Kinh số 36 – Giải Thích Đại Kinh Saccaka
(Mahāsaccakasuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Đại Kinh Saccaka
364. evaṃ me sutanti mahāsaccakasuttaṃ. tattha ekaṃ samayanti ca tena kho pana samayenāti ca pubbaṇhasamayanti ca tīhi padehi ekova samayo vutto. bhikkhūnañhi vattapaṭipattiṃ P.2.284 katvā mukhaṃ dhovitvā pattacīvaramādāya cetiyaṃ vanditvā kataraṃ gāmaṃ pavisissāmāti vitakkamāḷake ṭhitakālo nāma hoti. bhagavā evarūpe samaye rattadupaṭṭaṃ nivāsetvā kāyabandhanaṃ bandhitvā paṃsukūlacīvaraṃ ekaṃsaṃ pārupitvā gandhakuṭito nikkhamma bhikkhusaṅghaparivuto gandhakuṭipamukhe aṭṭhāsi. taṃ sandhāya, — “ekaṃ samayanti ca tena kho pana samayenāti ca pubbaṇhasamayan”ti ca vuttaṃ. pavisitukāmoti piṇḍāya pavisissāmīti evaṃ katasanniṭṭhāno. tenupasaṅkamīti kasmā upasaṅkamīti? vādāropanajjhāsayena.
364 Đại Kinh Saccaka được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, với 3 câu sau: Một thời (ekaṃ samayaṃ), vào thời gian đó (tena kho pana samayena), vào buổi sáng (pubbaṇhasamayaṃ) ngài nói rằng là cùng một thời điểm. Thời gian chư Tăng thực hành các bổn phận, rửa mặt, ôm bình bát và đắp y, đảnh lễ bảo tháp, đứng dưới mái che suy nghĩ rằng: “ta sẽ đi đến làng nào”. Vào lúc như thế đức Thế Tôn dùng tấm vải đỏ 2 lớp quấn quanh eo, đắp y phấn tảo bên vai trái nên mới nói rằng: “ekaṃ samayanti ca tena kho pana samayenāti ca pubbaṇhasamayaṃ.” pavisitukāmo (có ý muốn đi vào): điều quyết định đã được thực hiện như sau “ta sẽ đi vào làng khất thực”. tenupasaṅkami (đã đi vào Kūṭārasālā rừng Đại Lâm), (hỏi) Saccaka Nigaṇṭhaputta vào rừng để làm gì? (đáp) theo ý định để tranh luận.
evaṃ kirassa ahosi — “pubbepāhaṃ apaṇḍitatāya sakalaṃ vesāliparisaṃ gahetvā samaṇassa gotamassa santikaṃ gantvā parisamajjhe maṅku jāto. idāni tathā akatvā ekakova gantvā vādaṃ āropessāmi. yadi samaṇaṃ gotamaṃ parājetuṃ sakkhissāmi, attano laddhiṃ dīpetvā jayaṃ karissāmi. yadi samaṇassa gotamassa jayo bhavissati, andhakāre naccaṃ viya na koci jānissatī”ti niddāpañhaṃ nāma gahetvā iminā vādajjhāsayena upasaṅkami.
Được biết rằng Nigaṇṭha đã khởi lên suy nghĩ như sau: “trước đây tôi do không phải là bậc trí mới đưa cả hội chúng Vesāli đến trú xứ của Sa-môn Gotama, mới trở thành người bị lúng túng giữa hội chúng, nhưng bây giờ, tôi sẽ không làm như vậy (mà) tôi sẽ đi một mình để tranh luận, nếu tôi có thể làm cho Sa-môn Gotama thất bại, sẽ trình bày học thuyết của mình rồi tuyên bố sự chiến thắng; nếu Sa-môn Gotama chiến thắng thì chẳng ai biết (ta thất bại) giống như nhảy múa trong bóng tối”, mới đưa ra vấn đề người lõa lồ đi kiếm với ý định luận chiến.
anukampaṃ upādāyāti saccakassa nigaṇṭhaputtassa anukampaṃ paṭicca. therassa kirassa evaṃ ahosi — “bhagavati muhuttaṃ nisinne buddhadassanaṃ dhammassavanañca labhissati. tadassa dīgharattaṃ hitāya sukhāya saṃvattissatī”ti. tasmā bhagavantaṃ yācitvā paṃsukūlacīvaraṃ catugguṇaṃ paññapetvā nisīdatu bhagavāti āha. “kāraṇaṃ ānando vadatī”ti sallakkhetvā nisīdi bhagavā paññatte āsane. bhagavantaṃ etadavocāti yaṃ pana pañhaṃ ovaṭṭikasāraṃ katvā ādāya āgato taṃ ṭhapetvā passena tāva pariharanto etaṃ santi, bho gotamātiādivacanaṃ avoca.
Vì lòng bi mẫn (anukampaṃ upādāya): bởi vì lòng bi mẫn đối với Saccaka Nigaṇṭhaputta. Được biết rằng Trưởng lão có suy nghĩ như vầy: Khi đức Thế Tôn tĩnh tọa một lúc, vị ấy sẽ đến gặp đức Phật và sẽ được lắng nghe Giáo Pháp, việc đến gặp đức Phật và lắng nghe Giáo Pháp sẽ vận hành đưa đến sự lợi ích, sự an lạc lâu dài cho vị ấy, vì thế Trưởng lão đã nói lời thỉnh mời đức Thế Tôn gắp y phấn tảo thành bốn lớp rồi trải ra mới nói rằng: “Xin đức Thế Tôn hãy ngồi xuống, đức Thế Tôn hiểu rõ rằng: “Ānanda đã nói lý do, mới ngồi lên chỗ ngồi đã được chuẩn bị sẵn cúng dường.” bhagavantaṃ etadavoca (đã đáp lời đức Thế Tôn): Nigaṇṭha đặt cốt lõi vấn đề, giữ lấy, để sang một bên, đã nói như sau: “Tôn giả Gotama, một số Sa-môn, Bà-la-môn…”
365. phusanti hi te, bho gotamāti te samaṇabrāhmaṇā sarīre uppannaṃ sārīrikaṃ dukkhaṃ vedanaṃ phusanti labhanti, anubhavantīti attho. ūrukkhambhoti khambhakataūrubhāvo, ūruthaddhatāti V.2.182 attho. vimhayatthavasena panettha bhavissatīti anāgatavacanaṃ kataṃ. kāyanvayaṃ hotīti kāyānugataṃ M.2.186 hoti kāyassa vasavatti. kāyabhāvanāti P.2.285 pana vipassanā vuccati, tāya cittavikkhepaṃ pāpuṇanto nāma natthi, iti nigaṇṭho asantaṃ abhūtaṃ yaṃ natthi, tadevāha. cittabhāvanātipi samatho vuccati, samādhiyuttassa ca puggalassa ūrukkhambhādayo nāma natthi, iti nigaṇṭho idaṃ abhūtameva āha. aṭṭhakathāyaṃ pana vuttaṃ — “yatheva ‘bhūtapubbanti vatvā ūrukkhambhopi nāma bhavissatī’tiādīni vadato anāgatarūpaṃ na sameti, tathā atthopi na sameti, asantaṃ abhūtaṃ yaṃ natthi, taṃ kathetī”ti.
365 Thưa Ngài Gotama…cảm nghiệm khổ thọ (phusanti hi te, bho gotama): Sa-môn, Bà-la-môn ấy xúc chạm, có được, lãnh chiu khổ thọ khởi lên nơi thân. Ūrukkhambho: chân bị tê liệt. Tức là chân bị tê cứng (không thể di chuyển), ở đây với ý định cho khởi lên sự sửng sốt, vì thế mới trở thành từ (ở thì) vị lại ‘sẽ trở thành’. kāyanvayaṃ hoti (liên hệ đến thân): Tâm diễn biến theo thân, vận hành theo sức mạnh của thân. Minh sát gọi là tu tập thân, hành giả đạt đến sự phóng dật cả thân và tâm hẳn không có, giống như điều mà Nigaṇṭha ấy nói điều không có, không thành. Chỉ tịnh gọi là tu tập tâm, sự tê cứng chân v.v, gắn liền với chỉ tịnh cũng không có, vì thế Nigaṇṭha cũng nói lời không đúng sự thật tương tự. Còn trong Sớ giải ngài đã nói rằng khi người nói vậy ‘câu chuyên đã từng xảy ra’, rồi nói lời bắt đầu như sau ‘được xem là sự gây cản trở cũng có’ (là lời nói ở thì vị lai) sẽ không phù hợp với lời ở thì vị lai bằng cách nào, ý nghĩa cũng không phù hợp bằng cách ấy, như Nigaṇṭḥaputta đã nói những điều không có, không trở thành.”
no kāyabhāvananti pañcātapatappanādiṃ attakilamathānuyogaṃ sandhāyāha. ayañhi tesaṃ kāyabhāvanā nāma. kiṃ pana so disvā evamāha? so kira divādivassa vihāraṃ āgacchati, tasmiṃ kho pana samaye bhikkhū pattacīvaraṃ paṭisāmetvā attano attano rattiṭṭhānadivāṭṭhānesu paṭisallānaṃ upagacchanti. so te paṭisallīne disvā cittabhāvanāmattaṃ ete anuyuñjanti, kāyabhāvanā panetesaṃ natthīti maññamāno evamāha.
No kāyabhāvanaṃ (không phối hợp với tu tập thân): vị ấy nói ám chỉ đến việc hành khổ bản thân, có việc thực hành bằng năm sự nỗ lực, đây gọi là tu tập thân của những vị Sa-môn, Bà-la-môn ấy. (hỏi) Nigaṇṭha ấy nhìn thấy điều gì mới nói như vậy? (đáp) Nigaṇṭha đến chỗ nghỉ trưa, vào lúc đó chư Tỳ khưu dọn dẹp bình bát và y phục, đi vào chỗ ẩn cư ở chỗ nghỉ ban đêm và ban ngày của chính mình, vị ấy nhìn thấy chư Tỳ khưu ấy đi về chỗ ẩn mới nghĩ rằng: “Các vị Tỳ khưu ấy chỉ siêng năng tu tập tâm, còn tu tập về thân không có cùng các vị Tỳ khưu đó, nên đã nói như thế.”
