Kinh số 37 – Giải Thích Tiểu Kinh Đoạn Tận Tham Ái

(Cūḷataṇhāsaṅkhayasuttavaṇṇanā)

Xem Trung Bộ Kinh – Tiểu Kinh Đoạn Tận Tham Ái

390. evaṃ me sutanti cūḷataṇhāsaṅkhayasuttaṃ. tattha pubbārāme migāramātupāsādeti pubbārāmasaṅkhāte vihāre migāramātuyā pāsāde. tatrāyaṃ anupubbīkathāatīte satasahassakappamatthake ekā upāsikā padumuttaraṃ bhagavantaṃ nimantetvā buddhappamukhassa bhikkhusaṅghassa satasahassaṃ dānaṃ datvā bhagavato pādamūle nipajjitvā, “anāgate tumhādisassa buddhassa aggupaṭṭhāyikā homī”ti patthanamakāsi. sā kappasatasahassaṃ devesu ceva manussesu ca saṃsaritvā amhākaṃ bhagavato kāle bhaddiyanagare meṇḍakaseṭṭhiputtassa dhanañjayassa seṭṭhino gahe sumanadeviyā kucchimhi paṭisandhiṃ gaṇhi. jātakāle cassā visākhāti nāmaṃ akaṃsu. sā yadā bhagavā bhaddiyanagaraṃ agamāsi, tadā pañcahi dārikāsatehi saddhiṃ bhagavato paccuggamanaṃ katvā paṭhamadassanamhiyeva sotāpannā ahosi. aparabhāge sāvatthiyaṃ migāraseṭṭhiputtassa puṇṇavaḍḍhanakumārassa gehaṃ gatā, tattha naṃ migāraseṭṭhi mātiṭṭhāne ṭhapesi, tasmā migāramātāti vuccati.

390 Tiểu Kinh Đoạn Tận Tham Ái được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, pubbārāme migāramātupāsāde (trong lâu đài Migāramātu ở Pubbārāme): Lâu đài của trưởng giả Migāramātu trong tịnh xá gọi là Pubbārāma. Trong câu đó được lý giải theo tuần tự như sau: – Vào thời quá khứ ở cuối cùng của trăm nghìn kiếp có một nữ thí chủ thỉnh mời đức Thế Tôn Padumuttara rồi cúng dường một trăm nghìn đồng tiền vàng đến chúng Tăng có đức Phật dẫn đầu, rồi cúi xuống gần đôi bàn chân đức Phật phát nguyện rằng “Vào thời vị lai mong cho tôi được trở thành đệ nhất thị giả của đức Phật tương tự như Ngài.” Vị ấy du hành ở toàn bộ thế giới chư Thiên và nhân loại trăm ngàn kiếp, rồi nhập mẫu thai của nàng Sumanadevī trong gia đình trưởng giả con trai của Meṇḍaka trong thành Bhaddiya, vào thời gian đức Thế Tôn của chúng ta. Lúc sanh thời, thân quyến đặt tên cho vị ấy là Visākhā. Khi đức Thế Tôn đi đến thành Bhaddiya, nàng Visākhā cùng với 500 người bạn nữ tiếp đón đức Thế Tôn đã chứng đắc Tu-đà-hoàn ngay lần gặp đầu tiên. Thời gian sau đó, nàng được gả vào gia đình công tử Puṇṇavaḍḍhana, con trai trưởng giả Migāra trong thành Sāvatthī, ở chỗ đó trưởng giả Migāra đã đặt cô vào vị trí mẹ (gọi cô ấy là mẹ), vì thế mới gọi là Migāramātā.

patikulaṃ gacchantiyā cassā pitā mahālatāpiḷandhanaṃ nāma kārāpesi. tasmiṃ piḷandhane catasso vajiranāḷiyo upayogaṃ agamaṃsu, muttānaṃ ekādasa nāḷiyo, pavāḷānaṃ dvāvīsati nāḷiyo, maṇīnaṃ tettiṃsa nāḷiyo, iti etehi ca aññehi ca sattavaṇṇehi ratanehi niṭṭhānaṃ agamāsi. taṃ sīse paṭimukkaṃ yāva pādapiṭṭhiyā bhassati, pañcannaṃ hatthīnaṃ balaṃ dhārayamānāva naṃ itthī dhāretuṃ sakkoti. sā aparabhāge dasabalassa aggupaṭṭhāyikā hutvā taṃ pasādhanaṃ vissajjetvā navahi koṭīhi bhagavato vihāraṃ kārayamānā karīsamatte bhūmibhāge pāsādaṃ kāresi. tassa uparibhūmiyaṃ pañca gabbhasatāni honti, heṭṭhābhūmiyaṃ pañcāti gabbhasahassappaṭimaṇḍito ahosi. sā “suddhapāsādova na sobhatī”ti taṃ parivāretvā pañca dvikūṭagehasatāni, pañca P.2.297 cūḷapāsādasatāni, pañca dīghasālasatāni ca kārāpesi. vihāramaho catūhi māsehi niṭṭhānaṃ agamāsi.

Khi nàng đi đến gia đình chồng, cha của nàng đã cho làm đồ trang sức được gọi là mahālatā. Bộ trang sức ấy được đính viên kim cương bốn nāḷi, viên ngọc trai mười một nāḷi, ngọc san hô hai mươi hai nāḷi, viên ngọc ma-ni ba mươi ba nāḷi. Đồ trang sức được hoàn thành bởi những loại đá quý này và nhiều loại đá quý khác có 7 màu với cách đó. Vật trang sức đội đầu dài đến gót chân. Một người phụ nữ có sức mạnh ngang bằng với 5 thớt tượng trưởng thành có thể nâng đỡ. Sau đó, nàng trở thành vị nữ thí chủ hàng đầu của đấng Thập Lực, đã từ bỏ (đã mua lại) đồ trang sức đó tạo dựng tịnh xá để cúng dường đến đức Thế Tôn với tài sản 9 Koṭi cho kiến tạo lâu đài ở khu đất khoảng một mẫu, với một nghìn phòng là tầng trên của lâu đài ấy có năm trăm phòng, và tầng dưới năm trăm phòng. Nàng Visākhā nghĩ rằng: Toàn lâu đài đơn thuần như thế sẽ không trở nên xinh đẹp, mới cho xây thêm năm trăm ngôi nhà mái đôi, năm trăm Cūḷapāsāda xung quanh lâu đài lớn ấy, đã làm khánh thành tịnh xá suốt 4 tháng.

mātugāmattabhāve ṭhitāya visākhāya viya aññissā buddhasāsane dhanapariccāgo nāma natthi, purisattabhāve ṭhitassa ca anāthapiṇḍikassa viya aññassa buddhasāsane dhanapariccāgo nāma natthi. so hi catupaññāsakoṭiyo vissajjetvā sāvatthiyā dakkhiṇabhāge anurādhapurassa mahāvihārasadise ṭhāne jetavanamahāvihāraṃ nāma kāresi. visākhā, sāvatthiyā pācīnabhāge uttamadevīvihārasadise ṭhāne pubbārāmaṃ nāma kāresi. bhagavā imesaṃ dvinnaṃ kulānaṃ anukampāya sāvatthiṃ nissāya viharanto imesu dvīsu vihāresu nibaddhavāsaṃ vasi. ekaṃ antovassaṃ jetavane vasati, ekaṃ pubbārāme, etasmiṃ pana samaye bhagavā pubbārāme viharati. tena vuttaṃ — “pubbārāme migāramātupāsāde”ti.

