Kinh số 27 – Giải Thích Tiểu Kinh Ví Dụ Dấu Chân Voi
(cūḷahatthipadopamasuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Tiểu Kinh Ví Dụ Dấu Chân Voi
288. evaṃ me sutanti cūḷahatthipadopamasuttaṃ. tattha sabbasetena vaḷavābhirathenāti, “setā sudaṃ assā yuttā honti setālaṅkārā. seto ratho setālaṅkāro setaparivāro, setā rasmiyo, setā patodalaṭṭhi, setaṃ chattaṃ, setaṃ uṇhīsaṃ, setāni vatthāni, setā upāhanā, setāya sudaṃ vālabījaniyā bījiyatī”ti (saṃ. ni. 5.4) evaṃ vuttena sakalasetena catūhi vaḷavāhi yuttarathena.
288. Kinh Tiểu Kinh Ví Dụ Dấu Chân Voi được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, với một cỗ xe toàn trắng do ngựa cái kéo (sabbasetena vaḷavābhirathenā): cỗ xe được kéo bởi bốn loài ngựa toàn trắng được ngài nói như vầy: “được biết rằng những con ngựa kéo xe toàn trắng, được trang điểm toàn trắng, với cỗ xe màu trắng được trang trí màu trắng với những đồ vật phụ tùng màu trắng, dây cương màu trắng, roi da màu trắng, cây lọng màu trắng, khăn đội đầu màu trắng, vải trắng, mang đôi giày trắng, quạt với cây quạt trắng.” (saṃ. ni. 5.4).
ratho ca nāmeso duvidho hoti — yodharatho, alaṅkārarathoti. tattha yodharatho caturassasaṇṭhāno hoti nātimahā, dvinnaṃ tiṇṇaṃ vā janānaṃ gahaṇasamattho. alaṅkāraratho mahā hoti, dīghato dīgho, puthulato puthulo. tattha chattaggāhako vālabījaniggāhako tālavaṇṭaggāhakoti evaṃ aṭṭha vā dasa vā sukhena ṭhātuṃ vā nisīdituṃ vā nipajjituṃ vā sakkonti, ayampi alaṅkārarathoyeva.
Cỗ xe có hai loại là yodharatho, alaṅkāraratho. Trong hai loại xe đó, yodharatho là cỗ xe có hình vuông, không lớn lắm, có sức chứa 2-3 người, alaṅkāraratho là cỗ xe được trang hoàng lớn cả về chiều dài và lẫn chiều rộng, xe alaṅkāraratho (có sức chứa) 8 hoặc 10 người, tức là người che ô, người cầm roi da, người cầm chiếc quạt lá cọ, có thể đứng, ngồi, nằm tùy thích. Chính chiếc xe này được gọi là alaṅkāraratho.
so sabbo sacakkapañjarakubbaro rajataparikkhitto ahosi. vaḷavā pakatiyā setavaṇṇāva. pasādhanampi tādisaṃ rajatamayaṃ ahosi. rasmiyopi rajatapanāḷi suparikkhittā. patodalaṭṭhipi rajataparikkhittā. brāhmaṇopi setavatthaṃ nivāsetvā setaṃyeva uttarāsaṅgamakāsi, setavilepanaṃ vilimpi, setamālaṃ pilandhi, dasasu aṅgulīsu aṅgulimuddikā, kaṇṇesu kuṇḍalānīti evamādialaṅkāropissa rajatamayova ahosi. parivārabrāhmaṇāpissa dasasahassamattā tatheva setavatthavilepanamālālaṅkārā ahesuṃ. tena vuttaṃ “sabbasetena vaḷavābhirathenā”ti.
Tất cả những chiếc xe đó với bánh xe, cửa sổ và càng xe được trang trí bằng bạc. Ngựa thường cũng có màu trắng, những đồ trang trí đó cũng được làm bằng bạc, cả sợi dây cương cũng được mạ bằng bạc, cả cây roi cũng được làm bằng bạc. Kể cả những người Bà-la-môn đã quấn tấm vải trắng, cả y thượng mềm mại, được trang trí bằng một vòng hoa nhài trắng, đeo mười chiếc nhẫn cả mười ngón tay, gắn bông tai ở hai bên. Ngay cả các phụ tùng của xe cũng đều làm toàn bằng bạc. Thậm chí những người Bà-la-môn tùy tùng của những người Bà-la-môn đó cũng được thoa bằng vải tẩm hương thơm và tràng hoa trắng tương tự như vậy. Do đó ngài đã nói rằng: “với cỗ xe ngựa cái được trang trí toàn trắng”.
sāvatthiyā niyyātīti so kira channaṃ channaṃ māsānaṃ ekavāraṃ nagaraṃ padakkhiṇaṃ karoti. ito ettakehi divasehi nagaraṃ padakkhiṇaṃ karissatīti puretarameva ghosanā karīyati; taṃ sutvā ye nagarato na pakkantā, te na pakkamanti. ye pakkantā, tepi, “puññavato sirisampattiṃ passissāmā”ti āgacchanti. yaṃ divasaṃ brāhmaṇo nagaraṃ anuvicarati, tadā pātova nagaravīthiyo sammajjitvā vālikaṃ okiritvā lājapañcamehi pupphehi abhippakiritvā puṇṇaghaṭe ṭhapetvā kadaliyo ca dhaje ca ussāpetvā sakalanagaraṃ dhūpitavāsitaṃ karonti.
Rời khỏi thành Sāvatthi: kể rằng mỗi 6 tháng Bà-la-môn đó sẽ thực hiện hướng phải nhiễu vòng quanh thành một lần. Sẽ có thông báo trước rằng Bà-la-môn sẽ thực hành nhiễu vòng quanh thành phố vào ngày đó kể từ hôm nay, tất cả mọi người biết chuyện này rồi những người vẫn chưa rời khỏi thành sẽ không ra khỏi, những người đã rời khỏi “sẽ quay trở lại để chứng kiến sự vinh quang của vị có phước báu”. Ngày nào Bà-la-môn thực hiện nhiễu quanh thành phố, ngày đó sáng sớm mọi người sẽ quét đường ở thành phố, trải cát, rải hoa cùng với bông gạo, đặt một chậu nước đầy, nâng cao cây chuối và lá cờ làm cho cả thành phố thơm hương trầm.
brāhmaṇo pātova sīsaṃ nhāyitvā purebhattaṃ bhuñjitvā vuttanayeneva setavatthādīhi attānaṃ alaṅkaritvā pāsādā oruyha rathaṃ abhiruhati. atha naṃ te brāhmaṇā sabbasetavatthavilepanamālālaṅkārā setacchattāni gahetvā parivārenti; tato mahājanassa sannipātanatthaṃ paṭhamaṃyeva taruṇadārakānaṃ phalāphalāni vikiritvā tadanantaraṃ māsakarūpāni; tadanantaraṃ kahāpaṇe vikiranti; mahājanā sannipatanti. ukkuṭṭhiyo ceva celukkhepā ca pavattanti. atha brāhmaṇo maṅgalikasovatthikādīsu maṅgalāni ceva suvatthiyo ca karontesu mahāsampattiyā nagaraṃ anuvicarati. puññavantā manussā ekabhūmakādipāsāde āruyha sukapattasadisāni vātapānakavāṭāni vivaritvā olokenti. brāhmaṇopi attano yasasirisampattiyā nagaraṃ ajjhottharanto viya dakkhiṇadvārābhimukho hoti. tena vuttaṃ “sāvatthiyā niyyātī”ti.
Sáng sớm, vị Bà-la-môn cũng đi tắm, chải đầu, ăn thức ăn mềm trước, rồi ăn thức ăn cứng sau, mặc áo vải trắng v.v, theo cách như đã nói trên, bước xuống khỏi lâu đài rồi bước lên xe. Lúc bấy giờ, các Bà-la-môn ấy đều trang điểm bằng y phục mềm mại và vòng hoa trắng. cầm một chiếc ô trắng vây quanh Bà-la-môn Jāṇusoṇi đó. Sau đó, hoa quả nhỏ lớn được phát cho các em nhỏ trước ngày hội để quần chúng tập trung. Từ đó, họ rải các đồng tiền māsaka và kahāpana. Đại chúng tụ hội lại với nhau, mạnh người nào người nấy hò hét vang rền và đưa tấm vải Pokasa tung bay. Khi đó, Bà-la-môn Maṅgalika và Bà-là-môn Sovatthika v.v, thực hành nghi thức cầu an và sự hưng thịnh, thực hành nhiễu quanh thành phố với tài sản lớn. Người nhân loại có phước đứng trên tòa lâu đài một tầng, v.v, mở cửa sổ và cửa lớn ra vào giống như vật chứa đựng màu trắng để nhìn. Còn phía Bà-la-môn tiến về cổng phía Nam như thể bao quanh thành phố bằng tài sản là danh vọng và vinh quang của chính mình. Vì thế, ngài đã nói rằng “Rời khỏi thành Sāvatthi”
divā divassāti divasassa divā, majjhanhakāleti attho. pilotikaṃ paribbājakanti pilotikāti evaṃ itthiliṅgavohāravasena laddhanāmaṃ paribbājakaṃ. so kira paribbājako daharo paṭhamavaye ṭhito suvaṇṇavaṇṇo buddhupaṭṭhāko, pātova tathāgatassa ceva mahātherānañca upaṭṭhānaṃ katvā tidaṇḍakuṇḍikādi parikkhāraṃ ādāya jetavanā nikkhamitvā nagarābhimukho pāyāsi. taṃ esa dūratova āgacchantaṃ addasa. etadavocāti anukkamena santikaṃ āgataṃ sañjānitvā etaṃ, “handa kuto nu bhavaṃ vacchāyano āgacchatī”ti gottaṃ kittento vacanaṃ avoca. paṇḍito maññeti bhavaṃ vacchāyano samaṇaṃ gotamaṃ paṇḍitoti maññati, udāhu noti ayamettha attho.
Từ trưa (divā divassa): ngày của ngày, tức là thời gian giữa trưa. Du sĩ Pilotika: du sĩ được đặt tên sự chế định nữ tính như vầy rằng Pilotika. Kể rằng du sĩ ấy đang trong độ tuổi thiếu niên có màu da như màu vàng ròng là Buddhupaṭṭhāko làm thị giả Như Lai và đại trưởng lão sáng sớm cầm lấy những vật phụ tùng là ‘gậy 3 chân’[1] và bình đựng nước v.v, ra khỏi Jetavana tiến về phía trước hướng thành phố. Bà-la-môn Jānusoṇi ấy nhìn thấy du sĩ Pilotika đi đến nhưng ở đằng xa. Đã nói…như vậy (etadavoca): Bà-la-môn Jānusoṇi nhớ được rằng du sĩ Pilotika đã từng đến trú xứ theo tuần tự, mới nói lời cụ thể tên tộc “ngài Vacchāyana đến từ đâu?” Bậc trí tưởng rằng (paṇḍito maññeti): này có ý nghĩa như vầy ngài Vacchāyana tưởng tượng Sa-môn Gotama là bậc trí hay không phải bậc trí?
ko cāhaṃ, bhoti, bho, samaṇassa gotamassa paññāveyyattiyaṃ jānane ahaṃ ko nāma? ko ca samaṇassa gotamassa paññāveyyattiyaṃ jānissāmīti kuto cāhaṃ samaṇassa gotamassa paññāveyyattiyaṃ jānissāmi, kena kāraṇena jānissāmīti? evaṃ sabbathāpi attano ajānanabhāvaṃ dīpeti. sopi nūnassa tādisovāti yo samaṇassa gotamassa paññāveyyattiyaṃ jāneyya, sopi nūna dasa pāramiyo pūretvā sabbaññutaṃ patto tādiso buddhoyeva bhaveyya. sineruṃ vā himavantaṃ vā pathaviṃ vā ākāsaṃ vā pametukāmena tappamāṇova daṇḍo vā rajju vā laddhuṃ vaṭṭati. samaṇassa gotamassa paññaṃ jānantenapi tassa ñāṇasadisameva sabbaññutaññāṇaṃ laddhuṃ vaṭṭatīti dīpeti. ādaravasena panettha āmeḍitaṃ kataṃ.