366. atha naṃ bhagavā anuyuñjanto kinti pana te, aggivessana, kāyabhāvanā sutāti āha. so taṃ vitthārento seyyathidaṃ, nando vacchotiādimāha. tattha nandoti tassa nāmaṃ. vacchoti gottaṃ. kisoti nāmaṃ. saṃkiccoti gottaṃ. makkhaligosālo heṭṭhā āgatova. eteti ete tayo janā, te kira kiliṭṭhatapānaṃ matthakapattā ahesuṃ. uḷārāni uḷārānīti paṇītāni paṇītāni. gāhenti nāmāti balaṃ gaṇhāpenti nāma. brūhentīti vaḍḍhenti. medentīti jātamedaṃ karonti. purimaṃ pahāyāti purimaṃ dukkarakāraṃ pahāya.
Sau đó, đức Thế Tôn khi trở lại hỏi Nigaṇṭha ấy mới hỏi rằng: “Này Aggivessana, Ông đã nghe tu tập về thân như thế nào?” Nigaṇṭha ấy khi nói về tu tập thân cho được chi tiết, mới đáp lời rằng là Ngài Nanda người Vaccha. Ở đó, Nando là tên gọi của vị ây, Vaccho là họ tộc. Kiso là tên. Saṃkicco là họ tộc. Ngài Makkhali Gosāla đã được nói ở phần trước. Ete gồm 3 người ấy. Kể rằng những vị ấy đã đạt đến sự tận cùng của việc thực hành khổ hạnh bất tịnh. Uḷārāni là thọ dụng vật thực thượng hạng. gāhenti nāma: xem là làm cho cơ thể khỏe mạnh. brūhenti là cho thân to lớn. Medenti: làm cho thân béo mập. purimaṃ pahāya: đã từ bỏ thực hành sự khổ hạnh ban đầu.
pacchā upacinantīti pacchā uḷārakhādanīyādīhi santappenti, vaḍḍhenti. ācayāpacayo hotīti vaḍḍhi ca avaḍḍhi ca hoti, iti imassa kāyassa kālena vaḍḍhi, kālena parihānīti vaḍḍhiparihānimattameva paññāyati, kāyabhāvanā pana na paññāyatīti dīpetvā cittabhāvanaṃ pucchanto, “kinti pana te, aggivessana, cittabhāvanā sutā”ti āha. na sampāyāsīti sampādetvā kathetuṃ nāsakkhi, yathā taṃ bālaputhujjano.
pacchā upacinanti: về sau họ lại thọ dụng no nê, cho mang lên vật thực nên ăn nhai loài thượng hạng v.v. ācayāpacayo hoti (có cả sự phát triển và sự suy sụp) là có cả sự tăng trưởng và sự suy sụp, hiện hữu đơn thuần sự phát triển và sự hư hoại, thân này có sự phát triển theo thời gian có sự hư hoại theo thời gian như đã nói. Đức Thế Tôn khi thuyết rằng “tu tập thân không hiện hữu”; khi hỏi đến tu tập về tâm mới hỏi rằng: “Này Aggivessana, Ông đã nghe tu tập về tâm như thế nào?” Na sampāyāsi (không thể đáp lời): không thể trả lời được giống như phạm nhân ngu ngốc.
367. kuto pana tvanti yo tvaṃ evaṃ oḷārikaṃ dubbalaṃ kāyabhāvanaṃ na jānāsi? so V.2.183 tvaṃ kuto saṇhaṃ sukhumaṃ cittabhāvanaṃ jānissasīti. imasmiṃ pana ṭhāne codanālayatthero, “abuddhavacanaṃ nāmetaṃ padan”ti bījaniṃ ṭhapetvā pakkamituṃ ārabhi. atha naṃ mahāsīvatthero āha — “dissati, bhikkhave, imassa cātumahābhūtikassa kāyassa ācayopi apacayopi ādānampi nikkhepanampī”ti (saṃ. ni. 2.62). taṃ sutvā sallakkhesi — “oḷārikaṃ kāyaṃ pariggaṇhantassa uppannavipassanā oḷārikāti vattuṃ vaṭṭatī”ti.
367 Kuto pana tvaṃ (như thế nào Ngài biết tâm được tu tập): Vị nào không biết sự phát triển của cái thân yếu ớt và những phần thô ráp như thế này, vị ấy làm sao biết được sự phát triển của tâm vi tế và tinh vi được từ đâu? Ở chỗ này Trưởng lão Codanālaya nghĩ rằng: “Lời đó không phải là Phật ngôn” đã đặt xuống cây quạt rồi bỏ đi. Sau đó, Trưởng lão Mahāsīva ấy nói rằng: “Này chư Tỳ khưu sự phát triển, sự hư hoại, sự tục sanh, sự tử của sắc thân đó là bốn sắc đại hiển này sẽ hiện hữu”, Trưởng lão nghe lời đó xác định được rằng nên nói như sau “khi xác định sắc thân thành phần thô, minh sát khởi lên cũng là phần thô.”
368. sukhasārāgīti sukhasārāgena samannāgato. sukhāya vedanāya nirodhā uppajjati dukkhā vedanāti na anantarāva uppajjati, sukhadukkhānañhi anantarapaccayatā paṭṭhāne (paṭṭhā. 1.2.45-46) paṭisiddhā. yasmā pana sukhe aniruddhe dukkhaṃ nuppajjati, tasmā idha evaṃ vuttaṃ. pariyādāya tiṭṭhatīti khepetvā gaṇhitvā tiṭṭhati. ubhatopakkhanti sukhaṃ ekaṃ pakkhaṃ dukkhaṃ ekaṃ pakkhanti evaṃ ubhatopakkhaṃ hutvā.
368 Sukhasārāgī (có sự thỏa thích trong lạc thọ): có sự thành tựu với sự thỏa thích trong sự an lạc. sukhāya vedanāya nirodhā uppajjati dukkhā vedanā (bởi lạc thọ diệt, khỏ thọ mới sanh khởi) là sanh khởi liên tiếp nhau, đã được hoàn thành trong bộ Paṭṭhāna (paṭṭhā. 1.2.45-46) bởi vì khổ thọ ấy là vô gián duyên cho lạc và khổ, nhưng do khi lạc thọ vẫn chưa diệt thì khổ thọ cũng không sanh, vì vậy ngài mới nói ở chỗ này. pariyādāya tiṭṭhati (chi phối tâm, an trú): đã làm thọ cạn kiệt, đã nắm giữ lấy rồi an trú. Ubhatopakkhaṃ (cả hai phía): cả hai bên như vậy là thọ lạc một bên, khổ thọ một bên.
369. uppannāpi sukhā vedanā cittaṃ na pariyādāya tiṭṭhati, bhāvitattā kāyassa. uppannāpi dukkhā vedanā cittaṃ na pariyādāya tiṭṭhati, bhāvitattā cittassāti ettha kāyabhāvanā vipassanā, cittabhāvanā samādhi. vipassanā ca sukhassa paccanīkā, dukkhassa āsannā. samādhi dukkhassa paccanīko, sukhassa āsanno. kathaṃ? vipassanaṃ paṭṭhapetvā nisinnassa hi addhāne gacchante gacchante tattha tattha aggiuṭṭhānaṃ viya hoti, kacchehi sedā muccanti, matthakato usumavaṭṭiuṭṭhānaṃ viya hotīti cittaṃ haññati vihaññati vipphandati. evaṃ tāva vipassanā sukhassa paccanīkā, dukkhassa āsannā. uppanne pana kāyike vā cetasike vā dukkhe taṃ dukkhaṃ vikkhambhetvā samāpattiṃ samāpannassa samāpattikkhaṇe dukkhaṃ dūrāpagataṃ hoti, anappakaṃ sukhaṃ okkamati. evaṃ samādhi dukkhassa paccanīko, sukhassa āsanno. yathā vipassanā sukhassa paccanīkā, dukkhassa āsannā, na tathā samādhi. yathā samādhi dukkhassa paccanīko, sukhassa āsanno, na ca tathā vipassanāti. tena vuttaṃ — “uppannāpi sukhā P.2.287 vedanā cittaṃ na pariyādāya tiṭṭhati, bhāvitattā kāyassa. uppannāpi dukkhā vedanā cittaṃ na pariyādāya tiṭṭhati, bhāvitattā cittassā”ti.
Lý giải câu “ngay cả lạc thọ đã khởi lên nơi ta, cũng không thể chi phối tâm an trú, do thân được tu tập, thậm chí khổ thọ đã khởi lên cũng không chi phối tâm an trú,do tâm được tu tập” như sau: tu tập về thân là minh sát, tu tập về thân là chỉ tịnh, minh sát là kẻ thù nghịch của lạc, gần gũi với khổ. Chỉ tịnh là kẻ thù của khổ, gần gũi với lạc. Như thế nào? Khi hành giả bắt đầu thực hành minh sát khi một thời gian dài trôi qua, tâm của vị ấy trở nên khó chịu, vùng vẫy, hiển hữu như một ngọn lửa bùng cháy ở nơi đó, mồ hôi chảy ra từ nách giống như một vòng xoáy hơi nóng bốc lên trên đỉnh đầu, chỉ vì lý do này, (cho nên) minh sát được xem là kẻ thù của lạc, gần gũi với khổ. Khi đau khổ đã khởi lên qua lộ thân hoặc lộ tâm, đau khổ ở sát-na định sự thể nhập của hành giả người chế ngự khổ đó để thể nhập thiền định, viễn ly, sự an lạc không phải ít chìm sâu vào. Do đó, chỉ tịnh được xem là kẻ thù của khổ đau, gần gũi lạc. Minh sát là kẻ thù của lạc, gần gũi với đau khổ như thế nào, chỉ tịnh không phải như thế; Chỉ tịnh là kẻ thù của đau khổ, gần gũi với lạc như thế nào, minh sát không phải như thế. Vì thế đức Thế Tôn mới nói rằng: “Ngay cả lạc thọ đã sanh khởi nơi vị ấy, cũng không chi phối tâm, an trú được, do thân đã được tu tập; thậm chí khổ thọ đã khởi lên cũng không chi phối, an trú được do tâm đa được tu tập.”
