Kinh số 33 – Giải Thích Đại Kinh Người Chăn Bò
(Mahāhatthipadopasuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Đại Kinh Người Chăn Bò
- Evaṃ me sutanti mahāgopālakasuttaṃ. tattha tisso kathā ekanāḷikā, caturassā, nisinnavattikāti. tattha pāḷiṃ vatvā ekekapadassa atthakathanaṃ ekanāḷikā nāma. apaṇḍitaṃ gopālakaṃ dassetvā, apaṇḍitaṃ bhikkhuṃ dassetvā, paṇḍitaṃ gopālakaṃ dassetvā, paṇḍitaṃ bhikkhuṃ dassetvāti catukkaṃ bandhitvā kathanaṃ caturassā nāma. apaṇḍitaṃ gopālakaṃ dassetvā pariyosānagamanaṃ, apaṇḍitaṃ bhikkhuṃ dassetvā pariyosānagamanaṃ, paṇḍitaṃ gopālakaṃ dassetvā pariyosānagamanaṃ, paṇḍitaṃ bhikkhuṃ dassetvā pariyosānagamananti ayaṃ nisinnavattikā nāma. ayaṃ idha sabbācariyānaṃ āciṇṇā.
[346] Đại Kinh Người Chăn Bò được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Trong bài Kinh này có 3 kathā là ekanāḷikā, caturassā, nisinnavattikā. Việc nói Pāḷī trong cả 3 kathā và nói ý nghĩa mỗi câu gọi là ekanāḷikā. Việc chỉ ra người chăn bò không thiện xảo, việc chỉ ra vị Tỳ khưu không thiện xảo, việc chỉ ra người chăn bỏ thiện xảo, việc chỉ ra vị Tỳ khưu thiện xảo, nói để hợp thành 4 nhóm gọi là caturassā. Việc chỉ ra người chăn bò không thiện xảo đi đến tận cùng, việc chỉ ra vị Tỳ khưu không thiện xảo đi đến tận cùng, việc chỉ ra người chăn bò thiện xảo đi đến tận cùng, việc chỉ ra vị Tỳ khưu thiện xảo đi đến tận cùng đây gọi là nisinnavattikā. Kathā này các vị thầy trong Pháp và Luật đã được thực hành.
ekādasahi, bhikkhave, aṅgehīti ekādasahi aguṇakoṭṭhāsehi. gogaṇanti gomaṇḍalaṃ. pariharitunti pariggahetvā vicarituṃ. phātiṃ kātunti vaḍḍhiṃ āpādetuṃ. idhāti imasmiṃ loke. na rūpaññū hotīti gaṇanato vā vaṇṇato vā rūpaṃ na jānāti. gaṇanato na jānāti nāma attano gunnaṃ sataṃ vā sahassaṃ vāti saṅkhyaṃ na jānāti. so gāvīsu haṭāsu vā palātāsu vā gogaṇaṃ gaṇetvā, ajja ettikā na dissantīti dve tīṇi gāmantarāni vā aṭaviṃ vā vicaranto na pariyesati, aññesaṃ gāvīsu attano gogaṇaṃ paviṭṭhāsupi gogaṇaṃ gaṇetvā, “imā ettikā gāvo na amhākan”ti yaṭṭhiyā pothetvā na nīharati, tassa naṭṭhā gāviyo naṭṭhāva honti. paragāviyo gahetvā vicarantaṃ gosāmikā disvā, “ayaṃ ettakaṃ kālaṃ amhākaṃ dhenuṃ gaṇhātī”ti tajjetvā attano gāviyo gahetvā gacchanti. tassa gogaṇopi parihāyati, pañcagorasaparibhogatopi paribāhiro hoti. vaṇṇato na jānāti nāma — “ettikā gāvo setā, ettikā rattā, ettikā kāḷā, ettikā kabarā ettikā nīlā”ti na jānāti, so gāvīsu haṭāsu vā … pe … pañcagorasaparibhogatopi paribāhiro hoti.
Ekādasahi, bhikkhave, aṅgehi (Này các Tỳ khưu gắn liền với mười một đức tánh): với mười một phần lỗi lầm. Gogaṇaṃ dịch là đàn bò. Pariharituṃ: dẫn dắt đàn bò đi ăn. Phātiṃ kātuṃ (làm cho đàn bò được hưng thịnh): đưa đến sự hưng thịnh. Idha: trong thế gian này. Na rūpaññū hoti (là người không biết sắc): không nhận biệt được sắc bằng việc tính đếm hoặc bằng màu sắc. Gọi là không nhận biết việc tính đếm, không biết tính đếm những con bò của mình rằng “một trăm hay một nghìn”. Người chăn bò (không thiện xảo) ấy khi con bò mẹ bị giết hoặc bỏ đi, sau khi đếm đàn bò “ngày hôm nay số bò sẽ mất đi chừng này.” đi lang thang suốt 2-3 ngôi làng lân cận hoặc khu rừng. sẽ không tìm kiếm, “khi những con bò khác lẫn vào đàn bò của ta” sau khi đếm biết rằng: “Những con bò này chừng này, không phải của tôi.” không lấy cây gậy đánh đuổi đi, thậm chí con bò của vị ấy bị mất, cũng biến mất. Vị ấy lùa bò của người khác đi ăn. Chủ nhân của những con bò thấy vậy dọa rằng: Người chăn bò này đã vắt sữa những con bò sữa của chúng tôi trong suốt khoảng thời gian chừng ấy, rồi đưa những con bò của mình đi. Ngay cả đàn bò của anh ta cũng dần đến suy kiệt (ít đi), vị ấy cách xa việc thọ dụng năm thứ phẩm vị của bò. Người chăn bò gọi là không biết màu sắc, không biết rằng: “bò trắng có chừng này, bò đỏ có chừng này, bò đen có chừng này, bò màu xanh có chừng này” người chăn bò ấy, khi những con bò bị giết hoặc bỏ đi…nt…vị ấy sẽ xa rời năm món phẩm vị của bò.
na lakkhaṇakusalo hotīti gāvīnaṃ sarīre kataṃ dhanusattisūlādibhedaṃ lakkhaṇaṃ na jānāti V.2.157, so gāvīsu haṭāsu vā palātāsu vā ajja asukalakkhaṇā ca asukalakkhaṇā ca gāvo P.2.259 na dissanti … pe … pañcagorasaparibhogatopi paribāhiro hoti.
