ trong quá khứ, sẽ nhìn thấy tất cả các chúng sanh bằng thiên nhãn. Do đó, phương pháp phát triển minh [vijjā] ấy bắt đầu từ khi thực hành parikamma [sự sơ khởi] đã được trình bày trong Thanh Tịnh Đạo, không cần thiết đem ra trình bày ở đây.

Giải thích trí về thiên nhãn được kết thúc

 

Giải thích trí về sự cạn kiệt các lậu

  1. Tatiyavijjāya so evaṃ samāhite citteti vipassanāpādakaṃ catutthajjhānacittaṃ veditabbaṃ. Āsavānaṃ khayañāṇāyāti arahattamaggañāṇatthāya. Arahattamaggo hi āsavavināsanato āsavānaṃ khayoti vuccati, tatra cetaṃ ñāṇaṃ, tappariyāpannattāti. Cittaṃ abhininnāmesinti vipassanācittaṃ abhinīhariṃ.
    Minh thứ ba, Vị ấy với tâm được định tĩnh như vậy: Như Lai đó, khi tâm được định tĩnh như vậy, tâm được định tĩnh nên biết rằng chính là tứ thiền là nền tảng cho sự phát triển của minh sát. Đã hướng dẫn tâm đến trí tuệ đoạn tận các lậu hoặc: Vì lợi ích đối với đạo tuệ A-ra-hán. Thật vậy, A-ra-hán đạo được gọi là Pháp chấm dứt các phiền não, bởi vì làm cho các lậu hoặc tiêu tan và trí này có trong A-ra-hán Đạo ấy, vì sự liên tục trong A-ra-hán đạo đó. Hai câu đó: Ta đây đã hướng dẫn tâm: hướng tâm tương ưng với Minh sát.

So idaṃ dukkhanti evamādīsu ‘‘ettakaṃ dukkhaṃ, na ito bhiyyo’’ti sabbampi dukkhasaccaṃ sarasalakkhaṇapaṭivedhena yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ jāniṃ paṭivijjhiṃ. Tassa ca dukkhassa nibbattikaṃ taṇhaṃ ayaṃ dukkhasamudayoti. Tadubhayampi yaṃ ṭhānaṃ patvā nirujjhati, taṃ tesaṃ appavattiṃ nibbānaṃ ayaṃ dukkhanirodhoti. Tassa sampāpakaṃ ariyamaggaṃ ayaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadāti sarasalakkhaṇapaṭivedhena yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ jāniṃ paṭivijjhinti evamattho veditabbo.

Trong câu bắt đầu như sau ‘Đây là Khổ’ — Như Lai đã biết rõ, biết rõ, đã thấu rõ, đã thấu triệt đúng theo thực thể với sự thấu triệt tướng trạng và bản chất của toàn bộ khổ rằng—  “khổ chỉ chừng này, không nhiều hơn thế”. Và (Ta) đã biết rõ, đã thấu rõ, đã thấu triệt đúng theo thực thể tham ái đã tạo ra Khổ rằng— “đây là nguyên nhân của Khổ”. Đã biết rõ, đã thấu rõ, đã thấu triệt đúng theo thực thể sự diệt tận cả 2 là Khổ và nguyên nhân của Khổ  rằng— “đây gọi là sự Diệt Khổ”. Đã biết rõ, đã thấu rõ, đã thấu triệt đúng theo thực thể đạo lộ của bậc Thánh đưa đến sự diệt khổ rằng— “Đây là đạo lộ thực hành đưa đến sự Diệt Khổ”, nên biết rõ ý nghĩa như vậy.

Evaṃ sarūpato saccāni dassetvā idāni kilesavasena pariyāyato dassento ime āsavātiādimāha. Tassa me evaṃ jānato evaṃ passatoti tassa mayhaṃ evaṃ jānantassa evaṃ passantassa. Saha vipassanāya koṭippattaṃ maggaṃ katheti. Kāmāsavāti kāmāsavato. Vimuccitthāti iminā phalakkhaṇaṃ dasseti, maggakkhaṇe hi cittaṃ vimuccati, phalakkhaṇe vimuttaṃ hoti. Vimuttasmiṃ vimuttamiti ñāṇanti iminā paccavekkhaṇañāṇaṃ dasseti. Khīṇā jātītiādīhi tassa bhūmiṃ, tena hi ñāṇena bhagavā paccavekkhanto ‘‘khīṇā jātī’’tiādīni abbhaññāsi. Katamā pana bhagavato jāti khīṇā, kathañca naṃ abbhaññāsīti? Na tāvassa atītā jāti khīṇā, pubbeva khīṇattā, na anāgatā, anāgate vāyāmābhāvato, na paccuppannā, vijjamānattā. Yā pana maggassa abhāvitattā uppajjeyya ekacatupañcavokārabhavesu ekacatupañcakkhandhabhedā jāti, sā maggassa bhāvitattā anuppādadhammataṃ āpajjanena khīṇā, taṃ so maggabhāvanāya pahīnakilese paccavekkhitvā ‘‘kilesābhāve vijjamānampi kammaṃ āyatiṃ appaṭisandhikaṃ hotī’’ti jānanto abbhaññāsi.

Như vậy, sau khi thuyết giảng các sự thật [đế-sacca] theo cách vắn tắt, bây giờ khi thuyết các Chân Lý (Đế-sacca) theo cách gián tiếp bằng mãnh lực của phiền não đức Thế Tôn thuyết rằng ​–​ “Ðây là những lậu hoặc v.v.Đối với đức Thế Tôn, trong khi biết được như thế, trong khi thấy được như thế: Khi ngài biết như vậy, thấy như vậy, mới nói đến Đạo lộ đạt đến đỉnh cao cùng với Minh sát. Dục Lậu: Từ dục lậu. ​​Đã thoát khỏi, đức Thế Tôn chỉ ra sát-na quả. Bởi vì tâm đang giải thoát ở sát-na của Đạo. Được xem là đã được giải thoát ở sát-na Quả. Khi đã được giải thoát, trí khởi lên rằng: ‘Đã được giải thoát.: thuyết về trí về quán xét lại (trí tuệ quán chiếu lại thánh đạo, thánh quả, Niết Bàn, phiền não đã bị diệt tận, và phiền não còn dư sót). Sự tái sanh đã cạn kiệt v.v,: thuyết về địa phận của trí về quán xét lại đó. Bởi vì, đức Thế Tôn trong khi quán chiếu lại bằng trí tuệ ​đó (ngài) biết rõ rằng: Sự tái sanh đã cạn kiệt v.v. Kiếp sống nào của đức Thế Tôn đã tận? Và đức Thế Tôn biết được kiếp sống đó như thế nào? — không phải kiếp quá khứ của Ngài đã tận, bởi vì kiếp quá khứ đã qua rồi; không phải kiếp sống vị lai của Ngài đã tận, bởi vì Ngài không có sự nỗ lực trong tương lai; không phải kiếp sống hiện tại đã tận, bởi vì kiếp sống hiện tại vẫn còn tồn tại; nhưng kiếp sống [sự sanh] nào chia rẽ thành (sự sanh của) nhất uẩn trong cõi nhất uẩn, tứ uẩn trong cõi tứ uẩn, và ngũ uẩn trong cõi ngũ uẩn sanh khởi được, do vẫn chưa thể làm cho (Thánh) đạo sanh khởi, kiếp sống đó được coi là đã tận, bởi vì đạt đến trạng thái (thực tính) không sanh khởi, nguyên nhân đã làm cho (thánh) đạo sanh khởi. Đức Thế Tôn biết được kiếp sống đó do nhờ sự quán chiếu phiền não đã đoạn trừ bằng sự tu tập về Đạo (Maggabhāvanā): và biết rằng khi phiền não không tồn tại các hành động vẫn còn tồn tại cũng sẽ không còn tạo tác khiến cho tục sanh tiếp tục nữa.

Vusitanti vutthaṃ parivutthaṃ, kataṃ caritaṃ niṭṭhitanti attho. Brahmacariyanti maggabrahmacariyaṃ, puthujjanakalyāṇakena hi saddhiṃ sattasekkhā brahmacariyavāsaṃ vasanti nāma, khīṇāsavo vutthavāso. Tasmā bhagavā attano brahmacariyavāsaṃ paccavekkhanto ‘‘vusitaṃ brahmacariya’’nti abbhaññāsi. Kataṃ karaṇīyanti catūsu saccesu catūhi maggehi pariññā-pahāna-sacchikiriyā-bhāvanāvasena soḷasavidhampi kiccaṃ niṭṭhāpitanti attho. Puthujjanakalyāṇakādayo hi taṃ kiccaṃ karonti, khīṇāsavo katakaraṇīyo. Tasmā bhagavā attano karaṇīyaṃ paccavekkhanto ‘‘kataṃ karaṇīya’’nti abbhaññāsi.

(Phạm hạnh) đã sống: là đã sống, đã sống trọn vẹn, có nghĩa là đã làm, đã thực hiện, đã hoàn thành. Phạm hạnh: Phạm hạnh cao thượng được gọi là Thánh Đạo, bởi vì bảy bậc Hữu học và hạng Phàm phu gọi là đang thực hành Phạm hạnh, bậc Lậu Tận là vị đã sống trọn vẹn. Vì vậy, đức Thế Tôn trong khi quán chiếu đến đời sống Phạm hạnh của mình, ngài đã biết rõ rằng— “Phạm hạnh đã sống.” Việc cần làm đã làm: tất cả 16 phận sự đã được hoàn thành bởi việc biết toàn diện, sự dứt bỏ, việc tác chứng, và sự tu tập với bốn Đạo. Do đó, tất cả 7 bậc Hữu học với hạng Phàm phu đang thực hành phận sự, còn bậc Lậu tận có việc cần làm đã làm. Vì thế, đức Thế Tôn trong khi quán chiếu đến phận sự cần làm của ngài, đã biết rõ rằng— “Việc cần làm đã làm.”