Làm sao tôi có thể biết (ko cāhaṃ, bho): tôi sẽ biết được Sa-môn có trí tuệ và sự sáng suốt từ đâu? Làm sao tôi có thể biết trí tuệ và sự sáng suốt của Sa-môn Gotama được (ko ca samaṇassa gotamassa paññāveyyattiyaṃ jānissāmi): Du sĩ Pilotika thể hiện rằng bản thân không biết thậm chí với mọi cách như vậy, tôi sẽ biết trí tuệ và sự sáng suốt của Sa-môn Gotamā từ đâu? sẽ biết lới lý do gì? Chỉ có người như Sa-môn Gotama (sopi nūnassa tādisovā): Du sĩ Pilotika chỉ ra rằng người nào người nào có thể biết được trí tuệ và sự sáng suốt của Sa-môn Gotama, người đó phải là người thực hành mười pháp ba-la-mật, chứng đắc vô Toàn giác trí là đức Phật như thế, thậm chí những người muốn vẽ núi Sineru, hay núi Himavanta, hay quả địa cầu, hay hư không, cần có cái que hoặc sợi dây khoảng chừng ấy có thể vẽ được, người biết trí tuệ của Sa-môn Gotama cũng cần có được Toàn giác trí giống như của ngài mà thôi. Ngài thực hiện việc nói lập lại này với sự trợ giúp.
uḷārāyāti uttarāya seṭṭhāya. ko cāhaṃ, bhoti, bho, ahaṃ samaṇassa gotamassa pasaṃsane ko nāma? ko ca samaṇaṃ gotamaṃ pasaṃsissāmīti kena kāraṇena pasaṃsissāmi? pasatthapasatthoti sabbaguṇānaṃ uttaritarehi sabbalokapasatthehi attano guṇeheva pasattho, na tassa aññehi pasaṃsanakiccaṃ atthi. yathā hi campakapupphaṃ vā nīluppalaṃ vā padumaṃ vā lohitacandanaṃ vā attano vaṇṇagandhasiriyāva M.2.101 pāsādikañceva sugandhañca, na tassa āgantukehi vaṇṇagandhehi thomanakiccaṃ atthi. yathā ca maṇiratanaṃ vā candamaṇḍalaṃ vā attano ālokeneva obhāsati, na tassa aññena obhāsanakiccaṃ atthi. evaṃ samaṇo gotamo sabbalokapasatthehi attano guṇeheva pasattho thomito sabbalokassa seṭṭhataṃ pāpito, na tassa aññena pasaṃsanakiccaṃ atthi. pasatthehi vā pasatthotipi pasatthapasattho.
Uḷārāya: cao cả, tối thượng. ko cāhaṃ, bho: Ta có thể tán thán Sa-môn từ đâu? Sẽ không tán thán được như thế (ko ca samaṇaṃ gotamaṃ pasaṃsissāmi): tôi sẽ không tán thán vì lý do đó. Bậc tối thượng được tán thán trong các bậc được tán thán: là người tối thượng bởi đức hạnh của chính mình vượt trội hơn người khác bởi tất cả đức hạnh mà người nhân loại tán thán. Ngài không cần thiết để người khác khen ngợi về đức hạnh ấy. Giống như hoa mộc lan, hoặc hoa súng, hoặc hoa sen hoặc trầm hương đỏ, tươi tắn và có hương thơm bởi sự rực rỡ của màu sắc và hương thơm của chúng, chúng không có bổn phận phải khen ngợi vì màu sắc và hương thơm đi kèm với nó, và giống như một viên ngọc quý giá hay mặt trăng phát ra ánh sáng bằng chính ánh sáng của chính nó, không cần thiết phải dựa vào bất kỳ loại ánh sáng nào khác thế nào, thì Sa-môn Gotama cũng thế đó là người mà các bậc trí tán thán, khen ngợi bởi đức hạnh của chính ngài mà toàn bộ thế giới tán thán, là đạt đến sự tối thượng của tất cả thế giới, ngài không cần thiết tìm kiếm sự tán thán của người khác. Lại nữa Sa-môn Gotama là người tối thượng hơn tất cả người tối thượng, do nguyên nhân đó mới gọi là pasatthapasattho nghĩa là người tối thượng hơn cả những người tối thượng.
ke pasatthā nāma? rājā pasenadi kosalo kāsikosalavāsikehi pasattho, bimbisāro aṅgamagadhavāsīhi. vesālikā licchavī vajjiraṭṭhavāsīhi pasatthā. pāveyyakā mallā, kosinārakā mallā, aññepi te te khattiyā tehi tehi jānapadehi pasatthā. caṅkīādayo brāhmaṇā brāhmaṇagaṇehi, anāthapiṇḍikādayo upāsakā anekasatehi upāsakagaṇehi, visākhādayo upāsikā anekasatāhi upāsikāhi, sakuludāyiādayo paribbājakā anekehi paribbājakasatehi, uppalavaṇṇātheriādikā mahāsāvikā anekehi bhikkhunisatehi, sāriputtattherādayo mahāsāvakā anekasatehi bhikkhūhi, sakkādayo devā anekasahassehi devehi, mahābrahmādayo brahmāno anekasahassehi brahmehi pasatthā. te sabbepi dasabalaṃ thomenti vaṇṇenti, pasaṃsantīti bhagavā “pasatthapasattho”ti vuccati.
Còn ai nữa gọi là tối thượng nhất? Đức Vua Pasenadi Kosala là người tối thượng hơn toàn bộ dân chúng Kāsī và Kosala. Đức Vua Bimbisāra tối thượng hơn toàn bộ dân chúng Aṅga và Magadha. Đức Vua Licchavi ở thành Vesālī tối thượng hơn dân chứng ở xứ Vajjī. Đức Vua Mallā thành Pāva, Vua Mallā thành Kosinārā, cả những vị Vua đó đó, vị khác tối thượng hơn dân chúng của xứ sở đó đó. Bà-la-môn có Bà-la-môn Caṅkī tối thượng hơn các Bà-la-môn khác. Nam cư sĩ có trưởng giả Anāthapiṇḍika v.v, là tối thượng hơn so với các nam cư sĩ. Nữ cư sĩ có bà Visākhā v.v, là tối thượng hơn so với nhiều trăm các nữ cư sĩ. Du sĩ có Sakuludāyi v.v, là tối thượng hơn nhiều trăm du sĩ. Đại nữ Thinh Văn có Trưởng lão ni Uppalavaṇṇā v.v, là tối thượng hơn nhiều trăm Tỳ khưu ni. Đại Thinh Văn có Trưởng lão Sarīputta là vị tối thượng hơn nhiều trăm vị Tỳ khưu. Chư Thiên có Vua trời Sakka v.v, là tối thượng hơn hơn tất cả các vị Thiên. Các vị Phạm thiên có Đại Phạm thiên, là tối thượng hơn nhiều nghìn Phạm thiên. Tất cả các vị đó đều khen ngợi tán thán đấng Thập Lực. Do đó, đức Thế Tôn mới được gọi nó là người tối thượng hơn những người tối thượng.
atthavasanti atthānisaṃsaṃ. athassa paribbājako attano pasādakāraṇaṃ ācikkhanto seyyathāpi, bho, kusalo nāgavanikotiādimāha. tattha nāgavanikoti nāgavanavāsiko anuggahitasippo puriso. parato pana uggahitasippo puriso nāgavanikoti āgato. cattāri padānīti cattāri ñāṇapadāni ñāṇavalañjāni, ñāṇena akkantaṭṭhānānīti attho.
Atthavasaṃ dịch là quả báu lợi ích. Khi đó du sĩ trong khi nói về nhân đức tin của bản thân cho Bà-la-môn Soṇusoni mới nói rằng giống như một người săn voi thiện xảo. Ở đó, ‘người săn voi (nāgavaniko)’: người không học nghề săn voi gọi người sống trong rừng nơi có voi là (nāgavanavāsī), còn người học nghề săn voi từ người sống trong rừng có voi gọi người săn voi là (nāgavanika). Bốn dấu chân (cattāri padāni): đôi chân là trí, dấu chân là bốn trí, có nghĩa là vị trí mà trí chạm đến.
289. khattiyapaṇḍitetiādīsu paṇḍiteti paṇḍiccena samannāgate. nipuṇeti saṇhe sukhumabuddhino, sukhumātthantarapaṭivijjhanasamatthe. kataparappavādeti viññātaparappavāde ceva parehi saddhiṃ katavādaparicaye ca. vālavedhirūpeti vālavedhidhanuggahasadise. te bhindantā maññe carantīti vālavedhi viya vālaṃ sukhumānipi paresaṃ diṭṭhigatāni attano paññāgatena bhindantā viya carantīti attho. pañhaṃ abhisaṅkharontīti dupadampi tipadampi catuppadampi pañhaṃ karonti. vādaṃ āropessāmāti dosaṃ āropessāma. na ceva samaṇaṃ gotamaṃ pañhaṃ pucchantīti; kasmā na pucchanti?
289. Bậc trí trong cụm từ Sát-đế-lỵ trí tuệ là vị hội đủ với tính chất của bậc trí. Nipuṇe dịch là người chi tiết, là người biết được ý nghĩa một cách chi tiết, bao gồm người có thể thâm nhập được ý nghĩa chi tiết khác. Người nghị luận biện tài (kataparappavāde) là biết nghị luận (dùng lý lẽ của mình để thuyết phục người khác) và biết biện tài. Vālavedhirūpe dịch là một cung thủ (có thể) bắn trúng sợi tóc. Những vị Sát-đế-lỵ trí tuệ di du hành như muốn đả phá các quan điểm (te bhindantā maññe caranti): đi du hành có vẻ như để đả phá quan điểm của người khác, chi tiết bằng trí tuệ của mình như thể một người cung thủ có thể bắn trúng sợi tóc. Cùng nhau nghĩ cột (đặt) vấn đề (pañhaṃ abhisaṅkharonti) đặt 2 vấn đề, hay đặt 3 vấn đề, hay đặt 4 vấn đề. Chúng tôi sẽ chất vấn (vādaṃ āropessāma): chúng tôi sẽ bắt lỗi. Cũng không hỏi vấn đề cùng Sa-môn Gotama (na ceva samaṇaṃ gotamaṃ pañhaṃ pucchanti); vì sao lại không hỏi?
bhagavā kira parisamajjhe dhammaṃ desento parisāya ajjhāsayaṃ oloketi, tato passati — “ime khattiyapaṇḍitā guḷhaṃ rahassaṃ pañhaṃ ovaṭṭikasāraṃ katvā āgatā”ti. so tehi apuṭṭhoyeva evarūpe pañhe pucchāya ettakā dosā, vissajjane ettakā, atthe pade akkhare ettakāti ime pañhe pucchanto evaṃ puccheyya, vissajjento evaṃ vissajjeyyāti, iti ovaṭṭikasāraṃ katvā ānīte pañhe dhammakathāya antare pakkhipitvā viddhaṃseti. khattiyapaṇḍitā “seyyo vata no, ye mayaṃ ime pañhe na pucchimhā, sace hi mayaṃ puccheyyāma, appatiṭṭheva no katvā samaṇo gotamo khipeyyā”ti attamanā bhavanti.