370. āsajja upanīyāti guṇe ghaṭṭetvā ceva upanetvā ca. taṃ vata meti taṃ vata mama cittaṃ.
āsajja upanīya (trịch thượng và khiêu khích): đã xúc phạm và đã chạm đến phẩm hạnh tốt đẹp. taṃ vata me: quả thật tâm của tôi đó.
371. kiñhi no siyā, aggivessanāti, aggivessana, kiṃ na bhavissati, bhavissateva, mā evaṃ saññī hohi, uppajjiyeva me sukhāpi dukkhāpi vedanā, uppannāya panassā ahaṃ cittaṃ pariyādāya ṭhātuṃ na demi. idānissa tamatthaṃ pakāsetuṃ upari pasādāvahaṃ dhammadesanaṃ desetukāmo mūlato paṭṭhāya mahābhinikkhamanaṃ ārabhi. tattha idha me, aggivessana, pubbeva sambodhā … pe … tattheva nisīdiṃ, alamidaṃ padhānāyāti idaṃ sabbaṃ heṭṭhā pāsarāsisutte vuttanayeneva veditabbaṃ. ayaṃ pana viseso, tattha bodhipallaṅke nisajjā, idha dukkarakārikā.
371 kiñhi no siyā, aggivessana (này aggivessana, tại sao cả 2 thọ ấy không có ở nơi ta?): này aggivessana điều gì sẽ không có, điều gì sẽ có, Ngài đừng suy tưởng như vậy. Dù lạc thọ, hay khổ thọ sanh khởi nơi ta, nhưng khi chúng đã khởi lên rồi, ta sẽ không để chúng chi phối tâm. Bây giờ đức Thế Tôn có mong muốn thuyết giảng Giáo Pháp là nơi khởi nguồn của lòng tịnh tín cao cả, để tuyên bố ý nghĩa ấy cùng Nigaṇṭha đó, thuyết về việc ra sức thực hiện cuộc ra đi vĩ đại từ lúc bắt đầu trong câu rằng: “Này Aggivessana, trên đời này, trước khi ta giác ngộ…Ta đã ngồi tại chỗ ấy với suy nghĩ chỗ này thích hợp cho việc thực hành sự tinh tấn…” toàn bộ điều này nên biết theo cách thức đã được trình bày trong bài Kinh Pāsarāsi trước đó. Còn sự khác biệt có như này, trong bài Kinh Pāsarāsi đã nói đến thời gian ngồi ở dưới cội đại thọ Bồ đề, trong bài Kinh Mahāsaccaka này nói đến việc thực hành khổ hạnh ở Uruvelā.
374. allakaṭṭhanti allaṃ udumbarakaṭṭhaṃ. sasnehanti sakhīraṃ. kāmehīti vatthukāmehi. avūpakaṭṭhāti anapagatā. kāmacchandotiādīsu kilesakāmova chandakaraṇavasena chando. sinehakaraṇavasena sneho. mucchākaraṇavasena mucchā. pipāsākaraṇavasena pipāsā. anudahanavasena pariḷāhoti veditabbo. opakkamikāti upakkamanibbattā. ñāṇāya dassanāya anuttarāya sambodhāyāti sabbaṃ lokuttaramaggavevacanameva.
Allakaṭṭhaṃ là cây sung tươi. Sasnehaṃ: có mủ giống như sữa. kāmehi là từ vật dục. Avūpakaṭṭhā: vẫn không thoát khỏi. Phiền não dục trong từ ‘kāmachando (sự ước muốn về dục)’ nên biết rằng tính chất sự ước muốn do mãnh lực làm cho hài lòng. Tính chất sự quyến luyến với mãnh lực làm cho trói chặt. Tính chất sự say mê với mãnh lực làm cho mê đấm. Tính chất sự khát vọng với mãnh lực làm cho sự ham muốn mạnh mẽ. Tính chất nhiệt não với mãnh lực việc thiêu đốt. opakkamika là sanh khởi do sự nhiệt tâm. ñāṇāya dassanāya anuttarāya sambodhāyā (bằng trí, bằng sự nhận thức và việc giác ngộ vô thượng): tất cả đều đồng nghĩa với Đạo Siêu thế.
idaṃ panettha opammasaṃsandanaṃ — allaṃ sakhīraṃ udumbarakaṭṭhaṃ viya hi kilesakāmena vatthukāmato anissaṭapuggalā. udake pakkhittabhāvo viya kilesakāmena tintatā; manthanenāpi aggino anabhinibbattanaṃ viya kilesakāmena vatthukāmato anissaṭānaṃ opakkamikāhi vedanāhi lokuttaramaggassa anadhigamo. amanthanenāpi aggino anabhinibbattanaṃ viya tesaṃ puggalānaṃ vināpi opakkamikāhi vedanāhi lokuttaramaggassa anadhigamo. dutiyaupamāpi imināva nayena veditabbā. ayaṃ pana viseso, purimā saputtabhariyapabbajjāya upamā; pacchimā brāhmaṇadhammikapabbajjāya.
Có ví dụ so sánh trong câu này như sau – hạng người vẫn còn phiền não dục, vẫn chưa thoát khỏi từ các vật dục giống như cây sung tươi còn nhựa, ướt đẫm với phiền não dục như cây ngâm trong nước; Việc không chứng đạt được Siêu thế Đạo với những cảm thọ khởi lên nhờ sự tinh tấn của hạng người có phiền não dục, vẫn chưa thoát khỏi vật dục cũng tương tự như hai thanh gỗ (ướt, đầy nhựa) cọ xát thì cũng không tạo ra được ngọn lửa. Việc không chứng đắc Đạo Siêu thế của hạng người ấy, loại trừ cảm thọ khởi lên nhờ sự tinh tấn tương tự như hai thanh gỗ không cọ xát không thể tạo ra lửa. Cả hai ví dụ nên biết theo cách thức này, còn sự khác biệt như sau: câu đầu ví như việc xuất gia cùng với người con trai và người vợ. Câu sau là ví dụ về việc xuất gia của một Bà-la-môn đúng pháp (gìn giữ Phạm hạnh).
376. tatiyaupamāya M.2.189 P.2.288 koḷāpanti chinnasinehaṃ nirāpaṃ. thale nikkhittanti pabbatathale vā bhūmithale vā nikkhittaṃ. etthāpi idaṃ opammasaṃsandanaṃ — sukkhakoḷāpakaṭṭhaṃ viya hi kilesakāmena vatthukāmato nissaṭapuggalā, ārakā udakā thale nikkhittabhāvo viya kilesakāmena V.2.185 atintatā. manthanenāpi aggino abhinibbattanaṃ viya kilesakāmena vatthukāmato nissaṭānaṃ abbhokāsikanesajjikādivasena opakkamikāhipi vedanāhi lokuttaramaggassa adhigamo. aññassa rukkhassa sukkhasākhāya saddhiṃ ghaṃsanamatteneva aggino abhinibbattanaṃ viya vināpi opakkamikāhi vedanāhi sukhāyeva paṭipadāya lokuttaramaggassa adhigamoti. ayaṃ upamā bhagavatā attano atthāya āhaṭā.
376 Trong ví dụ thứ 3, koḷāpaṃ (không có nhựa): những thứ không có có nhựa. thale nikkhittaṃ (đặt ở trên đất): họ đặt ở trên núi hay trên mặt đất. Ví dụ so sánh ở câu này như sau: hạng người có phiền não dục nhưng đã thoát khỏi các vật dục, tương tự như khúc cây khô hoàn toàn, không ướt đẫm bởi phiền não dục tương tự như khúc cây học đặt trên mặt đất, xa khỏi nước. Việc chứng đắc Đạo Siêu thế với cảm thọ dẫu sanh khởi nhờ vào sự tinh tấn, chẳng hạn như việc ngồi (hành thiền) ở ngoài trời và ngồi xuyên suốt không nằm của hạng người có phiền não dục nhưng thoát khỏi vật dục hai thanh củi khô cọ xát (có thể) tạo ra lửa. Việc chứng đắc Đạo Siêu thế nhờ đạo lộ thực hành bởi lạc thọ loại bỏ cảm thọ khởi lên do sự tinh tấn giống như việc tạo ra lửa bằng những nhánh cây khô khác. Đức Thế Tôn đưa ra ví dụ vì lợi ích cho chính bản thân Ngài.
377. idāni attano dukkarakārikaṃ dassento, tassa mayhantiādimāha. kiṃ pana bhagavā dukkaraṃ akatvā buddho bhavituṃ na samatthoti? katvāpi akatvāpi samatthova. atha kasmā akāsīti? sadevakassa lokassa attano parakkamaṃ dassessāmi. so ca maṃ vīriyanimmathanaguṇo hāsessatīti. pāsāde nisinnoyeva hi paveṇiāgataṃ rajjaṃ labhitvāpi khattiyo na tathāpamudito hoti, yathā balakāyaṃ gahetvā saṅgāme dve tayo sampahāre datvā amittamathanaṃ katvā pattarajjo. evaṃ pattarajjassa hi rajjasiriṃ anubhavantassa parisaṃ oloketvā attano parakkamaṃ anussaritvā, “asukaṭṭhāne asukakammaṃ katvā asukañca asukañca amittaṃ evaṃ vijjhitvā evaṃ paharitvā imaṃ rajjasiriṃ pattosmī”ti cintayato balavasomanassaṃ uppajjati. evamevaṃ bhagavāpi sadevakassa lokassa parakkamaṃ dassessāmi, so hi maṃ parakkamo ativiya hāsessati, somanassaṃ uppādessatīti dukkaramakāsi.