Nāparaṃitthattāyāti idāni puna itthabhāvāya evaṃsoḷasakiccabhāvāya, kilesakkhayāya vā maggabhāvanākiccaṃ me natthīti abbhaññāsi. Atha vā itthattāyāti itthabhāvato imasmā evaṃpakārā idāni vattamānakkhandhasantānā aparaṃ khandhasantānaṃ mayhaṃ natthi. Ime pana pañcakkhandhā pariññātā tiṭṭhanti chinnamūlakā rukkhā viya. Te carimakaviññāṇanirodhena anupādāno viya jātavedo nibbāyissantīti abbhaññāsi.

Không còn gì khác (phải làm) đối với bản thể A-ra-hán: Ngài đã biết rõ rằng— mười sáu phận sự tu tập đối với bản thể (A-ra-hán) này, hoặc để cạn kiệt các phiền não, hoặc sự tu tập phận sự về Đạo không có ở Ta. Hoặc hơn nữa, đối với bản thể (A-ra-hán) này: đức Thế Tôn biết rằng sự tiếp nối liên tục của uẩn khác từ trạng thái này, tức là từ sự tiếp nối liên tục của uẩn đang tồn tại (sang uẩn khác) lúc bấy giờ nơi Như Lai không có, nhưng ngũ uẩn này đã được Như Lai biết toàn diện về sự thiết lập giống như thân cây bị chặt đứt gốc rễ. Tâm thức cuối cùng bị diệt tắt nên ngũ uẩn đó cũng sẽ diệt, tương tự như ngọn đuốc đã bị hết tim đèn.

Idāni evaṃ paccavekkhaṇañāṇapariggahitaṃ āsavānaṃ khayañāṇādhigamaṃ brāhmaṇassa dassento, ayaṃ kho me brāhmaṇātiādimāha. Tattha vijjāti arahattamaggañāṇavijjā. Avijjāti catusaccapaṭicchādikā avijjā. Sesaṃ vuttanayameva. Ettāvatā ca pubbenivāsañāṇena atītaṃsañāṇaṃ, dibbacakkhunā paccuppannānāgataṃsañāṇaṃ, āsavakkhayena sakalalokiyalokuttaraguṇanti evaṃ tīhi vijjāhi sabbepi sabbaññuguṇe saṅgahetvā pakāsento attano asammohavihāraṃ brāhmaṇassa dassesi.

Bây giờ, Đức Thế Tôn, khi thuyết về sự thành tựu trí tuệ đoạn tận mọi lậu hoặc mà  quán xét với paccavekkhaṇañāṇa [trí tuệ quán chiếu thánh đạo, thánh quả, Niết Bàn, phiền não đã bị diệt tận, và phiền não còn dư sót] như vậy cùng Bà-la-môn, do đó Ngài đã nói rằng: ayaṃ kho me brāhmaṇa như thế, v.v. Ở đây, vijjā là minh trong đạo tuệ A-ra-hán. Avijjā là vô minh che đậy bốn sự thật v.v, các từ còn lại có nghĩa tương tự như đã đề cập ở trên. Sau đó, đức Thế Tôn tuyên thuyết nhiếp hợp các đức hạnh toàn giác với tam minh, tức là nhiếp hợp atītaṃsañāṇaṃ (trí biết về quá khứ) với pubbenivāsānussatiñāṇa (túc mạng minh); Ngài nhiếp hợp paccuppannaṃsañāṇa (trí biết hiện tại) và anāgataṃsañāna (trí biết về tương khứ) với trí về thiên nhãn; và Ngài nhiếp hợp toàn bộ ân đức siêu thế (sakalalokiyalokuttaraguṇa) với lậu tận trí (āsavakkhayā), bằng Phật ngôn như đã trình bày, và thuyết về sự sống không si mê của Ngài cho Bà-la-môn.

Giải thích trí về sự cạn kiệt các lậu được kết thúc

 

Giải Thích 2 Lợi Ích Của Việc Sống Trong Rừng

  1. Evaṃ vutte kira brāhmaṇo cintesi – ‘‘samaṇo gotamo sabbaññutaṃ paṭijānāti, ajjāpi ca araññavāsaṃ na vijahati, atthi nu khvassa aññampi kiñci karaṇīya’’nti. Athassa bhagavā ajjhāsayaṃ viditvā iminā ajjhāsayānusandhinā, siyā kho pana tetiādimāha. Tattha siyā kho pana te, brāhmaṇa, evamassāti, brāhmaṇa, kadāci tuyhaṃ evaṃ bhaveyya. Na kho panetaṃ brāhmaṇa evaṃ daṭṭhabbanti etaṃ kho pana, brāhmaṇa, tayā mayhaṃ pantasenāsanapaṭisevanaṃ avītarāgāditāyāti evaṃ na daṭṭhabbaṃ. Evaṃ pantasenāsanapaṭisevane akāraṇaṃ paṭikkhipitvā kāraṇaṃ dassento dve kho ahantiādimāha. Tattha atthoyeva atthavaso. Tasmā dve kho ahaṃ, brāhmaṇa, atthavaseti ahaṃ kho, brāhmaṇa, dve atthe dve kāraṇāni sampassamānoti vuttaṃ hoti. Attano ca diṭṭhadhammasukhavihāranti ettha diṭṭhadhammo nāma ayaṃ paccakkho attabhāvo. Sukhavihāro nāma catunnampi iriyāpathavihārānaṃ phāsutā, ekakassa hi araññe antamaso uccārapassāvakiccaṃ upādāya sabbeva iriyāpathā phāsukā honti, tasmā diṭṭhadhammassa sukhavihāranti ayamattho veditabbo. Pacchimañca janataṃ anukampamānoti kathaṃ araññavāsena pacchimā janatā anukampitā hoti? Saddhāpabbajitā hi kulaputtā bhagavato araññavāsaṃ disvā bhagavāpi nāma araññasenāsanāni na muñcati, yassa nevatthi pariññātabbaṃ na pahātabbaṃ na bhāvetabbaṃ na sacchikātabbaṃ, kimaṅgaṃ pana mayanti cintetvā tattha vasitabbameva maññissanti. Evaṃ khippameva dukkhassantakarā bhavissanti. Evaṃ pacchimā janatā anukampitā hoti. Etamatthaṃ dassento āha ‘‘pacchimañca janataṃ anukampamāno’’ti.
    Được biết rằng khi đức Thế Tôn nói vậy Bà-la-môn nghĩ rằng— Sa-môn Gotama tự nhận là bậc Toàn giác, vậy mà đến tận ngày nay Ngài vẫn không chịu từ bỏ việc sống trong rừng, những phận sự cần làm nào khác của đức Thế Tôn vẫn còn tồn tại chăng? Sau đó, đức Thế Tôn biết căn tánh của Bà-la-môn ấy, nên Ngài đã nói siyā kho pana te (ông có thể có suy nghĩ) v.v., để phù hợp với căn tánh vị ấy. Ở đây, này Bà-la-môn, Ông có thể có tư tưởng như sau: này Bà-la-môn, thỉnh thoảng ông nên có suy nghĩ như này. na kho panetaṃ brāhmaṇa evaṃ daṭṭhabbaṃ (này Bà-la-môn, chớ có hiểu như vậy): này Bà-la-môn, nếu là thế, ông không nên hiểu như vậy, việc sống trong trú xứ thanh vắng của Như Lai bởi vẫn chưa trừ diệt ái luyến v.v. Đức Thế Tôn khi bác bỏ những điều (như đã thuyết) trong việc sống tại trú xứ thanh vắng như vậy, khi thuyết đến một vài nguyên nhân nên Ngài đã nói rằng: dve kho ahaṃ (do Ta quán sát hai mục đích) v.v. Lợi ích đó trong từ atthavase đó là sức mạnh của lợi ích, do đó dve kho ahaṃ, brāhmaṇa, atthavase (do Ta quán sát được hai lợi đích) tức là này Bà-la-môn quán thấy 2 điều lợi ích, là 2 nguyên nhân. Ở đây, attano ca diṭṭhadhammasukhavihāraṃ (tự thấy sự hiện tại lạc trú) tự thân nhìn thấy rõ ràng việc an trú này gọi là hiện tại, việc sống an lạc trong trong tất cả bốn oai nghi được gọi là lạc trú. Nên biết ý nghĩa giải thích này vì mỗi người đều có tất cả các oai nghi khác nhau, nhất là liên quan đến việc tiểu tiện và đại tiện đều thoải mái, bởi thế việc sống an lạc của bản thân được thấy rõ ràng được gọi là diṭṭhadhamma sukhavihāra (hiện tại lạc trú). Pacchimañca janataṃ anukampamāno (vì lòng thương tưởng chúng sanh trong tương lai) nên biết giải thích như sau: Đức Thế Tôn vì lòng thương tưởng chúng sanh trong tương lai với việc sống trong rừng như thế nào? Giải thích rằng những thiện nam tử vì lòng tin đã xuất gia nhìn thấy việc sống trong rừng của đức Thế Tôn, đã suy nghĩ rằng: Ngay cả đức Thế Tôn người không còn khổ đế cần để biến tri, không còn tập đế cần phải từ bỏ, không còn đạo đế cần làm cho sanh khởi, không còn diệt đế cần phải tác chứng, mà Ngài vẫn không chịu từ bỏ trú xứ trong rừng, còn nói gì đến tất cả chúng ta, (sau khi nghĩ vậy) rồi họ cùng nhau cho rằng trú xứ trong rừng thật là nơi mà chúng ta đang cư ngụ, bằng tính chất như vậy chúng ta sẽ làm cho khổ đau được đoạn tận. Như vậy là vì lòng thương tưởng chúng sanh trong tương lai.  Đức Thế Tôn đã thuyết nội dung này nên Ngài đã nói rằng: Pacchimañca janataṃ anukampamāno (vì lòng thương tưởng chúng sanh trong tương lai).