Kể rằng đức Thế Tôn khi thuyết giảng Pháp ở giữa hội chúng ngài xem xét khuynh hướng của hội chúng, từ đó mới thấy rằng – “những vị Sát-đế-lỵ trí tuệ đó đã đến đặt vấn đề một cách kín đáo gọi là ovaṭṭikasāraṃ vấn đề quanh co”. Ngài không muốn cho các Sát-đế-lỵ trí tuệ hỏi bởi ngài biết rằng: “trong việc hỏi vấn đề có lỗi lầm chừng ấy, trong khi trả lời vấn đề có lỗi lầm chừng ấy, trong ý nghĩa câu, văn tự có lỗi lầm chừng ấy, hỏi như vậy khi trả lời phải trả lời như vậy.” Vì thế, đã đặt vấn đề ở giữa Pháp thoại rồi phá hủy vấn đề mà Sát-đế-lỵ trí tuệ đem lại đặt thành vấn đề ovaṭṭikasāraṃ bởi cách đó. Những vị Sát-đế-lỵ trí tuệ trở nên hoan hỷ “Quả thật may mắn cho chúng ta, chúng ta không cần hỏi vấn đề này, nếu có thể chúng tôi sẽ hỏi như vậy, Sa-môn Gotama có thể làm cho chúng ta tuyệt vọng (không còn đường lui).”
apica buddhā nāma dhammaṃ desentā parisaṃ mettāya pharanti, mettāpharaṇena dasabale mahājanassa cittaṃ pasīdati, buddhā ca nāma rūpaggappattā honti dassanasampannā madhurassarā mudujivhā suphusitadantāvaraṇā P.2.198 amatena hadayaṃ siñcantā viya dhammaṃ kathenti. tatra nesaṃ mettāpharaṇena pasannacittānaṃ evaṃ hoti — “evarūpaṃ advejjhakathaṃ amoghakathaṃ niyyānikakathaṃ kathentena bhagavatā saddhiṃ na sakkhissāma paccanīkaggāhaṃ gaṇhitun”ti attano pasannabhāveneva na pucchanti.
Và hơn nữa, thông thường chư Phật khi thuyết giảng Giảo Pháp sẽ rải tâm từ đến khắp hội chúng, đại chúng ắt có tâm tịnh tín nơi đấng Thập Lực nhờ việc rải tâm từ. Chư Phật có sắc thân tuyệt mỹ, đáng nhìn, có âm thanh êm dịu, có lưỡi mềm mại, có hàm răng đều đặn, thuyết Pháp như tưới mát tâm (của người nghe) bằng nước bất tử. Ở nơi đó những người đó có tâm tịnh tín do (ngài) rải tâm từ, cũng có suy nghĩ như vầy – “Chúng ta không thể tự biến mình làm kẻ thù của đức Thế Tôn, vị không nói hai lời, lời nói không trống rỗng, lời nói dẫn dắt chúng sanh thoát khỏi khổ đau bằng hình thức như vậy” mới không hỏi do bản thân tịnh tín (nơi ngài).
aññadatthūti ekaṃsena. sāvakā sampajjantīti saraṇagamanavasena sāvakā honti. tadanuttaranti taṃ anuttaraṃ. brahmacariyapariyosānanti maggabrahmacariyassa pariyosānabhūtaṃ arahattaphalaṃ, tadatthāya hi te pabbajanti. manaṃ vata, bho, anassāmāti, bho, sace mayaṃ na upasaṅkameyyāma, iminā thokena anupasaṅkamanamattena apayirupāsanamatteneva naṭṭhā bhaveyyāma. upasaṅkamanamattakena panamhā na naṭṭhāti attho. dutiyapadaṃ purimasseva vevacanaṃ. assamaṇāva samānātiādīsu V.2.100 pāpānaṃ asamitattā assamaṇāva. abāhitattā ca pana abrāhmaṇāva. kilesārīnaṃ ahatattā anarahantoyeva samānāti attho.
Aññadatthu: với một phần. Trở thành đệ tử (sāvakā sampajjanti): là đệ tử nhờ việc đến nương nhờ. Tadanuttaraṃ = taṃ anuttaraṃ. Ở tận cùng của phạm hạnh (brahmacariyapariyosānaṃ): Thánh A-ra-hán Quả là tận cùng của con đường phạm hạnh. Thật vậy, những Sa-môn Bà-la-môn đó xuất gia vì lợi ích A-ra-hán Quả ấy. Chúng tôi quả thật không thiệt hại chăng? (manaṃ vata, bho, anassāmā): Thưa ngài, nếu tôi không thể vào xem tôi có thể bị thiệt hại, bởi vì không được đến gần dù chỉ chút ít, nhưng chúng tôi không thiệt hại bởi vì chỉ đơn thuần được đến yết kiến. Câu thứ 2 cũng là từ đồng nghĩa của câu thứ nhất, trong lời rằng “không phải là Sa-môn” v.v, Gọi là không phải Sa-môn bởi không vắng lặng ác pháp, gọi là không phải Bà-la-môn bởi không thả trôi ác pháp và không phải là bậc A-ra-hán bởi không tiêu diệt được kẻ thù là phiền não.
290. udānaṃ udānesīti udāhāraṃ udāhari. yathā hi yaṃ telaṃ mānaṃ gahetuṃ na sakkoti, vissanditvā gacchati, taṃ avasekoti vuccati, yañca jalaṃ taḷākaṃ gahetuṃ na sakkoti, ajjhottharitvā gacchati, taṃ oghoti vuccati. evameva yaṃ pītimayaṃ vacanaṃ hadayaṃ gahetuṃ na sakkoti, adhikaṃ hutvā anto asaṇṭhahitvā bahi nikkhamati, taṃ udānanti vuccati. evarūpaṃ pītimayaṃ vacanaṃ nicchāresīti attho. hatthipadopamoti hatthipadaṃ upamā assa dhammassāti hatthipadopamo. so na ettāvatā vitthārena paripūro hotīti dasseti. nāgavanikoti uggahitahatthisippo hatthivanacāriko. atha kasmā idha kusaloti na vuttoti? parato “yo hoti kusalo”ti vibhāgadassanato. yo hi koci pavisati, yo pana kusalo hoti, so neva tāva niṭṭhaṃ gacchati. tasmā idha kusaloti avatvā parato vutto.
290. Cảm hứng ngữ (udānaṃ udānesi): thốt ra những lời nên thốt ra. Giống như dầu nào không thể bám được trong bình, mà chảy đi, dầu đó được gọi là avaseka (chất lỏng) tự thấm đi. và nước nào không thể dính ở hồ tự tràn ra nước đó gọi là dòng nước như thế nào, cũng tương tự y như thế lời nói phát sanh từ sự vui mừng nào không thể nắm giữ được ở trong lòng, phải thốt ra bên ngoài không thể ở bên trong thì lời đó gọi Udāna (Cảm Hứng). Tức là thốt ra lời khởi lên từ sự vui mừng bằng hình thức như vậy. Giống như dấu chân voi (hatthipadopamo): Phân tích rằng dấu chân voi giống như Pháp đó, do vậy Pháp đó được gọi là ‘có dấu chân voi là ví dụ’. Ngài thuyết rằng Pháp đó không trọn vẹn, tổng quát với nguyên nhân chỉ chừng ấy. Thợ săn voi (nāgavaniko): thợ săn voi, người đã được học tập huấn luyện voi. (Hỏi) nếu vậy, tại sao ở đây không gọi là người thiện xảo. (Đáp) bởi vì trình bày tách rời đặt ở phía sau rồi ‘yo hoti kusalo (người nào thiện xảo’ Thật vậy, những người bước vào, nếu là người thiện xảo họ sẽ không quyết định trước, vì vậy ở đây ngài không nói người thiện xảo ở trước.
291. vāmanikāti rassā āyāmatopi na dīghā mahākucchihatthiniyo. uccā ca nisevitanti sattaṭṭharatanubbedhe vaṭarukkhādīnaṃ khandhappadese ghaṃsitaṭṭhānaṃ. uccā kāḷārikāti uccā ca yaṭṭhisadisapādā hutvā, kāḷārikā ca dantānaṃ kaḷāratāya. tāsaṃ kira eko danto unnato hoti, eko onato. ubhopi ca viraḷā honti, na āsannā. uccā ca dantehi ārañjitānīti sattaṭṭharatanubbedhe vaṭarukkhādīnaṃ khandhappadese pharasunā pahataṭṭhānaṃ viya dāṭṭhāhi chinnaṭṭhānaṃ. uccā kaṇerukā nāmāti uccā ca yaṭṭhisadisadīghapādā hutvā, kaṇerukā ca dantānaṃ kaṇerutāya, tā kira makuḷadāṭhā honti. tasmā kaṇerukāti vuccanti. so niṭṭhaṃ gacchatīti so nāgavaniko yassa vatāhaṃ nāgassa anupadaṃ āgato, ayameva so, na añño. yañhi ahaṃ paṭhamaṃ padaṃ disvā vāmanikānaṃ padaṃ idaṃ bhavissatīti niṭṭhaṃ na gato, yampi tato orabhāge disvā kāḷārikānaṃ bhavissati, kaṇerukānaṃ bhavissatīti niṭṭhaṃ na gato, sabbaṃ taṃ imasseva mahāhatthino padanti mahāhatthiṃ disvāva niṭṭhaṃ gacchati.
291. Vāmanikā: Voi cái bụng bự, ngắn, chiều dài không dài. Bị cọ xát ở chỗ cao (uccā ca nisevitaṃ): Nơi con voi cọ xát ở cây đa v.v, cao 7-8 hắt tay. uccā kāḷārikā: Có chân cao như cây gậy và được gọi là Kāḷārikā bởi vì có cặp ngà đen đỏ. Họ nói rằng con voi cái đó một bên ngà quay lên và một bên ngà quay xuống, và cả hai cách xa không gần nhau. những vật cao bị ngà voi đâm xuyên thủng (uccā ca dantehi ārañjitāni): những chỗ bị nhai đứt giống như lấy cái rìu chặt ở chỗ cây đa cao 7-8 hắt tay. uccā kaṇerukā nāmā: có chân dài giống như cây gậy và được gọi là Kareṇukā bởi có ngà đang phát triển, họ nói rằng con voi cái này có ngà đang phát triển, vì thế ngài gọi là Kareṇukā. đi đến kết luận (so niṭṭhaṃ gacchati): người thợ săn voi ấy không quyết định rằng tôi đã đi đến theo dấu chân voi nào, con voi đó chính là con này, không phải con voi nào khác. Tôi sau khi đã nhìn thấy dấu chân voi đầu tiên nào, vẫn không đi đến kết luận rằng dấu chân của con voi đầu tiên có thể là dấu chân của voi Vāmanikā, lần theo gặp dấu chân nơi đó vẫn chưa quyết định rằng có thể là dấu chân của voi cái Kāḷārikā hoặc của voi cái Kaṇerukā, chỉ khi nhìn thấy con voi to lớn thật sự mới đi đến kết luận rằng toàn bộ dấu chân đó là của chính con voi to lớn này.