377 Bây giờ để thuyết giảng về khổ hạnh của Ngài, Ngài đã nói rằng “Ta đó, đã khởi lên suy nghĩ”. (hỏi) Đức Thế Tôn đã không còn thực hành khổ hạnh nữa thì không thể trở thành Phật sao? (đáp) dầu thực hành đi hay không thực hành đi chăng nữa thì Ngài cũng có thể trở thành Phật. (hỏi) Nếu vậy thì Ngài thực hành để làm gì? (đáp) Ta sẽ chỉ ra sự tinh tấn của bản thân cho thế giới nhân loại cùng với thế giới chư Thiên, và sự áp bức bởi sự tinh tấn đó (có thể) sẽ làm cho ta hoan hỷ được. Quả thật, vua Sát-đế-lị ngồi trên lâu đài. Mặc dù vị ấy được thừa kế ngai vàng theo truyền thống vua chúa thì vị ấy cũng không hài lòng, (vì) ngai vàng đã dẫn theo đội quân hùng mạnh để giết địch 2-3 lần ở chiến trương, sau khi tiêu diệt quân địch trở về. Niềm vui mãnh liệt phát sanh cho người đã được thọ hưởng sự vinh quang của vua chúa đã đạt được như thế, quan sát đội quân, suy tư đến sự nổ lực của bản thân, nghĩ rằng: “ta đã làm việc đó ở nơi đó, đâm (quân thù) như thế này, giết (kẻ địch) như thế này, kẻ thù chỗ nọ và chỗ kia, mới có được sự vinh hiển của vua chúa”, niềm vui ngay lập tức khởi lên như thế nào; Cả đức Thế Tôn cũng như thế đó, Ngài nghĩ rằng: “Ta sẽ thể hiện sự tinh tấn cho thế giới loài người cùng với cả thế giới chư Thiên, sự tinh tấn ấy sẽ làm cho ta hoan hỷ, khỏi lên niềm hân hoan tột bậc, mới thực hành khổ hạnh.
apica pacchimaṃ janataṃ anukampamānopi akāsiyeva, pacchimā hi janatā sammāsambuddho kappasatasahassādhikāni cattāri asaṅkhyeyyāni pāramiyo pūretvāpi padhānaṃ padahitvāva sabbaññutaññāṇaṃ patto, kimaṅgaṃ pana mayanti padhānavīriyaṃ kattabbaṃ maññissati; evaṃ sante khippameva jātijarāmaraṇassa antaṃ karissatīti pacchimaṃ janataṃ anukampamāno akāsiyeva.
Hơn nữa, Ngài thực hành khổ cũng vì lòng bi mẫn tiếp độ cho hàng hậu sanh, bởi vì hàng hậu sanh sẽ cho rằng sự tinh tấn cần phải thực hành như sau: “Đức Chánh Đẳng Chánh Giác đã thực hành ba-la-mặt suốt 4 a-tăng-kỳ và trăm ngàn kiếp để thiết lập sự tinh tấn, đắc được Toàn giác trí, còn nói gì nữa đến chúng tôi” như thế Đức Thế Tôn suy nghĩ rằng: Người dân sẽ thực hiện đến tận cùng của sự sanh, sự già và sự chết nhanh chóng. Cho nên, vì lòng bi mẫn cho hàng hậu sanh, nên đã hành mọi khổ hạnh.
dantebhi-dantamādhāyāti P.2.289 heṭṭhādante uparidantaṃ ṭhapetvā. cetasā cittanti kusalacittena akusalacittaṃ. abhiniggaṇheyyanti niggaṇheyyaṃ. abhinippīḷeyyanti M.2.190 nippīḷeyyaṃ. abhisantāpeyyanti tāpetvā vīriyanimmathanaṃ kareyyaṃ. sāraddhoti sadaratho. padhānābhitunnassāti padhānena abhitunnassa, viddhassa satoti attho.
Dantebhi-dantamādhāya: nghiến chặt hàm răng trên với hàm răng dưới. cetasā cittaṃ: chế ngự tâm bất thiện với tâm thiện. Abhiniggaṇheyyaṃ: cần phải nhiếp phục. Abhinippīḷeyyaṃ: cần phải siết chặt. Abhisantāpeyya: có thể sau khi làm cho nóng đốt rồi tiêu hủy bằng sự tinh tấn. Sāraddho là thân bị khích động. Padhānābhitunnassa: có niệm đã bị đâm thủng, chi phối bởi sự tinh tấn do tinh tấn chống lại khổ thọ ấy.
378. appāṇakanti V.2.186 nirassāsakaṃ. kammāragaggariyāti kammārassa gaggaranāḷiyā. sīsavedanā hontīti kutoci nikkhamituṃ alabhamānehi vātehi samuṭṭhāpitā balavatiyo sīsavedanā honti. sīsaveṭhaṃ dadeyyāti sīsaveṭhanaṃ dadeyya. devatāti bodhisattassa caṅkamanakoṭiyaṃ paṇṇasālapariveṇasāmantā ca adhivatthā devatā.
Appāṇakaṃ là không có hơi thở. Kammāragaggariyā (trong ống thổi của người thợ rèn): ống thổi của người thợ rèn. sīsavedanā honti (cảm giác đau đầu): cảm thọ (đau nhức) sanh ra từ đầu dữ dội bởi gió (độc) không thoát ra bất cứ đâu. Sīsaveṭhaṃ dadeyya: có thể xiết chặt đầu. Devatā: chư Thiên cư ngụ ở cuối đường đi kinh hành của Bồ-tát, và gần chỗ ngôi nhà lá.
tadā kira bodhisattassa adhimatte kāyadāhe uppanne mucchā udapādi. so caṅkameva nisinno hutvā papati. taṃ disvā devatā evamāhaṃsu — “vihārotveva so arahato”ti, “arahanto nāma evarūpā honti matakasadisā”ti laddhiyā vadanti. tattha yā devatā “kālaṅkato”ti āhaṃsu, tā gantvā suddhodanamahārājassa ārocesuṃ — “tumhākaṃ putto kālaṅkato”ti. mama putto buddho hutvā kālaṅkato, no ahutvāti? buddho bhavituṃ nāsakkhi, padhānabhūmiyaṃyeva patitvā kālaṅkatoti. nāhaṃ saddahāmi, mama puttassa bodhiṃ apatvā kālaṅkiriyā nāma natthīti.
Được biết rằng vào lúc đó khi sự nóng đốt ở trong cơ thể vượt ngoài (sức chịu đựng) của đức Bồ-tát sanh khởi, mất niệm, ngài đã ngồi gục xuống tại chỗ đi kinh hành. Sau khi vị Thiên nhân nhìn thấy Bồ-tát ấy đã nói rằng: “Đức Bồ-tát đã hết tuổi thọ, vị Thiên nhân ấy đến trình báo với đức vua Suddhodana, vị hoàng tử của Ngài đã băng hà”. đức vua Suddhodana nói rằng: “Con trai của trẫm (sẽ) bằng hà sau khi trở thành bậc Chánh Đẳng Chánh Giác, (sẽ) không bằng hà khi chưa trở thành bậc Chánh Đẳng Chánh Giác.” Vị Thiên: vị ấy không thể trở thành Phật, vị ấy đã ngã xuống trên mặt đất nơi mà vị ấy đang thực hành sự tinh tấn, đã chấm dứt tuổi thọ rồi. Đức vua: Trẫm không tin, việc chấm dứt tuổi thọ ấy sẽ không có đối với con trai của ta bởi vì con ta vẫn chưa giác ngộ Toàn giác trí.
aparabhāge sammāsambuddhassa dhammacakkaṃ pavattetvā anupubbena rājagahaṃ gantvā kapilavatthuṃ anuppattassa suddhodanamahārājā pattaṃ gahetvā pāsādaṃ āropetvā yāgukhajjakaṃ datvā antarābhattasamaye etamatthaṃ ārocesi — tumhākaṃ bhagavā padhānakaraṇakāle devatā āgantvā, “putto te, mahārāja, kālaṅkato”ti āhaṃsūti. kiṃ saddahasi mahārājāti? na bhagavā saddahinti. idāni, mahārāja, supinappaṭiggahaṇato paṭṭhāya acchariyāni passanto kiṃ saddahissasi? ahampi buddho jāto, tvampi buddhapitā jāto, pubbe pana mayhaṃ aparipakke ñāṇe bodhicariyaṃ carantassa dhammapālakumārakālepi sippaṃ uggahetuṃ gatassa, “tumhākaṃ putto dhammapālakumāro kālaṅkato, idamassa aṭṭhī”ti P.2.290 eḷakaṭṭhiṃ āharitvā dassesuṃ, tadāpi tumhe, “mama puttassa antarāmaraṇaṃ nāma natthi, nāhaṃ saddahāmī”ti avocuttha, mahārājāti imissā aṭṭhuppattiyā bhagavā mahādhammapālajātakaṃ kathesi.