Giải thích 2 lợi ích của việc sống trong rừng được kết thúc

 

Giải thích về tùy hỷ Pháp – Desanānumodanā

  1. Taṃ sutvā attamano brāhmaṇo anukampitarūpātiādimāha. Tattha anukampitarūpāti anukampitajātikā anukampitasabhāvā. Janatāti janasamūho. Yathā taṃ arahatā sammāsambuddhenāti yathā arahaṃ sammāsambuddho anukampeyya, tatheva anukampitarūpāti.
    Sau khi Bà-la-môn đã nghe Phật ngôn đó hoan hỷ, nên đã nói rằng— anukampitarūpā (chúng sanh vị lai được thương tưởng bởi Như Lai) v.v. Ở đó, được thương tưởng: Ngài Gotama đã vì lòng bi mẫn, Ngài Gotama vì lòng thương tưởng rồi làm thực tính. Janatā: đông đảo quần chúng. Yathā taṃ arahatā sammāsambuddhena (vì ngài là bậc A-ra-hán, bậc Chánh đẳng Chánh giác): (chúng hậu sanh) được Ngài Gotama thương tưởng, vì Ngài là bậc A-ra-hán, bậc Chánh đẳng Chánh giác, nên vì lòng thương tưởng.

Evañca pana vatvā puna taṃ bhagavato dhammadesanaṃ abbhanumodamāno bhagavantaṃ etadavoca abhikkantaṃ, bho gotama, abhikkantaṃ, bho gotamāti. Tatthāyaṃ abhikkantasaddo khayasundarābhirūpaabbhanumodanesu dissati. ‘‘Abhikkantā, bhante, ratti, nikkhanto paṭhamo yāmo, ciranisinno bhikkhusaṅgho’’tiādīsu (cūḷava. 383; a. ni. 8.20) hi khaye dissati. ‘‘Ayaṃ imesaṃ catunnaṃ puggalānaṃ abhikkantataro ca paṇītataro cā’’tiādīsu (a. ni. 4.100) sundare.

Và lại nữa, Bà-la-môn khi nói như vậy đã nói lời hoan hỷ đến Pháp của đức Thế Tôn nữa, nên đã nói lời này cùng đức Thế Tôn rằng: “thật là tuyệt vời, bạch Ngài Gotama! thật là tuyệt vời, bạch Ngài Gotama! Và ở đây, từ abhikkanta này được sử dụng với ý nghĩa sự kết thúc của đêm, tốt đẹp, xinh đẹp, nói lời hoan hỷ. Abhikkanta được dùng với ý nghĩa sự kết thúc của đêm như sau: “Bạch ngài, đêm đã khuya canh một đã tàn, hội chúng tỳ khưu ngồi đã lâu.” (cūḷava. 383; a. ni. 8.20); Tốt đẹp: “Trong 4 hạng người này người này là tốt đẹp hơn và cao quý hơn,” (a. ni. 4.100);

‘‘Ko me vandati pādāni, iddhiyā yasasā jalaṃ;

Abhikkantena vaṇṇena, sabbā obhāsayaṃ disā’’ti. – Ādīsu (vi. va. 857) abhirūpe.

Xinh đẹp: “Người nào, trong khi đang chói sáng nhờ vào thần lực và danh vọng, có màu da tươi sáng làm cho tất cả các phương sáng rực lên, đến đảnh lễ các bàn chân của Như Lai? (vi. va. 857);

‘‘Abhikkantaṃ, bhante’’tiādīsu (dī. ni. 1.250; pārā. 15) abbhanumodane . Idhāpi abbhanumodaneyeva. Yasmā ca abbhanumodane, tasmā sādhu sādhu bho, gotamāti vuttaṃ hotīti veditabbaṃ.

Nói lời hoan hỷ: “Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, thật là tuyệt vời!(dī. ni. 1.250; pārā. 15); Và ở đây từ abhikkanta được sử dụng với ý nghĩa “nói lời hoan hỷ”. Bởi vì từ abhikkanta được sử dụng trong ý nghĩa của từ “nói lời hoan hỷ”. Vì thế, nên biết rằng (abhikkantaṃ, bho gotama) được Ngài giải thích là sādhu sādhu bho, gotamā (kinh thưa Ngài Gotama lời nói của Ngài thật tốt lành thay, thật tốt lành thay).

‘‘Bhaye kodhe pasaṃsāyaṃ, turite kotūhalacchare;

Hāse soke pasāde ca, kare āmeḍitaṃ budho’’ti. –

(Nguyên nhân từ abhikkantaṃ được sử dụng 2 lần) bậc trí nói kệ ngôn liên quan sau: Người trí nên lặp lại (trong lời nói trình bày), sự sợ hãi. sự sân hận, sự khen ngợi, sự mau lẹ, sự phấn khởi, sự kinh ngạc, sự hài lòng, sự sầu muộn và sự tịnh tín.

Iminā ca lakkhaṇena idha pasādavasena pasaṃsāvasena cāyaṃ dvikkhattuṃ vuttoti veditabbo. Atha vā abhikkantanti abhikantaṃ. Atiiṭṭhaṃ atimanāpaṃ, atisundaranti vuttaṃ hoti.

Và với trạng thái [nguyên nhân đã trình bày] này thì từ abhikkantaṃ-abhikkantaṃ nên hiểu rằng Bà-la-môn nói đến 2 lần ở đây, với mãnh lực của sự tịnh tín và sự tán dương. Hoặc là abhikkantaṃ-abhikkantaṃ: (dịch là) đi đến tối thượng, cực kỳ vui thích, là rất đáng mong muốn, tức là cực kỳ hài lòng, cực kỳ tốt đẹp.

Tattha ekena abhikkantasaddena desanaṃ thometi, ekena attano pasādaṃ. Ayañhettha adhippāyo – abhikkantaṃ, bho gotama, yadidaṃ bhoto gotamassa dhammadesanā, abhikkantaṃ yadidaṃ bhoto gotamassa dhammadesanaṃ āgamma mama pasādoti. Bhagavatoyeva vā vacanaṃ dve dve atthe sandhāya thometi – bhoto gotamassa vacanaṃ abhikkantaṃ dosanāsanato, abhikkantaṃ guṇādhigamanato, tathā saddhājananato, paññājananato, sātthato, sabyañjanato, uttānapadato, gambhīratthato, kaṇṇasukhato, hadayaṅgamato, anattukkaṃsanato, aparavambhanato, karuṇāsītalato, paññāvadātato, āpātharamaṇīyato, vimaddakkhamato, suyyamānasukhato, vīmaṃsīyamānahitatoti evamādīhi yojetabbaṃ.

Ở đây, Bà-la-môn khen ngợi thời pháp với từ abhikkantaṃ có một loại ý nghĩa, tuyên bố sự tịnh tín của chính mình với từ ​​abhikkantaṃ lại có một ý nghĩa. Trong 2 ý nghĩa này có lời giải thích như thế này – thời Pháp thoại của Ngài Gotama thật là tuyệt vời, sự tịnh tín của tôi y cứ vào Pháp thoại của Ngài Gotama cũng vô cùng hài lòng. Hay vị Bà-la-môn này chỉ nhằm mục đích dùng cả hai nghĩa để khen ngợi Pháp thoại của Thế Tôn. (nghĩa là khen ngợi) lời dạy của Ngài Gotama thật là tuyệt vời, bởi vì khiến cho tội lỗi bị hủy diệt, thật là tuyệt vời bởi vì làm cho chứng đắc ân đức cao thượng, nên liên kết bhoto gotamassa vacanaṃ abhikkantaṃ (lời nói của Ngài Gotama thật là tuyệt vời) với các câu như sau – lời nói của Ngài Gotama thật là tuyệt vời bởi vì làm cho phát sanh đức tin,  (lời nói của Ngài Gotama thật là tuyệt vời) bởi vì làm cho phát sanh trí tuệ, bởi vì có đầy đủ ý nghĩa, bởi vì có đầy đủ văn tự, bởi vì câu cú minh bạch rõ ràng, bởi vì ý nghĩa sâu sắc, bởi vì (sau khi nghe) cảm giác êm tai, bởi vì (sau khi nghe) cảm giác thoải mái, bởi vì không khen mình (tự cao tự đại), bởi vì không chê người, bởi vì sự mát mẻ  tâm bi, bởi vì sự thanh tịnh của trí tuệ, bơi vì làm cho ngủ quan được hân hoan, bởi vì nhẫn chịu từ việc bị tấn công, bởi vì đang nghe cũng được an lạc, bởi khéo suy xét cũng được lợi ích.

Tato parampi catūhi upamāhi desanaṃyeva thometi. Tattha nikkujjitanti adhomukhaṭhapitaṃ, heṭṭhāmukhajātaṃ vā. Ukkujjeyyāti upari mukhaṃ kareyya. Paṭicchannanti tiṇapaṇṇādicchāditaṃ. Vivareyyāti ugghāṭeyya. Mūḷhassāti disāmūḷhassa. Maggaṃ ācikkheyyāti hatthe gahetvā ‘‘esa maggo’’ti vadeyya. Andhakāreti kāḷapakkhacātuddasīaḍḍharattaghanavanasaṇḍameghapaṭalehi caturaṅge tame, ayaṃ tāva anuttānapadattho.

Từ đó, Bà-la-môn đã tán thán Pháp thoại ấy với 4 sự so sánh: Ở đây, đã được úp lại: những đồ vật bị đặt úp xuống, hoặc có miệng đặt ở dưới. Có thể lật ngửa vật: có thể lật ngửa lên. Đã bị che kín: mà họ che giấu dưới có và lá cây v.v. Có thể mở ra: có thể được mở ra. Kẻ lạc lối: hạng người bị lạc hướng. Có thể chỉ đường: sau khi cầm tay có thể nói rằng: “con đường này”. Nơi bóng tối: là trong bóng tối có 4 yếu tố, vào ngày mười bốn trong lúc ban đêm, bởi vì rừng rậm và bởi vì mây dày che phủ. Ý nghĩa của câu không đơn giản chỉ bấy nhiêu.