Gọi là sự bố thí tài sản ở trong Phật Giáo của người nữ khác như đại tín nữ Visākhā người đã được vững trú trong bản thể người mẹ không có ai. Gọi là sự bố thí tài sản ở trong Phật Giáo của người khác giống như trưởng giả Anāthapiṇḍika người được vững trú trong bản thể đại nhân cũng không có. Thật vậy, trưởng giả Anāthapiṇḍika đã bỏ 54 Koṭi để kiến tạo tinh xá Jetavana ở phía bắc của thành Sāvatthī giống như đại tinh xá của Anurādhapurī. Nàng Visākhā đã kiến tạo tịnh xá tên là Pubbārāma ở hướng đông của thành Sāvatthī giống như ở cung điện chư Thiên tuyệt mỹ. Đức Thế Tôn khi ở thành Sāvatthī được trú ngụ ở cả tịnh xá này vì lòng vi mẫn đối với cả 2 gia đình này, mới trú ngụ ở trong hai toàn lâu đài này thường xuyên. Ngài cư trú trong tinh xá Jetavana một mùa an cư ngài cư trú, Ngài cư trú ở tinh xá Pubbārāma một mùa an cư. Nhưng thời điểm đó Ngài cư trú ở Pubbārāma. Vì thế, Ngài nói rằng “pubbārāme migāramātupāsāde (ở lâu đài Migāramātu ở Pubbārāme)”.

kittāvatā M.2.198 nu kho, bhanteti kittakena nu kho, bhante. saṃkhittena taṇhāsaṅkhayavimutto hotīti taṇhāsaṅkhaye nibbāne taṃ ārammaṇaṃ katvā vimuttacittatāya taṇhāsaṅkhayavimutto nāma saṃkhittena kittāvatā hoti? yāya paṭipattiyā taṇhāsaṅkhayavimutto hoti, taṃ me khīṇāsavassa bhikkhuno pubbabhāgappaṭipadaṃ saṃkhittena desethāti pucchati. accantaniṭṭhoti khayavayasaṅkhātaṃ antaṃ atītāti accantā. accantā niṭṭhā assāti accantaniṭṭho, ekantaniṭṭho satataniṭṭhoti attho.

Kittāvatā nu kho, bhante đồng nghĩa với kittakena nu kho, bhante (Kính bạch Ngài…Cho đến như thế nào). saṃkhittena taṇhāsaṅkhayavimutto hoti (nói một cách tóm tắt, giải thoát nhờ sự đoạn tận tham ái): nói một cách vắn tắt, cho đến như thế nào được gọi là giải thoát nhờ sự đoạn tận tham ái, bởi tính chất vị Tỳ khưu có tâm hướng đến thực hành pháp hành ấy cho được vận hành trong đối tượng Niết bàn là nơi diệt tận tham ái ấy, vua trời Sakka nói rằng: “Xin Ngài hãy thuyết giảng pháp hành căn bản của vị Tỳ khưu có lậu hoặc đó, việc thực hành pháp hành tóm tắt hướng đến vì sự diệt tận tham ái.” accantaniṭṭho (có sự thành tựu tuyệt đối): ở tận cùng là sự đoạn tận và sự biến mất, là có sự thành tựu đã đi qua, đã vượt khỏi, vì thế mới gọi là có sự thành tựu tuyệt đối, tức là thành tựu một phần, thành tựu thường thường.

accantaṃ yogakkhemīti accantayogakkhemī, niccayogakkhemīti attho. accantaṃ brahmacārīti accantabrahmacārī, niccabrahmacārīti attho. accantaṃ pariyosānamassāti purimanayeneva accantapariyosāno. seṭṭho devamanussānanti devānañca manussānañca seṭṭho uttamo. evarūpo bhikkhu kittāvatā hoti, khippametassa saṅkhepeneva paṭipattiṃ kathethāti bhagavantaṃ yācati. kasmā panesa evaṃ vegāyatīti? kīḷaṃ anubhavitukāmatāya.

Accantaṃ yogakkhemi (có sự an ổn từ các ách phược tuyệt đối): có sự an ổn khỏi các ách phược, có nghĩa là sự an toàn từ các ách phược thường thường. Accantaṃ brahmacārī (phạm hạnh tuyệt đối): phạm hạnh xuyên suốt, có nghĩa là phạm hành thường xuyên. Accantaṃ pariyosānamassa (mục đích cuối cùng viên mãn): có sự kết thúc tuyệt đối. seṭṭho devamanussānan (bậc tối thắng giữa chư Thiên và loài Người): Cao cả nhất, tối thượng hơn chư Thiên và loài Người. Có nghĩa là vua trời Sakka hỏi đức Thế Tôn rằng: “Vị Tỳ khưu có hình thức như vậy thực hành có chừng bao nhiêu? Xin Ngài nói pháp hành một cách vắn tắt của vị Tỳ khưu ấy nhanh chóng.” (hỏi) Tại sao vua trời Sakka ấy lại vội vã như vậy? (đáp) bởi vì muốn đi dạo chơi.

ayaṃ kira uyyānakīḷaṃ āṇāpetvā catūhi mahārājūhi catūsu disāsu ārakkhaṃ gāhāpetvā dvīsu devalokesu devasaṅghena parivuto aḍḍhatiyāhi nāṭakakoṭīhi saddhiṃ erāvaṇaṃ P.2.298 āruyha uyyānadvāre ṭhito imaṃ pañhaṃ sallakkhesi — “kittakena nu kho taṇhāsaṅkhayavimuttassa khīṇāsavassa saṅkhepato āgamaniyapubbabhāgapaṭipadā hotī”ti. athassa etadahosi — “ayaṃ pañho ativiya sassiriko, sacāhaṃ imaṃ pañhaṃ anuggaṇhitvāva uyyānaṃ pavisissāmi, chadvārikehi ārammaṇehi nimmathito na puna imaṃ pañhaṃ sallakkhessāmi V.2.194, tiṭṭhatu tāva uyyānakīḷā, satthu santikaṃ gantvā imaṃ pañhaṃ pucchitvā uggahitapañho uyyāne kīḷissāmī”ti hatthikkhandhe antarahito bhagavato santike pāturahosi. tepi cattāro mahārājāno ārakkhaṃ gahetvā ṭhitaṭṭhāneyeva ṭhitā, paricārikadevasaṅghāpi nāṭakānipi erāvaṇopi nāgarājā tattheva uyyānadvāre aṭṭhāsi, evamesa kīḷaṃ anubhavitukāmatāya vegāyanto evamāha.

Được biết rằng vua trời Sakka đã ra lệnh đi dạo chơi trong vườn thượng uyển, rồi cho bốn đại Thiên vương bảo vệ ở bốn phương, được vây quanh bởi nhóm chư thiên ở cả hai cõi chư thiên. Con voi Erāvaṇa cùng với nữ thần hai phần rưỡi koṭi thiên nữ ngồi trước vườn thượng uyển để xác định vấn đề này: “Đạo lộ thực hành phần sơ bộ làm nhân có thể chứng đắc của bậc lậu tận, vị giải thoát nhờ sự đoạn tận tham ái tóm tắt có chừng bao nhiêu? Khi ấy, vua trời có tư duy rằng “vấn đề này diễn ra với sự chói sáng rực rỡ, nếu như ta không học tập vấn đề này trước khi đi đến vườn thượng uyển, bị đối tượng vận hành trong 6 môn chi phối, sẽ không suy nghĩ được vấn đề nữa, nên tránh việc vui chơi trong vườn thượng uyển trước, ta sẽ đi đến trú xứ của Đức Thế Tôn để hỏi vấn đề này, ta sẽ học vấn đề này, rồi mới đi vui chơi ở vườn thường uyển” đã biến mất từ cổ của con voi, xuất hiện ở tại trú xứ của đức Thế Tôn. Thậm chí cả Tứ đại Thiên vương cũng bảo hộ đứng ở tại chỗ đứng đó, nhóm chư Thiên hầu cận, hay thiên nữ nhảy múa, hay voi Erāvaṇa, hay rồng chúa, đã đứng đợi ở cánh cửa đó đó. Vua trời Sakka ấy khi có sự vội vã do mong muốn đi vui chơi bằng biểu hiện như thế.