Sau đó, khi bậc Chánh Đẳng Chánh Giác vận chuyển bánh xe Pháp, Ngài đi đến thành Rājagahaṃ theo tuần tự, Ngài đã đến thành kapilavatthu đức vua Suddhodana tiếp nhận bình bát và dẫn lên cung điện, cúng dường cháo và những thức ăn mềm để nói về chuyện đó, thời gian giữa bữa ăn, bạch đức Thế Tôn vào lúc ngài thực hành sự tinh tấn vị thiên đến nói rằng: “Tâu bệ hạ, hoàng tử con trai của Bệ hạ đã chết.” Đức Thế Tôn nói rằng: “Này Đại vương, Ngài tin hay chăng?” Đức vua: Bạch đức Thế Tôn, Trẫm không tin. Đức Thế Tôn: Này Đại vương, bây giờ Ngài nhìn thấy điều phi thương kể từ thời điểm nhận được lời giải mộng về những giấc mơ (của Ngài), nhìn thấy những điều kỳ diệu, Ngài tin điều gì?” Ta đã trở thành bậc giác ngộ, Ngài cũng trở thành cha của bậc giác ngộ. Hơn nữa, trước đây khi trí tuệ của ta chưa chín muồi, thực hành cho sự giác ngộ, ngay cả khi là hoàng tử Dhammapāla khi (vị ấy) đi học những kỹ năng. Người dân mang xương dê rừng đến và nói: “Hoàng tử Dhammapāla của ông đã từ trần, đây là xương của vị ấy – Ngay lúc đó Đại vương nói: ‘Thậm chí ở thời điểm đó Ngài đã nói rằng ‘con trai của ta không yểu thọ, tôi không tin. Đức Thế Tôn đã thuyết trong Bổn Sanh Mahādhammapāla bởi vì sự xuất hiện của câu chuyện này.”
379. mā M.2.191 kho tvaṃ mārisāti sampiyāyamānā āhaṃsu. devatānaṃ kirāyaṃ piyamanāpavohāro, yadidaṃ mārisāti. ajajjitanti abhojanaṃ. halanti vadāmīti alanti vadāmi, alaṃ iminā evaṃ mā karittha, yāpessāmahanti evaṃ paṭisedhemīti attho.
379 Mā kho tvaṃ mārisa (bạch Ngài chớ có hoàn toàn tuyệt thực): Chư Thiên yêu thích đến vấn an. Được biết rằng đây là sự diễn đạt sự đáng yêu đáng mến của chư Thiên. Ajajjitaṃ là không phải thọ dụng vật thực. Halanti vadāmi là tôi đã nói rằng ‘đủ rồi’. Giải thích rằng ta khước từ điều này rằng: ngài đừng làm điều này với câu này, ta sẽ làm cho tự ngã được duy trì được.
380-1. maṅguracchavīti V.2.187 maṅguramacchacchavi. etāva paramanti tāsampi vedanānametaṃyeva paramaṃ, uttamaṃ pamāṇaṃ. pitu sakkassa kammante … pe … paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharitāti rañño kira vappamaṅgaladivaso nāma hoti, tadā anekappakāraṃ khādanīyaṃ bhojanīyaṃ paṭiyādenti. nagaravīthiyo sodhāpetvā puṇṇaghaṭe ṭhapāpetvā dhajapaṭākādayo ussāpetvā sakalanagaraṃ devavimānaṃ viya alaṅkaronti. sabbe dāsakammakarādayo ahatavatthanivatthā gandhamālādipaṭimaṇḍitā rājakule sannipatanti. rañño kammante naṅgalasatasahassaṃ yojīyati. tasmiṃ pana divase ekena ūnaṃ aṭṭhasataṃ yojenti. sabbanaṅgalāni saddhiṃ balibaddarasmiyottehi jāṇussoṇissa ratho viya rajataparikkhittāni honti. rañño ālambananaṅgalaṃ rattasuvaṇṇaparikkhittaṃ hoti. balibaddānaṃ siṅgānipi rasmipatodāpi suvaṇṇaparikkhittā honti. rājā mahāparivārena nikkhamanto puttaṃ gahetvā agamāsi.
Maṅguracchavī là có làn da bị đốm nhỏ. Etāva paramaṃ: đó là ước chừng cao thượng, là sự cao thượng của các cảm thọ ấy. “Trong khi phụ thân Ta, thuộc dòng Sakka đang cày và Ta đang ngồi dưới bóng mát cây Jambu mát mẻ, Ta viễn ly các dục, viễn ly pháp bất thiện chứng và trú Thiền thứ nhất có tầm có tứ, có hỷ và lạc do sự ly dục sanh”: Được biết rằng, ngày hôm đó được xem là ngày lễ hạ điền của vua chúa, trong lúc đó, mọi người sắp xếp nhiều loại thức ăn loại cứng và loại mềm, rửa đường xá trong thành sạch sẽ, đặt các bình nước đầy nước, tụ họp lại với nhau trong dòng dõi Hoàng gia, dương cao cờ vải v.v, trang hoàng khắp thành phố giống như cung điện chư Thiên, những người nô lệ và người lao động đều được mặc quần áo mới, được trang điểm bằng hương thơm và tràng hoa v.v, hợp mặt lại với nhau trong gia đình vua chúa, trong buổi lễ hoàng tộc cùng với một nghìn cái cày. Nhưng trong ngày đó, vua cho cày 800 cái, tất cả các lưỡi cày, cùng với sợi dây thừng được buộc vào của những con bò tơ bọc bạc. như cỗ xe của Bà-la-môn Jānussoṇi. Cái cày của vua nắm giữ được phủ vàng chói lọi, sừng của con bò tơ, dây thừng và cây giáo đều được dát vàng. Đức vua khởi hành với đám đông tùy tùng, dẫn hoàng tử đi cùng.
kammantaṭṭhāne eko jamburukkho bahalapattapalāso sandacchāyo ahosi. tassa heṭṭhā kumārassa sayanaṃ paññapetvā upari suvaṇṇatārakakhacitaṃ vitānaṃ bandhāpetvā sāṇipākārena parikkhipāpetvā ārakkhaṃ ṭhapetvā rājā sabbālaṅkāraṃ alaṅkaritvā amaccagaṇaparivuto naṅgalakaraṇaṭṭhānaṃ agamāsi. tattha rājā suvaṇṇanaṅgalaṃ gaṇhāti. amaccā ekenūnāṭṭhasatarajatanaṅgalāni gahetvā ito cito ca kasanti. rājā pana orato pāraṃ gacchati, pārato vā oraṃ gacchati. etasmiṃ ṭhāne mahāsampatti hoti, bodhisattaṃ parivāretvā nisinnā dhātiyo rañño sampattiṃ passissāmāti antosāṇito bahi nikkhantā. bodhisatto P.2.291 ito cito ca olokento kañci adisvā vegena uṭṭhāya pallaṅkaṃ ābhujitvā ānāpāne pariggahetvā paṭhamajjhānaṃ nibbattesi.
Trong buổi lễ hạ điền của hoàng tộc có cây Jambu lá dày, có bóng mát, đức vua ra lệnh cho trải chỗ nằm dành cho hoàng tử ở dưới bóng cây Jambu ấy, phía trên trần nhà được trang trí bằng những ngôi sao vàng, được bao quanh bởi một bức màn che để bảo vệ trang trí với các đồ trang sức, xung quanh bởi các quân lính cận thần, đi đến buổi lễ hạ điền. Ở đó, đức vua cầm lấy lưỡi cày vàng, 800 lưỡi cày bạc thì các quan đại thần mỗi người cầm một cái, và những người nông dân cầm những lưỡi cày còn lại, họ vác cày đi cày chỗ này, chỗ kia. Còn đức vua đi từ bên này sang bên kia, hoặc từ bên đó sang bên này. Đây là sự thành tựu to lớn. Các nữ tỳ hầu hạ ngồi xung quanh Bồ-tát và nghĩ rằng: “Chúng ta sẽ thấy sự thành tựu của đức vua, nên đã dắt nhau ra khỏi bức màn che.” Bồ-tát nhìn chỗ này chỗ nọ không thấy ai bèn vội đứng dậy, ngồi thiền, quan sát hơi thở vào và hơi thở ra, chứng đạt Sơ thiền.
dhātiyo khajjabhojjantare vicaramānā thokaṃ cirāyiṃsu, sesarukkhānaṃ M.2.192 chāyā nivattā, tassa pana rukkhassa parimaṇḍalā hutvā aṭṭhāsi. dhātiyo ayyaputto ekakoti vegena sāṇiṃ ukkhipitvā anto pavisamānā bodhisattaṃ sayane pallaṅkena nisinnaṃ tañca pāṭihāriyaṃ disvā gantvā rañño ārocayiṃsu — “kumāro deva, evaṃ nisinno aññesaṃ rukkhānaṃ chāyā nivattā, jamburukkhassa parimaṇḍalā ṭhitā”ti. rājā vegenāgantvā pāṭihāriyaṃ disvā, “idaṃ te, tāta, dutiyaṃ vandanan”ti puttaṃ vandi. idametaṃ sandhāya vuttaṃ — “pitu sakkassa kammante … pe … paṭhamajjhānaṃ upasampajja viharitā”ti. siyā nu kho eso maggo bodhāyāti bhaveyya nu kho etaṃ ānāpānassatipaṭhamajjhānaṃ bujjhanatthāya maggoti. satānusāri-viññāṇanti V.2.188 nayidaṃ bodhāya maggo bhavissati, ānāpānassatipaṭhamajjhānaṃ pana bhavissatīti evaṃ ekaṃ dve vāre uppannasatiyā anantaraṃ uppannaviññāṇaṃ satānusāriviññāṇaṃ nāma. yaṃ taṃ sukhanti yaṃ taṃ ānāpānassatipaṭhamajjhānasukhaṃ.