Ayaṃ pana adhippāyayojanā – yathā koci nikkujjitaṃ ukkujjeyya, evaṃ saddhammavimukhaṃ asaddhamme patitaṃ maṃ asaddhammā vuṭṭhāpentena, yathā paṭicchannaṃ vivareyya . Evaṃ kassapassa bhagavato sāsanantaradhānato pabhuti micchādiṭṭhigahanapaṭicchannaṃ sāsanaṃ vivarantena, yathā mūḷhassa maggaṃ ācikkheyya, evaṃ kummaggamicchāmaggappaṭipannassa me saggamokkhamaggaṃ ācikkhantena, yathā andhakāre telapajjotaṃ dhāreyya, evaṃ mohandhakāre nimuggassa me buddhādiratanarūpāni apassato tappaṭicchādakamohandhakāraviddhaṃsakadesanāpajjotadhāraṇena mayhaṃ bhotā gotamena etehi pariyāyehi pakāsitattā anekapariyāyena dhammo pakāsitoti.

Còn lời giải thích kết hợp với nội dung như sau – như vậy đức Thế Tôn làm cho tôi quay mặt từ Chánh Pháp rơi vào Phi Pháp, làm cho thoát khỏi Phi Pháp, giống như một người lật ngửa một vật bị úp xuống; Một người truyền bá Giáo pháp bị che đậy bởi khu rừng dày đặc là tà kiến, như vậy kể từ khi Giáo pháp của đức Thế Tôn Kassapa biến mất; Cũng như một người có thể mở ra những thứ bị che đậy; Người chỉ lối đến các cõi trời và Niết Bàn cùng tôi, người đi lạc vào con đường thấp kém, đó là con đường quấy, giống như một người chỉ đường cho kẻ lạc hướng. Được gọi là đã tuyên thuyết Giáo pháp cho tôi bằng nhiều phương diện khác nhau, bởi vì Ngài đã tuyên bố bằng phương pháp này, với sự chói sáng là Pháp thoại xua tan bóng tối là sự si mê che đậy Tam bảo, đối với tôi người chìm trong bóng tối là sự si mê, không nhìn thấy được Tam bảo như Phật bảo v.v… cũng giống như một người đem đèn sáng vào trong bóng tối.

Giải thích tùy hỷ Pháp được kết thúc

 

 Giải thích Pasanna-ākāra

Evaṃ desanaṃ thometvā imāya desanāya ratanattayapasannacitto pasannākāraṃ karonto esāhantiādimāha. Tattha esāhanti eso ahaṃ. Bhavantaṃ gotamaṃ saraṇaṃ gacchāmīti bhavaṃ me gotamo saraṇaṃ parāyaṇaṃ, aghassa tātā , hitassa ca vidhātāti iminā adhippāyena bhavantaṃ gotamaṃ gacchāmi, bhajāmi, sevāmi, payirupāsāmi, evaṃ vā jānāmi, bujjhāmīti. Yesañhi dhātūnaṃ gatiattho, buddhipi tesaṃ attho. Tasmā gacchāmīti imassa jānāmi, bujjhāmīti ayamattho vutto. Dhammañca bhikkhusaṅghañcāti ettha pana adhigatamagge sacchikatanirodhe yathānusiṭṭhaṃ paṭipajjamāne ca apāyesu apatamāne dhāretīti dhammo, so atthato ariyamaggo ceva nibbānañca. Vuttañhetaṃ – ‘‘yāvatā, bhikkhave, dhammā saṅkhatā, ariyo aṭṭhaṅgiko maggo tesaṃ aggamakkhāyatī’’ti (a. ni. 4.34) vitthāro. Na kevalañca ariyamaggo ceva nibbānañca, apica kho ariyaphalehi saddhiṃ pariyattidhammopi. Vuttañhetaṃ chattamāṇavakavimāne –

Bà-la-môn sau khi tán thán pháp thoại này, có tâm tịnh tín nơi Tam Bảo nhờ pháp thoại này, trong khi biểu lộ lòng tịnh tín Ngài đã nói rằng: “esāhaṃ” v.v. Ở đó, từ esāhaṃ được chia thành eso ahaṃ (tôi đó). Bhavantaṃ gotamaṃ saraṇaṃ gacchāmi (tôi xin đi đến nương nhờ Ngài Gotama): Tôi xin đi đến, xin tìm nơi nương nhờ, xin thọ trì và xin đến ngồi gần Ngài Gotama với ý định như sau: xin Ngài Gotama là nơi tưởng nhớ, là nơi nương tựa, là bậc đoạn diệt mọi khổ đau và là vị tạo ra lợi ích và hạnh phúc cho con. Hơn nữa, tôi biết như vậy, bởi vì dhātu nào được dịch là “đi”, thì dhātu đó cũng có thể được dịch là “biết.” Do đó, trong câu tôi đi này, nhà chú giải sư đã nêu lên ý nghĩa này rằng jānāmi, bujjhāmīti (tôi biết, tôi hiểu). Và lại nữa ở đây dhammañca bhikkhusaṅghañca (tôi xin đi đến nương nhờ Pháp và tôi xin đi đến nương nhờ tỳ khưu Tăng) nên biết giải thích như sau: – gọi là Pháp với ý nghĩa— những hạng người đã chứng đắc Thánh đạo, đã tác chứng diệt đế, (và) người thường xuyên thực hành theo như lời dạy của đức Thế Tôn để không bị rơi vào 4 khổ cảnh. Pháp đó khi nói theo ý nghĩa cũng bao gồm Thánh đạo và Niết Bàn. Đúng như lời đức Thế Tôn đã nói như sau: “Này chư tỳ khưu, các pháp hữu vi [bị các duyên trợ tạo] có bao nhiêu? Thánh đạo có 8 chi phần Như Lai đã nói là tối thượng của các Pháp hữu vi đó.[3]” chi tiết như đã trình bày. và không chỉ Thánh đạo và Niết Bàn (gọi là pháp). Hơn nữa, cả Pháp học cùng với các Thánh quả (cũng gọi là Pháp). Như đã được Thiên tử nói trong Chattamāṇavaka-vimāna (Thiên cung của thanh niên Bà-la-môn Chatta) như sau:

‘‘Rāgavirāgamanejamasokaṃ, dhammamasaṅkhatamappaṭikūlaṃ;

Madhuramimaṃ paguṇaṃ suvibhattaṃ, dhammamimaṃ saraṇatthamupehī’’ti. (vi. va. 887);

“Ông hãy đến gần Giáo Pháp này là Pháp không nhiễm ái luyến, không xáo động, không sầu muộn, không bị tạo tác, không đáng ghét, ngọt ngào được đức Phật tuyên thuyết có sự hoàn thiện, khéo được phân tích; với mục đích là nơi tưởng nhớ, là nơi nương tựa.” (vi. va. 887);

Ettha rāgavirāgoti maggo kathito. Anejamasokanti phalaṃ. Dhammamasaṅkhatanti nibbānaṃ. Appaṭikūlaṃ madhuramimaṃ paguṇaṃ suvibhattanti piṭakattayena vibhattā sabbadhammakkhandhāti. Diṭṭhisīlasaṅghātena saṃhatoti saṅgho, so atthato aṭṭha ariyapuggalasamūho. Vuttañhetaṃ tasmiṃyeva vimāne.

Trong kệ ngôn này nên biết lý giải như sau: Pháp không nhiễm ái luyến: Thiên tử muốn nói đến Đạo; Pháp không xáo động, không sầu muộn: Thiên tử muốn nói đến Quả; Pháp không bị tạo tác: Thiên tử muốn nói đến Niết Bàn; không đáng ghét là pháp ngọt ngào được đức Phật tuyên thuyết có sự hoàn thiện, khéo được phân tích: Thiên tử muốn nói đến các Pháp uẩn được phân tích trong Tam Tạng. Saṅgha bởi ý nghĩa sự tập hợp với sự kết hợp là quan điểm (diṭṭhi) và giới (sīla). Saṅgha đó khi nói theo ý nghĩa là sự tập hợp của 8 hạng Thánh nhân. Như đã được Thiên tử nói trong Chuyện Thiện Cung như sau:

‘‘Yattha ca dinnamahapphalamāhu, catūsu sucīsu purisayugesu;

Aṭṭha ca puggala dhammadasā te, saṅghamimaṃ saraṇatthamupehī’’ti. (vi. va. 888);

Bậc trí đã nói vật được bố thí là có quả báo lớn, ở bốn đôi của hạng người nào là đôi của hạng người trong sạch, bốn đôi của hạng người ấy là tám hạng người là những cá nhân đã nhìn thấy Giáo Pháp; xin ông hãy đến gần chúng Tăng này là nơi tưởng nhớ, là nơi nương nhờ.” (vi. va. 888);

Bhikkhūnaṃ saṅgho bhikkhusaṅgho. Ettāvatā brāhmaṇo tīṇi saraṇagamanāni paṭivedesi.

Hội chúng tỳ khưu gọi là Hội chúng tỳ khưu. Chỉ chừng ấy lời Bà-la-môn đã tuyên bố đến 3 nơi nương nhờ.

Giải thích Pasanna-ākāra được kết thúc

 

 Giải thích việc đi đến nương nhờ

Idāni tesu saraṇagamanesu kosallatthaṃ saraṇaṃ, saraṇagamanaṃ. Yo ca saraṇaṃ gacchati, saraṇagamanappabhedo , saraṇagamanassa phalaṃ, saṃkileso, bhedoti ayaṃ vidhi veditabbo. Seyyathidaṃ – padatthato tāva hiṃsatīti saraṇaṃ, saraṇagatānaṃ teneva saraṇagamanena bhayaṃ santāsaṃ dukkhaṃ duggatiparikilesaṃ hanati vināsetīti attho, ratanattayassevetaṃ adhivacanaṃ.