evameva khoti ettha idaṃ opammasaṃsandanaṃ — nāgavanaṃ viya hi ādito paṭṭhāya yāva nīvaraṇappahānā dhammadesanā veditabbā. kusalo nāgavaniko viya yogāvacaro; mahānāgo viya sammāsambuddho; mahantaṃ hatthipadaṃ viya jhānābhiññā. nāgavanikassa tattha tattha hatthipadaṃ disvāpi vāmanikānaṃ padaṃ bhavissati, kāḷārikānaṃ kaṇerukānaṃ padaṃ bhavissatīti aniṭṭhaṅgatabhāvo viya yogino, imā jhānābhiññā nāma bāhirakaparibbājakānampi M.2.104 santīti aniṭṭhaṅgatabhāvo. nāgavanikassa, tattha tattha mayā diṭṭhaṃ padaṃ imasseva mahāhatthino, na aññassāti mahāhatthiṃ disvā niṭṭhaṅgamanaṃ viya ariyasāvakassa arahattaṃ patvāva niṭṭhaṅgamanaṃ. idañca pana opammasaṃsandanaṃ matthake ṭhatvāpi kātuṃ vaṭṭati. imasmimpi ṭhāne vaṭṭatiyeva. anukkamāgataṃ pana pāḷipadaṃ gahetvā idheva kataṃ.
evameva kho: ở đây điều này nên biết rằng đây là ví dụ minh họa để cho thấy – “Nên biết lời thuyết giảng Giáo Pháp được thiết lập kể từ lúc bắt đầu đến dứt trừ Pháp ngăn che giống như voi rừng. Hành giả giống như người săn voi thiện xảo, bậc Chánh Đẳng Chánh Giác giống như Long Tượng, Thiền và Thắng Trí giống như dấu chân voi lớn, điều mà hành giả không xác định rằng – thông thường Thiền và Thắng Trí này có được kể cả đối với nhưng du sĩ ngoài Phật Giáo, giống như điều mà người thợ săn voi nhìn thấy dấu chân voi ở chỗ đó vẫn không đi đến kết luận rằng ‘sẽ là dấu chân của voi cái Vāmanikā, của voi cái cái Kāḷārikā hoặc của voi cái Kaṇerukā’. Điều mà vị Thánh Thinh Văn đã chứng đắc Quả vị A-ra-hán rồi quyết định, cũng giống như người thợ săn voi đã nhìn thấy con voi to lớn rồi đưa ra quyết định rằng dấu chân mà ta nhìn thấy ở nơi đó phải là dấu chân của thớt tượng to lớn đó, không phải con voi nào khác, cũng vậy nó sẽ là phù hợp để so sánh ví dụ này cho đến khi kết thúc. Thậm chí ở đây cũng phù hợp tương tự. Nhưng phải láy Pāḷī theo tuần tự thực hiện duy nhất ở chỗ này.
tattha idhāti desāpadese nipāto. svāyaṃ katthaci lokaṃ upādāya vuccati. yathāha — “idha tathāgato loke uppajjatī”ti (dī. ni. 1.279). katthaci sāsanaṃ. yathāha — “idheva, bhikkhave, samaṇo, idha dutiyo samaṇo”ti (a. ni. 4.241). katthaci okāsaṃ. yathāha —
“idheva tiṭṭhamānassa, devabhūtassa me sato.
punarāyu ca me laddho, evaṃ jānāhi mārisā”ti. (dī. ni. 2.369; dī. ni. aṭṭha. 1.190).
katthaci padapūraṇamattameva. yathāha — “idhāhaṃ, bhikkhave, bhuttāvī assaṃ pavārito”ti (ma. ni. 1.30). idha pana lokaṃ upādāya vuttoti veditabbo. idaṃ vuttaṃ hoti “brāhmaṇa imasmiṃ loke tathāgato uppajjati arahaṃ … pe … buddho bhagavā”ti.
Ở đó, từ idha là một phân từ, được sử dụng với ý nghĩa đề cập đến chỗ ở. Một số chỗ từ idha ngài nói đề cập đến thế gian giống như đã nói rằng ‘Như Lai xuất hiện ở thế gian’ (dī. ni. 1.279). Một số chỗ ngài nói ám chỉ đến Tôn Giáo tương tự như lời ngài nói “Này chư Tỳ khưu, chỉ trong Tôn Giáo này có Sa-môn thứ nhất, Sa-môn thứ 2…” (a. ni. 4.241). Một số chỗ ngài nói với ý nghĩa okāsā, như ngài đã nói –
“Trong khi ta là vị thiên trú ở trong chính hư không này.
Ta cũng có được tuổi thọ, vị đã thoát mọi khổ đau, ngài hãy biết như vậy. (dī. ni. 2.369; dī. ni. aṭṭha. 1.190).
Một số chỗ ngài nói đề cập đến (với ý nghĩa) chỉ làm cho câu được đầy đủ như được thuyết – “Này chư Tỳ khưu, ta đã thọ dụng xong, nên khước từ vật thực.” (ma. ni. 1.30). Nhưng ở đây nên biết rằng ngài nói đề cập đến ‘thế gian’. Ngài giải thích rằng: “Này Bà-la-môn, Như Lai xuất hiện ở trên đời này, là bậc A-ra-hán… là người đã tỉnh thức, là người phân tích Pháp.”
tattha tathāgatasaddo mūlapariyāye, arahantiādayo visuddhimagge vitthāritā. loke uppajjatīti ettha pana lokoti okāsaloko sattaloko saṅkhāralokoti tividho. idha pana sattaloko adhippeto. sattaloke uppajjamānopi ca tathāgato na devaloke, na brahmaloke, manussalokeyeva uppajjati. manussalokepi na aññasmiṃ cakkavāḷe, imasmiṃyeva cakkavāḷe. tatrāpi na sabbaṭṭhānesu, “puratthimāya disāya gajaṅgalaṃ nāma nigamo. tassāparena mahāsālo, tato parā paccantimā janapadā, orato majjhe. puratthimadakkhiṇāya disāya sallavatī nāma nadī, tato parā paccantimā janapadā, orato majjhe. dakkhiṇāya disāya setakaṇṇikaṃ nāma nigamo, tato parā paccantimā janapadā, orato majjhe. pacchimāya disāya thūṇaṃ nāma brāhmaṇagāmo, tato parā paccantimā janapadā, orato majjhe. uttarāya disāya usiraddhajo nāma pabbato, tato parā paccantimā janapadā, orato majjhe”ti (mahāva. 259) evaṃ paricchinne āyāmato tiyojanasate vitthārato aḍḍhateyyayojanasate parikkhepato navayojanasate majjhimapadese uppajjati.
Trong từ đó, từ ‘Như Lai’ ngài đã nói chi tiết trong bài Kinh Pháp Môn Căn Bản. Từ ‘A-ra-hán’ v.v, ngài đã nói chi tiết trong Thanh Tịnh Đạo. Xuất hiện trong thế gian (loke uppajjati): này thế gian có 3 là okāsaloko (hư không thế giới) sattaloko (chúng sanh thế giới) saṅkhāraloko (Pháp hành thế giới). Trong trường hợp này ngài muốn nói đến sattaloko (chúng sanh thế giới). Như Lai dù xuất hiện trong thế gian (ngài) không xuất hiện trong thế giới chư Thiên, không sanh trong thế giới Phạm thiên chỉ sanh ra trong cõi nhân loại mà thôi; cũng không sanh trong vũ trụ khác, chỉ sanh trong vũ trụ này mà thôi. Dẫu trong vũ trụ ấy cũng không sanh ở mọi nơi, sanh ở trung tâm thành dài 300 do-tuần, rộng 250 do-tuần, diện tích 900 do-tuần. Ngài xác định như vầy, “Ở hướng Đông có thị trấn tên là Kajaṅgala, xa hơn chỗ đó là Mahāsālā, xa hơn nữa là các xứ thuộc vùng biên địa, từ đó trở lại là thuộc trung tâm. Ở hướng Đông Nam, có dòng sông tên là Salavatī, từ đó trở đi là các xứ thuộc vùng biên địa, từ đó trở lại là thuộc trung tâm. Ở hướng Nam, có thị trấn tên là Setakaṇṇika, từ đó trở đi là các xứ thuộc vùng biên địa, từ đó trở lại là thuộc trung tâm. Ở hướng Tây, có làng Bà-la-môn tên là Thūṇa, từ đó trở đi là các xứ thuộc vùng biên địa, từ đó trở lại là thuộc trung tâm. Ở hướng Bắc, có ngọn núi tên là Usīraddhaja, từ đó trở đi là các xứ thuộc vùng biên địa, từ đó trở lại là thuộc trung tâm.” (mahāva. 259).
na kevalañca tathāgatova, paccekabuddhā aggasāvakā asīti mahātherā buddhamātā buddhapitā cakkavattī rājā aññe ca sārappattā brāhmaṇagahapatikā ettheva uppajjanti. tattha tathāgato sujātāya dinnamadhupāyasabhojanato paṭṭhāya yāva arahattamaggo, tāva uppajjati nāma. arahattaphale uppanno nāma. mahābhinikkhamanato vā yāva arahattamaggo. tusitabhavanato vā yāva arahattamaggo. dīpaṅkarapādamūlato vā yāva arahattamaggo, tāva uppajjati nāma. arahattaphale uppanno nāma. idha sabbapaṭhamaṃ uppannabhāvaṃ sandhāya uppajjatīti vuttaṃ P.2.201, tathāgato loke uppanno hotīti ayañhettha attho.
Không chỉ Như Lai mà thôi, đức Phật Độc Giác, (hai vị) Thinh Văn hàng đầu, tám mươi vị Đại Trưởng lão, người mẹ của đức Phật, người cha của đức Phật, đức Chuyển Luân Thánh Vương, vị Bà-la-môn và gia chủ khác, đều sanh ra ở trung tâm. Trong trung tâm đó Như Lai gọi là xuất hiện, kể từ khi thọ dụng cơm sữa mà tín nữ Sujātā cúng dường cho đến khi chứng đắc A-ra-hán Đạo, khi ấy gọi là sanh, trong A-ra-hán Quả gọi là đã sanh. Hoặc khi nào vị ấy đã thực hiện sự xuất gia vĩ đại đến chứng đắc A-ra-hán Đạo, hoặc từ Ðâu Suất Đà Thiên cho đến A-ra-hán Đạo, hoặc từ pādamūla của đức Phật Dīpaṅkara cho đến A-ra-hán Đạo, khi đó gọi là đang sanh, trong A-ra-hán Quả gọi là đã sanh. Ở đây, ngài muốn đề cập đến bản thể Như Lai xuất hiện trước hết tất cả mới gọi là đang sanh. Ở đây, điều này có nghĩa là Như Lai đã xuất hiện ở thế gian (tathāgato loke uppanno hoti).
so imaṃ lokanti so bhagavā imaṃ lokaṃ, idāni vattabbaṃ nidasseti. sadevakanti saha devehi sadevakaṃ. evaṃ saha mārena samārakaṃ. saha brahmunā sabrahmakaṃ. saha samaṇabrāhmaṇehi sassamaṇabrāhmaṇiṃ. pajātattā pajā, taṃ pajaṃ. saha devamanussehi sadevamanussaṃ. tattha sadevakavacanena pañcakāmāvacaradevaggahaṇaṃ veditabbaṃ. samārakavacanena chaṭṭhakāmāvacaradevaggahaṇaṃ. sabrahmakavacanena brahmakāyikādibrahmaggahaṇaṃ. sassamaṇabrāhmaṇivacanena sāsanassa paccatthipaccāmittasamaṇabrāhmaṇaggahaṇaṃ samitapāpabāhitapāpasamaṇabrāhmaṇaggahaṇañca. pajāvacanena sattalokaggahaṇaṃ. sadevamanussavacanena sammutidevāvasesamanussaggahaṇaṃ. evamettha tīhi padehi okāsalokena saddhiṃ sattaloko, dvīhi pajāvasena sattalokova gahitoti veditabbo.