Na lakkhaṇakusalo hoti (không thiện xảo trong dấu hiệu): không biết được dấu hiệu khác biệt như mũi tên, mũi giáo, mũi lao v.v, mà bản thân đã làm dấu trên thân con bò, người chăn bò ấy khi con bò bị giết hoặc bỏ đi, sau khi đếm biết rằng: “con bò được lấy dấu đó bị mất…nt…vị ấy sẽ xa lìa năm món phẩm vị của bò.
na āsāṭikaṃ hāretāti gunnaṃ khāṇukaṇṭakādīhi pahaṭaṭṭhānesu vaṇo hoti. tattha nīlamakkhikā aṇḍakāni pātenti, tesaṃ āsāṭikāti nāma. tāni daṇḍena apanetvā bhesajjaṃ dātabbaṃ hoti. bālo M.2.161 gopālako tathā na karoti, tena vuttaṃ — “na āsāṭikaṃ hāretā hotī”ti. tassa gunnaṃ vaṇā vaḍḍhanti, gambhīrā honti, pāṇakā kucchiṃ pavisanti, gāvo gelaññābhibhūtā neva yāvadatthaṃ tiṇāni khādituṃ, na pānīyaṃ pātuṃ sakkonti. tattha gunnaṃ khīraṃ chijjati, goṇānaṃ javo hāyati, ubhayesaṃ jīvitantarāyo hoti. evamassa gogaṇopi parihāyati, pañcagorasatopi paribāhiro hoti.
Na āsāṭikaṃ hāretā (không loại bỏ trứng những con ruồi): vết thương của những con bò ở chỗ bị gốc cây và gai v.v, đâm xuyên, các con ruồi đầu xanh đẻ trứng lên trên vết thương ấy được gọi là không loại bỏ trứng những con ruồi đầu xanh. Người chăn bò đã lấy que để lấy trứng ra khỏi chân, có thể bôi thuốc, Người chăn bò ngu ngốc, không thể làm điều đó. Vì vậy, Ngài mới nói rằng không loại bỏ trứng những con ruồi. Những vết thương của những con bò của anh ta lan rộng trở thành những vết thương sâu hơn. Những sinh vật nhỏ có thể đi vào dạ dày, những con bò đó bị bệnh tật hoành hành, không thể nhai và ăn cỏ, và uống nước theo ý thích, sữa của các con bò ở nơi ấy giảm sút, sức lực của những con bò cũng suy giảm, thậm chí nguy hiểm đến tính mạng của hai đàn bò, những con bò của vị ấy trở nên hao hụt. Vị ấy sẽ xa lìa năm món phẩm vị của bò.
na vaṇaṃ paṭicchādetā hotīti gunnaṃ vuttanayeneva sañjāto vaṇo bhesajjaṃ datvā vākena vā cīrakena vā bandhitvā paṭicchādetabbo hoti. bālo gopālako tathā na karoti, athassa gunnaṃ vaṇehi yūsā paggharanti, tā aññamaññaṃ nighaṃsenti, tena aññesampi vaṇā jāyanti. evaṃ gāvo gelaññābhibhūtā neva yāvadatthaṃ tiṇāni khādituṃ … pe … paribāhiro hoti.
Na vaṇaṃ paṭicchādetā hoti (không băng bó vết thương): Vết thương xuất hiện nơi con bò theo cách đã nói, có thể lấy sợi bông hoặc thớ của vỏ cây buộc băng bó lại. Người giữ bò ngu ngốc không thể làm điều đó. Khi ấy máu mủ chảy ra từ vết thương của đàn bò của mình, những con bò cọ sát lẫn nhau, vì sự cọ sát đó mà vết thương đã lây lan sang những con bò khác, những con bò bị bệnh tật chế ngự như vậy, không thể nhai và ăn cỏ tùy ý…nt… vị ấy chẳng rời xa.
na dhūmaṃ kattā hotīti antovasse ḍaṃsamakasādīnaṃ ussannakāle gogaṇe vajaṃ paviṭṭhe tattha tattha dhūmo kātabbo hoti, apaṇḍito gopālako taṃ na karoti. gogaṇo sabbarattiṃ ḍaṃsādīhi upadduto niddaṃ alabhitvā punadivase araññe tattha tattha rukkhamūlādīsu nipajjitvā niddāyati, neva yāvadatthaṃ tiṇāni khādituṃ … pe … pañcagorasaparibhogatopi paribāhiro hoti.
Không được xông khói (na dhūmaṃ kattā hoti): trong mùa mưa ruồi muỗi v.v, nhiều vô số, khi cả đàn bò vào chuồng, cần đốt lửa tạo khói. Người chăn bò không thiện xảo không đốt lửa tạo khói, đàn bò bị ruồi muỗi v.v, quấy rối suốt đêm, cũng không được ngủ. Ngày hôm sau chúng sẽ ngủ dưới gốc cây, v.v. Ở nơi đó, trong rừng, không thể nhai và ăn cỏ theo ý muốn…nt…vị ấy rời xa việc thọ dụng năm món phẩm vị của bò.
na titthaṃ jānātīti titthaṃ samanti vā visamanti vā sagāhanti vā niggāhanti vā na jānāti, so atitthena gāviyo otāreti. tāsaṃ visamatitthe pāsāṇādīni akkamantīnaṃ pādā bhijjanti, sagāhaṃ gambhīraṃ titthaṃ otiṇṇā kumbhīlādayo gāhā gaṇhanti. ajja ettikā gāvo naṭṭhā, ajja ettikāti vattabbataṃ āpajjati. evamassa gogaṇopi parihāyati, pañcagorasatopi paribāhiro hoti.