Bây giờ, để trở thành người trí trong việc đi nơi nương nhờ, nên biết phương pháp này:  Nơi nương nhờ, đi đến nơi nương nhờ, người đi đến nương nhờ, sự đa dạng của việc đi đến nơi nương nhờ, quả của việc đi đến nơi nương nhờ, phiền não [saṃkilesa] và sự chấm dứt thực tính [bheda]. Hỏi: phương pháp này có ý nghĩa như thế nào? Đáp: Nên biết ý nghĩa theo ý nghĩa riêng biệt trước. gọi là saraṇa [nơi nương nhờ] bởi ý nghĩa gây tổn thương, có ý nghĩa sát hại là làm cho sự sợ hãi, sự run sợ, sự đau khổ, phiền não làm nhân đưa đến khổ cảnh của hạng người đi đến nơi nương nhờ làm cho sụp đổ với việc đi đến nơi nương nhờ đó. Nơi nương nhờ đó gọi là là Tam bảo.

Atha vā hite pavattanena ahitā ca nivattanena sattānaṃ bhayaṃ hiṃsati buddho. Bhavakantārā uttāraṇena assāsadānena ca dhammo. Appakānampi kārānaṃ vipulaphalapaṭilābhakaraṇena saṅgho. Tasmā imināpi pariyāyena ratanattayaṃ saraṇaṃ. Tappasādataggarutāhi vihatakileso tapparāyaṇatākārappavatto cittuppādo saraṇagamanaṃ. Taṃsamaṅgisatto saraṇaṃ gacchati, vuttappakārena cittuppādena etāni me tīṇi saraṇāni saraṇaṃ, etāni parāyaṇanti evaṃ upetīti attho. Evaṃ tāva saraṇaṃ saraṇagamanaṃ yo ca saraṇaṃ gacchatīti idaṃ tayaṃ veditabbaṃ.

Lại nữa, gọi là Phật bởi ý nghĩa diệt tận sự sợ hãi của tất cả chúng sanh, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa và tránh xa những điều không lợi ích, không tiến hóa cho tất cả chúng sanh; gọi là Pháp với ý nghĩa trợ giúp tất cả chúng sanh vượt khỏi khỏi khu rừng là các hữu [bhava] và bởi vì nó mang lại sự dễ chịu cho tất cả chúng sanh. Gọi là Saṅgha bởi vì tất cả sự cung kính, dù là chút ít, cũng đều đạt được kết quả to lớn quảng đại. Cho nên, Tam bảo được gọi là saraṇa [nơi nương nhờ] với pháp môn này. Cittuppādo (sự sanh khởi của Tâm) có phiền nào bị loại bỏ bằng cách tôn kính, sự tịnh tín ở nơi nương nhờ đó, đó là biểu hiện của lòng tôn kính, sự tịnh tín nơi Tam bảo, là nền tảng được gọi là saraṇagamana (việc đi đến nơi nương nhờ). Chúng sanh thành tựu đầy đủ với saraṇagamana gọi là đi đến nơi nương nhờ. Có nghĩa là đi đến Tam bảo này là saraṇa (là nơi tưởng nhớ, là chỗ nương tựa) và parāyaṇaṃ (phương tiện dẫn đường) với sự sanh khởi của tâm với phương thức như đã trình bày. Nên biết 3 điều này trước: nơi nương nhờ, đi đến nơi nương nhờ và người đi đến nơi nương nhờ.

Saraṇagamanappabhede pana duvidhaṃ saraṇagamanaṃ lokuttaraṃ lokiyañca. Tattha lokuttaraṃ diṭṭhasaccānaṃ maggakkhaṇe saraṇagamanupakkilesasamucchedena ārammaṇato nibbānārammaṇaṃ hutvā kiccato sakalepi ratanattaye ijjhati. Lokiyaṃ puthujjanānaṃ saraṇagamanupakkilesavikkhambhanena ārammaṇato buddhādiguṇārammaṇaṃ hutvā ijjhati, taṃ atthato buddhādīsu vatthūsu saddhāpaṭilābho, saddhāmūlikā ca sammādiṭṭhi dasasu puññakiriyavatthūsu diṭṭhijukammanti vuccati.

Còn sự đa dạng của việc đi đến nơi nương nhờ (saraṇagamanaṃ) (đi đến nơi nương nhờ có bao nhiêu loại?): Việc xin nương nhờ có hai loại là Hiệp Thế (phàm nhân) và Siêu Thế (Thánh nhân). Ở đó, sự nương nhờ của bậc Thánh (lokuttarasaraṇaṃ) của hạng người đã thấy (bản thể) Chân Lý, nói theo đối tượng thì có Niết Bàn là đối tượng, khi nói theo phận sự (đã thành tựu nơi cả Tam bảo) bởi vì đoạn trừ những phiền não cản trở việc xin nương nhờ (Tam bảo) ở sát-na Đạo, (còn) sự nương nhờ Tam bảo của Phàm nhân (lokiyasaraṇa), khi nói đến đối tượng có ân đức Phật v.v, làm đối tượng, thành tựu được với việc chế ngự phiền não là nguyên nhân cản trở việc xin nương nhờ, việc xin nương nhờ ấy khi nói theo ý nghĩa gồm đức tin nơi Tam bảo có Đức Phật, v.v. và chánh kiến có đức tin (nơi Tam bảo) làm nền tảng gọi đó là diṭṭhijukammaṃ (trí tuệ hiểu biết chánh trực bằng chánh kiến) trong thập phúc hành tông (puññakiriyavatthu).

Tayidaṃ catudhā pavattati attasanniyyātanena tapparāyaṇatāya sissabhāvūpagamanena paṇipātenāti. Tattha attasanniyyātanaṃ nāma ‘‘ajja ādiṃ katvā ahaṃ attānaṃ buddhassa niyyātemi, dhammassa, saṅghassā’’ti evaṃ buddhādīnaṃ attapariccajanaṃ. Tapparāyaṇatā nāma ‘‘ajja ādiṃ katvā ahaṃ buddhaparāyaṇo, dhammaparāyaṇo, saṅghaparāyaṇo iti maṃ dhārethā’’ti evaṃ tapparāyaṇabhāvo. Sissabhāvūpagamanaṃ nāma ‘‘ajja ādiṃ katvā ahaṃ buddhassa antevāsiko, dhammassa, saṅghassāti maṃ dhārethā’’ti evaṃ sissabhāvūpagamo. Paṇipāto nāma ‘‘ajja ādiṃ katvā ahaṃ abhivādanapaccuṭṭhānaañjalikammasāmīcikammaṃ buddhādīnaṃyeva tiṇṇaṃ vatthūnaṃ karomi, iti maṃ dhārethā’’ti evaṃ buddhādīsu paramanipaccakāro. Imesañhi catunnaṃ ākārānaṃ aññatarampi karontena gahitaṃyeva hoti saraṇagamanaṃ.

Việc xin nương nhờ này có 4 loại là từ bỏ mình (attasanniyyātana); Tam bảo là phương tiện dẫn đường (tapparāyana); Quy phục làm đệ tử của Tam bảo (sissabhāvupagamana); chắp tay lễ bái tôn kính Tam bảo (paṇipāta). Trong 4 cách đó thì từ bỏ mình (attasanniyyātana): Phó thác mạng sống của chính mình nơi Tam bảo có Phật bảo (bằng lời nói) “kể từ ngày hôm nay trở đi tôi xin cúi mình dâng thân mạng này đến đức Phật, đức Pháp và đức Tăng.” Tam bảo là phương tiện dẫn đường (tapparāyana): có Tam bảo dẫn đầu (bằng lời nói) “Kể từ ngày hôm nay trở đi, xin các Ngài hãy ghi nhận cho con rằng con có đức Phật dẫn đường, có Giáo Pháp dẫn đường, và có chư Tăng dẫn đường.” Quy phục làm đệ tử Tam bảo (sissabhāvupagamana): tự nhận mình là đệ tử của Tam bảo (bằng lời nói) “Kể từ ngày hôm nay trở đi, xin các Ngài hãy ghi nhận cho con rằng con là đệ tử của Đức Phật, đức Pháp, đức Tăng.” Chắp tay lễ bái tôn kính Tam bảo (paṇipāta): thực hiện sự cung kính tối thượng đối với Tam bảo có đức Phật v.v, (bằng lời nói) “Kể từ ngày hôm nay trở đi, xin các Ngài hãy ghi nhận cho con rằng con chỉ thực hành sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, hành động thích hợp đối với Tam bảo có đức Phật v.v,” Khi một người thực hiện được bất kỳ biểu hiện nào trong bốn biểu hiện này, thì được coi là đã nhận việc xin nương nhờ hoàn tất.

Apica bhagavato attānaṃ pariccajāmi, dhammassa, saṅghassa attānaṃ pariccajāmi. Jīvitaṃ pariccajāmi, pariccattoyeva me attā, pariccattaṃyeva me jīvitaṃ, jīvitapariyantikaṃ buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi, buddho me saraṇaṃ leṇaṃ tāṇanti evampi attasanniyyātanaṃ veditabbaṃ. ‘‘Satthārañca vatāhaṃ passeyyaṃ bhagavantameva passeyyaṃ, sugatañca vatāhaṃ passeyyaṃ bhagavantameva passeyyaṃ, sammāsambuddhañca vatāhaṃ passeyyaṃ bhagavantameva passeyya’’nti (saṃ. ni. 2.154) evampi mahākassapassa saraṇagamanaṃ viya sissabhāvūpagamanaṃ daṭṭhabbaṃ.