Các tỳ nữ mê chơi ở giữa ngự thiện phòng đi hơi trễ, bóng cây khác nghiêng theo ánh mặt trời, nhưng bóng cây Jambu vẫn đứng vẫn tạo thành một vòng tròn. Các tỳ nữ nghĩ rằng: hoàng tử chỉ ở một mình, vội vén bức màn bước vào trong nhìn thấy Bồ-tát tĩnh tọa ngồi thiền ở tại chỗ nằm, nhìn thấy điều kỳ diệu này liền đến tâu với đức vua: “Muôn tâu bệ hạ, hoàng tử ngồi như thế, bóng của các cây khác nghiên theo ánh mặt trời, nhưng bóng của cây Jambu tạo vòng tròn (che nắng cho hoàng tử).” Đức vua nhanh chóng đến nhìn thấy điều kỳ diệu liền đảnh lễ hoàng tử với kim ngôn như sau: “đây là lần thứ hai ta đảnh lễ con.” “Trong khi phụ thân Ta, thuộc dòng Sakka đang cày và Ta đang ngồi dưới bóng mát cây Jambu mát mẻ, Ta viễn ly các dục, viễn ly pháp bất thiện chứng và trú Thiền thứ nhất có tầm có tứ, có hỷ và lạc do sự ly dục sanh” Ngài muốn đề cập đến lời này. Siyā nu kho eso maggo bodhāya (Đạo lộ này có thể là đạo lộ đưa đến giác ngộ chăng?): Tùy niệm hơi thở (đưa đến) sơ thiền này có thể là đạo lộ đưa đến lợi ích giác ngộ chăng? Sự biết rõ bằng sự ghi nhớ bởi niệm (satānusāriviññāṇaṃ): thức khởi lên theo tuần tự của niệm khởi lên 1-2 lần như vầy rằng: “Làm những điều khó làm này, sẽ không là đạo lộ để đưa đến sự giác ngộ, nhưng tùy niệm hơi thở (đưa đến) sơ thiền sẽ thành tựu chắc chắn gọi là satānusāriviññāṇaṃ. yaṃ taṃ sukhaṃ (lạc thọ này): sự an lạc trong tùy niệm hơi thở (đưa đến) sơ thiền.
382. paccupaṭṭhitā hontīti paṇṇasālapariveṇasammajjanādivattakaraṇena upaṭṭhitā honti. bāhullikoti paccayabāhulliko. āvatto bāhullāyāti rasagiddho hutvā paṇītapiṇḍapātādīnaṃ atthāya āvatto. nibbijja pakkamiṃsūti ukkaṇṭhitvā dhammaniyāmeneva pakkantā bodhisattassa sambodhiṃ pattakāle kāyavivekassa okāsadānatthaṃ dhammatāya gatā. gacchantā ca aññaṭṭhānaṃ agantvā bārāṇasimeva agamaṃsu. bodhisatto tesu gatesu addhamāsaṃ kāyavivekaṃ labhitvā bodhimaṇḍe aparājitapallaṅke nisīditvā sabbaññutaññāṇaṃ paṭivijjhi.
paccupaṭṭhitā honti: nghĩa là được chăm sóc bằng việc thực hiện các phận sự như quét dọn xung quanh thảo am v.v. bāhulliko: mong muốn nhiều trong các món vật dụng. āvatto bāhullāya: đã trở thành người thèm khát mùi vị, quay trở lại (đời sống sung túc) để được món ăn thượng vị v.v. nibbijja pakkamiṃsu: nhóm năm vị ẩn sĩ không thích đã rời khỏi chính quy luật vận hành của Pháp. Giải thích rằng diễn ra theo tự nhiên nhằm tạo cơ hội cho đức Bồ-tát có được sự viễn ly về thân vào thời điểm chứng đắc Toàn giác trí và khi di cũng không đi chỗ khác mà đi đến thành Bārāṇasī. Khi nhóm năm vị ẩn sĩ rời đi, Bồ-tát có được sự viễn ly về thân suốt nửa tháng, ngài đã ngồi trên bồ đoàn bất khả chiến bại ở dưới cội Bồ-đề đã thấu triệt Trí toàn giác.
383. vivicceva kāmehītiādi bhayabherave vuttanayeneva veditabbaṃ.
383 Viễn ly các dục (vivicceva kāmehi) nên biết theo phương thức đã được nói trong bài kinh Khiếp Đảm và Sợ Hãi.
387. abhijānāmi kho panāhanti ayaṃ pāṭiyekko anusandhi. nigaṇṭho kira cintesi — “ahaṃ samaṇaṃ gotamaṃ ekaṃ pañhaṃ pucchiṃ. samaṇo gotamo ‘aparāpi maṃ, aggivessana, aparāpi maṃ, aggivessanā’ti pariyosānaṃ adassento kathetiyeva. kupito nu kho”ti? atha bhagavā, aggivessana P.2.292, tathāgate anekasatāya parisāya dhammaṃ desente kupito M.2.193 samaṇo gotamoti ekopi vattā natthi, paresaṃ bodhanatthāya paṭivijjhanatthāya eva tathāgato dhammaṃ desetīti dassento imaṃ dhammadesanaṃ ārabhi. tattha ārabbhāti sandhāya.
Abhijānāmi kho panāhaṃ (Ta nhớ được rằng): đây lại là một sự liên kết nữa. Được biết rằng Nigaṇṭho khởi lên suy nghĩ – “Tôi chỉ hỏi Sa-môn Gotama một vấn đề. Sa-môn Gotama đáp: ‘Này Aggivessana, vẫn còn chư Thiên khác đến hỏi Ta; Này Aggivessana, vẫn còn chư Thiên khác đến hỏi Ta’, khi không nhìn thấy tận cùng đã nói như vầy Ngài còn có sự giận dữ nữa không? Sau đó, đức Thế Tôn thuyết rằng “Aggivessana, khi Như Lai thuyết giảng Giáo Pháp trong hội chúng hàng trăm, ngay cả một người nói rằng: “Sa-môn Gotama giận dữ (điều này) không có”. Hơn nữa, Như Lai thuyết giảng Giáo Pháp cho những người khác “chỉ vì mục đích đưa đến sự giác ngộ, chỉ vì mục đích thấu triệt” mới bắt đầu Pháp thoại này. Ārabbha: ám chỉ đến.
yāvadevāti payojanavidhi paricchedaniyamanaṃ. idaṃ vuttaṃ hoti — paresaṃ viññāpanameva tathāgatassa dhammadesanāya payojanaṃ, tasmā na ekasseva deseti, yattakā viññātāro atthi, sabbesaṃ desetīti. tasmiṃyeva purimasminti iminā kiṃ dassetīti? saccako kira cintesi — “samaṇo gotamo abhirūpo pāsādiko suphusitaṃ dantāvaraṇaṃ, jivhā mudukā, madhuraṃ vākkaraṇaṃ, parisaṃ rañjento maññe vicarati, anto panassa cittekaggatā natthī”ti. atha bhagavā, aggivessana, na tathāgato parisaṃ rañjento vicarati, cakkavāḷapariyantāyapi parisāya tathāgato dhammaṃ deseti, asallīno anupalitto ettakaṃ ekavihārī, suññataphalasamāpattiṃ anuyuttoti dassetuṃ evamāha.
Yāvadeva: định rõ ranh giới của lộ trình sử dụng. Giải thích rằng để người khác biết rõ được điều ấy, phối hợp với sự thuyết giảng Giáo Pháp của Như Lai, vì thế Như Lai không chỉ thuyết giảng Giáo Pháp cho một người mà thuyết giảng Giáo Pháp cho người hiểu biết, thuyết giảng cho tất cả (người có khả năng nhận thức). Đức Thế Tôn diễn đạt câu này “tasmiṃyeva purimasmiṃ (làm cho định tĩnh trên định tướng thứ nhất ấy)” như thế nào? Được biết rằng Saccaka nghỉ rằng – “Sa-môn Gotama có sắc tướng xinh đẹp, đáng kính, hàm răng đều đặn, lưỡi mềm mại, lời nói truyền đạt êm dịu, có lẽ Ngài đi du hành làm cho hội chúng được hài lòng, còn định tâm của Sa-môn ấy không có.” Khi đó đức Thế Tôn, mới nói như vậy để trình bày: “Này Aggivessana, Như Lai đi du hành làm cho hội chúng hoan hỷ, Như Lai thuyết giảng Giáo Pháp cho hội chúng khắp vũ trụ thế giới, có tâm không chán nản, không bị vấy bẩn, độc cư sống một mình, sự thể nhập quả vị vô tướng chừng ấy.
ajjhattamevāti V.2.189 gocarajjhattameva. sannisādemīti sannisīdāpemi, tathāgato hi yasmiṃ khaṇe parisā sādhukāraṃ deti, tasmiṃ khaṇe pubbābhogena paricchinditvā phalasamāpattiṃ samāpajjati, sādhukārasaddassa nigghose avicchinneyeva samāpattito vuṭṭhāya ṭhitaṭṭhānato paṭṭhāya dhammaṃ deseti, buddhānañhi bhavaṅgaparivāso lahuko hotīti assāsavāre passāsavāre samāpattiṃ samāpajjanti. yena sudaṃ niccakappanti yena suññena phalasamādhinā niccakālaṃ viharāmi, tasmiṃ samādhinimitte cittaṃ saṇṭhapemi samādahāmīti dasseti.
Ajjhattaṃ: chỉ đối tượng bên trong mà thôi. Sannisādemi: làm cho tâm an tịnh. Thật vậy, vào lúc nào hội chứng tán thành thì lúc đó Như Lai xác định phần hạ, rồi thể nhập thiền quả, khi những âm thành vang rền bởi những lời tán thành không đứt quãng, xuất khỏi sự thể nhập thiền quả để thuyết giảng Giáo Pháp kể từ khi ngài thiết lập, với việc sống trong tâm hộ kiếp của chư Phật vận hành một cách nhanh chóng để thể nhập thiền quả trong lúc hơi thở vào, trong lúc hơi thở vào. yena sudaṃ niccakappaṃ (trường cửu, vĩnh viễn): Ta sống với sự thể nhập thiền quả vô tướng liên tục, chỉ ra rằng ‘ta duy tâm vững chắc trong định tướng đó.’
okappaniyametanti saddahaniyametaṃ. evaṃ bhagavato ekaggacittataṃ sampaṭicchitvā idāni attano ovaṭṭikasāraṃ katvā ānītapañhaṃ pucchanto abhijānāti kho pana bhavaṃ gotamo divā supitāti āha. yathā hi sunakho nāma asambhinnakhīrapakkapāyasaṃ sappinā yojetvā udarapūraṃ bhojitopi gūthaṃ disvā akhāditvā gantuṃ na sakkā, akhādamāno P.2.293 ghāyitvāpi gacchati, aghāyitvāva gatassa kirassa sīsaṃ rujjati; evamevaṃ imassapi satthā asambhinnakhīrapakkapāyasasadisaṃ abhinikkhamanato paṭṭhāya yāva āsavakkhayā pasādanīyaṃ dhammadesanaṃ deseti. etassa pana evarūpaṃ dhammadesanaṃ M.2.194 sutvā satthari pasādamattampi na uppannaṃ, tasmā ovaṭṭikasāraṃ katvā ānītapañhaṃ apucchitvā gantuṃ asakkonto evamāha. tattha yasmā thinamiddhaṃ sabbakhīṇāsavānaṃ arahattamaggeneva pahīyati, kāyadaratho pana upādinnakepi hoti anupādinnakepi. tathā hi kamaluppalādīni ekasmiṃ kāle vikasanti, ekasmiṃ makulāni honti, sāyaṃ kesañci rukkhānampi pattāni patilīyanti, pāto vipphārikāni honti. evaṃ upādinnakassa kāyassa darathoyeva darathavasena bhavaṅgasotañca idha niddāti adhippetaṃ, taṃ khīṇāsavānampi hoti. taṃ sandhāya, “abhijānāmahan”tiādimāha. sammohavihārasmiṃ vadantīti sammohavihāroti vadanti.