Không biết chỗ nước có thể lội qua (na titthaṃ jānāti): không biết chỗ nước bằng phẳng hay không bằng phẳng, có thú dữ hoặc không có thú dữ; Người chăn bò thả những con bò đi xuống chỗ không phải bờ, khi những con bò đó giẫm lên phiến đá không bằng phẳng, chân sẽ bị gãy, con bò đi xuống chỗ nước sâu có thú dữ, thú dữ có cá sấu v.v, cắn chúng. Vị ấy phải nói rằng: “Hôm nay, những con bò đã biến mất chừng này, hôm nay chừng này.” Đàn bò của vị ấy trở nên mất mát, vị ấy rời xa việc thọ dụng năm món phẩm vị của bò.
na pītaṃ jānātīti pītampi apītampi na jānāti. gopālakena hi “imāya gāviyā pītaṃ, imāya na pītaṃ, imāya pānīyatitthe okāso laddho, imāya na P.2.260 laddho”ti evaṃ pītāpītaṃ jānitabbaṃ hoti. ayaṃ pana divasabhāgaṃ araññe gogaṇaṃ rakkhitvā pānīyaṃ pāyessāmīti nadiṃ vā M.2.162 taḷākaṃ vā gahetvā gacchati. tattha mahāusabhā ca anūsabhā ca balavagāviyo ca dubbalāni ceva mahallakāni ca gorūpāni siṅgehi vā phāsukāhi vā paharitvā attano okāsaṃ katvā ūruppamāṇaṃ udakaṃ pavisitvā yathākāmaṃ pivanti. avasesā okāsaṃ alabhamānā tīre ṭhatvā kalalamissakaṃ udakaṃ pivanti, apītā eva vā honti. atha ne gopālako piṭṭhiyaṃ paharitvā puna araññaṃ paveseti, tattha apītagāviyo pipāsāya sukkhamānā yāvadatthaṃ tiṇāni khādituṃ na sakkonti, tattha gunnaṃ khīraṃ chijjati, goṇānaṃ javo hāyati … pe … paribāhiro hoti.
Na pītaṃ jānāti (không biết rõ chỗ nước uống): không biết rõ chỗ cho bò uống nước, người chăn bò cần biết rõ bò uống nước và không uống nước như vậy “bò này uống nước, bò này không uống nước, con bò này có được hướng đi ở bến nước để uống nước, con bò này không được như vậy.” Nhưng người giữ bò này bảo vệ đàn bò trong rừng suốt cả ngày, nghĩ rằng tôi sẽ cho uống nước như vậy, cũng đưa đến dòng sông hoặc đầm lầy, con bò lớn bò nhỏ dùng sừng hoặc phần xương sườn xúc chạm nhau, con bò mà không có sức lực và con bò có ít sức lực và già, có được lối đi bước xuống nước chỉ tới ngực, uống nước theo ý thích, những con bò còn lại khi không có lối đi đứng ở trên bờ, một số uống nước trộn lẫn bùn, một số không được uống nước. Từ đó, người chăn bò dẫn bò trở về rừng, trong những con bò đó những con bò không được uống nước (trở nên) kiệt sức vì khát nước, không thể nhai và ăn cỏ theo ý thích, sữa của những con bò trong số đó bị mất đi, sức lực của những con bò cũng giảm, (số lượng) bò của hắn cũng giảm sút…nt…vị ấy rời xa.
na vīthiṃ jānātīti “ayaṃ maggo samo khemo, ayaṃ visamo sāsaṅko sappaṭibhayo”ti na jānāti. so samaṃ khemaṃ maggaṃ vajjetvā gogaṇaṃ itaraṃ maggaṃ paṭipādeti, tattha gāvo sīhabyagghādīnaṃ gandhena coraparissayena vā abhibhūtā bhantamigasappaṭibhāgā gīvaṃ ukkhipitvā tiṭṭhanti, neva yāvadatthaṃ tiṇāni khādanti, na pānīyaṃ pivanti, tattha gunnaṃ khīraṃ chijjati … pe … paribāhiro hoti.
na vīthiṃ jānāti (không biết về con đường): không biết rằng con đường này là con đường bằng phẳng an toàn, con đường này không bằng phẳng, đáng nghi ngờ có sự nguy hiểm phía trước. Vị ấy loại bỏ con đường an toàn bằng phẳng, dẫn đàn bò đi con đường khác, những con bò ngửi được mùi của sư tử chúa và cọp v.v, hoặc sự nguy hiểm từ bọn cướp mai phục, giống như con thú tỉnh giấc, đứng vươn cổ, nhai ăn cỏ và uống nước không được theo ý muốn, sữa của những con bò ở nơi đó cũng mất đi…nt…vị ấy rời xa.
na gocarakusalo hotīti gopālakena hi gocarakusalena bhavitabbaṃ, pañcāhikavāro vā sattāhikavāro vā jānitabbo, ekadisāya gogaṇaṃ cāretvā punadivase tattha na cāretabbo. mahatā hi gogaṇena ciṇṇaṭṭhānaṃ bheritalaṃ viya suddhaṃ hoti nittiṇaṃ, udakampi āluḷīyati. tasmā pañcame vā sattame vā divase puna tattha cāretuṃ vaṭṭati, ettakena hi tiṇampi paṭiviruhati, udakampi pasīdati. ayaṃ pana imaṃ pañcāhikavāraṃ vā sattāhikavāraṃ vā na jānāti, divase divase rakkhitaṭṭhāneyeva rakkhati. athassa gogaṇo haritatiṇaṃ na labhati, sukkhatiṇaṃ khādanto kalalamissakaṃ udakaṃ pivati, tattha gunnaṃ khīraṃ chijjati … pe … paribāhiro hoti.