Thế gian này: đức Thế Tôn đó thuyết thế gian này, cần phải nói lúc này. Cùng với chư Thiên gọi là sadevakaṃ. Cùng với Ma Vương gọi là māraka. Cùng với Phạm thiên gọi là sabrahmaka. Cùng với Sa-môn và Bà-la-môn gọi là samaṇabrāhmaṇī. Gọi là pajā (quần sanh) bởi vì sanh khởi phổ biến. Cùng với chư Thiên và nhân loại gọi là sadevamanussa. Trong lời đó nên biết nắm lấy 5 hạng chư Thiên dục giới bằng từ sadevakaṃ, nắm lấy Dục giới cõi thứ 6 bằng từ samāraka. nắm lấy Phạm chúng thiên v.v, bằng từ sabrahmaka, Sa-môn và Bà-la-môn là kẻ thù nghịch của Giáo phái và vị vắng lặng ác pháp, người thả trôi ác pháp với lời sassamaṇabrāhmaṇī. Chúng sanh ở thế gian với từ Pajā. Chư Thiên chế định và người nhân loại còn lại với từ sadevamanussa. Chúng sanh thế gian với hư không thế giới nên biết rằng ngài nắm lấy với 3 câu, duy nhất chúng sanh thế gian nên biết rằng ngài nắm lấy với sức mạnh quần sanh với cả 2 câu (với vị trí và người) trong lời này.
aparo nayo — sadevakaggahaṇena arūpāvacaradevaloko gahito. samārakaggahaṇena chakāmāvacaradevaloko. sabrahmakaggahaṇena rūpī brahmaloko. sassamaṇabrāhmaṇādiggahaṇena catuparisavasena sammutidevehi vā saha manussaloko avasesasabbasattaloko vā.
Và hơn nữa – Vô sắc giới ngài nắm lấy với từ sadevaka, 6 cõi trời Dục giới với từ samāraka, Phạm thiên sắc giới với từ sabrahmaka, cõi người hoặc chúng sanh còn lại trong thế gian với chế định chư Thiên ngài nắm lấy với mãnh lực 4 hội chúng với từ sassamaṇabrāhmaṇa v.v.
apicettha sadevakavacanena ukkaṭṭhaparicchedato sabbassa lokassa sacchikatabhāvamāha. tato yesaṃ ahosi — “māro mahānubhāvo chakāmāvacarissaro vasavattī. kiṃ sopi etena sacchikato”ti? tesaṃ vimatiṃ vidhamanto samārakanti āha. yesaṃ pana ahosi — “brahmā mahānubhāvo, ekaṅguliyā ekasmiṃ cakkavāḷasahasse ālokaṃ pharati, dvīhi … pe … dasahi aṅgulīhi dasasu cakkavāḷasahassesu ālokaṃ pharati, anuttarañca jhānasamāpattisukhaṃ paṭisaṃvedeti. kiṃ sopi sacchikato”ti? tesaṃ vimatiṃ vidhamanto sabrahmakanti āha.
Và lại nữa, ở đây ngài nói đến tính chất mà đức Thế Tôn làm cho rõ rằng toàn bộ thế gian bằng việc phân biệt cao độ bằng từ sadevaka. Từ đó khi cắt đứt sự hoài nghi của nhóm người có sự suy nghĩ rằng: “Ma Vương Vasavattī là người đại oai lực trong sáu cõi Chư thiên dục giới, thậm chí vậy ngài đã làm cho thấy rõ rồi sao? Như vậy mới thuyết rằng cùng với thế giới Ma Vương. Lại nữa, khi cắt đứt sự hoài nghi của nhóm người có suy nghĩ rằng – “Phạm thiên có đại oai lực, sử dụng một ngón tay hào quang lan tỏa khắp một ngàn vũ trụ, hào quang lan tỏa mười ngàn vũ trụ, với ngón tay…nt…với mười ngón tay và thọ hưởng an lạc khởi lên từ sự thể nhập thiền tối thắng, chính Phạm thiên ấy ngài làm cho thấy rõ như vậy, mới thuyết rằng cùng với thế giới Phạm thiên.
tato ye cintesuṃ — “puthū samaṇabrāhmaṇā sāsanassa paccatthikā, kiṃ tepi sacchikatā”ti? tesaṃ vimatiṃ vidhamanto sassamaṇabrāhmaṇiṃ pajanti āha. evaṃ ukkaṭṭhukkaṭṭhānaṃ sacchikatabhāvaṃ pakāsetvā atha sammutideve avasesamanusse ca upādāya ukkaṭṭhaparicchedavasena sesasattalokassa sacchikatabhāvaṃ pakāsento sadevamanussanti āha. ayamettha bhāvānukkamo. porāṇā panāhu — sadevakanti devatāhi saddhiṃ avasesalokaṃ. samārakanti mārena saddhiṃ avasesalokaṃ. sabrahmakanti brahmehi saddhiṃ avasesalokaṃ. evaṃ sabbepi tibhavūpage satte tīhākārehi tīsu padesu pakkhipetvā puna dvīhi padehi pariyādiyanto “sassamaṇabrāhmaṇiṃ pajaṃ sadevamanussan”ti āha. evaṃ pañcahi padehi tena tenākārena tedhātukameva pariyādinnanti.
Từ đó khi cắt đứt sự hoài nghi của nhóm người có suy nghĩ rằng – “Sa-môn và Bà-la-môn là nhiều, là kẻ thù của Giáo phái ấy, ngài làm cho thấy rõ rồi sao? như vậy mới thuyết rằng cùng với Sa-môn và Bà-la-môn. Khi đó ngài tuyên thuyết tính chất làm cho thấy rõ Ma Vương, Sa-môn và Bà-la-môn ấy với sự phân tích cao tột như vậy. Khi đó khi tuyên thuyết tính chất làm cho thấy rõ thế giới thế giới chúng sanh còn lại với sự xác định cao độ ám chỉ đến chế định chư Thiên và người nhân loại còn lại mới thuyết rằng cùng với chư Thiên và loài người. Ở đây có sự giải thích ý nghĩa theo thứ tự như vầy. Bậc trưởng thượng xưa nói rằng sadevakaṃ bao gồm thế giới còn lại với nhóm chư Thiên. Samārakaṃ bao gồm thế giới còn lại với Ma Vương. Sabrahmakaṃ bao gồm thế giới còn lại với nhóm Phạm thiên. Ngài đặt nhóm chúng sanh sanh lên ở Tam giới toàn bộ đặt ở 3 câu (vị trí), với 3 biểu hiện, khi xác định nắm lấy câu đầu với cả 2 nữa mới nói rằng ‘sassamaṇabrāhmaṇiṃ pajaṃ sadevamanussaṃ’. Điều mà ngài xác định chỉ nắm lấy Tam giới với biểu hiện đó đó, với cả năm câu bằng cách như vậy.
sayaṃ abhiññā sacchikatvā pavedetīti sayanti sāmaṃ aparaneyyo hutvā. abhiññāti abhiññāya, adhikena ñāṇena ñatvāti attho. sacchikatvāti paccakkhaṃ katvā. etena anumānādipaṭikkhepo kato hoti. pavedetīti bodheti viññāpeti pakāseti. so dhammaṃ deseti ādikalyāṇaṃ … pe … pariyosānakalyāṇanti so bhagavā sattesu kāruññataṃ paṭicca hitvāpi anuttaraṃ vivekasukhaṃ dhammaṃ deseti. tañca kho appaṃ vā bahuṃ vā desento ādikalyāṇādippakārameva deseti. ādimhipi kalyāṇaṃ bhaddakaṃ anavajjameva katvā deseti. majjhepi… pariyosānepi kalyāṇaṃ bhaddakaṃ anavajjameva katvā desetīti vuttaṃ hoti.
Đã tự mình nhận thức rõ bằng thắng trí (sayaṃ abhiññā sacchikatvā pavedeti) sayaṃ dịch là tự mình. Abhiññā: sự thông hiểu đặt biệt, có nghĩa là đã biết bằng trí tuệ đặc biệt. Sacchikatvā: làm cho (nhận thức) rõ ràng. Là điều mà ngài đã bác bỏ phỏng đoán với cầu này. Pavedeti: làm cho tỉnh thức, làm cho rõ ràng, làm cho hiểu biết. Như Lai thuyết giảng Giáo Pháp toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa và toàn hảo ở đoạn cuối (so dhammaṃ deseti ādikalyāṇaṃ … pe … pariyosānakalyāṇaṃ): Đức Thế Tôn dựa vào lòng bi mẫn đối với chúng sanh, thuyết giảng có sự an lạc khởi lên từ việc viễn ly cao thượng, khi thuyết giảng Pháp đó dù ít hay nhiều (ngài) cũng đều thuyết giảng có sự toàn hảo ở đoạn đầu v.v, tức là sự toàn hảo sự phát triển không có lỗi lầm ở đoạn đầu, thuyết giảng sự toàn hảo sự phát triển không có lỗi lầm ở đoạn giữa, và cả ở đoạn cuối.
tattha atthi desanāya ādimajjhapariyosānaṃ, atthi sāsanassa. desanāya tāva catuppadikāyapi gāthāya paṭhamapādo ādi nāma, tato dve majjhaṃ nāma, ante eko pariyosānaṃ nāma. ekānusandhikassa suttassa nidānamādi, idamavocāti pariyosānaṃ, ubhinnaṃ antarā majjhaṃ. anekānusandhikassa suttassa paṭhamānusandhi ādi, ante anusandhi pariyosānaṃ, majjhe eko vā dve vā bahū vā majjhameva. sāsanassa pana sīlasamādhivipassanā ādi nāma. vuttampi cetaṃ — “ko cādi kusalānaṃ dhammānaṃ, sīlañca suvisuddhaṃ, diṭṭhi ca ujukā”ti (saṃ. ni. 5.369). “atthi, bhikkhave, majjhimā paṭipadā tathāgatena abhisambuddhā”ti evaṃ vutto pana ariyamaggo majjhaṃ nāma, phalañceva nibbānañca pariyosānaṃ nāma.
Ở đó, thuyết giảng ở đoạn đầu, ở đoạn giữa, và ở đoạn cuối, Tôn Giáo cũng tương tự như thế. nói đến ‘thuyết giảng’ trước, đối với kệ ngôn có 4 câu, câu đầu gọi là đoạn đầu của sự thuyết giảng, đoạn 2 trở đi gọi là đoạn giữa, và câu cuối cùng gọi là đoạn cuối. Bài Kinh có một sự liên kết nidāna là bắt đầu, idamavoca là đoạn cuối ở giữa ở cả hai đoạn gọi là đoạn giữa. Bài Kinh có nhiều sự liên kết là đoạn đầu, sự liên kết cuối là đoạn cuối ở chính giữa một sự liên kết, hai sự liên kết hoặc nhiều sự liên kết là đoạn giữa. Còn về Tôn Giáo ‘Giới Định và Minh Sát’ gọi là đoạn đầu. Và điều này đã được nói – “Cái gì là đoạn đầu của các thiện pháp, giới khéo thanh tịnh và sự nhận thức ngay thẳng” (saṃ. ni. 5.369). “Này chư Tỳ khưu, thực hành trung đạo mà Như Lai tự mình chứng ngộ cao thượng” như vậy Thánh Đạo được ngài nói gọi là đoạn giữa, Quả và Niết bàn gọi là đoạn cuối.