sabbe dhammā nālaṃ abhinivesāyāti ettha sabbe dhammā nāma pañcakkhandhā dvādasāyatanāni aṭṭhārasa dhātuyo. te sabbepi taṇhādiṭṭhivasena abhinivesāya M.2.199 nālaṃ na pariyattā na samatthā na yuttā, kasmā? gahitākārena atiṭṭhanato. te hi niccāti gahitāpi aniccāva sampajjanti, sukhāti gahitāpi dukkhāva sampajjanti, attāti gahitāpi anattāva sampajjanti, tasmā nālaṃ abhinivesāya. abhijānātīti aniccaṃ dukkhaṃ anattāti ñātapariññāya abhijānāti. parijānātīti tatheva tīraṇapariññāya parijānāti. yaṃkiñci vedananti antamaso pañcaviññāṇasampayuttampi yaṃkiñci appamattakampi vedanaṃ anubhavati.

Tất cả các Pháp không nên thiên chấp (sabbe dhammā nālaṃ abhinivesāya): năm uẩn, sáu xứ, 18 giới gọi là tất cả các Pháp, toàn bộ Pháp đó không nên, không đáng ưa thích, không thể, không thích hợp để bám lấy bằng mãnh lực của tham ái và tà kiến. Tại sao? Bởi chúng không tồn tại theo biểu hiện mà người đã nắm lấy. Thật vậy, tất cả các pháp có năm uẩn v.v, dẫu được cho là thường cũng đến tính chất vô thường, dẫu cho là lạc cũng đến tính chất khổ đau, dẫu cho là ngã cũng đi đến tính chất vô ngã, vì thế con người mới không nên bám chấp. Thắng tri (abhijānāti): biết rõ do biết toàn diện về điều đã được biết rằng là vô thường, là khổ đau, là vô ngã. Biết trọn vẹn (parijānāti): biết trọn vẹn do biết toàn diện điều đã được biết, cũng tương tự điều đó đó. bất kỳ thọ nào (yaṃkiñci vedanaṃ): lãnh thọ bất kỳ cảm thọ nào dù chỉ chút ít, ngay sau đó thậm chí phối hợp với năm thức (pañcaviññāṇa)

iminā bhagavā sakkassa devānamindassa vedanāvasena nibbattetvā arūpapariggahaṃ dasseti. sace pana vedanākammaṭṭhānaṃ heṭṭhā na kathitaṃ bhaveyya, imasmiṃ ṭhāne kathetabbaṃ siyā. heṭṭhā pana kathitaṃ, tasmā satipaṭṭhāne vuttanayeneva veditabbaṃ. aniccānupassīti ettha aniccaṃ veditabbaṃ, aniccānupassanā veditabbā, aniccānupassī veditabbo. tattha aniccanti pañcakkhandhā, te hi uppādavayaṭṭhena aniccā. aniccānupassanāti pañcakkhandhānaṃ khayato vayato dassanañāṇaṃ. aniccānupassīti tena ñāṇena samannāgato puggalo P.2.299. tasmā “aniccānupassī viharatī”ti aniccato anupassanto viharatīti ayamettha attho.

Đức Thế Tôn thuyết giảng đến việc chấp trước Pháp vô sắc khởi lên do mãnh lực của thọ đối với vua trời Sakka bằng câu này. Nếu như thọ nghiệp xứ là Pháp mà đức Thế Tôn không thuyết giảng ở phần trước thì cần phải đưa ra để nói ở chỗ này, nhưng bởi vì nghiệp xứ đó đã được nói trước đó rồi, vì thế nên biết thọ nghiệp xứ theo phương thức đã được nói trong kinh Thiết Lập Niệm (Satipaṭṭhāna). Tùy quán vô thường (aniccānupassi) này nên biết rằng là vô thường, nên biết là quán chiếu về vô thường, nên biết là vị quán chiếu về vô thường. Ở đây có lời giải thích, trong số các câu đó bao gồm năm uẩn được gọi là vô thường, thật vậy ngũ uẩn đó được gọi là vô thường bởi ý nghĩa có sự sanh khởi và sự hoại diệt. Sự nhận thức, sự nhận biết năm uẩn với tính chất sự suy tàn và sự biến hoại, được gọi là sự quán chiếu về vô thường. Hành giả phối hợp với trí đó được gọi là vị quán chiếu về vô thường, vì thế hành giả sống quán chiếu về vô thường (aniccānupassī viharati) tức là khi hành giả quán chiếu để thấy tính chất ngũ uẩn là vô thường.

virāgānupassīti ettha dve virāgā khayavirāgo ca accantavirāgo ca. tattha saṅkhārānaṃ khayavayato anupassanāpi, accantavirāgaṃ nibbānaṃ virāgato dassanamaggañāṇampi virāgānupassanā. tadubhayasamāṅgīpuggalo virāgānupassī nāma, taṃ sandhāya vuttaṃ “virāgānupassī”ti, virāgato anupassantoti attho. nirodhānupassimhipi eseva nayo, nirodhopi hi khayanirodho ca accantanirodho cāti duvidhoyeva. paṭinissaggānupassīti ettha paṭinissaggo vuccati vossaggo, so ca pariccāgavossaggo pakkhandanavossaggoti duvidho hoti. tattha pariccāgavossaggoti vipassanā, sā hi tadaṅgavasena kilese ca khandhe ca vossajjati. pakkhandanavossaggoti maggo, so hi nibbānaṃ ārammaṇaṃ ārammaṇato pakkhandati. dvīhipi vā kāraṇehi vossaggoyeva, samucchedavasena khandhānaṃ kilesānañca vossajjanato, nibbānañca pakkhandanato. tasmā kilese ca khandhe ca pariccajatīti pariccāgavossaggo, nirodhe nibbānadhātuyā cittaṃ pakkhandatīti pakkhandanavossaggoti ubhayampetaṃ magge sameti. tadubhayasamaṅgīpuggalo imāya paṭinissaggānupassanāya samannāgatattā paṭinissaggānupassī nāma hoti. taṃ sandhāya vuttaṃ “paṭinissaggānupassī”ti.

Virāgānupassi (quán chiếu về sự viễn ly ái luyến): ở đây 2 sự viễn ly ái luyến là khayavirāgo ca accantavirāgo. Ở đó, minh sát là phương tiện để thấy các Hành có sự suy tàn và sự biến hoại được gọi là khayavirāgo. Còn đối với đạo tuệ là phương tiện để nhận thức Niết bàn là accantavirāgo, bằng sự nhàm chán gọi là quán chiếu về sự viễn ly ái luyến. Hành giả thành tựu đầy đủ cả hai pháp đó gọi là quán chiếu về sự viễn ly ái luyến. Hành giả quán chiếu về ly tham (virāgānupassī): Ngài nói đề cập đến hạng người ấy. Có nghĩa là hành giả quán xét để thấy với tính chất viễn ly ái luyến. Thậm chí cả từ “nirodhānupassī (hành giả quán chiếu về sự diệt tận)” cũng tương tự theo phương thức này. Quả thật cả ‘sự diệt tận’ cũng có 2 loại tương tự là khayanirodhaaccantanirodha. sự từ bỏ (vossaggo) gọi là sự xả ly trong từ ‘quán chiếu về sự xả ly (paṭinissaggānupassī)’, sự tự bỏ cũng có 2 là: pariccāgavossaggopakkhandanavossaggo. Ở đó minh sát gọi là pariccāgavossaggo bởi minh sát ây dứt bỏ toàn bộ phiền não và uẩn với khả năng của sự thay thế (tadaṅga). Đạo gọi là pakkhandanavossaggo bởi Đạo đó xông tới trong Niết bàn (lấy Niết bàn) làm đối tượng. Hơn nữa, việc từ bỏ bằng cả 2 nguyên nhân là do việc từ bỏ tất cả uẩn, tất cả phiền não với khả năng đoạn trừ (samuccheda) và do việc xông vào trong Niết bàn, vì thế gọi là pariccāgavossaggo, với ý nghĩa rằng dứt bỏ tất cả phiền não và tất cả các uẩn. Sự diệt tận gọi là pakkhandanavossaggo bởi ý nghĩa xông tới trong cảnh giới vô vi Niết bàn. Cả hai đều đồng đẳng với nhau trong Đạo, hành giả thành tựu đầy đủ với sự từ bỏ, cả 2 điều ấy gọi là quán chiếu về sự xả ly, bởi tính chất mà hành ấy là người gắn liền với sự nhận thức bằng việc xả ly này. Đức Thế Tôn nói để đề cập đến lời ấy mới thuyết rằng: “hành giả quán chiếu về sự xả ly (paṭinissaggānupassī)