Không khéo léo với các chỗ đàn bò có thể ăn cỏ (na gocarakusalo hoti): Người chăn bò cần phải không khéo ở nơi con bò đi kiếm ăn, nên biết cần phải loại bỏ năm ngày hoặc cần phải bỏ bảy ngày. Cho đàn bò đi kiếm ăn ở một nơi, ngày hôm sau không nên cho đi ở chỗ đó nữa. Bởi vì đàn bò lớn đi qua đã ăn rồi, cỏ cũng hết bằng phẳng như mặt trống, ngay cả nước cũng đục ngầu. Bởi vì ngày thứ năm hay thứ bảy mới nên dẫn đàn bò quay trở lại ăn ở nơi đó, do cỏ đã mọc trở lại và nước cũng trong, lý do chỉ chừng ấy. Người chăn bò này cũng không biết cần phải bỏ qua năm ngày hay bảy ngày đều sẽ bảo vệ nơi mình cần phải bảo vệ, cho đàn bò của mình ăn ngày này qua ngày khác, như vậy đàn bò của vị ấy không được ăn cỏ tươi non, khi nhai cỏ khô, uống nước bị ô nhiễm sữa của những con bò ở nơi đó cũng mất đi…nt…vị ấy rời xa.
anavasesadohī ca hotīti paṇḍitagopālakena yāva vacchakassa maṃsalohitaṃ saṇṭhāti, tāva V.2.159 ekaṃ dve thane ṭhapetvā sāvasesadohinā bhavitabbaṃ. ayaṃ vacchakassa kiñci anavasesetvā duhati, khīrapako vaccho khīrapipāsāya sukkhati, saṇṭhātuṃ P.2.261 asakkonto kampamāno M.2.163 mātu purato patitvā kālaṅkaroti. mātā puttakaṃ disvā, “mayhaṃ puttako attano mātukhīraṃ pātumpi na labhatī”ti puttasokena na yāvadatthaṃ tiṇāni khādituṃ, na pānīyaṃ pātuṃ sakkoti, thanesu khīraṃ chijjati. evamassa gogaṇopi parihāyati, pañcagorasatopi paribāhiro hoti.
Vắt sữa cho đến khô kiệt (vắt sữa cho đến cạn kiệt): Thịt và máu của bò con được nuôi dưỡng (bằng sữa bò mẹ) chừng nào, người chăn bò thiện xảo vắt sữa bào để lại 1-2 bầu sữa chừng đó, người chăn bò vắt sữa không còn lại gì cho những con bê. Một con bê đang bú mệt lừ, bởi khát sữa khi không thể duy trì sự sống, ngã xuống chết trước mặt mẹ mình. Bò mẹ nhìn thấy bò con nghĩ rằng: “con của tôi không có được, ngay cả uống sữa của mẹ chúng.” mới không thể nhai, ăn cỏ, uống nước theo ý thích bởi vì sự buồn rầu (nghĩ) đến con mình, sữa ở bầu vú cũng cạn kiệt. Đàn bò của vị ấy trở nên suy giảm, vị ấy rời xa việc thọ dụng năm món phẩm vị của bò.
gunnaṃ pituṭṭhānaṃ karontīti gopitaro. gāvo pariṇayanti yathāruciṃ gahetvā gacchantīti gopariṇāyakā. na atirekapūjāyāti paṇḍito hi gopālako evarūpe usabhe atirekapūjāya pūjeti, paṇītaṃ gobhattaṃ deti, gandhapañcaṅgulikehi maṇḍeti, mālaṃ pilandheti, siṅge suvaṇṇarajatakosake ca dhāreti, rattiṃ dīpaṃ jāletvā celavitānassa heṭṭhā sayāpeti. ayaṃ pana tato ekasakkārampi na karoti, usabhā atirekapūjaṃ alabhamānā gogaṇaṃ na rakkhanti, parissayaṃ na vārenti. evamassa gogaṇo parihāyati, pañcagorasato paribāhiro hoti.
Gọi là bò đực bởi ý nghĩa thực hành nhiệm của một người làm cha của những con bò. Gọi là bò đầu đàn bởi ý nghĩa dẫn dắt đàn bò, đưa đàn bò đến nơi ưa thích. Na atirekapūjāyā (không có sự tôn kính, tôn trọng đặc biệt): thật vậy, người chăn bò thiện xảo nuôi dưỡng con bò to lớn như vậy, với sự nuôi dưỡng đặc biệt, cho ăn vật thực thượng hạng, được trang điểm bằng vật thơm và thoa phấn ở năm chỗ, trang điểm bằng vòng hoa và đeo vỏ bọc bằng vàng và bạc mà vị ấy đi theo ánh đèn tỏa sáng trong đêm, nằm ngủ mái che bằng vải. Đối với người chăn bò này, không chỉ hỗ trợ, từ việc cho thức ăn thượng hạng v.v, Con bò lớn khi không được nuôi dưỡng chăm sóc đặc biệt cũng không bảo vệ đàn bò. Đàn bò của vị ấy sẽ bị suy giảm, vị ấy rời xa việc thọ dụng năm món phẩm vị của bò.
- idhāti imasmiṃ sāsane. na rūpaññū hotīti, “cattāri mahābhūtāni catunnañca mahābhūtānaṃ upādāyarūpan”ti evaṃ vuttarūpaṃ dvīhākārehi na jānāti gaṇanato vā samuṭṭhānato vā. gaṇanato na jānāti nāma, “cakkhāyatanaṃ, sota-ghāna-jivhā-kāyāyatanaṃ, rūpa-sadda-gandha-rasa-phoṭṭhabbāyatanaṃ, itthindriyaṃ, purisindriyaṃ, jīvitindriyaṃ, kāyaviññatti, vacīviññatti, ākāsadhātu, āpodhātu, rūpassa lahutā, mudutā, kammaññatā, upacayo, santati, jaratā, rūpassa aniccatā, kabaḷīkāro āhāro”ti evaṃ pāḷiyaṃ āgatā pañcavīsati rūpakoṭṭhāsāti na jānāti. seyyathāpi so gopālako gaṇanato gunnaṃ rūpaṃ na jānāti, tathūpamo ayaṃ bhikkhu. so gaṇanato rūpaṃ ajānanto rūpaṃ pariggahetvā arūpaṃ vavatthapetvā rūpārūpaṃ pariggahetvā paccayaṃ sallakkhetvā lakkhaṇaṃ āropetvā kammaṭṭhānaṃ matthakaṃ pāpetuṃ na sakkoti. so yathā tassa gopālakassa gogaṇo na vaḍḍhati, evaṃ imasmiṃ sāsane sīlasamādhivipassanāmaggaphalanibbānehi na vaḍḍhati, yathā P.2.262 ca so gopālako pañcahi gorasehi paribāhiro hoti, evaṃ asekkhena sīlakkhandhena, asekkhena samādhi, paññā, vimutti, vimuttiñāṇadassanakkhandhenāti pañcahi dhammakkhandhehi paribāhiro hoti.