Lại nữa, Con xin phó thác thân mạng nơi Đức Phật, Giáo Pháp và Chư Tăng; Con xin phó thác bản thân, con xin phó thác mạng sống; Con chắc chắn phó thác bản thân, con chắc chắn phó thác sanh mạng, con xin đi đến nương nhờ nơi Đức Phật (Giáo Pháp và Chư Tăng) trọn đời, có Đức Phật (Giáo Pháp và Chư Tăng) làm nơi nương tựa, là nơi an toàn, là nơi che chở của con; Nên biết việc phó thác sanh mạng của bản thân là như vậy. “Xin cho con có thể nhìn thấy bậc Đạo sư, có thể nhìn thấy đức Thế Tôn; xin cho con có thể nhìn thấy Thiện Thệ, có thể nhìn thấy đức Thế Tôn; xin cho con có thể nhìn thấy bậc Chánh đẳng Chánh giác, có thể nhìn thấy đức Thế Tôn.[4]” Nên biết việc đi đến dâng mình làm đệ tử Tam Bảo giống như việc đi đến trở thành đệ tử xin nương tựa của trưởng lão Mahā Kassapa là như vậy. Nên biết có Tam bảo là phương tiện dẫn đường (Tam bảo dẫn đầu) giống như việc xin nương nhờ của dân chúng có Dạ-xoa Āḷavaka v.v, (bằng lời nói) mặc dầu vậy:

‘‘So ahaṃ vicarissāmi, gāmā gāmaṃ purā puraṃ;

Namassamāno sambuddhaṃ, dhammassa ca sudhammata’’nti. (su. ni. 194; saṃ. ni. 1.246) –

Tôi đây sẽ du hành từ làng này đến làng khác, từ thành phố này đến thành phố khác. Để cung kinh lễ bái bậc Chánh đẳng Chánh giác và bản chất tốt đẹp của Giáo Pháp (và bản chất tốt đẹp của Tăng chúng). (su. ni. 194; saṃ. ni. 1.246) –

Evampi āḷavakādīnaṃ saraṇagamanaṃ viya tapparāyaṇatā veditabbā. ‘‘Atha kho brahmāyu brāhmaṇo uṭṭhāyāsanā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā bhagavato pādesu sirasā nipatitvā bhagavato pādāni mukhena ca paricumbati, pāṇīhi ca parisambāhati, nāmañca sāveti brahmāyu ahaṃ, bho gotama, brāhmaṇo, brahmāyu ahaṃ, bho gotama, brāhmaṇo’’ti (ma. ni. 2.394) evampi paṇipāto daṭṭhabbo.

Mặc dầu vậy, nên nhận thấy việc chắp tay đảnh lễ: “khi ấy Bà-la-môn Brahmāyu từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y một bên vai, sau khi quỳ xuống ở bàn chân của đức Phật đã ôm hôn chân đức Thế Tôn bằng miệng, xoa bóp chân và tuyên bố tên (của mình) kính thưa Ngài Gotama, tôi là Bà-la-môn tên là Brahmāyu; kính thưa Ngài Gotama, tôi là Bà-la-môn tên là Brahmāyu.” (ma. ni. 2.394);

So panesa ñātibhayācariyadakkhiṇeyyavasena catubbidho hoti. Tattha dakkhiṇeyyapaṇipātena saraṇagamanaṃ hoti, na itarehi. Seṭṭhavaseneva hi saraṇaṃ gayhati, seṭṭhavasena bhijjati, tasmā yo sākiyo vā koliyo vā ‘‘buddho amhākaṃ ñātako’’ti vandati, aggahitameva hoti saraṇaṃ. Yo vā ‘‘samaṇo gotamo rājapūjito mahānubhāvo, avandiyamāno anatthampi kareyyā’’ti bhayena vandati, aggahitameva hoti saraṇaṃ. Yo vā bodhisattakāle bhagavato santike kiñci uggahitaṃ saramāno buddhakāle vā –

Có bốn sự chắp tay cung kính vì họ hàng thân thích, vì sợ hãi, vì là giáo thọ sư, và bởi vì đó là bậc xứng đáng được cúng dường. Trong tất cả 4 sự chắp tay cung kính ấy sự xin nương nhờ có được do sự chắp tay cung kính vì là bậc xứng đáng được cúng dường, không phải vì ba lý do kia. Vì nơi nương nhờ mà một người (có thể) nhận được bởi một người cao quý nhất, cũng (có thể) bị phá hủy bởi sức mạnh của người cao quý nhất tương tự. Do đó, hạng người nào thuộc dòng dõi Sakya hay thuộc dòng dõi Koliya, chắp tay đảnh lễ (đức Phật) nghĩ rằng đức Phật là thân quyến của chúng ta, hạng người đó không được xem là đến nơi nương nhờ; Hoặc người nào đảnh lễ đức Phật vì sợ hãi rằng Sa-môn Gotama là người được vua tôn thờ và rất có quyền lực, khi ta không cúi chào ta có thể gây thiệt hại cho ta, hạng người đó không được xem là đi đến nơi nương nhờ; Ngay cả hạng người nào nhớ tưởng đến một số lời dạy đã được học trong hội chúng của đức Thế Tôn, khi Ngài vẫn còn là một vị Bồ-tát hoặc trong thời ký đức Phật còn tại thế, đã được học lời dạy như thế này:

‘‘Ekena bhoge bhuñjeyya, dvīhi kammaṃ payojaye;

Catutthañca nidhāpeyya, āpadāsu bhavissatī’’ti. (dī. ni. 3.265) –

“Một người cần sử dụng một phần tư tài sản dùng để nuôi mạng, dùng hai phần tư tài sản để làm vốn đầu tư mua bán và một phần tư tài sản còn lại cất giữ để phòng khi có việc cần thiết (hoặc để làm các công đức). (dī. ni. 3.265) –

Evarūpaṃ anusāsaniṃ uggahetvā ‘‘ācariyo me’’ti vandati, aggahitameva hoti saraṇaṃ. Yo pana ‘‘ayaṃ loke aggadakkhiṇeyyo’’ti vandati, teneva gahitaṃ hoti saraṇaṃ.

(Khởi lên lòng tin) sau khi học tập lời dạy của Ngài bằng hình thức như vậy đảnh lễ với suy nghĩ rằng “Ngài là Thầy của chúng ta”, hạng người đó cũng gọi là vẫn chưa đến nơi nương nhờ. Người nào đảnh lễ với suy nghĩ rằng “Đức Phật này là bậc xứng đáng  cúng dường hạng nhất trong thế gian”, người đó được xem như đã đến chỗ nương nhờ.

Evaṃ gahitasaraṇassa ca upāsakassa vā upāsikāya vā aññatitthiyesu pabbajitampi ñātiṃ ‘‘ñātako me aya’’nti vandato saraṇagamanaṃ na bhijjati, pageva apabbajitaṃ. Tathā rājānaṃ bhayavasena vandato, so hi raṭṭhapūjitattā avandiyamāno anatthampi kareyyāti. Tathā yaṃkiñci sippaṃ sikkhāpakaṃ titthiyaṃ ‘‘ācariyo me aya’’nti vandatopi na bhijjatīti evaṃ saraṇagamanappabhedo veditabbo.

Nam cư sĩ hoặc nữ cư sĩ đã đến nơi nương nhờ (đã quy y) theo cách này rồi cúi lạy thân quyến, ngay cả vị xuất gia nơi các du sĩ ngoại đạo với suy nghĩ rằng: Vị này là thân quyến của ta. Như vậy, việc xin nương nhờ không bị hoại (không bị đứt tam quy), huống gì một người hay một nữ cư sĩ đảnh lễ một người thân chưa xuất gia? Còn nam cư sĩ hay nữ cư sĩ đảnh lễ vua cũng tương tự như vậy, chắp tay đảnh lễ do mãnh lực của sự sợ hãi rằng Đức Vua vì Ngài được người dân cả nước tôn thờ, khi ta không đảnh lễ Ngài thì (Ngài) có thể làm điều hại đối với ta, như vậy việc xin nương nhờ không bị hoại [không bị đứt tam quy], tương tự như khi cúi chào các du sĩ ngoại đạo, người dạy cho bất kỳ  nghiệp nào với suy nghĩ rằng “người này là thầy của tôi” việc xin nương nhờ không bị hoại (không bị đứt tam quy), như vậy nên biết rằng sự đa dạng của việc xin nương nhờ như thế.

Ettha ca lokuttarassa saraṇagamanassa cattāri sāmaññaphalāni vipākaphalaṃ, sabbadukkhakkhayo ānisaṃsaphalaṃ. Vuttañhetaṃ –

Việc xin nương nhờ của bậc Thánh nhân [lokuttara] trong trường hợp này có bốn quả báu của Sa-môn là dị thục quả, có sự diệt tận của tất cả mọi khổ đau là quả báu đạt được (ānisaṃsaphala). Điều này đã được đức Thế Tôn thuyết như sau:

‘‘Yo ca buddhañca dhammañca, saṅghañca saraṇaṃ gato;

Cattāri ariyasaccāni, sammappaññāya passati.

Dukkhaṃ dukkhasamuppādaṃ, dukkhassa ca atikkamaṃ;

Ariyañcaṭṭhaṅgikaṃ maggaṃ, dukkhūpasamagāminaṃ.

Etaṃ kho saraṇaṃ khemaṃ, etaṃ saraṇamuttamaṃ;

Etaṃ saraṇamāgamma, sabbadukkhā pamuccatī’’ti. (dha. pa. 190-192);

Người nào đi đến nương nhờ đức Phật, Giáo Pháp, và Tăng chúng, (người ấy) thấy được bốn Chân Lý cao thượng bằng trí tuệ chân chánh.

(Người ấy) thấy được Khổ,  nguyên nhân sanh khởi của Khổ, sự vượt qua khỏi Khổ, và Thánh Đạo tám chi phần là đạo lộ đưa đến sự diệt Khổ.

Quả thât, nơi nương nhờ [nơi suy tưởng, nơi trú ẩn] ấy là an toàn, nơi nương nhờ ấy là tối thượng. Sau khi đi đến nơi nương nhờ ấy được thoát khỏi mọi khổ đau.(dha. pa. 190-192);

Apica niccato anupagamanādivasena petassa ānisaṃsaphalaṃ veditabbaṃ. Vuttañhetaṃ, ‘‘aṭṭhānametaṃ, bhikkhave, anavakāso, yaṃ diṭṭhisampanno puggalo kañci saṅkhāraṃ niccato upagaccheyya, sukhato upagaccheyya, kañci dhammaṃ attato upagaccheyya, mātaraṃ jīvitā voropeyya, pitaraṃ arahantaṃ jīvitā voropeyya, duṭṭhacitto tathāgatassa lohitaṃ uppādeyya, saṅghaṃ bhindeyya, aññaṃ satthāraṃ uddiseyya, netaṃ ṭhānaṃ vijjatī’’ti (ma. ni. 3.128; a. ni. 1.268-276).