“etadatthamidaṃ, brāhmaṇa, brahmacariyametaṃ sāraṃ, etaṃ pariyosānan”ti (ma. ni. 1.324) hi ettha phalaṃ pariyosānanti vuttaṃ. “nibbānogadhañhi P.2.203, āvuso visākha, brahmacariyaṃ vussati nibbānaparāyaṇaṃ nibbānapariyosānan”ti (ma. ni. 1.466) ettha nibbānaṃ pariyosānanti vuttaṃ. idha desanāya ādimajjhapariyosānaṃ adhippetaṃ. bhagavā hi dhammaṃ desento ādimhi sīlaṃ dassetvā majjhe maggaṃ pariyosāne nibbānaṃ dasseti. tena vuttaṃ — “so dhammaṃ deseti ādikalyāṇaṃ majjhekalyāṇaṃ pariyosānakalyāṇan”ti. tasmā aññopi dhammakathiko dhammaṃ kathento —
Thật vậy, Quả ngài gọi đoạn cuối trong lời này “này Bà-la-môn, phạm hạnh này có lợi ích như vậy, có cốt lỗi như vậy, có kết thúc như vậy.” (ma. ni. 1.324). Niết bàn ngài gọi là đoạn cuối trong lời này “Này hiền giả Visākha, sống trong sự thực hành phạm hạnh lĩnh hội Niết bàn có Niết bàn ở đoạn đầu, có Niết bàn ở đoạn cuối.” Ở đây, ngài muốn đề cập đến đoạn đầu, đoạn giữa và đoạn cuối của bài thuyết giảng. Thật vậy, đức Thế Tôn khi thuyết giảng Giáo Pháp, thuyết giảng giới ở đoạn đầu, thuyết giảng Đạo ở đoạn giữa, thuyết giảng Niết bàn ở đoạn cuối. Vì thế, ngài mới nói rằng “Như Lai thuyết giảng Giáo Pháp toàn hảo đoạn đầu, toàn ở đoạn giữa và toàn hảo đoạn cuối.” Cho nên, vị Pháp sư nào khác thuyết giảng Giáo Pháp –
“ādimhi sīlaṃ dasseyya, majjhe maggaṃ vibhāvaye.
pariyosānamhi nibbānaṃ, esā kathikasaṇṭhitī”ti. (dī. ni. aṭṭha. 1.190).
sātthaṃ sabyañjananti yassa hi yāgubhattaitthipurisādivaṇṇanā nissitā desanā hoti, na so sātthaṃ deseti. bhagavā pana tathārūpaṃ desanaṃ pahāya catusatipaṭṭhānādinissitaṃ desanaṃ deseti. tasmā “sātthaṃ desetī”ti vuccati. yassa pana desanā ekabyañjanādiyuttā vā sabbaniroṭṭhabyañjanā vā sabbavissaṭṭhasabbaniggahītabyañjanā vā, tassa damiḷakirāsavarādimilakkhūnaṃ bhāsā viya byañjanapāripūriyā abhāvato abyañjanā nāma desanā hoti. bhagavā pana —
Hãy thuyết giảng giới ở đoạn đầu, giải thích Đạo ở đoạn giữa.
Niết bàn ở đoạn cuối, đây là nền tảng của một vị Pháp sư. (dī. ni. aṭṭha. 1.190).
Thành tựu về ý nghĩa, thành tựu về văn tự (sātthaṃ sabyañjanaṃ) nghĩa là bài thuyết giảng của vị Pháp sư nào y cứ vào sự giảng giải về những vấn đề cơm cháo, đàn bàn, đàn ông v.v, vị Pháp sư đó thuyết giảng Giáo Pháp không thành tựu về ý nghĩa. Còn đức Thế Tôn từ bỏ sự thuyết giảng như thế, (ngài) thuyết giảng dựa vào bốn sự thiết lập niệm v.v. Vì thế ngài đã nói rằng: “Vị thuyết giảng Giáo Pháp thành tựu về ý nghĩa”. Lại nữa, lời thuyết giảng của vị Tỳ khưu nào gắn liền với một văn tự v.v, hoặc các văn tự không rõ ràng, hoặc các phụ âm mở toàn bộ, nhấn mạnh toàn bộ, lời thuyết giảng của vị Tỳ khưu đó gọi là không có văn tự, giống như ngôn ngữ của người Milakkha, như bộ tộc Damiḷa, bộ tộc người rừng, và bộ tộc người lùn v.v. Còn đối với đức Thế Tôn từ bỏ sự thuyết giảng như vậy, không loại bỏ 10 loại byañjanabuddhi như sau –
“sithilaṃ dhanitañca dīgharassaṃ, garukaṃ lahukañca niggahītaṃ.
sambandhaṃ vavatthitaṃ vimuttaṃ, dasadhā byañjanabuddhiyā pabhedo”ti. (dī. ni. aṭṭha. 1.190) —
(Phụ âm) không bật hơi/nhấn, (phụ âm) bật hơi/nhấn, trường âm, đoản âm, (nguyên âm) giọng nặng, (nguyên âm) giọng nhẹ, âm mũi, những phụ âm trước ghép với nguyên âm sau (sambandha), những chữ trước đọc tách rời với chữ sau (vavatthita) và những phụ âm tụng phải mở miệng đọc rõ, không ngậm miệng, không để cho hơi lên lỗ mũi (vimutta), là căn bản việc giải thích 10 loại byañjanabuddhi (dī. ni. aṭṭha. 1.190).
evaṃ vuttaṃ dasavidhaṃ byañjanaṃ amakkhetvā paripuṇṇabyañjanameva katvā dhammaṃ deseti. tasmā “sabyañjanaṃ dhammaṃ desetī”ti vuccati.
Như vậy, sự thuyết giảng Giáo Pháp có đầy đủ văn tự, vì thế ngài mới gọi là thuyết giảng Giáo Pháp thành tựu về văn tự.
kevalaparipuṇṇanti ettha kevalanti sakalādhivacanaṃ. paripuṇṇanti anūnādhikavacanaṃ. idaṃ vuttaṃ hoti — “sakalaparipuṇṇameva deseti, ekadesanāpi aparipuṇṇā natthī”ti. parisuddhanti nirupakkilesaṃ. yo hi idaṃ dhammadesanaṃ nissāya lābhaṃ vā sakkāraṃ vā labhissāmīti deseti, tassa aparisuddhā desanā hoti. bhagavā pana lokāmisanirapekkho P.2.204 hitapharaṇena mettābhāvanāya muduhadayo ullumpanasabhāvasaṇṭhitena cittena deseti. tasmā “parisuddhaṃ dhammaṃ desetī”ti vuccati.
Kevalaṃ trong từ kevalaparipuṇṇaṃ (hoàn toàn đầy đủ), paripuṇṇa dịch là không thiếu không dư (đầy đủ), ngài giải thích như vầy “sự thuyết giảng Giáo Pháp một cách trọn vẹn. Thậm chí không có một bài giảng nào là không đầy đủ.” parisuddhaṃ dịch là thoát khỏi tùy phiền nào (sự buồn rầu). Thật vậy, vị Pháp sư nào dựa vào sự thuyết giảng Giáo Pháp để thuyết giảng mong muốn đạt được lợi lộc hoặc sự cung kính, sự thuyết giảng của vị Pháp sư đó không thanh tịnh. Còn đối với đức Thế Tôn không mong muốn tài vật thuyết Pháp (do thuyết Pháp mà có), có tấm lòng bi mẫn (luôn nghĩ đến người khác) bằng sự tu tập từ tâm với sư việc rải tâm từ vì sự lợi ích, thuyết giảng với suy nghĩ mong muốn cho người lắng nghe được an trú ở trạng thái cao nhất, vi thế Ngài mới gọi là “Sự thuyết giảng Giáo Pháp thanh tịnh”.
brahmacariyaṃ pakāsetīti ettha brahmacariyanti sikkhattayasaṅgahaṃ sakalasāsanaṃ. tasmā brahmacariyaṃ pakāsetīti so dhammaṃ deseti ādikalyāṇaṃ … pe … parisuddhaṃ, evaṃ desento ca sikkhattayasaṅgahitaṃ sakalasāsanaṃ brahmacariyaṃ pakāsetīti evamettha attho daṭṭhabbo. brahmacariyanti seṭṭhaṭṭhena brahmabhūtaṃ cariyaṃ. brahmabhūtānaṃ vā buddhādīnaṃ cariyanti vuttaṃ hoti.
Toàn bộ lời dạy được nhiếp thâu bởi ba học giới ngài gọi là phạm hạnh trong cụm từ “tuyên thuyết Phạm hạnh”, vi thế Ngài mới là tuyên thuyết Phạm hạnh. “Ngài thuyết pháp sơ thiện…nt…trong sạch” nên thấy y nghĩa như vầy, đức Thế Tôn khi thuyết giảng như vậy gọi là tuyên thuyết phạm hạnh là toàn bộ lời dạy được nhiếp thâu với 3 học giới. Ngài giải thích rằng sự thực hành tối thượng hoặc sự thực hành của đức Phật v.v, người tối thượng bởi ý nghĩa là tối thượng nhất gọi là Phạm hạnh.
taṃ dhammanti taṃ vuttappakārasampadaṃ dhammaṃ. suṇāti gahapati vāti kasmā paṭhamaṃ gahapatiṃ niddisatīti? nihatamānattā ussannattā ca. yebhuyyena hi khattiyakulato pabbajitā jātiṃ nissāya mānaṃ karonti. brāhmaṇakulā pabbajitā mante nissāya mānaṃ karonti. hīnajaccakulā pabbajitā attano vijātitāya patiṭṭhātuṃ na sakkonti. gahapatidārakā pana kacchehi sedaṃ muñcantehi piṭṭhiyā loṇaṃ pupphamānāya bhūmiṃ kasitvā nihatamānadappā honti. te pabbajitvā mānaṃ vā dappaṃ vā akatvā yathābalaṃ buddhavacanaṃ uggahetvā vipassanāya kammaṃ karontā sakkonti arahatte patiṭṭhātuṃ. itarehi ca kulehi nikkhamitvā pabbajitā nāma na bahukā, gahapatikāva bahukā, iti nihatamānattā ussannattā ca paṭhamaṃ gahapatiṃ niddisatīti.