Idha (trong Pháp và Luật này): trong Tôn giáo này. Không biết rõ các sắc, “Bốn sắc đại hiển bởi 2 biểu hiện là với việc đếm và bởi nhân sanh.” Gọi là không biết được việc tính đếm, không biết rằng 25 phần của sắc trong Pāḷī như vầy: “nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ; sắc xứ, thanh xứ, khí xứ, vị xứ và xúc xứ; nữ căn, nam căn, mạng quyền; thân biểu tri, khẩu biểu tri; hư không giới, thủy giới, sự nhẹ nhàng của sắc, sự mềm mại của sắc, sự phù hợp phận sự của sắc, sắc tích trữ, sắc thừa kế, sắc già, sắc vô thường, đoàn thực.” Vị Tỳ khưu ví như người chăn bò ấy, không biết sắc của các con bò theo cách tính như vậy. Vị ấy khi không biết rõ sắc theo việc tính, cũng không thể xác định được sắc, quán xét sắc, xác định điều kiện (paccaya), đưa đến trạng thái chung (sāmañña-lakkhaṇa); xác định vô sắc, quán xét vô sắc, xác định điều kiện đưa đến trạng thái chung để cho nghiệp xứ đi đến tận cùng. Vị Tỳ khưu không phát triển giới, định, minh sát, Đạo, Quả và Niết bàn. Trong Tôn giáo này, giống như đàn bò của người chăn bò không thịnh vượng vậy. Trở thành người xa lìa năm Pháp uẩn là giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, trí tuệ và nhận thức về sự giải thoát của vị Thánh Vô học, giống như người chăn bò xa lìa việc thọ dụng năm món phẩm vị của bò.
samuṭṭhānato na jānāti nāma, “ettakaṃ rūpaṃ ekasamuṭṭhānaṃ, ettakaṃ dvisamuṭṭhānaṃ, ettakaṃ tisamuṭṭhānaṃ, ettakaṃ catusamuṭṭhānaṃ, ettakaṃ na kutocisamuṭṭhātī”ti na jānāti. seyyathāpi so gopālako vaṇṇato gunnaṃ rūpaṃ na jānāti, tathūpamo ayaṃ bhikkhu. so samuṭṭhānato rūpaṃ ajānanto rūpaṃ pariggahetvā arūpaṃ vavatthapetvā … pe … paribāhiro hoti.
Gọi là không biết được nhân sanh, không biết rằng: “sắc chừng này chỉ có một nhân sanh, chừng này có 2 nhân sanh, chừng này có 3 nhân sanh, chừng này có 4 nhân sanh, và chừng này không có bất kỳ nhân sanh nào.” Vị Tỳ khưu này gingos như người chăn bò ấy không biết sắc của các con bò qua màu sắc như thế, vị ấy không biết sắc theo nhân sanh, mới không thể quán xét sắc, xác định sắc…như người chăn bò xa lìa việc thọ dụng năm món phẩm vị của bò.
na lakkhaṇakusalo hotīti kammalakkhaṇo bālo, kammalakkhaṇo paṇḍitoti evaṃ vuttaṃ kusalākusalaṃ kammaṃ paṇḍitabālalakkhaṇanti na jānāti. so evaṃ ajānanto bāle vajjetvā paṇḍite na sevati, bāle vajjetvā paṇḍite asevanto kappiyākappiyaṃ kusalākusalaṃ sāvajjānavajjaṃ garukalahukaṃ satekicchātekicchaṃ kāraṇākāraṇaṃ na jānāti; taṃ ajānanto kammaṭṭhānaṃ gahetvā vaḍḍhetuṃ na sakkoti. so yathā tassa gopālakassa gogaṇo na vaḍḍhati, evaṃ imasmiṃ sāsane yathāvuttehi sīlādīhi na vaḍḍhati, gopālako viya ca pañcahi gorasehi pañcahi dhammakkhandhehi paribāhiro hoti.
Không thiện xảo trong các tướng trạng (na lakkhaṇakusalo hoti): “không biết rằng “Thiện nghiệp là dấu hiệu của bậc trí, bất thiện nghiệp là dấu hiệu của kẻ ngu, ngài đã nói như vậy. Kẻ ngu có hành động là dấu hiệu, bậc trí có hành động là dấu hiệu.” Vị ấy khi không biết như vậy, nên mới không tránh xa kẻ ngu, không gặp gỡ bậc trí, khi không tránh xa kẻ ngu, không gặp gỡ bậc trí sẽ không biết được điều gì nên làm hay điều gì không nên làm, điều gì là thiện hay điều gì bất thiện; điều gì có tội và điều gì không có tội; điều gì tội nặng, điều gì là tội nhẹ; giải quyết được, không giải quyết được; có nhân, không có nhân. Không thể nắm lấy nghiệp xứ để phát triển được, vị Tỳ khưu đó không tăng trưởng giới v.v, theo cách đã nói trong Tôn giáo này, giống như đàn bò của người chăn bò ấy không thịnh vượng, là người xa lìa từ các Pháp uẩn, giống như người chăn bò xa lìa việc thọ đụng năm món phẩm vị của bò.
na āsāṭikaṃ hāretā hotīti uppannaṃ kāmavitakkanti evaṃ vutte kāmavitakkādike na vinodeti, so imaṃ akusalavitakkaṃ āsāṭikaṃ ahāretvā vitakkavasiko hutvā vicaranto kammaṭṭhānaṃ gahetvā vaḍḍhetuṃ na sakkoti, so yathā tassa gopālakassa … pe … paribāhiro hoti.