na kiñci loke upādiyatīti M.2.200 kiñci ekampi saṅkhāragataṃ taṇhāvasena na upādiyati na gaṇhāti na parāmasati. anupādiyaṃ na paritassatīti aggaṇhanto taṇhāparitassanāya na paritassati. paccattaññeva parinibbāyatīti sayameva kilesaparinibbānena parinibbāyati. khīṇā jātītiādinā panassa paccavekkhaṇāva dassitā. iti bhagavā sakkassa devānamindassa saṃkhittena khīṇāsavassa pubbabhāgappaṭipadaṃ pucchito sallahukaṃ katvā saṃkhitteneva khippaṃ kathesi.

na kiñci loke upādiyati (không chấp trước bất vật ở đời): không chấp thủ, không nắm lấy, không bám víu bất cứ vật gì liên quan đến hành do mãnh lực của tham ái, anupādiyaṃ na paritassati (không phiền muộn do không chấp thủ): khi không chấp thủ mới không phiền muộn bởi sự phiền muộn do mãnh lực của tham ái. paccattaññeva parinibbāyati (tự mình dập tắt hoàn hoàn toàn mọi phiền não): đã tự mình dập tắt với sự dập tắt hoàn toàn phiền não (tự mình chứng đạt Niết-bàn). Trí quán xét lại của vị lậu tận được thể hiện như sau ‘Sự tái sanh đã cạn kiệt (khīṇā jāti)’ v.v, đức Thế Tôn người mà vua trời Sakka hỏi phương pháp thực hành ở phần mở đầu của bậc lậu tận một cách tóm tắt, (Ngài) giải đáp vấn đề đã làm cho (vua trời Sakka) nhẹ lòng ngay lập tức.

391. avidūre nisinno hotīti anantare kūṭāgāre nisinno hoti. abhisameccāti ñāṇena abhisamāgantvā, jānitvāti attho. idaṃ vuttaṃ hoti — kiṃ nu kho esa jānitvā anumodi, udāhu P.2.300 ajānitvā vāti. kasmā panassa evamahosīti? thero kira na bhagavato pañhavissajjanasaddaṃ assosi, sakkassa pana devarañño, “evametaṃ bhagavā evametaṃ sugatā”ti anumodanasaddaṃ assosi. sakko kira devarājā mahatā saddena anumodi. atha kasmā na bhagavato saddaṃ assosīti? yathāparisaviññāpakattā. buddhānañhi dhammaṃ kathentānaṃ ekābaddhāya cakkavāḷapariyantāyapi parisāya saddo suyyati, pariyantaṃ pana muñcitvā aṅgulimattampi bahiddhā na niccharati. kasmā? evarūpā madhurakathā mā niratthakā agamāsīti. tadā bhagavā migāramātupāsāde sattaratanamaye kūṭāgāre sirigabbhamhi nisinno hoti, tassa dakkhiṇapasse sāriputtattherassa vasanakūṭāgāraṃ, vāmapasse mahāmoggallānassa, antare chiddavivarokāso natthi, tasmā thero na bhagavato saddaṃ assosi, sakkasseva assosīti.

391 avidūre nisinno hoti (ngồi không xa): Trưởng lão Mahāmoggallāna ngồi ở kūṭāgāra kế bên. Abhisamecca (hiểu được ý nghĩa): sau khi đi đến bên cạnh với trí, có nghĩa là đã biết. Điều này đã được nói – vua trời Sakka ấy sau khi hiểu vấn đề hoan hỷ chăng? Hay là không biết cũng hoan hỷ. Tại sao? Trưởng lão lại có suy nghĩ như vậy? Được biết rằng Trưởng lão không nghe âm thành giải đáp vấn đề của đức Thế Tôn, chỉ nghe lời hoan hỉ thọ lãnh của vua trời Sakka rằng, “Kính bạch đức Thế Tôn diều đó là như vậy, bạch Thiện Thệ điều đó như vậy”. Kể rằng vua trời Sakka nói lên lời tùy hỷ với âm giọng lớn. (hỏi) nếu vậy tại sao lại không nghe được tiếng của đức Thế Tôn. (đáp) bởi vì hội chúng của Ngài cho biết. Thật vậy, khi chư Phật thuyết giảng Giáo Pháp cho hội chúng liên tiếp nhau cho đến ở tận cùng ranh giới của thế giới đều nghe được âm giọng (của đức Thế Tôn), nhưng cuối cùng của hội chúng rồi thì âm thanh ấy không truyền ra bên ngoài dù chỉ lóng tay. Tại sao? Bởi vì ý muốn của đức Phật rằng lời nói dịu ngọt (madhurakathā) bằng hình thức như vậy đừng truyền đi không có lợi ích. Khi đó đức Thế Tôn ngồi trong phòng với sự vinh hiển ở kūṭāgāra được hoàn thành bởi 7 loại ngọc báu trên tòa lâu đài của Migāramātu, kūṭāgāra đó bên phải là thư phòng của Trưởng lão Sārīputta, bên trái là thư phòng của Trưởng lão Mahāmoggallāna, không có bất kỳ lỗ thủng nào chính giữa, vì thế Trưởng lão không nghe được âm giọng của đức Thế Tôn, chỉ nghe được âm thanh của vua trời Sakka mà thôi.

pañcahi tūriyasatehīti pañcaṅgikānaṃ tūriyānaṃ pañcahi satehi. pañcaṅgikaṃ tūriyaṃ nāma ātataṃ vitataṃ ātatavitataṃ susiraṃ ghananti imehi pañcahi aṅgehi samannāgataṃ. tattha ātataṃ nāma cammapariyonaddhesu bheriādīsu ekatalatūriyaṃ. vitataṃ nāma ubhayatalaṃ. ātatavitataṃ nāma tantibaddhapaṇavādi. susiraṃ vaṃsādi. ghanaṃ sammādi. samappitoti upagato. samaṅgībhūtoti tasseva vevacanaṃ. paricāretīti taṃ sampattiṃ anubhavanto tato tato indriyāni cāreti. idaṃ vuttaṃ hoti — parivāretvā vajjamānehi pañcahi tūriyasatehi samannāgato hutvā dibbasampattiṃ anubhavatī. paṭipaṇāmetvāti apanetvā, nissaddāni kārāpetvāti attho.