Hơn nữa, nên biết quả báu đạt được (ānisaṃsaphala) của việc đi đến nơi nương nhờ ấy, ngay cả do mãnh lực của nguyên nhân, không chấp nhận là thường hằng v.v, Điều này đã được đức Thế Tôn thuyết như sau: “Điều ấy là không hợp lý và không có cơ sở, này các Tỷ-kheo: Một người thành tựu chánh kiến có thể chấp nhận các hành nào là thương hằng, là an lạc, có thể chấp nhận pháp nào là ngã, có thể tước đoạt mạng sống của mẹ, có thể tước đoạt mạng sống của cha, có thể tước đoạt mạng sống của vị A-ra-hán, có thể có ác tâm làm Như Lại chảy máu, có thể phá hòa hợp Tăng, có thể tuyên bố một vị Ðạo Sư khác, điều ấy là không có cơ sở.” (ma. ni. 3.128; a. ni. 1.268-276).

Lokiyassa pana saraṇagamanassa bhavasampadāpi bhogasampadāpi phalameva. Vuttañhetaṃ –

 Còn việc đi đến nơi nương nhờ là Hiệp thế [phàm phu] có sự thành tựu các hữu [bhava] và sự thành tựu tài sản [bhoga] là kết quả tương tự. Điều này đã được đức Thế Tôn thuyết như sau:

‘‘Yekeci buddhaṃ saraṇaṃ gatāse, Na te gamissanti apāyabhūmiṃ;

Pahāya mānusaṃ dehaṃ, Devakāyaṃ paripūressantī’’ti. (saṃ. ni. 1.37);

Những người nào đã đi đến nương nhờ đức Phật, những người ấy sẽ không đi đến các khổ cảnh, sau khi bỏ thân người, sẽ được tròn đủ thân chư Thiên (hóa sinh lên các cõi trời). (saṃ. ni. 1.37);

Aparampi vuttaṃ ‘‘atha kho sakko devānamindo asītiyā devatāsahassehi saddhiṃ yenāyasmā mahāmoggallāno, tenupasaṅkami…pe… ekamantaṃ ṭhitaṃ kho sakkaṃ devānamindaṃ āyasmā mahāmoggallāno etadavoca ‘sādhu kho devānaminda buddhaṃ saraṇagamanaṃ hoti, buddhaṃ saraṇagamanahetu kho devānaminda evamidhekacce sattā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjantī’ti. Te aññe deve dasahi ṭhānehi adhigaṇhanti dibbena āyunā dibbena vaṇṇena sukhena yasena ādhipateyyena dibbehi rūpehi saddehi gandhehi rasehi phoṭṭhabbehī’’ti (saṃ. ni. 4.341). Esa nayo dhamme saṅghe ca. Apica velāmasuttādivasenāpi (a. ni. 9.20) saraṇagamanassa phalaviseso veditabbo. Evaṃ saraṇagamanaphalaṃ veditabbaṃ.

Một lần khác nữa Ngài đã nói: “Khi ấy Thiên chủ Sakka cùng với tám mươi ngàn vị chư Thiên đi đến trưởng lão Mahā Moggallana. Trưởng lão Mahā Moggallana đã nói với Thiên chủ Sakka đứng ở một vị trí thích hợp: Lành thay, này Thiên chủ, là đi đến nương nhờ đức Phật. Do nhân đi đến nương nhờ đức Phật, này Thiên chủ, ở đây một số chúng sanh, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên cảnh giới an vui, thiên giới cõi trời. Thiên giới, cõi đời này. Họ có được 10 pháp trội hơn các chư Thiên khác: thiên thọ mạng, thiên sắc, thiên an lạc, thiên danh dự, thiên thù thắng, thiên sắc, thiên thanh, thiên hương, thiên vị, thiên xúc.(saṃ. ni. 4.341); Việc đi đến nương nhờ Giáo Pháp và Tăng chúng cũng theo phương thức tương tự. Và lại nữa, nên biết quả báu đặt biệt của việc đi đến nương nhờ với sức mạnh của bài Kinh Velāma v.v, nên biết quả báu của việc đi đến nương nhờ như vậy.

Tattha lokiyasaraṇagamanaṃ tīsu vatthūsu aññāṇasaṃsayamicchāñāṇādīhi saṃkilissati, na mahājutikaṃ hoti, na mahāvipphāraṃ. Lokuttarassa natthi saṃkileso. Lokiyassa ca saraṇagamanassa duvidho bhedo sāvajjo anavajjo ca. Tattha sāvajjo aññasatthārādīsu attasanniyyātanādīhi hoti, so aniṭṭhaphalo. Anavajjo kālaṃ kiriyāya, so avipākattā aphalo. Lokuttarassa pana nevatthi bhedo. Bhavantarepi hi ariyasāvako aññasatthāraṃ na uddisatīti evaṃ saraṇagamanassa saṃkileso ca bhedo ca veditabboti. Upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretūti maṃ bhavaṃ gotamo ‘‘upāsako aya’’nti evaṃ dhāretu, jānātūti attho.

Ở đó, trong việc đi đến nương nhờ của hạng phàm phu [lokiyasaraṇagamanaṃ] trở nên ô nhiễm bởi các nguyên nhân có vô minh, hoài nghi và tà kiến nơi tam bảo (sẽ) không có lợi ích lớn, không có rung cảm lớn. Còn việc đi đến nương nhờ của bậc Thánh nhân [lokuttara] không ô nhiễm. Việc đi đến nương nhờ của hạng phàm phu có 2 sự tiêu hoại, sự tiêu hoại có lỗi lầm và sự tiêu hoại không có lỗi lầm. Ở đây, sự tiêu hoại có lỗi lầm tồn tại do các nguyên nhân như phó thác mạng sống của chính nơi bậc Đạo sư khác, sự tiêu hoại ấy cho quả không đáng mong muốn. Sự tiêu hoại không có lỗi lầm do thời gian hành động, sự tiêu hoại ấy không có kết quả bởi không có quả dị thục [vipāka]. Nhưng việc đi đến nương nhờ của bậc Thánh nhân không có sự tiêu hoại. Thật vậy vị Thánh đệ tử (sau khi chết đi tái sanh) dù ở trong cảnh giới khác cũng không chấp nhận tán thán người khác là bậc Đạo sư của mình (thay thế đức Phật). Nên biết có sự ô nhiễm và sự tiêu hoại (đứt tam quy) của việc đi đến nương nhờ như đã được giải thích. Xin ngài Gotama ghi nhận con là nam cư sĩ đã đi đến nương nhờ: Xin Ngài Gotama hãy ghi nhận, có nghĩa là hãy nhận biết con là cận sự nam.

Giải thích việc đi đến nương nhờ được kết thúc

 

Giải thích về cận sự nam-nữ

Upāsakavidhikosallatthaṃ panettha ko upāsako, kasmā upāsakoti vuccati, kimassa sīlaṃ, ko ājīvo, kā vipatti, kā sampattīti idaṃ pakiṇṇakaṃ veditabbaṃ.

Trong trường hợp này để trở thành người khéo léo trong phương thức thể hiện chính mình là cận sự nam cần phải biết điều hỗn hợp [pakiṇṇaka] này rằng: Cư sĩ là ai? vì sao gọi là cư sĩ? cư sĩ ấy có giới như thế nào? có nghề nghiệp như thế nào? Có sự bất lợi như thế nào? có sự thuận lợi như thế nào?

Tattha ko upāsakoti yo koci tisaraṇagato gahaṭṭho. Vuttañhetaṃ – ‘‘yato kho mahānāma upāsako buddhaṃ saraṇaṃ gato hoti, dhammaṃ saraṇaṃ gato hoti, saṅghaṃ saraṇaṃ gato hoti. Ettāvatā kho mahānāma upāsako hotī’’ti (saṃ. ni. 5.1033).

Ở đây, thế nào là cư sĩ? Bất kỳ người gia chủ nào đã đi đến nương nhờ Tam bảo. Điều này đã được đức Thế Tôn thuyết như sau: “Này Mahānāma, khi nào cư sĩ đã đến nương nhờ nơi đức Phật, đã đến nương nhờ nơi Giáo Pháp (và) đã đến nương nhờ nơi Tăng chúng. Thật vậy chỉ chừng ấy này Mahānāma, (người ấy) trở thành cư sĩ.” (saṃ. ni. 5.1033).

Kasmā upāsakoti ratanattayassa upāsanato. So hi buddhaṃ upāsatīti upāsako. Dhammaṃ, saṅghaṃ upāsatīti upāsako.

Vì sao gọi là cận sự? Bởi phụng sự Tam bảo. Bởi vì người ấy phụng sự Đức Phật, nên được gọi là cận sự. Phựng sự Giáo Pháp, và Hội Chúng tỳ khưu nên gọi là cận sự.

Kimassasīlanti pañca veramaṇiyo. Yathāha ‘‘yato kho mahānāma upāsako pāṇātipātā paṭivirato hoti adinnādānā , kāmesu micchācārā, musāvādā, surāmerayamajjapamādaṭṭhānā paṭivirato hoti. Ettāvatā kho mahānāma upāsako sīlavā hotī’’ti (saṃ. ni. 5.1033).

Cư sĩ có giới như thế nào? Tư tâm sở (chủ ý) kiêng tránh 5 giới. Đã được đức Thế Tôn nói như sau: “Này Mahānāma khi nào cư sĩ làm người kiêng tránh từ sự sát sanh, (kiêng tránh) sự trộm cắp, (kiêng tránh) sự tà hạnh, (kiêng tránh) sự nói dối, (kiêng tránh) rượu men rượu nấu là nhân sanh dễ dui. Thật vậy này Mahānāma, cư sĩ có giới chừng ấy.” (saṃ. ni. 5.1033).