Không loại bỏ trứng con ruồi xanh (na āsāṭikaṃ hāretā hoti): Không làm cho tiêu tan sự suy tầm về dục v.v, như đã nói như vậy “(vị Tỳ khưu trong Tôn giáo này) đã làm cho suy tầm về dục sanh khởi…” không loại bỏ trứng ruồi xanh là sự suy tầm về bất thiện, thực hành khiến cho bản thân rơi vào mãnh lực của sự suy tầm, không thể nắm lấy nghiệp xứ thực hành cho tăng trưởng được, vị ấy lìa xa giống như đàn bò của người chăn bò ấy không thể thịnh vượng, là người lìa xa từ các Pháp uẩn, giống như người chăn bò lìa xa năm món phẩm vị của bò.
na vaṇaṃ paṭicchādetā hotīti cakkhunā rūpaṃ disvā nimittaggāhī hotītiādinā nayena sabbārammaṇesu nimittaṃ gaṇhanto yathā so gopālako vaṇaṃ na paṭicchādeti, evaṃ saṃvaraṃ na sampādeti. so vivaṭadvāro vicaranto kammaṭṭhānaṃ gahetvā vaḍḍhetuṃ na sakkoti … pe … paribāhiro hoti.
Không băng bó vết thương (na vaṇaṃ paṭicchādetā hoti): khi nắm lấy tướng trong mọi đối tượng bằng cách thức v.v, rằng “(vị Tỳ khưu trong Tôn giáo này) nhìn thấy sắc bằng mắt, nắm lấy tướng…” gọi là không thu thúc để đạt đến sự trọn vẹn, giống như người chăn bò không băng bó vết thương (cho những con bò), vị Tỳ khưu khi mở các môn đi lang thang, sẽ không thể nắm lấy được nghiệp xứ để thực hành cho tăng trưởng được, vị ấy không thể làm tăng trưởng giới v.v…nt…giống như người chăn bò lìa xa năm món phẩm vị của bò.
na dhūmaṃ kattā hotīti so gopālako dhūmaṃ viya dhammadesanādhūmaṃ na karoti, dhammakathaṃ vā sarabhaññaṃ vā upanisinnakathaṃ vā anumodanaṃ vā na karoti P.2.263 . tato naṃ manussā bahussuto guṇavāti na jānanti, te guṇāguṇaṃ ajānantā catūhi paccayehi saṅgahaṃ na karonti V.2.161 . so paccayehi M.2.165 kilamamāno buddhavacanaṃ sajjhāyaṃ kātuṃ vattapaṭipattiṃ pūretuṃ kammaṭṭhānaṃ gahetvā vaḍḍhetuṃ na sakkoti … pe … paribāhiro hoti.
Không thực hiện xông khói (na dhūmaṃ kattā hoti): Vị Tỳ khưu không đốt lửa xông khói là sự thuyết giảng Giáo Pháp, giống như người chăn bò ấy không đốt lửa xông khói, không thực hành giảng pháp hoặc tụng đọc hoặc đàm đạo chánh Pháp, hoặc nói lời tùy hỷ. Từ đó, mọi người không biết đức hạnh đó vị Tỳ khưu đa văn có đức hạnh như vậy, khi họ không biết được đức hạnh và tội lỗi, sẽ không thực hiện nhiếp thâu với bốn món vật dụng, khi khó khăn về vật dụng, cũng không thể đưa đến việc thực hiện trì tụng Phật ngôn, không thể làm tròn nhiệm vụ pháp hành, không thể nắm giữ nghiệp xứ làm cho tăng trưởng, vị Tỳ khưu đó không thể tăng trưởng giới v.v,…người chăn bò lìa xa.
na titthaṃ jānātīti titthabhūte bahussutabhikkhū na upasaṅkamati, upasaṅkamanto, “idaṃ, bhante, byañjanaṃ kathaṃ ropetabbaṃ, imassa bhāsitassa ko attho, imasmiṃ ṭhāne pāḷi kiṃ vadeti, imasmiṃ ṭhāne attho kiṃ dīpetī”ti evaṃ na paripucchati na paripañhati, na jānāpetīti attho. tassa te evaṃ aparipucchato avivaṭañceva na vivaranti, bhājetvā na dassenti, anuttānīkatañca na uttānīkaronti, apākaṭaṃ na pākaṭaṃ karonti. anekavihitesu ca kaṅkhāṭhāniyesu dhammesūti anekavidhāsu kaṅkhāsu ekaṃ kaṅkhampi na paṭivinodenti. kaṅkhā eva hi kaṅkhāṭhāniyā dhammā nāma. tattha ekaṃ kaṅkhampi na nīharantīti attho. so evaṃ bahussutatitthaṃ anupasaṅkamitvā sakaṅkho kammaṭṭhānaṃ gahetvā vaḍḍhetuṃ na sakkoti. yathā ca so gopālako titthaṃ na jānāti, evaṃ ayampi bhikkhu dhammatitthaṃ na jānāti, ajānanto avisaye pañhaṃ pucchati, abhidhammikaṃ upasaṅkamitvā kappiyākappiyaṃ pucchati, vinayadharaṃ upasaṅkamitvā rūpārūpaparicchedaṃ pucchati. te avisaye puṭṭhā kathetuṃ na sakkonti, so attanā sakaṅkho kammaṭṭhānaṃ gahetvā vaḍḍhetuṃ na sakkoti … pe … paribāhiro hoti.