pañcahi tūriyasatehi (với đầy đủ năm trăm nhạc cụ chư thiên): nhạc cụ liên kết với năm yếu tố có năm trăm loại. Nhạc cụ liên kết với năm yếu tố này là ātataṃ vitataṃ ātatavitataṃ susiraṃ ghanaṃ được gọi là nhạc cụ liên kết với năm yếu tố. Trong các loại trống đó, mặt trống được bao bọc bằng da, trống chỉ có một mặt bọc da được gọi là ātataṃ. Trống có hai mặt gọi là vitataṃ, Trống có dây buộc ở hai đầu gọi là ātatavitata. Ống sáo, ống tiêu được gọi là susira. Cái chập cheng gọi là ghanaṃ. Samappito (sung túc): đã đi đến. Samaṅgībhūto là từ đồng nghĩa với từ samappito đó đó. Paricāreti (vui chơi): thọ hưởng sự thành tựu để được thỏa mãn sự cảm giác của mình bằng các quyền đó đó. Điều này đã được nói rằng – có nghĩa là hội đủ với năm trăm nhạc cụ, thọ hưởng sự thành tựu ở thiên giới. Paṭipaṇāmetvā (đã cho đừng lại): đã cho dừng lại, tức là làm cho âm thanh các loại nhạc cụ ngừng lại.

yatheva hi idāni saddhā rājāno garubhāvaniyaṃ bhikkhuṃ disvā — “asuko nāma ayyo āgacchati, mā, tātā, gāyatha, mā vādetha, mā naccathā”ti nāṭakāni paṭivinenti, sakkopi theraṃ disvā evamakāsi. cirassaṃ kho, mārisa moggallāna, imaṃ pariyāyamakāsīti evarūpaṃ loke pakatiyā piyasamudāhāravacanaṃ hoti, lokiyā hi cirassaṃ āgatampi anāgatapubbampi manāpajātiyaṃ āgataṃ disvā, — “kuto bhavaṃ āgato, cirassaṃ bhavaṃ āgato, kathaṃ te idhāgamanamaggo ñāto maggamūḷhosī”tiādīni vadanti. ayaṃ pana āgatapubbattāyeva evamāha. thero hi kālena kālaṃ devacārikaṃ gacchatiyeva. tattha pariyāyamakāsīti vāramakāsi. yadidaṃ idhāgamanāyāti yo ayaṃ idhāgamanāya vāro, taṃ, bhante, cirassamakāsīti vuttaṃ hoti. idamāsanaṃ paññattanti yojanikaṃ maṇipallaṅkaṃ paññapāpetvā evamāha.

Giống như bây giờ các đức Vua, những vị có đức tin nhìn thấy vị Tỳ khưu đáng được tôn kinh mới nói rằng thầy tôi tên đó đã đến, các ngươi đừng ca hát, đừng chơi nhạc cụ, đừng nhảy múa, rồi loại bỏ âm thanh như thế nào, ngay cả vua trời Sakka sau khi nhìn thấy Trưởng lão cũng đã làm như thế đó. Đã lâu lắm rồi quý nhân Moggallāna, vi không có khổ mới có dịp đến chỗ này (cirassaṃ kho, mārisa moggallāna, imaṃ pariyāyamakāsi): là cuộc trò chuyện bằng lời nói yêu mến thông thường ở thế gian. Thật vậy, người nhân loại khi nhìn thấy người đáng mến lâu lâu đến một lần, hay chưa từng đến, cùng nhau đến hỏi v.v, “Đến từ đâu thưa Ngài? Ngài đến lâu chưa? Ngài biết được đường đến đây như thế nào? Ngài bị lạc đường hay sao?” vua trời Sakka cũng nói như vậy cùng Trưởng lão Mahāmoggallāna bởi vì (Ngài) đã từng đến. Thật vậy, Trưởng lão thỉnh thoảng đã du hành ở trong thế giới chư Thiên. Ở đó, pariyāyamakāsi (mới có cơ hội): thực hiện sự luân phiên. yadidaṃ idhāgamanāya (hãy đi đến đây): giải thích rằng có cơ hội đi đến đây thế nào, Trưởng lão đã thực hiện cơ hội ấy lâu rồi. idamāsanaṃ paññattaṃ (ngồi trên tọa cụ đã trải sẵn): Vua trời Sakka sắp đặt bảo thạch tọa bằng ngọc ma-ni một do-tuần rồi mới mời như vậy.

392. bahukiccā bahukaraṇīyāti ettha yesaṃ bahūni kiccāni, te bahukiccā. bahukaraṇīyāti tasseva vevacanaṃ. appeva sakena karaṇīyenāti sakaraṇīyameva appaṃ mandaṃ, na bahu, devānaṃ karaṇīyaṃ pana bahu, pathavito paṭṭhāya hi kapparukkhamātugāmādīnaṃ atthāya aṭṭā sakkassa santike chijjanti, tasmā niyamento āha — apica devānaṃyeva tāvatiṃsānaṃ karaṇīyenāti. devānañhi dhītā ca puttā ca aṅke nibbattanti, pādaparicārikā itthiyo sayane nibbattanti, tāsaṃ maṇḍanapasādhanakārikā devadhītā sayanaṃ parivāretvā nibbattanti, veyyāvaccakarā antovimāne nibbattanti, etesaṃ atthāya aṭṭakaraṇaṃ natthi.

392 bahukiccā bahukaraṇīyā (có nhiều phận sự, có nhiều bổn phận cần làm) này nghĩa là phận sự của những người nào nhiều thì người đó gọi có nhiều phận sự.” bahukaraṇīya (có nhiều bổn phận cần làm) này là từ đồng nghĩa của chính từ bahukiccā (có nhiều phận sự) đó đó. appeva sakena karaṇīyena (cả bổn phận riêng): những phận sự riêng cần làm, những phận sự của vua trời Sakka có ít, không nhiều, nhưng phận sự cần làm của chư Thiên có nhiều, thật vậy sự thiết lập kể từ mặt đất đi bộ nhằm mục đích cây kapparukkha và mātugāma v.v, sẽ quyết định ở trong trú xứ của vua trời Sakka, vì thế khi vua trời xác định mới nói rằng có phận sự nên làm của các vị Thiên ở cõi trời Ba mươi ba nữa v.v, Thật vậy, những đứa con gái và những đứa con trai được sanh ra từ vạt áo của chư Thiên, người nữ (trở thành) một người vợ được sanh ra ở trên giường, những đồ trang sức ấy hiện ra xung quanh chỗ nằm của các thiên nữ, người trợ giúp những phận sự sanh ra ở thiên cung mới không có việc kiện tụng vì những thứ đó.

ye pana sīmantare nibbattanti, te “mama santakā tava santakā”ti nicchetuṃ asakkontā aṭṭaṃ karonti, sakkaṃ devarājānaṃ pucchanti, so yassa vimānaṃ āsannataraṃ, tassa santakoti vadati. sace dvepi samaṭṭhāne honti, yassa vimānaṃ olokento ṭhito, tassa santakoti vadati. sace ekampi na oloketi, taṃ ubhinnaṃ kalahupacchedanatthaṃ attano santakaṃ karoti. taṃ sandhāya, “devānaṃyeva tāvatiṃsānaṃ karaṇīyenā”ti āha. apicassa evarūpaṃ kīḷākiccampi karaṇīyameva.