Điều này đáng tin (okappaniyametaṃ): lời đó là chỗ thiết lập của niềm tin. Saccaka đó chấp nhận đức Thế Tôn là người có định tâm. Bây giờ, khi hỏi vấn đề mà chính vị ấy đem đến là điểm cốt yếu mà bản thân đã che giấu mới nói “Nhưng đức Thế Tôn nhớ được chăng, ngài đã ngủ vào ban ngày phải không? (abhijānāti kho pana bhavaṃ gotamo divā supitā)”, giống như loài chó dù con người cho ăn cơm được nấu với sữa đến đầy bụng đi chăng nữa, nhưng khi nhìn thấy phân cũng không thể cưỡng lại, không ăn, ăn không được cũng đến ngửi trước khi đi. Được biết rằng khi nó không được ngửi mùi trước khi đi, nó sẽ bị đau đầu như thế nào; cũng như thế đó bậc Đạo Sư thuyết giảng Giáo Pháp là nơi thiết lập của đức tin, bắt đầu kể từ khi thực hiện cuộc ra đi vĩ đại cho đến khi dứt trừ tất cả lậu, điều đó tương tự giống như cơm được nấu hoàn toàn với sữa, Saccaka đó đã nghe Pháp thoại bằng hình thức như vậy, ngay cả chút ít lòng tịnh tín nơi bậc Đạo Sư cũng không thể sanh khởi, vì thế khi vị ấy không hỏi vấn đề mà bản thân mang đến là điểm cốt yếu mà chính vị ấy che giấu, cũng không thể rời đi, nên mới nói như vậy. Ở đó tất cả bậc lậu tận đã dứt bỏ hôn trầm và thụy miên bằng A-ra-hán Đạo. Sự khó chịu về thân có cả trong sắc thủ và sắc phi thủ. Thật vậy đó, hoa sen hé nở vào một thời điểm, búp nở vào một thời điểm, vào buổi tối một số loài hoa khép lại, vào buổi sáng chúng lại nở ra, chính sắc thủ đã gây ra sự lo lắng, dòng chảy hộ kiếp diễn ra theo sự lo lắng, Ngài muốn nói đến sự ngủ ở chỗ này. Dòng chảy hộ kiếp có cùng bậc lậu tận, muốn đề cập đến sự ngủ ấy, mới nói lời rằng “Ta nhớ (abhijānāmahaṃ)”. Khiển trách…đây gọi là an trú với sự si ám (sammohavihārasmiṃ vadanti) đồng nghĩa với sammohavihāroti vadanti.
389. āsajja āsajjāti ghaṭṭetvā ghaṭṭetvā. upanītehīti upanetvā kathitehi. vacanappathehīti vacanehi. abhinanditvā anumoditvāti alanti cittena sampaṭicchanto abhinanditvā vācāyapi pasaṃsanto anumoditvā. bhagavatā imassa nigaṇṭhassa dve suttāni kathitāni. purimasuttaṃ eko bhāṇavāro, idaṃ diyaḍḍho, iti aḍḍhatiye bhāṇavāre sutvāpi ayaṃ nigaṇṭho neva abhisamayaṃ patto, na pabbajito, na saraṇesu patiṭṭhito. kasmā etassa bhagavā V.2.190 dhammaṃ desesīti? anāgate vāsanatthāya. passati hi bhagavā, “imassa idāni upanissayo natthi, mayhaṃ pana parinibbānato samadhikānaṃ dvinnaṃ vassasatānaṃ accayena tambapaṇṇidīpe sāsanaṃ patiṭṭhahissati. tatrāyaṃ kulaghare nibbattitvā sampatte kāle pabbajitvā tīṇi piṭakāni uggahetvā vipassanaṃ vaḍḍhetvā saha paṭisambhidāhi arahattaṃ patvā kāḷabuddharakkhito nāma mahākhīṇāsavo bhavissatī”ti. idaṃ disvā anāgate vāsanatthāya dhammaṃ desesi.
Āsajja āsajja là chế nhạo, mỉa mai. Upanītehi: mà bản thân mang đến để nói. Vacanappathehi: bằng lời nói. Abhinanditvā anumoditvā: đã thích thú, đã tùy hỷ tán thán bằng lời nói. Đức Thế Tôn đã thuyết hai bài Kinh này cùng Nigaṇṭha này. Bài Kinh đầu tiên có một tụng phẩm, bài kinh này có nửa tụng phẩm, vẫn không đạt đến sự lãnh hội, không xuất gia, không được vững trú trong sự bảo hộ. Vì sao? Đức Thế Tôn lại thuyết Pháp cho vị ấy nữa? Vì lợi ích gieo duyên lành trong thời vị lai. Bởi đức Thế Tôn nhìn thấy rằng: “Bây giờ, nhân duyên của Nigaṇṭha này vẫn chưa có, nhưng khi Ta tịch diệt Niết bàn được 200 năm, Tôn giáo sẽ được đặt trên hòn đảo Tambapaṇṇi, Nigaṇṭha sẽ sanh ra trong gia đình danh giá ở hòn đảo Tambapaṇṇi, đã xuất gia vào thời điểm thích hợp, học tập Tam Tạng, thực hành minh sát, chúng đắc A-ra-hán cùng với tứ tuệ phân tích, trở thành bậc lậu tận gọi là kāḷabuddharakkhita. Đức Thế Tôn đã thấy được nguyên nhân đó mới thuyết giảng Giáo Pháp để gieo duyên lành trong thời vị lai.
sopi tattheva tambapaṇṇidīpamhi sāsane patiṭṭhite devalokato cavitvā dakkhiṇagirivihārassa bhikkhācāragāme ekasmiṃ amaccakule nibbatto pabbajjāsamatthayobbane pabbajitvā tepiṭakaṃ buddhavacanaṃ uggahetvā gaṇaṃ pariharanto P.2.294 mahābhikkhusaṅghaparivuto upajjhāyaṃ passituṃ agamāsi. athassa upajjhāyo saddhivihārikaṃ codessāmīti tepiṭakaṃ buddhavacanaṃ uggahetvā āgatena tena saddhiṃ mukhaṃ datvā kathāmattampi na akāsi.
Khi Tôn giáo được đặt ở hòn đảo Tambapaṇṇi, Saccaka ấy luân chuyển từ thế giới chư Thiên hạ sanh vào gia đình danh giá của một quan đại thần. Trong ngôi dành cho việc đi khất thực của tịnh xá Dakkhiṇagi, xuất gia vào lúc còn trẻ có thể xuất gia được học tập Tam Tạng là Phật ngôn, giữ vững đức hạnh, có được nhiều vị Tỳ khưu vây quanh, để đến thăm thầy tế độ. Sau đó, thầy tế độ của vị ấy nghĩ rằng “Ta sẽ phản đối vị đệ tử, mới nhíu mày với vị Tỳ khưu vị học tập Phật ngôn Tam Tạng, không nhích môi nói dầu chỉ một lời.
so paccūsasamaye vuṭṭhāya therassa santikaṃ gantvā, — “tumhe, bhante, mayi ganthakammaṃ katvā tumhākaṃ santikaṃ āgate mukhaṃ datvā kathāmattampi na M.2.195 karittha, ko mayhaṃ doso”ti pucchi. thero āha — “tvaṃ, āvuso, buddharakkhita ettakeneva ‘pabbajjākiccaṃ me matthakaṃ pattan’ti saññaṃ karosī”ti. kiṃ karomi, bhanteti? gaṇaṃ vinodetvā tvaṃ papañcaṃ chinditvā cetiyapabbatavihāraṃ gantvā samaṇadhammaṃ karohīti. so upajjhāyassa ovāde ṭhatvā saha paṭisambhidāhi arahattaṃ patvā puññavā rājapūjito hutvā mahābhikkhusaṅghaparivāro cetiyapabbatavihāre vasi.