Pháp đó: Pháp thành tựu với những điều như đã nói đó. (Hỏi) vì sao? đức Thế Tôn chỉ đến người gia chủ trước rằng ‘suṇāti gahapati (này gia chủ…nghe Pháp đó)’. (Đáp) bởi vì người gia chủ nhổ bỏ ngã mạn được và có số lượng nhiều. Thật vậy, hầu hết những vị xuất gia từ dòng dõi vua chúa thường khởi lên ngã mạn do nhờ sanh chủng. Xuất gia từ dòng dõi Bà-la-môn thường khởi ngã mạn do nhờ các chú thuật, xuất gia từ dòng dõi thấp kém cũng khó an trú được bởi vì bản thân có sanh chủng khác biệt. Còn những đứa trẻ trong gia đình người gia chủ có mồ hôi nhễ nhại sau khi cày xới đất, nhổ bỏ ngã mạn và tính kiêu ngạo, những đứa trẻ đó đã được xuất gia và không có ngã mạn hay tính kiêu ngạo, đã học lời Phật tùy theo năng lực của mình. Thực hành phận sự Minh Sát có thể vững trú trong quả vị A-la-hán. Người được gọi là xuất gia lìa bỏ gia đình, ngoài ra không nhiều, nhóm gia chủ đó có nhiều, nên Đức Thế Tôn mới chỉ ra gia chủ trước do nhờ loại bỏ được ngã mạn và có nhiều.
aññatarasmiṃ vāti itaresaṃ vā kulānaṃ aññatarasmiṃ. paccājātoti patijāto. tathāgate saddhaṃ paṭilabhatīti parisuddhaṃ dhammaṃ sutvā dhammassāmimhi tathāgate “sammāsambuddho vata bhagavā”ti saddhaṃ paṭilabhati. iti paṭisañcikkhatīti evaṃ paccavekkhati. sambādho gharāvāsoti sacepi saṭṭhihatthe ghare yojanasatantarepi vā dve jāyampatikā vasanti, tathāpi nesaṃ sakiñcanasapalibodhaṭṭhena gharāvāso sambādhoyeva. rajopathoti rāgarajādīnaṃ uṭṭhānaṭṭhānanti mahāaṭṭhakathāyaṃ V.2.106 vuttaṃ. āgamanapathotipi vaṭṭati.
Aññatarasmiṃ vā: Hoặc ngoài những dòng dõi này, bất kỳ dòng dõi nào. Paccājātoti dịch là (người) hậu sanh. Đạt được đức tin nơi Như Lai (tathāgate saddhaṃ paṭilabhati): sau khi lắng nghe Pháp được thanh tịnh, đạt được đức tin nơi Như Lai người chủ nhân của Pháp rằng “đức Thế Tôn quả thật là bậc Chánh Đẳng Chánh Giác.” Paṭisañcikkhati: Quán xét thấy như vây. Đời sống gia định đầy ràng buộc (sambādho gharāvāso): Dù cả hai vợ chồng sống trong ngôi nhà cách xa nhau sáu mươi hắt tay, hoặc giữa một trăm do-tuần mặc dầu vậy người gia chủ cũng gọi là chật hẹp bởi ý nghĩa hai vợ chồng ấy có sự lo lắng, có sự quan tâm lẫn nhau. Con đường đầy những bụi đời (rajopatho) ngài nói rằng trong đại ý nghĩa rằng vị trí thiết lập của của những bụi bẩn là ai luyến v.v. thậm chí nói rằng con đường đến (của bụi trần) cũng được.
alagganaṭṭhena abbhokāso viyāti abbhokāso. pabbajito hi kūṭāgāraratanapāsādadevavimānādīsu pihitadvāravātapānesu paṭicchannesu vasantopi neva laggati na sajjati na bajjhati. tena vuttaṃ — “abbhokāso pabbajjā”ti. apica sambādho gharāvāso kusalakiriyāya okāsābhāvato. rajopatho asaṃvutasaṅkāraṭṭhānaṃ viya rajānaṃ kilesarajānaṃ sannipātaṭṭhānato. abbhokāso pabbajjā kusalakiriyāya yathāsukhaṃ okāsasabbhāvato.
Việc xuất gia như thể ở ngoài trời do bởi ý nghĩa không buộc chặt do đó mới gọi là abbhokāso (phóng khoáng như hư không). Thật vậy, người đã xuất gia dầu sống trong tòa lâu nguy nga bằng ngọc và cung điện, v.v. với những cánh cửa lớn và cửa sổ đóng kín mà họ đã che giấu cũng không mắc vào, không bám vào, không dính vào. Vì vậy, ngài mới nói rằng: “việc xuất gia chói sáng như hư không.” Và hơn nữa, người tại gia cư sĩ gọi là chật hẹp, bởi vì không có cơ hội làm phước. Gọi là con đường đầy những bụi đời (rajopatho) bởi là nơi tập hợp của bụi trần phiền não, tương tự như nơi chất chứa rác thải mà họ chẳng quan tâm, người xuất gia gọi là chói sáng như hư không bởi vì có cơ làm phước tùy thích.
nayidaṃ sukaraṃ … pe … pabbajeyyanti ettha ayaṃ saṅkhepakathā — yadetaṃ sikkhattayabrahmacariyaṃ ekampi divasaṃ akhaṇḍaṃ katvā carimakacittaṃ pāpetabbatāya ekantaparipuṇṇaṃ. ekadivasampi ca kilesamalena amalinaṃ katvā carimakacittaṃ pāpetabbatāya ekantaparisuddhaṃ, saṅkhalikhitaṃ likhitasaṅkhasadisaṃ dhotasaṅkhasappaṭibhāgaṃ caritabbaṃ, idaṃ na sukaraṃ agāraṃ ajjhāvasatā agāramajjhe vasantena ekantaparipuṇṇaṃ … pe … carituṃ. yaṃnūnāhaṃ kese ca massuñca ohāretvā kāsāyarasapītatāya kāsāyāni brahmacariyaṃ carantānaṃ anucchavikāni vatthāni acchādetvā paridahitvā agārasmā nikkhamitvā anagāriyaṃ pabbajeyyanti. ettha ca yasmā agārassa hitaṃ kasivāṇijjādikammaṃ agāriyanti vuccati, tañca pabbajjāya natthi. tasmā pabbajjā anagāriyāti ñātabbā, taṃ anagāriyaṃ. pabbajeyyanti paṭipajjeyyaṃ. appaṃ vāti sahassato heṭṭhā bhogakkhandho appo nāma hoti, sahassato paṭṭhāya mahā. ābandhanaṭṭhena ñāti eva parivaṭṭo ñātiparivaṭṭo. so vīsatiyā heṭṭhā appo hoti, vīsatiyā paṭṭhāya mahā.
Thật rất khó cho một người sống ở gia đình có thể sống thực hành phạm hạnh…nt…sống không gia đình (nayidaṃ sukaraṃ … pe … pabbajeyyaṃ): ở đây điều này được nói vắn tắt – Phạm hạnh là 3 học giới này đây gọi là hoàn toàn đầy đủ bởi vì làm không đứt quãng dầu chỉ một ngày cũng có thể đạt đến tâm cuối cùng và gọi là hoàn toàn trong sạch vì không bị u ám do cấu uế phiền não dù chỉ một ngày cũng đạt đến tâm cuối cùng. Trắng bạch như vỏ ốc (saṅkhalikhitaṃ) có thể thực hành tương tự với vỏ ốc được đánh bóng, so sánh với vỏ ốc đã được đánh bóng. Một người sống ở gia đình…thật khó để sống thực hành… (idaṃ na sukaraṃ agāraṃ ajjhāvasatā): Thật rất khó cho một người sống ở gia đình có thể sống thực hành phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, một phần như vỏ ốc. Nếu vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo y kāsāya được nhuộm bằng vỏ cây phù hợp đối với việc thực hành Phạm hạnh, rời khỏi gia đình, xuất gia trở thành vị tu sĩ sống không nhà”. Vì công việc làm ruộng và buôn bán v.v. hỗ trợ cho gia chủ được gọi người sống không nhà và phận sự sống không nhà không có đối với vị xuất gia, cho nên người xuất gia nên biết rằng không có nhà (anagāriya) trong lời này. Không có phận sự của người gia chủ. Xuất gia (pabbajeyyaṃ) dịch là vị xuất gia nên thực hành. Ít nhiều (appaṃ vā) nghĩa là tài sản ít hơn một nghìn trở xuống gọi là ít, nhiều hơn một nghìn trở lên gọi là nhiều. Gia đình là thân quyến, gọi là thân bằng quyến thuộc với ý nghĩa ràng buộc, thân quyến ít hơn 20 người gọi là ít, nhiều hơn 20 người gọi là nhiều.
292. bhikkhūnaṃ sikkhāsājīvasamāpannoti yā bhikkhūnaṃ adhisīlasaṅkhātā sikkhā, tañca, yattha cete saha jīvanti ekajīvikā sabhāgavuttino M.2.110 honti, taṃ bhagavatā paññattasikkhāpadasaṅkhātaṃ sājīvañca tattha sikkhanabhāvena samāpannoti bhikkhūnaṃ sikkhāsājīvasamāpanno. samāpannoti sikkhaṃ paripūrento, sājīvañca avītikkamanto hutvā tadubhayaṃ upagatoti attho. pāṇātipātaṃ pahāyātiādīsu pāṇātipātādikathā heṭṭhā vitthāritā eva. pahāyāti imaṃ pāṇātipātacetanāsaṅkhātaṃ dussīlyaṃ pajahitvā. paṭivirato hotīti pahīnakālato paṭṭhāya tato dussīlyato orato viratova hoti. nihitadaṇḍo nihitasatthoti parūpaghātatthāya daṇḍaṃ vā satthaṃ vā ādāya avattanato nikkhittadaṇḍo ceva nikkhittasattho cāti attho. ettha ca ṭhapetvā daṇḍaṃ sabbampi avasesaṃ upakaraṇaṃ sattānaṃ vihiṃsanabhāvato satthanti veditabbaṃ. yaṃ pana bhikkhū kattaradaṇḍaṃ vā dantakaṭṭhavāsiṃ vā pipphalakaṃ vā gahetvā vicaranti, na taṃ parūpaghātatthāya. tasmā nihitadaṇḍo nihitasatthotveva saṅkhaṃ gacchati.
292. Vị ấy thành tựu học giới và nếp sống các Tỳ khưu (bhikkhūnaṃ sikkhāsājīvasamāpanno): Vị Tỳ khưu gọi là thành tựu do học tập trong các học giới được nói là Tăng thượng giới và quy tắc sống là giới luật mà đức Thế Tôn đã chế định đối với chúng Tỳ khưu người cùng cộng trú, có cuộc sống đồng đẳng, có sự thực hành tương đương. Vì vậy gọi là Vị ấy thành tựu học giới và nếp sống (giới luật) các Tỳ khưu. Thành tựu (samāpanno) nghĩa là thực hiện các điều giới trọn vẹn và không xao lãng đối với quy tắc sống đạt đến cả hai là học giới và nếp sống. Nói rằng pāṇātipātā trong cụm từ ‘pāṇātipātaṃ pahāya’ (từ bỏ sự sát sanh) v.v, ngài giảng giải chi tiết phần dưới. ‘Từ bỏ’ bao gồm từ bỏ các ác giới, Tư (cetanā) được gọi là sự sát hại này. Tránh xa sự sát sanh (paṭivirato hoti) nghĩa là tránh xa sự ác giới đó kể từ thời điểm đã dứt trừ. Bỏ gậy gộc, bỏ vũ khí (nihitadaṇḍo nihitasattho): vứt bỏ cả gậy lẫn dao (những vật sắc bén) vì không cầm đi để sát hại chúng. Ở đây thậm chí những vật dụng còn lại toàn bộ đều vứt bỏ luôn cả khúc gỗ, nên biết rằng con dao bởi vì nó là một phương tiện gây hại cho tất cả các loài chúng sanh. Các vị Tỳ khưu mang theo gậy hoặc dao để vót tăm xỉa răng hoặc dao bỏ túi, không dùng để giết được xem là vứt bỏ gậy và dao.
lajjīti pāpajigucchanalakkhaṇāya lajjāya samannāgato. dayāpannoti dayaṃ mettacittataṃ āpanno. sabbapāṇabhūtahitānukampīti sabbe pāṇabhūte hitena anukampako. tāya dayāpannatāya sabbesaṃ pāṇabhūtānaṃ hitacittakoti attho. viharatīti iriyati pāleti.