Ko ājīvoti pañca micchāvaṇijjā pahāya dhammena samena jīvitakappanaṃ. Vuttañhetaṃ ‘‘pañcimā, bhikkhave, vaṇijjā upāsakena akaraṇīyā. Katamā pañca? Satthavaṇijjā, sattavaṇijjā, maṃsavaṇijjā, majjavaṇijjā, visavaṇijjā. Imā kho, bhikkhave, pañca vaṇijjā upāsakena akaraṇīyā’’ti (a. ni. 5.177).

Có nghề nghiệp như thế nào? (tức là) từ bỏ 5 nghề nghiệp không chân chánh, rồi nuôi mạng bằng nghề nghiệp chân chánh đúng pháp. Đã được đức Thế Tôn nói như sau: “Này chư tỳ khưu, có 5 nghề buôn bán mà người tại gia cư sĩ không nên làm. Thế nào là năm? Buôn bán vũ khí, buôn bán người, buôn bán thịt, buôn bán rượu, buôn bán chất độc. Thật vậy, này chư tỳ khưu, 5 nghề buôn bán này không nên làm đối với người cư sĩ.” (a. ni. 5.177).

Kā vipattīti yā tasseva sīlassa ca ājīvassa ca vipatti, ayamassa vipatti. Apica yāya esa caṇḍālo ceva hoti malañca patikuṭṭho ca. Sāpissa vipattīti veditabbā. Te ca atthato assaddhiyādayo pañca dhammā honti. Yathāha ‘‘pañcahi, bhikkhave, dhammehi samannāgato upāsako upāsakacaṇḍālo ca hoti upāsakamalañca upāsakapatikuṭṭho ca. Katamehi pañcahi? Assaddho hoti, dussīlo hoti, kotūhalamaṅgaliko hoti, maṅgalaṃ pacceti no kammaṃ, ito ca bahiddhā dakkhiṇeyyaṃ pariyesati tattha ca pubbakāraṃ karotī’’ti (a. ni. 5.175).

Có sự bất lợi như thế nào? Sự bất lợi của giới và sinh kế của người cư sĩ ấy, điều đó là điều bất lợi của người cư sĩ. Và hơn thế nữa cư sĩ ấy là người giai cấp thấp hèn và uế nhiễm bởi những trần cấu, do sự bất lợi nào dầu sự bất lợi ấy cũng nên biết rằng là sự bất lợi của cư sĩ ấy. Và người giai cấp thấp hèn ấy khi nói theo ý nghĩa cũng bao gồm 5 pháp (gồm) sự không có đức tin v.v. Đã được đức Thế Tôn nói như sau: “Này các tỳ khưu, người cư sĩ thành tựu đầy đủ được năm pháp này, là người cư sĩ hèn hạ, là người cư sĩ bẩn thỉu, là người cư sĩ đáng khinh bỉ. Thế nào là năm? Không có đức tin (nơi Tam bảo), là kẻ ác giới, là người thích xem (bói) điềm lành, tin vào điềm báo lành không tin vào nghiệp, tìm đối tượng xứng đáng bên ngoài Tôn giáo [Phật giáo] và ở đây thực hành lợi ích trong Tôn giáo đó trước.(a. ni. 5.175);

Kāsampattīti yā cassa sīlasampadā ca ājīvasampadā ca, sā sampatti. Ye cassa ratanabhāvādikarā saddhādayo pañca dhammā. Yathāha ‘‘pañcahi, bhikkhave, dhammehi samannāgato upāsako upāsakaratanañca hoti upāsakapadumañca upāsakapuṇḍarīkañca. Katamehi pañcahi? Saddho hoti, sīlavā hoti, na kotūhalamaṅgaliko hoti, kammaṃ pacceti no maṅgalaṃ, na ito bahiddhā dakkhiṇeyyaṃ gavesati, idha ca pubbakāraṃ karotī’’ti (a. ni. 5.175).

Có sự thuận lợi ra sao? Sự thành tựu giới và thành tựu về sinh kế của người cư sĩ đó gọi là sự thuận lợi. Năm pháp nào có đức tin nơi Tam bảo v.v, của người cư sĩ nào thì pháp đó của người cư sĩ đó gọi là sự thuận lợi. Đã được đức Thế Tôn nói như sau: “Này các tỳ kheo, người cư sĩ nào thành tựu tròn đủ năm pháp này, (người cư sĩ ấy) là người cư sĩ ngọc bảo, là người cư sĩ hoa sen hồng, là người cư sĩ hoa sen trắng. Thế nào là năm? là người có đức tin, là người có giới, là người không thích xem (bói) điềm lành, tin vào nghiệp hơn là điềm báo lành, không tìm đối tượng xứng đáng bên Tôn giáo (Phật giáo) và ở đây thực hành thiện pháp trong Phật giáo.” (a. ni. 5.175);

Ajjataggeti ettha ayaṃ aggasaddo ādikoṭikoṭṭhāsaseṭṭhesu dissati. ‘‘Ajjatagge, samma dovārika, āvarāmi dvāraṃ nigaṇṭhānaṃ nigaṇṭhīna’’ntiādīsu (ma. ni. 2.70) hi ādimhi dissati. ‘‘Teneva aṅgulaggena taṃ aṅgulaggaṃ parāmaseyya, (kathā. 441) ucchaggaṃ veḷagga’’ntiādīsu koṭiyaṃ. ‘‘Ambilaggaṃ vā madhuraggaṃ vā tittakaggaṃ vā (saṃ. ni. 5.374), anujānāmi, bhikkhave, vihāraggena vā pariveṇaggena vā bhājetu’’ntiādīsu (cūḷava. 318) koṭṭhāse. ‘‘Yāvatā, bhikkhave, sattā apadā vā…pe… tathāgato tesaṃ aggamakkhāyatī’’tiādīsu (a. ni. 4.34) seṭṭhe. Idha panāyaṃ ādimhi daṭṭhabbo. Tasmā ajjataggeti ajjataṃ ādiṃ katvā, evamettha attho veditabbo. Ajjatanti ajjabhāvaṃ. Ajjadaggeti vā pāṭho, da-kāro padasandhikaro, ajja aggaṃ katvāti attho.

Từ agga trong từ ajjatagge này sử dụng với ý nghĩa bắt đầu, chót đỉnh, phần và tối tượng. Từ agga cũng sử dụng với ý nghĩa bắt đầu: “Kể từ nay trở đi, này người gác cửa, ta sẽ đóng cửa đối với các nam Nigantha, các nữ Nigantha.” (ma. ni. 2.70); — Chót đỉnh: “nên vuốt ve đầu ngọn mía, đầu ngọn tre bằng đầu ngón tay này với đầu ngón tay kia bằng chính đầu ngón tay ấy.” (kathā. 441); — Phần: “Này chư tỳ khưu, Như Lai cho phép phân phối theo phòng ngủ, và phân phối theo phòng ở.” (saṃ. ni. 5.374); — Tối thượng: “Này chư tỳ khưu, tất cả chúng sanh số lượng chừng ấy có chân hoặc…(trong số đó) Như Lai, bậc trí đã nói rằng là người tối thượng nhất.” (a. ni. 4.34); — Nhưng ở đây, từ agga này có thể thấy rằng được sử dụng với ý nghĩa bắt đầu. Do đó, trong từ ajjadagge này nên hiểu ý nghĩa: “Bắt đầu từ hôm nay trở đi”. Ajjataṃ gồm ajjabhāvaṃ (thời gian hiện tại). Trong Pāḷī từ ajjadagge cũng có. Phụ âm ‘da’ làm nhiệm vụ nối từ tiếp ngữ xen chữ giữa ajja với agge có nghĩa là “Bắt đầu từ hôm nay trở đi”.

Pāṇupetanti pāṇehi upetaṃ, yāva me jīvitaṃ pavattati, tāva upetaṃ. Anaññasatthukaṃ tīhi saraṇagamanehi saraṇaṃ gataṃ upāsakaṃ kappiyakārakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu jānātu. Ahañhi sacepi me tikhiṇena asinā sīsaṃ chindeyya, neva buddhaṃ ‘‘na buddho’’ti vā dhammaṃ ‘‘na dhammo’’ti vā, saṅghaṃ ‘‘na saṅgho’’ti vā vadeyyanti. Evaṃ attasanniyyātanena saraṇaṃ gantvā catūhi ca paccayehi pavāretvā uṭṭhāyāsanā bhagavantaṃ abhivādetvā tikkhattuṃ padakkhiṇaṃ katvā pakkāmīti.

Trọn đời: đến trọn đời, (tức là) xin Ngài Gotama hãy ghi nhận, tức là hãy nhận biết con là cần sự nam đã đi đến nương nhờ Tam bảo, không có bậc Đạo sư khác (ngoài đức Thế Tôn) trọn đời trọn kiếp sống của con, Đối với con, nếu ai đó chặt đầu tôi bằng một con dao sắc bén, cũng sẽ không nói rằng đức Phật không phải là đức Phật, Giáo Pháp không phải là Giáo Pháp (và) Tăng chúng không phải là Tăng chúng. Bà-la-môn khi đi đến nương nhờ với sự từ bỏ sanh mạng như vậy và đã thỉnh mời với bốn món vật dụng từ chỗ ngồi đứng dậy cúi chào đức Thế Tôn, rồi thân đi hướng phía hữu (đi nhiễu xung quanh) 3 lần rồi đi khỏi.

Giải thích về người cận sự được kết thúc

Giải Thích Kinh Khiếp Đảm và Sợ Hãi – được kết thúc

[1] a. ni. 4.70 visamaṃ candimasūriyā parivattanti

[2] dī. ni. 3.355; a. ni. 5.27; vibha. 804

[3] a. ni. 4.34

[4] saṃ. ni. 2.154