Những người nữ nào sanh ra giữa hai ranh giới, họ không thể quyết định được rằng người nữ ấy là tài sản của ta hoặc của ngài, khi thực hiện việc kiện cáo mới hỏi vua trời Sakka, vị ấy sẽ nói rằng: ‘Thiên cùng của người gần hơn sẽ trở thành tài sản của đó, nếu như khoảng cách thiên cũng của cả hai đều bằng nhau,’ thì Vua trời cũng nói rằng ‘người sanh ra nhìn về thiên cung của vị nào thì sẽ trở thành tài sản của người đó, nếu như không nhìn về bất cứ thiên cung nào, để cắt đứt những cuộc tranh luận của các vị Thiên ấy, sẽ biến người nữ đó trở thành tài sản của riêng mình. Vua trời Sakka nói rằng có phận sự nên làm ở cõi trời Ba mươi ba, muốn ám chỉ đến lời nói đó. Hơn nữa, dù phận sự là việc vui chơi trong vườn thượng uyển bằng hình thức như vậy cũng là phận sự cần làm của vua trời Sakka tương tự.

yaṃ no khippameva antaradhāyatīti yaṃ amhākaṃ sīghameva andhakāre rūpagataṃ viya na dissati. iminā — “ahaṃ, bhante, taṃ pañhavissajjanaṃ na sallakkhemī”ti dīpeti. thero — “kasmā nu kho ayaṃ yakkho asallakkhaṇabhāvaṃ dīpeti, passena pariharatī”ti āvajjanto — “devā nāma mahāmūḷhā honti. chadvārikehi ārammaṇehi nimmathīyamānā attano bhuttābhuttabhāvampi pītāpītabhāvampi na jānanti, idha katamettha pamussantī”ti aññāsi. keci panāhu — “thero etassa garu bhāvaniyo, tasmā ‘idāneva loke aggapuggalassa santike pañhaṃ uggahetvā āgato, idāneva nāṭakānaṃ antaraṃ paviṭṭhoti evaṃ maṃ thero tajjeyyā’ti bhayena evamāhā”ti. etaṃ pana kohaññaṃ nāma hoti, na ariyasāvakassa evarūpaṃ kohaññaṃ nāma hoti, tasmā mūḷhabhāveneva na sallakkhesīti veditabbaṃ. upari kasmā sallakkhesīti? thero tassa somanassasaṃvegaṃ janayitvā tamaṃ nīhari, tasmā sallakkhesīti.

yaṃ no khippameva antaradhāyati (lời nói nào mà tôi đã nghe, lời đó đều biến mất nhanh chóng): Lời nào mà tôi đã nghe được, lời đó biến mất nhanh chóng, tương tự y như hình tướng không xuất hiện ở trong bóng tối, vua trời Sakka nói rằng “kính bạch Ngài, tôi xác định không được đến việc giải quyết vấn đề ấy bằng câu ‘yaṃ no khippameva antaradhāyati.” Trưởng lão quán xét – “Tại sao? Vua trời Sakka này lại chứng tỏ tính chất mà bản thân là người xác định không được (vấn đề), tránh né một cách vô lý”, được biết rằng – “gọi chư Thiên là những vị hay quên, bị các đối tượng vận hành trong sáu môn chi phối, không biết được rằng bản thân là người đã thọ dụng hãy chưa thọ dụng, không biết được rằng bản thân là người đã uống hay chưa uống, sẽ quên đi phận sự mà bản thân đã làm ở chỗ đó.” Một số vị thầy nói rằng: “Trưởng lão là vị đáng tôn kính, đáng khen ngợi của vua trời Sakka, vì thế vị ấy mới nói như thế bởi sự sợ hãi Trưởng lão rằng: ‘Trưởng lão có thể hăm dọa như vầy ‘bây giờ, vua trời Sakka học tập vấn đề ở trú xứ của hạng người tối thượng nhất ở thế gian, mà bây giờ cũng đi đến giữa các vũ công.” Hơn nữa đó được gọi là tánh gian xảo, gọi là sự gian xảo bằng hình thức như vậy của bậc Thánh nhân không có, vì thế bậc trí nên biết rằng “vua trời Sakka đã không nhớ được bởi tính chất là người hay quên.” (hỏi) vì sao lúc sau lại nhớ được?” (đáp) bởi vì Trưởng lão đã làm cho sự hoan hỷ và sự cảm động khởi lên nơi cùng vua trời rồi lấy sự tố tăm ra khỏi, vì thế mà vua trời nhớ được.”

idāni sakko pubbe attano evaṃ bhūtakāraṇaṃ therassa ārocetuṃ bhūtapubbantiādimāha. tattha samupabyūḷhoti sannipatito rāsibhūto. asurā parājiniṃsūti asurā parājayaṃ pāpuṇiṃsu. kadā panete parājitāti? sakkassa nibbattakāle. sakko kira anantare attabhāve magadharaṭṭhe macalagāme magho nāma māṇavo ahosi, paṇḍito byatto, bodhisattacariyā viyassa cariyā ahosi. so tettiṃsa purise gahetvā kalyāṇamakāsi. ekadivasaṃ attanova paññāya upaparikkhitvā gāmamajjhe mahājanassa sannipatitaṭṭhāne kacavaraṃ ubhayato apabbahitvā taṃ ṭhānaṃ atiramaṇīyamakāsi, puna tattheva maṇḍapaṃ kāresi, puna gacchante kāle sālaṃ kāresi. gāmato ca nikkhamitvā gāvutampi aḍḍhayojanampi tigāvutampi yojanampi vicaritvā tehi sahāyehi saddhiṃ visamaṃ samaṃ akāsi. te sabbepi ekacchandā tattha tattha setuyuttaṭṭhānesu setuṃ, maṇḍapasālāpokkharaṇīmālāgaccharopanādīnaṃ yuttaṭṭhānesu maṇḍapādīni karontā bahuṃ puññamakaṃsu. magho satta vatapadāni pūretvā kāyassa bhedā saddhiṃ sahāyehi tāvatiṃsabhavane nibbatti.

Bây giờ, vua trời Sakka nói cùng Trưởng lão một trong những nguyên nhân của mình từng có trong quá khứ, đã nói rằng ‘chuyện này đã từng có trước đây’, v.v. Ở đó, samupabyūḷho: tiếp cận nhau, tập hợp lại thành một đội quân. Chúng Asura thất bại (asurā parājiniṃsu): chúng Asura đi đến sự thất bại. (hỏi) chúng Asura ấy đi đến sự thất bại vào lúc nào? (đáp) vào lúc vua trời xuất hiện. Được biết rằng vua trời là một thanh niên, là bậc trí giả, là vị tinh thông tên là Magha sống ở làng Acalagāma trong thành Magadha, những hành vi cử chỉ của vị ấy tương tự y như những hành vi cử chỉ của bậc Bồ tát. Thanh niên Magha đã dẫn ba mươi ba người tạo việc lành. Một ngày nọ vị ấy xem xét lại bằng trí tuệ của chính mình, rồi dọn sạch rác hai bên ở nơi đại chúng tự hội ở chính giữa làng đi đổ bỏ, đã làm cho chỗ đó trở nên dễ chịu, đã cho xây thêm hàng rào xung quanh nơi đó đó, thời gian trôi qua cũng cho xây thêm cốc liêu, vị ấy rời khỏi nhà đi du hành cũng các thân hữu ấy, sửa chữa những cho không bằng phẳng thành những nơi bằng phẳng, chừng một gāvuta, nữa do-tuần, ba gāvuta, một do-tuần, tất cả những người ấy đều có chung một ước muốn, khi xây dựng cầu đường ở những nơi cần xây dựng, chỗ nghỉ chân, những hồ nước, và trồng hoa, cây cối v.v, đã tạo rất nhiều việc phước báu. Thanh niên Magha đã thực hành bảy cấm giới (vatapada) khi chấm dứt thọ nghiệp vị ấy hóa sanh ở cõi trời Đao Lợi cùng với cùng với các bạn hữu.

tasmiṃ kāle asuragaṇā tāvatiṃsadevaloke paṭivasanti. sabbe te devānaṃ samānāyukā samānavaṇṇā ca honti, te sakkaṃ saparisaṃ disvā adhunā nibbattā navakadevaputtā āgatāti mahāpānaṃ sajjayiṃsu. sakko devaputtānaṃ saññaṃ adāsi — “amhehi kusalaṃ karontehi na parehi saddhiṃ sādhāraṇaṃ kataṃ, tumhe gaṇḍapānaṃ mā pivittha pītamattameva karothā”ti. te tathā akaṃsu. bālāsurā gaṇḍapānaṃ pivitvā mattā niddaṃ okkamiṃsu. sakko devānaṃ saññaṃ datvā te pādesu gāhāpetvā sinerupāde khipāpesi, sinerussa heṭṭhimatale asurabhavanaṃ nāma atthi, tāvatiṃsadevalokappamāṇameva. tattha asurā vasanti. tesampi cittapāṭali nāma rukkho atthi.