Na titthaṃ jānāti (không biết rõ chỗ sông cạn đi qua được): Vị Tỳ khưu không đến tìm kiếm vị Tỳ khưu đa văn, người giống như chỗ sông cạn đi qua được khi đi đến tìm kiếm cũng không đặt câu hỏi, không nắm giữ, không hỏi vấn đề để biết rằng: “Thưa Ngài, các văn từ này nên đặt như thế nào? ý nghĩa của câu nói này ra làm sao? Pāḷī trong chỗ Pāḷi này nói lên điều gì? Ý nghĩa ở chỗ này trình bày ra sao? vị Tỳ khưu đa văn ấy mà ông không đưa ra câu hỏi, không phơi bày ý nghĩa đã bị che đậy, không phân tích những điều chưa được phân tích, không làm cho tường tận những điều chưa được tường tận, không làm cho hiển lộ những điều chưa hiển lộ. anekavihitesu ca kaṅkhāṭhāniyesu dhammesū (đối với những nghi vấn về Chánh pháp, các vị ấy không đoạn trừ nghi hoặc): vẫn chưa xua tan được nghi hoặc dù chỉ chút ít trong nhiều nghi hoặc. Giải thích rằng sự chính sự hoài nghi được gọi là Pháp làm nơi thiết lập của sự nghi hoặc, không đem ra khỏi sự hoài nghi trong Pháp dẫu duy nhất trong Pháp đó. Vị ấy không đến tìm kiếm chỗ sông cạn đi qua (là) vị Tỳ khưu đa văn, như vầy đầy rẫy sự hoài nghi, không thể để nắm lấy nghiệp xứ làm cho tăng trưởng.
yathā ca so gopālako titthaṃ na jānāti, evaṃ ayampi bhikkhu dhammatitthaṃ na jānāti, ajānanto avisaye pañhaṃ pucchati, abhidhammikaṃ upasaṅkamitvā kappiyākappiyaṃ pucchati, vinayadharaṃ upasaṅkamitvā rūpārūpaparicchedaṃ pucchati. te avisaye puṭṭhā kathetuṃ na sakkonti, so attanā sakaṅkho kammaṭṭhānaṃ gahetvā vaḍḍhetuṃ na sakkoti … pe … paribāhiro hoti.
Cũng tương tự như người chăn bò không biết rõ chỗ sông cạn đi qua được thế nào, Vị Tỳ khưu này không biết chỗ sông cạn đi qua là Pháp như thế đó, khi không biết đã đặt vấn đề không phải Luật; đi đến kiếm học giả Abhidhamma, hỏi điều nên, không nên; các vị ấy bị ông hỏi trong Pháp không phải Luật, đã hỏi việc xác định sắc và vô sắc, các vị mà bị ông hỏi không phải Luật, không thể trả lời được, ông mới đầy rẫy sự nghi hoặc với chính mình, mới không thể nắm lấy nghiệp xứ làm cho tăng trưởng được, vị ấy…nt…giống như người chăn bò lìa xa năm món phẩm vị của bò.
na pītaṃ jānātīti yathā so gopālako pītāpītaṃ na jānāti, evaṃ dhammūpasañhitaṃ pāmojjaṃ na jānāti na labhati, savanamayaṃ puññakiriyavatthuṃ nissāya ānisaṃsaṃ na vindati, dhammassavanaggaṃ gantvā sakkaccaṃ na suṇāti, nisinno niddāyati, kathaṃ katheti, aññavihitako hoti, so sakkaccaṃ dhammaṃ asuṇanto kammaṭṭhānaṃ gahetvā vaḍḍhetuṃ na sakkoti … pe … paribāhiro hoti.
Không biết rõ chỗ uống nước (na pītaṃ jānāti): vị Tỳ khưu không biết rõ, không nhận được sự hân hoan phối hợp với Pháp, giống như người chăn bò không biết những con bò đã uống nước và con bò vẫn chưa uống nước. Vị Tỳ khưu ấy không nhận được lợi ích nương vào nền tảng của việc hành thiện hoàn thành với việc lắng nghe, đi đến Pháp đường để nghe Pháp, cũng không nghe bằng sự tôn kính, ngồi ngủ, nói chuyện, hướng tâm đến chỗ khác, khi không nghe Pháp bằng sự tôn kính, không thể nắm giữ nghiệp xứ làm cho tăng trưởng được, vị ấy…nt…giống như người chăn bò lìa xa năm món phẩm vị của bò.
na vīthiṃ jānātīti so gopālako maggāmaggaṃ viya, — “ayaṃ lokiyo ayaṃ lokuttaro”ti ariyaṃ aṭṭhaṅgikaṃ maggaṃ yathābhūtaṃ na pajānāti. ajānanto lokiyamagge abhinivisitvā lokuttaraṃ nibbattetuṃ na sakkoti … pe … paribāhiro hoti.
na vīthiṃ jānāti (không biết con đường): vị Tỳ khưu không biết rõ về Thánh Đạo có 8 chi phần theo đúng thực tính, con đường này là Hiệp thế, con đường này là Siêu thế, giống như người chăn bò không biết về con đường và không phải con đường. Khi vị ấy không biết chắc chắn con đường Hiệp thế, không thể nắm làm cho Pháp Siêu thế sanh khởi được…nt…giống như người chăn bò lìa xa.
na gocarakusalo hotīti so gopālako pañcāhikavāre P.2.264 sattāhikavāre viya cattāro satipaṭṭhāne V.2.162, “ime lokiyā ime lokuttarā”ti yathābhūtaṃ na pajānāti. ajānanto sukhumaṭṭhānesu attano M.2.166 ñāṇaṃ carāpetvā lokiyasatipaṭṭhāne abhinivisitvā lokuttaraṃ nibbattetuṃ na sakkoti … pe … paribāhiro hoti.
không khéo léo với các chỗ đàn bò ăn cỏ (na gocarakusalo hoti): Vị Tỳ khưu không biết rõ bốn chỗ thiết lập niệm theo đúng thực tính, những Pháp này là Siêu thế, giống như người chăn bò không biết rõ cách xoay vòng 5 ngày hoặc 7 ngày, vì thế khi không biết gieo trí tuệ của chính mình trong Pháp vi tế, vững trú trong bốn sự thiết lập niệm, không thể làm cho Pháp Siêu thế sanh khởi…nt…giống như người chăn bò lìa xa.