Vị Tỳ khưu ấy đứng dậy vào lúc gần sáng đi đến trú xứ của Trưởng lão. (hỏi) Kính bạch Ngài, khi tôi đi học kinh điển, trở về tìm Ngài, vì sao? Ngài lại nhíu mày, không nói một lời nào, tôi có làm điều gì sai trái chăng?” Trưởng lão nói rằng: “Này hiền giả, Buddharakkhita, hiền giả nghĩ rằng ‘phận sự xuất gia của ta đạt đến tận cùng chỉ bằng việc học tập chừng ấy sao?’Ngài Buddharakkhita nói rằng: “Tôi phải làm sao thưa Ngài?” Trưởng lão nói rằng: “Hiền giả hãy làm cho tiêu tan, cắt đứt pháp làm cho trì trệ đi đến bảo điện Pabbatavihāra, thực hành Sa-môn Pháp.” Vào thời gian ấy, Ngài đã đặt lời giáo huấn của thầy tế độ thực hiện như thế, do đó đã chứng đạt A-ra-hán cùng với tứ tuệ phân tích, là vị có phước báu, đức vua cung kính, có được nhiều Tỳ khưu làm tùy tùng cư trú trong bảo điện Pabbatavihāra.
tasmiñhi kāle tissamahārājā uposathakammaṃ karonto cetiyapabbate rājaleṇe vasati. so therassa upaṭṭhākabhikkhuno saññaṃ adāsi — “yadā mayhaṃ ayyo pañhaṃ vissajjeti, dhammaṃ vā katheti, tadā me saññaṃ dadeyyāthā”ti. theropi ekasmiṃ dhammassavanadivase bhikkhusaṅghaparivāro kaṇṭakacetiyaṅgaṇaṃ āruyha cetiyaṃ vanditvā kāḷatimbarurukkhamūle aṭṭhāsi. atha naṃ eko piṇḍapātikatthero kāḷakārāmasuttante pañhaṃ pucchi. thero nanu, āvuso, ajja dhammassavanadivasoti āha. āma, bhante, dhammassavanadivasoti. tena hi pīṭhakaṃ ānetha, idheva nisinnā dhammassavanaṃ karissāmāti. athassa rukkhamūle āsanaṃ paññapetvā adaṃsu. thero pubbagāthā vatvā kāḷakārāmasuttaṃ ārabhi.
Vào thời gian đó Đại vương Tissa bảo vệ việc làm vào ngày trai giới sống trong thạch động của Đại vương ở bảo điện Pabbata. Ngài đã ra dấu với vị Tỳ khưu thị giả của Trưởng lão rằng “khi nào chủ nhân của ta giải quyết vấn đề hoặc nói Pháp, khi đó Ngài có thể ra dấu cùng tôi.” Vào một ngày thính Pháp, thậm chí Trưởng lão mà nhóm Tỳ khưu vây quanh, bước vào khuôn viên Kaṇṭakacetiya, lễ bái bảo điện mới đứng ở gốc cây Timbaru đen. Khi đó, Trưởng lão ôm bình bát thực hành phận sự, một vị Tỳ khưu hỏi vấn đề cùng Ngài Buddharakkhita ấy trong bài Kinh Kāḷama. Trưởng lão hỏi rằng: “Này hiền giả, ngày hôm nay là ngày thính Pháp không phải sao?.” Vị Tỳ khưu ấy học tập rằng “Kính bạch Ngài, ngày hôm nay là ngày thính Pháp thưa Ngài.” Trưởng lão nói rằng: “Nếu là vậy, hiền giả hãy đem ra để thiết lập, chúng tôi sẽ ngồi ở chỗ này, rồi sẽ thực hiện việc thính Pháp.” Sau đó, chư Tỳ khưu mới trải chỗ ngồi ở gốc cây, dâng lên vị Trưởng lão ấy. Trưởng lão đã nói lên kệ ngôn bắt đầu mới bắt đầu bài Kinh Kāḷāma.
sopissa upaṭṭhākadaharo rañño saññaṃ dāpesi. rājā pubbagāthāsu aniṭṭhitāsuyeva pāpuṇi. patvā ca aññātakaveseneva parisante ṭhatvā tiyāmarattiṃ ṭhitakova dhammaṃ sutvā therassa, idamavoca bhagavāti vacanakāle P.2.295 sādhukāraṃ adāsi. thero ñatvā, kadā āgatosi, mahārājāti pucchi. pubbagāthā osāraṇakāleyeva, bhanteti. dukkaraṃ te mahārāja, katanti. nayidaṃ, bhante, dukkaraṃ, yadi pana me ayyassa dhammakathaṃ āraddhakālato paṭṭhāya ekapadepi aññavihitabhāvo ahosi, tambapaṇṇidīpassa patodayaṭṭhinitudanamattepi ṭhāne sāmibhāvo nāma me mā hotūti sapathamakāsi.
Vị Tỳ khưu trẻ thị giả của Trưởng lão ấy mới ra dấu cùng đức vua. Đức vua đã đi đến, khi kệ ngôn bắt đầu vẫn chưa kịp thúc, khi Ngài đến đứng cuối hội chúng với hình tướng không ai nhận ra, đứng lắng nghe Giáo Pháp suốt 3 canh, đa ban lời khen ngợi trong thời gian Trưởng lão nói rằng “Đức Thế Tôn đã thuyết lời này như vậy”. Sau khi Trưởng lão biết mới hỏi rằng: “Đại vương, Ngài đến đây từ khi nào.” (Đại vương) Kính thưa Ngài, vào khoảng thời gian gần kết thúc kệ ngôn bắt đầu ấy. (Trưởng lão): Đại vương, Ngài thực hiện hành động khó làm. (Đại vương) Kính bạch Ngài, đây không gọi là thực hiện những điều khó làm, ý nghĩa mà bần Tăng không hướng tâm đến chỗ khác, thậm chí trong một câu kể từ thời gian mà chủ nhân bắt đầu dhammakathā, đã nói lời xác chứng rằng: “xin đừng cho tôi được trở thành chủ nhân của hòn đảo Tambapaṇṇi ở chỗ đâm mạnh bằng cây lao.”
tasmiṃ pana sutte buddhaguṇā paridīpitā, tasmā rājā pucchi — “ettakāva, bhante, buddhaguṇā, udāhu aññepi atthī”ti. mayā kathitato, mahārāja, akathitameva bahu appamāṇanti. upamaṃ, bhante, karothāti. yathā, mahārāja, karīsasahassamatte sālikkhette ekasālisīsato avasesasālīyeva bahū, evaṃ mayā kathitaguṇā appā, avasesā bahūti. aparampi, bhante, upamaṃ karothāti. yathā, mahārāja, mahāgaṅgāya oghapuṇṇāya sūcipāsaṃ sammukhaṃ kareyya, sūcipāsena gataudakaṃ appaṃ, sesaṃ bahu, evameva mayā kathitaguṇā appā, avasesā bahūti. aparampi, bhante, upamaṃ karothāti. idha, mahārāja, cātakasakuṇā nāma ākāse kīḷantā vicaranti. khuddakā sā sakuṇajāti, kiṃ nu kho tassa sakuṇassa ākāse pakkhapasāraṇaṭṭhānaṃ bahu, avaseso ākāso appoti? kiṃ, bhante, vadatha, appo tassa pakkhapasāraṇokāso, avasesova bahūti.
Trong bài Kinh này Kālabuddharakkhita đã thuyết về ân đức của chư Phật, vì thế đức Vua hỏi rằng – “Kính bạch Ngài, ân đức Phật chỉ bấy nhiêu chăng? hoặc nói cách khác vẫn còn tồn tại nữa.” Trương lão: “Đại vương, ân đức Phật vẫn chưa được nói vẫn còn nhiều hơn mà bần Tăng đã thuyết, không thể ước chừng.” Đại vương: “Kính thưa Ngài, xin Ngài hãy cho ví dụ.” Trưởng lão: “Này Đại vương lúa mì còn sót lại nhiều hơn bông lúa mì trong cánh đồng lúa mì cả nghìn mẫu như thế nào, đức hạnh được bần Tăng nói quá ít còn lại nhiều như thế đó.” Đại vương “Thưa Ngài xin hãy cho thêm ví dụ”. Trưởng lão: Đại vương con sông Gaṅgā vĩ đại với dòng nước, người có thể đổ nước vào con đê, nước chảy vào con đê chỉ có chút ít, nước con lại ở dòng sông Gaṅgā vẫn còn nhiều như thế nào, thì ân đức Phật mà bần Tăng nói quá ít, còn lại rất nhiều như thế đó. Đại vương: “Thưa Ngài, xin hãy cho thêm ví dụ.” Trưởng lão: “Đại vương thương các loài chim vui đùa trong gió, bay trong không trung ở trong thế gian này, hư không nơi con chim có thân nhỏ vỗ cánh, hoặc khoảng hư không còn lại có nhiều hơn phải không?” Đại vương: “Bạch Ngài, Ngài nói sao? hư không nơi mà con chim vỗ cánh có ít, phần còn lại quá nhiều.” Trưởng lão: “Đại vương như thế đấy, ân đức Phật mà bần Tăng đã nói quá ít, còn lại quá nhiều không có giới hạn, không thể ước chừng.”
evameva, mahārāja, appakā mayā buddhaguṇā kathitā, avasesā bahū anantā appameyyāti. sukathitaṃ, bhante, anantā buddhaguṇā ananteneva ākāsena upamitā. pasannā mayaṃ ayyassa, anucchavikaṃ pana kātuṃ na sakkoma. ayaṃ me duggatapaṇṇākāro imasmiṃ tambapaṇṇidīpe imaṃ tiyojanasatikaṃ rajjaṃ ayyassa demāti. tumhehi, mahārāja, attano pasannākāro kato, mayaṃ pana amhākaṃ dinnaṃ rajjaṃ tumhākaṃyeva dema, dhammena samena rajjaṃ kārehi mahārājāti.
Đại vương: “Bạch Ngài, Ngài nói hay lắm, ân đức Phật không có giới hạn, Ngài ví dụ với hư không không có giới hạn ấy, chúng tôi hoan hỷ so sánh với hư không không có điểm tận cùng ấy, nhưng không thể thực hiện cung kính phù hợp cùng chủ nhân được, Tôi xin cúng dường tài sản hoàng gia trị giá 100 do-tuần ở hòn đảo Tambapaṇṇi cho chủ nhân, đây là duggatapaṇṇākāra của tôi.” Trưởng lão: “Đại vương, Ngài đã thể hiện lòng tịnh tín cho thấy, Đại vương bần Tăng xin gởi lại toàn bộ tài sản hoàng gia mà Đại vương đã cúng dường cho Đại vương, xin Đại vương hãy luôn cai trị vương quốc đúng Pháp.
Giải Thích Đại Kinh Saccaka Kết Thúc.