Vào lúc đó chúng Asura nhìn thấy vị vua trời Sakka cùng với hội chúng mới sanh lên mới nghĩ rằng những vị tân Thiên tử này mới đến mới sắp xếp chuẩn bị đại tiệc rượu để tiếp đãi, vua trời Sakka đã ra hiệu cho các thiên tử rằng – “chúng ta tạo phước, nhưng không được tạo phước chung với những người khác, các thiên tử không được uống rượu gaṇḍapāna, hãy uống nước mát mà thôi.” Những thiên tử đã thực hiện giống như thế đó, chúng Asura ngu ngốc cùng nhau uống rượu gaṇḍapāna rồi ngủ thiếp đi. Vua trời ra hiệu cho các Thiên tử túm lấy chân của chúng Asura ném xuống chân núi Suneru. Bởi vì cõi của chúng Asura có tồn tại, nằm dưới chân núi Suneru có kích thước bằng cõi trời Đao Lợi. Chúng Asura ở nơi đó có cây cối của họ được gọi là cittapāṭali (quốc hoa của thế giới Asura)

te tassa pupphanakāle jānanti — “nāyaṃ tāvatiṃsā, sakkena vañcitā mayan”ti. te gaṇhatha nanti vatvā sineruṃ pariharamānā deve vuṭṭhe vammikapādato vammikamakkhikā viya abhiruhiṃsu. tattha kālena devā jinanti, kālena asurā. yadā devānaṃ jayo hoti, asure yāva samuddapiṭṭhā anubandhanti. yadā asurānaṃ jayo hoti, deve yāva vedikapādā anubandhanti. tasmiṃ pana saṅgāme devānaṃ jayo ahosi, devā asure yāva samuddapiṭṭhā anubandhiṃsu. sakko asure palāpetvā pañcasu ṭhānesu ārakkhaṃ ṭhapesi. evaṃ ārakkhaṃ datvā vedikapāde vajirahatthā indapaṭimāyo ṭhapesi. asurā kālena kālaṃ uṭṭhahitvā tā paṭimāyo disvā, “sakko appamatto tiṭṭhatī”ti tatova nivattanti. tato paṭinivattitvāti vijitaṭṭhānato nivattitvā. paricārikāyoti mālāgandhādikammakārikāyo.

Chúng Asura ấy biết được trong vào lúc cây cittapāṭali nở hoa: “Loài hoa này không phải quốc hoa ở cõi trời Đao Lợi, chúng ta bị vua trời Sakka đánh lừa rồi.” Bọn họ nói rằng: “Các ông hãy nắm lấy chân của vua trời Sakka ấy, rồi bảo về hộ trì ngọn núi Suneru, khi trời mưa họ cùng nhau đi lên giống như những con mối bay ra từ gò mối. Trong trận chiến đó, đôi khi chư Thiên chiến thắng, thỉnh thoảng chúng Asura chiến thắng. Khi nào chư Thiên chiến thắng thì chư Thiên đuổi theo chúng Asura đến phía sau biển.” Khi nào chúng Asura chiến thắng thì bọn họ sẽ đuổi theo chư Thiên đến ngoài bức tường thành. Nhưng trong cuộc chiến ấy chư Thiên chiến thắng, các vị đuổi theo chúng Asura đến phía sau biển. Vua trời Sakka đã đuổi chúng Asura ra khỏi đã thiết lập việc bảo vệ chỗ thứ năm được bảo vệ như vậy, đã thiết lập tượng thiên vương tay cầm Kim Cang trượng đặt ở chân tường thành. Chúng Asura đứng lên lúc nào khi nhìn thấy bức tượng giống thiên vương đó, cùng nhau trở lại nơi đó đó với tưởng rằng: “Vị vua trời không xa lãng đứng (trông coi).” tato paṭinivattitvā (sau khi trở về từ chiến trận): Đã trở về từ chỗ chiến thắng ấy. Paricārikāyo (các thiên nữ hầu cận): Các thiên nữ bao gồm thiên nữ làm tất cả mọi phận sự chằng hạn như làm tràng hoa và hương thơm v.v.

393. vessavaṇo ca mahārājāti so kira sakkassa vallabho, balavavissāsiko, tasmā sakkena saddhiṃ agamāsi. purakkhatvāti purato katvā. pavisiṃsūti pavisitvā pana upaḍḍhapihitāni dvārāni katvā olokayamānā aṭṭhaṃsu. idampi, mārisa moggallāna, passa vejayantassa pāsādassa rāmaṇeyyakanti, mārisa moggallāna, idampi vejayantassa pāsādassa rāmaṇeyyakaṃ passa, suvaṇṇatthambhe passa, rajatatthambhe maṇitthambhe pavāḷatthambhe lohitaṅgatthambhe masāragallatthambhe muttatthambhe sattaratanatthambhe, tesaṃyeva suvaṇṇādimaye ghaṭake vāḷarūpakāni ca passāti evaṃ thambhapantiyo ādiṃ katvā rāmaṇeyyakaṃ dassento evamāha. yathā taṃ pubbekatapuññassāti yathā pubbe katapuññassa upabhogaṭṭhānena sobhitabbaṃ, evamevaṃ sobhatīti attho. atibāḷhaṃ kho ayaṃ yakkho pamatto viharatīti attano pāsāde nāṭakaparivārena sampattiyā vasena ativiya matto.

393 Vessavaṇo ca mahārājā (đại vương Vessavaṇa): Được biết rằng đại vương Vessavaṇa ấy được ưa thích hơn hết, là người rất quen thuộc của vua trời Sakka, vì thế đã đi đến cùng với vua trời Sakka. Purakkhatvā (thỉnh mời…dẫn trước): đã được đặt ở phía trước. Pavisiṃsū (đi vào): Thiên nữ người hầu cận vua trời Sakka đó đi vào phòng khép cửa hờ rồi đứng nhìn. Idampi, mārisa moggallāna, passa vejayantassa pāsādassa rāmaṇeyyakaṃ (Này quý nhân Moggallāna, xem điều khả ái này của lâu đài Vejayanta): Vua trời Sakka chỉ cho thấy lâu đài ấy tuyệt mỹ đáng nhìn từ những hàng cột trụ như sau: “”Kính thưa quý nhân Moggallāna, xin Ngài hãy nhìn nơi tuyệt mỹ của lâu đài Vejayanta này, hãy nhìn cột bằng vàng, cột bằng bạc, cột bằng ngọc ma-ni, cột bằng san hô, cột bằng hồng ngọc, cột bằng ngọc lưu ly, cột làm bằng cẩm thạch và cột làm bằng bảy ngọc, hãy nhìn những hình tượng thú dữ các họa tiết đã được hoàn thiện bằng vàng v.v, của những cột trụ đó” mới nói như vậy. Yathā taṃ pubbekatapuññassa (giống như người làm các công đức thời xưa): Nơi của hạng người, người có phước đức thực hiện thời trước có thể xinh đẹp với việc đặt các của cái tài sản như thế nào, của vua trời Sakka cũng được tuyệt đẹp như thế ấy tương tự. atibāḷhaṃ kho ayaṃ yakkho pamatto viharati (Dạ-xoa này sống phóng dật một cách quá đáng): vị này nhiễm đắm vô độ trong tòa lâu đài cùng với những thiên nữ nhảy múa, với tài sản, với danh vọng của bản thân.