anavasesadohī ca hotīti paṭiggahaṇe mattaṃ ajānanto anavasesaṃ duhati. niddesavāre panassa abhihaṭṭhuṃ pavārentīti abhiharitvā pavārenti. ettha dve abhihārā vācābhihāro ca paccayābhihāro ca. vācābhihāro nāma manussā bhikkhussa santikaṃ gantvā, “vadeyyātha, bhante, yenattho”ti pavārenti. paccayābhihāro nāma vatthādīni vā telaphāṇitādīni vā gahetvā bhikkhussa santikaṃ gantvā, “gaṇhatha, bhante, yāvatakena attho”ti vadanti. tatra bhikkhu mattaṃ na jānātīti bhikkhu tesu paccayesu pamāṇaṃ na jānāti, — “dāyakassa vaso veditabbo, deyyadhammassa vaso veditabbo, attano thāmo veditabbo”ti rathavinīte vuttanayena pamāṇayuttaṃ aggahetvā yaṃ āharanti, taṃ sabbaṃ gaṇhātīti attho. manussā vippaṭisārino na puna abhiharitvā pavārenti. so paccayehi kilamanto kammaṭṭhānaṃ gahetvā vaḍḍhetuṃ na sakkoti … pe … paribāhiro hoti.
Vắt sữa cho đến cạn kiệt (anavasesadohī): Vị Tỳ khưu khi không biết chừng mực trong việc thọ nhận, vắt hết sữa không còn dư sót. Còn trong phần diễn giải các gia chủ có đức tin thỉnh mời các Tỳ khưu ấy rằng abhihaṭṭhuṃ pavārenti (thỉnh mời…đem đến) ở nơi thỉnh mời này, sự thỉnh mời có 2 là thỉnh mời bằng lời nói và thỉnh mời bằng vật dụng. Mọi người đi đến trú xứ của vị Tỳ khưu, rồi thỉnh cầu rằng: “Thưa Ngài, Ngài có thể nói những điều mong muốn” đây được gọi là lời thỉnh cầu bằng lời nói. Mọi người mang theo vải vóc hoặc dược phẩm trị bệnh, sữa và mật mía v.v. đi đến trú xứ của vị Tỳ khưu và nói, “Thưa Ngài, xin Ngài hãy thọ nhận theo ý muốn” đây được gọi là lời thỉnh cầu với điều kiện. tatra bhikkhu mattaṃ na jānāti (trong việc họ thỉnh cầu, Tỳ khưu không biết chừng mực): Vị Tỳ khưu không biết chừng mực trong vật dụng đó, không thọ nhận đủ chừng mực theo phương thức mà Ngài đã nói trong Kinh Rathavinīta: “Nên biết khả năng của người cho, nên biết khả năng của phẩm vật cúng dường, nên biết khả năng của mình” thọ nhận những thứ mà họ mang lại cúng dường toàn bộ. Tất cả mọi người khởi lên sự hối tiếc không đến thỉnh cầu nữa. Vị ấy khi khó khăn về vật dụng không thể nắm giữ nghiệp xứ để làm cho tăng trưởng…nt…giống như người chăn bò lìa xa.
te na atirekapūjāya pūjetā hotīti so gopālako mahāusabhe viya te there bhikkhū imāya āvi ceva raho ca mettāya kāyakammādikāya atirekapūjāya na pūjeti. tato therā, — “ime amhesu garucittīkāraṃ na karontī”ti navake bhikkhū dvīhi saṅgahehi na saṅgaṇhanti, na āmisasaṅgahena cīvarena vā pattena vā pattapariyāpannena vā vasanaṭṭhānena vā. kilamante milāyantepi nappaṭijagganti. pāḷiṃ vā aṭṭhakathaṃ vā dhammakathābandhaṃ vā guyhaganthaṃ vā na sikkhāpenti. navakā therānaṃ santikā sabbaso ime dve saṅgahe alabhamānā imasmiṃ sāsane patiṭṭhātuṃ na sakkonti. yathā tassa gopālakassa gogaṇo na vaḍḍhati, evaṃ sīlādīni na vaḍḍhanti. yathā ca so gopālako pañcahi gorasehi paribāhiro hoti, evaṃ pañcahi dhammakkhandhehi paribāhirā honti. sukkapakkho kaṇhapakkhe vuttavipallāsavasena yojetvā veditabboti.
Người không có sự tôn kính, tôn trọng đặc biệt (te na atirekapūjāya pūjetā hoti): vị Tỳ khưu không cung kính những vị Tỳ khưu ấy là vị Trưởng lão với sự cung kính đặc biệt với từ tâm, bằng thân nghiệp v.v, trước mặt và sau lưng, giống như người chăn bò không nuôi dưỡng chăm sóc con bò lớn bằng việc chăm sóc nuôi dưỡng đặc biệt. Vì thế, Trưởng lão nghĩ rằng “chư Tỳ khưu không cung kính và tôn trọng đối với chúng tôi.” mới không trợ giúp các vị tân Tỳ khưu với 2 sự trợ giúp là không trợ giúp bằng Pháp, và sự lợi ích. Không giúp đỡ tân Tỳ khưu, những vị gặp khó khăn, sống khan hiếm đối với y phục hoặc bình bát, những thứ liên quan đến bình bát hoặc chỗ ở, không được học tập Pāḷī, hoặc những bộ Sớ giải liên quan đến Dhammakathā, hoặc các bộ có ý nghĩa khó giải thích. Các vị tân Tỳ khưu khi không nhận được 2 sự trợ giúp này từ trú xứ của các Trưởng lão ở mọi phương diện, không thể duy trì sự sống trong Tôn giáo này. Các vị ấy không thể tăng trưởng về giới v.v, giống như đàn bò của người chăn bò không thịnh vượng như thế. Người chăn bò ấy là người xa lìa năm phẩm vị của bò như thế nào, vị ấy (tân Tỳ khưu) cũng lìa xa từ năm Pháp uẩn như thế đó. Pháp trắng Ngài đã kết hợp rồi, nên biết với sức mạnh đối nghịch đã được nói trong Pháp đen.
Đại Kinh Người Chăn Bò Kết Thúc.