iddhābhisaṅkhāraṃ abhisaṅkhāsīti iddhimakāsi. āpokasiṇaṃ samāpajjitvā pāsādapatiṭṭhitokāsaṃ udakaṃ hotūti iddhiṃ adhiṭṭhāya pāsādakaṇṇike pādaṅguṭṭhakena pahari. so pāsādo yathā nāma udakapiṭṭhe ṭhapitapattaṃ mukhavaṭṭiyaṃ aṅguliyā pahaṭaṃ aparāparaṃ kampati calati na santiṭṭhati. evamevaṃ saṃkampi sampakampi sampavedhi, thambhapiṭṭhasaṅghāṭakaṇṇikagopānasiādīni karakarāti saddaṃ muñcantāni patituṃ viya āraddhāni. tena vuttaṃ — “saṅkampesi sampakampesi sampavedhesī”ti. acchariyabbhutacittajātāti aho acchariyaṃ, aho abbhutanti evaṃ sañjātācchariyābbhutā ceva sañjātatuṭṭhino ca ahesuṃ uppannabalavasomanassā. saṃvigganti ubbiggaṃ. lomahaṭṭhajātanti jātalomahaṃsaṃ, kañcanabhittiyaṃ ṭhapitamaṇināgadantehi viya uddhaggehi lomehi ākiṇṇasarīranti attho. lomahaṃso ca nāmesa somanassenapi hoti domanassenapi, idha pana somanassena jāto. thero hi sakkassa somanassavegena saṃvejetuṃ taṃ pāṭihāriyamakāsi. tasmā somanassavegena saṃviggalomahaṭṭhaṃ viditvāti attho.

iddhābhisaṅkhāraṃ abhisaṅkhāsi (thể hiện thần thông): đã thể hiện thần thông. Giải thích rằng Trưởng lão Mahāmoggallāna nhập biến xứ nước rồi phát nguyện rằng: “Nguyên hư không làm nơi thiết lập riêng lâu đài hãy trở thành nước, rồi lấy đầu ngón chân cái nhấn xuống đỉnh chót tòa lâu đài.” Lâu đài đó nghiêng ngả rung chuyển qua lại giống như bình bát đặt trên bề mặt nước, lấy ngón tay gõ lên thành bát làm cho (bình bát) rung chuyển qua lại. không thể trụ vững được. Tất cả các bộ phận có nóc nhà, cột trụ, cây đà cong để đỡ sườn của mái nhà, sàn nhà v.v. đều phát ra tiếng động lớn, giống như đang bắt đầu rớt xuống. Do đó, Ngài nói “rung động, chuyển động, chấn động mạnh”. Acchariyabbhutacittajātā [có sự lạ thường, vi diệu (khiến) tâm (hoan hỷ) khởi lên]: có sự vi diệu chưa từng xảy ra như vầy: “Ồ, thất vi diệu thay, điều chưa từng có và có sự hoan hỷ, có sự vui mừng đang khởi lên.” saṃviggaṃ (đã rung động): giật mình lo sợ (tâm) rúng động. Lomahaṭṭhajātaṃ (lông tóc dựng đứng): lông tóc dựng đứng, có nghĩa là toàn thân nở ra với toàn bộ lông tóc dựng ngược lên, tương tự y như cái móc bằng ngọc ma-ni được treo trên vách tường. Hơn nữa, được gọi là lông tóc dựng ngược này khởi lên chính với sự vui mừng, chính với sự buồn bực. Nhưng trong trường hợp này khởi lên với sự vui mừng. Bởi vì Trưởng lão đã thể hiện thần thông khiến vua trời Sakka khởi lên sự hoảng sợ với sự xao động.

394. idhāhaṃ, mārisāti idānissa yasmā therena somanassasaṃvegaṃ janayitvā tamaṃ vinoditaṃ, tasmā sallakkhetvā evamāha. eso nu te, mārisa, so bhagavā satthāti, mārisa, tvaṃ kuhiṃ gatosīti vutte mayhaṃ satthu santikanti vadesi, imasmiṃ devaloke ekapādakena viya tiṭṭhasi, yaṃ tvaṃ evaṃ vadesi, eso nu te, mārisa, so bhagavā satthāti pucchiṃsu. sabrahmacārī me esoti ettha kiñcāpi thero anagāriyo abhinīhārasampanno aggasāvako, sakko agāriyo, maggabrahmacariyavasena panete sabrahmacārino honti, tasmā evamāha. aho nūna te so bhagavā satthāti sabrahmacārī tāva te evaṃmahiddhiko, so pana te bhagavā satthā aho nūna mahiddhikoti satthu iddhipāṭihāriyadassane jātābhilāpā hutvā evamāhaṃsu.

394 Idhāhaṃ, mārisa: Bây giờ, Trưởng lão đã làm cho vua trời Sakka khởi lên sự vui mừng và sự xao động, xua tan bóng tối, vì thế (có thể) nhớ lại được mới nói lên như vậy. Eso nu te, mārisa, so bhagavā satthā [Kính bạch Ngài (vua trời Đế Thích), Sa-môn ấy là đức Thế Tôn, bậc Đạo Sư?]: Khi Thiên nữ hỏi rằng: “Thưa Ngài người không có khổ, Ngài đi đâu? ” Vua trời Sakka đáp rằng: “Ta đi đến trú xứ của bậc Đạo Sư của Ta.” Ngài đã nói như vậy, giống như nơi đó được đặt chung bề mặt với thế giới chư Thiên này. Hỏi thêm nữa: “Bạch Ngài, vị không có khổ, Sa-môn ấy là đức Thế Tôn, bậc Đạo Sư của Ngài phải chăng?” Sabrahmacārī me eso (vị ấy là đồng phạm hạnh với ta): Trưởng lão là bậc xuất gia, là người đạt đến sự thành tựu với nguyện vọng (abhinīhāra), là vị Thinh văn hàng đầu, nhưng mà vua trời Sakka là vị gia chủ, mặc dầu vậy nhưng cả hai vị cũng là bạn đồng Phạm hạnh nhờ oai lực của đạo lộ Phạm hạnh, vì thế vua trời Sakka mới nói như vậy. aho nūna te so bhagavā satthā (đức Thế Tôn, bậc Đạo Sư của Ngài có nhiều thần lực): Bạn đồng Phạm hạnh của Ngài có nhiều thần lực đến như vậy, các Thiên nữ đã nói đến việc sanh khởi trong việc nhìn thấy thể hiện thần thông của bậc Đạo Sư mới nói rằng: “Trưởng lão ấy là đức Thế Tôn, bậc Đạo Sư của Ngài (có thế) có nhiều thần lực chắc chắn.

395. ñātaññatarassāti paññātaññatarassa, sakko hi paññātānaṃ aññataro. sesaṃ sabbattha pākaṭameva, desanaṃ pana bhagavā yathānusandhināva niṭṭhāpesīti.

Ñātaññatarassa (bất cứ người nào): bất cứ người nào xuất hiện. Quả thật, toàn bộ người xuất hiện có danh tiếng, vua trời Sakka là một người. Toàn bộ những từ còn lại đã hiền bày rõ. Đức Thế Tôn kết thúc thời Pháp thoại theo sự liên kết.

Giải Thích Tiểu Kinh Đoạn Tận Tham Ái Kết Thúc