Cảm thấy hổ thẹn (lajjī) gồm người có sự xấu hổ, có sự ghét bỏ ác là trạng thái. Có lòng thương xót (dayāpanno) bao gồm người có lòng trắc ẩn, tính chất người có tâm từ. Có lòng bi mẫn mong điều lợi ích cho tất cả chúng sanh (sabbapāṇabhūtahitānukampi) bao gồm là người có lòng thương xót tất cả chúng sanh và các loài hữu tình với điều lợi ích. tức là người có tâm thương xót đến tất cả chúng sanh và các loài hữu tình bởi vì là người có lòng bi mẫn. Sống (viharati) bao gồm làm cho tự thân duy trì, bảo vệ tự thân.
dinnameva ādiyatīti dinnādāyī. cittenapi dinnameva paṭikaṅkhatīti dinnapāṭikaṅkhī. thenetīti theno. na thenena athenena. athenattāyeva sucibhūtena. attanāti attabhāvena, athenaṃ sucibhūtaṃ attabhāvaṃ katvā viharatīti vuttaṃ hoti.
Một người tên là Dinnādāyī bởi chỉ lấy những vật đã cho, gọi là dinnapāṭikaṅkhī chỉ mong những vật đã cho. Người nào lấy của người khác gọi là trộm cắp. Không trộm gọi là athenena không phải kẻ trộm. Gọi là người trong sạch bởi là người không trộm cắp. Attanā dịch là với bản ngã, ngài nói rằng nếu vậy vị ấy giữ cho tự ngã được trong sạch.
abrahmacariyanti aseṭṭhacariyaṃ. brahmaṃ seṭṭhaṃ ācāraṃ caratīti brahmacārī. ārācārīti abrahmacariyato dūracārī. methunāti rāgapariyuṭṭhānavasena sadisattā methunakāti laddhavohārehi paṭisevitabbato methunāti saṅkhaṃ gatā asaddhammā. gāmadhammāti gāmavāsīnaṃ dhammā.
Phi phạm hạnh (abrahmacariyaṃ): thực hành không cao thượng. Gọi là phạm hạnh do thực hành phẩm hạnh cao thượng nhất. Ārācārī: người thực hành xa rời phạm hạnh. Methuna (việc đôi lứa): Phi Pháp được xem là việc đôi lứa do (thực hiện) sự giao hợp được quy định rằng – thực hiện việc đôi lứa như thể bị ái luyến vây hãm. Gāmadhammā: Pháp của người tại gia cư sĩ.
saccaṃ vadatīti saccavādī. saccena saccaṃ sandahati ghaṭetīti saccasandho, na antarantarā musā vadatīti attho. yo hi puriso kadāci musā vadati, kadāci saccaṃ, tassa musāvādena antaritattā saccaṃ saccena na ghaṭīyati M.2.111. tasmā na so saccasandho, ayaṃ pana na tādiso, jīvitahetupi musāvādaṃ avatvā saccena saccaṃ sandahatiyevāti saccasandho. thetoti thiro, thirakathoti attho. eko hi puggalo haliddirāgo viya, thusarāsimhi nikhātakhāṇu viya, assapiṭṭhe ṭhapitakumbhaṇḍamiva ca na thirakatho hoti. eko pāsāṇalekhā viya indakhilo viya ca thirakatho hoti; asinā sīse chijjantepi dve kathā na katheti; ayaṃ vuccati theto P.2.207.
Saccavādī: do nói lời chân thật. Saccasandho: nhờ lấy sự chân thật với sự chân thật liên kết với nhân, tức là không nói dối. Thật vậy, người nào thỉnh thoảng nói dối, thỉnh nói thật không lấy sự chân thật với sự chân thật liên kết với nhau bởi vì sự chân thật với nói dối không chung bên trong, vì thế người đó không gọi là lấy sự chân thật với sự chân thật liên kết nhau nhưng người này không phải tìm kiếm như vậy. Người không nói lời không chân thật, dẫu có ảnh hưởng đến sinh mạng cũng chỉ lấy sự chân thật với sự chân thật kết hợp với nhau để nói mọi chuyện, vì thế gọi là saccasandho ( y chỉ trên sự thật). Theto: chắc chắn, người nói chắc chắn (lời nói có cơ sở). Thật vậy, một người có lời nói không chắc chắn (không có cơ sở) giống như được nhuộm với củ nghệ, giống như cái cọc đóng trong đống trấu, như quả bí người ấy đặt trên lưng ngựa. Một người có lời nói chắc chắn như thể chữ khắc trên đá và giống như trên cột trụ, ngay cả khi lấy thanh gươm chặt đầu (vị ấy) cũng không nói hai lời, người này được gọi là theto (người nói lời chắc chắn).
paccayikoti pattiyāyitabbako, saddhāyikoti attho. ekacco hi puggalo na paccayiko hoti, “idaṃ kena vuttaṃ, asukenā”ti vutte “mā tassa vacanaṃ saddahathā”ti vattabbataṃ āpajjati. eko paccayiko hoti, “idaṃ kena vuttaṃ, asukenā”ti vutte, “yadi tena vuttaṃ, idameva pamāṇaṃ, idāni upaparikkhitabbaṃ natthi, evameva idan”ti vattabbataṃ āpajjati, ayaṃ vuccati paccayiko. avisaṃvādako lokassāti tāya saccavāditāya lokaṃ na visaṃvādetīti attho.
Đáng tin cậy (paccayiko): người đáng tin, tức là người đáng đặt lòng tin. Quả thật một số người là người không đáng tin, khi họ hỏi lời này rằng: ‘ai nói’, vị ấy đáp ‘người kia’ cũng bị người nghe nói ‘đừng tin vào lời người đó’. Một số người là người đáng tin, khi được hỏi lời này ‘ai nó lời nói này?’ vị ấy đáp ‘người kia’ cũng nhận được lời xác nhận rằng ‘vị ấy nói vừa đủ chừng ấy không cần hỏi nữa vấn đề là này như thế’, đây được gọi là người đáng tin cậy. Không nói lời ngược lại với đời (avisaṃvādako lokassa) không nói lời lường gạt thế gian do thường nói lời chân thật ấy.
imesaṃ bhedāyāti yesaṃ ito sutvāti vuttānaṃ santike sutaṃ, tesaṃ bhedāya. bhinnānaṃ vā sandhātāti dvinnampi mittānaṃ vā samānupajjhāyakādīnaṃ vā kenacideva kāraṇena bhinnānaṃ ekamekaṃ upasaṅkamitvā “tumhākaṃ īdise kule jātānaṃ evaṃ bahussutānaṃ idaṃ na yuttan”tiādīni vatvā sandhānaṃ kattā. anuppadātāti sandhānānuppadātā, dve jane samagge disvā, “tumhākaṃ evarūpe kule jātānaṃ evarūpehi guṇehi samannāgatānaṃ anucchavikametan”tiādīni vatvā daḷhīkammaṃ kattāti attho. samaggo ārāmo assāti samaggārāmo. yattha samaggā natthi, tattha vasitumpi na icchatīti attho. “samaggarāmo”tipi pāḷi, ayamevettha attho. samaggaratoti samaggesu rato, te pahāya aññatra gantumpi na icchatīti attho. samagge disvāpi sutvāpi nandatīti samagganandī. samaggakaraṇiṃ vācaṃ bhāsitāti yā vācā satte samaggeyeva karoti, taṃ sāmaggiguṇaparidīpakameva vācaṃ bhāsati, na itaranti.
Để sanh chia rẽ ở những người này (imesaṃ bhedāya): để làm hại những người nghe trong nhóm của người nói rằng: ‘đã nghe từ chỗ này’. Sống gần gũi với những người chia rẽ (bhinnānaṃ vā sandhātā): trong khi 2 phía là bạn hoặc người có quan hệ họ hàng với nhau cùng với thầy tế độ tương tự v.v, chia rẽ với một số chuyện, người đáng tin cậy đi vào từng nhóm, nói lời nói hòa giải rằng: “sự việc như vầy có phù hợp với các ngài sanh ra trong dòng dõi như thế, những bậc nghe nhiều chăng?” Khuyến khích (anuppadātā): Người ủng hộ giúp đỡ kẻ hòa họp, tức là người đáng tin khi nhìn thấy người cả hai phe sống hòa hợp rồi vị ấy đã làm cho vững chắc “việc như này là phù hợp đối với các ngài, người sanh ra ở dòng dõi như vậy, người gắn liền với đức hạnh như vậy.” Thỏa thích trong sự hòa hợp (samaggārāmo): do có người sống hòa hợp (vị ấy) trở nên hoan hỷ, tức là ở nơi nào người sống không có sự hòa hợp, thì (vị ấy) không mong muốn sống ở nơi đó. Pāḷī như vầy ‘samaggarāmo’ cũng có, ý nghĩa cũng tương tự như vậy. hoan hỷ trong sự hòa hợp (samaggarato): vị ấy hoan hỷ với sự hòa hợp, tức là không ước muốn từ bỏ người sống hòa hợp để đi đến nơi khác. Gọi là hân hoan đối với người sống hòa hợp bởi người đáng tin cậy đó, dầu nhìn thấy, hay đã nghe trong sự hợp nhất sẽ hân hoan. Là người nói lời tạo ra sự hợp nhất (samaggakaraṇiṃ vācaṃ bhāsitā): hạng người đáng tin ấy nói lời nói làm cho người khác hòa hợp, là lời nói bày tỏ sự khen ngợi của việc hợp nhất, ngoài ra không nói lời trái nghịch (lưỡng ngôn).
nelāti elaṃ vuccati doso, nāssā elanti nelā, niddosāti attho. “nelaṅgo setapacchādo”ti ettha vuttanelaṃ viya. kaṇṇasukhāti byañjanamadhuratāya kaṇṇānaṃ sukhā, sūcivijjhanaṃ viya kaṇṇasūlaṃ na janeti. atthamadhuratāya sakalasarīre kopaṃ ajanetvā pemaṃ janetīti pemanīyā. hadayaṃ gacchati, apaṭihaññamānā sukhena cittaṃ pavisatīti hadayaṅgamā. guṇaparipuṇṇatāya pure bhavāti porī, pure saṃvaddhanārī viya sukumārātipi porī, purassa esātipi porī, nagaravāsīnaṃ kathāti attho P.2.208. nagaravāsino hi yuttakathā honti, pitimattaṃ pitāti, mātimattaṃ mātāti, bhātimattaṃ bhātāti vadanti. evarūpī kathā bahuno janassa kantā hotīti bahujanakantā. kantabhāveneva bahuno janassa manāpā cittavuddhikarāti bahujanamanāpā.
Lỗi lầm (ela) trong từ nela (không có lỗi lầm): lời nói gọi là không có lỗi lầm do không có lỗi lầm từ lời nói đó. tức là lời nói không có lỗi lầm ‘nela’ giống như từ nela mà đức Thế Tôn đặt trong kệ ngôn này ‘nelaṅgo setapacchādo (Không chút lỗi lầm, có mái che màu trắng)’ v.v. Êm tai (kaṇṇasukhā): lời nói dịu ngọt vui tai, tức là không sanh khởi gây chướng tai giống như bị một cái dùi đâm thẳng vào tai, bằng lời nói du dương nhờ các văn tự. Gọi là lời nói làm chỗ thiết lập sự yêu thương, bởi vì lời nói ấy không gây ra sự tức giận, làm cho thấm nhuần khắp cơ thể, bởi lời nói êm dịu nhờ ý nghĩa. Gọi là lời nói làm cho say đắm bởi vì lời nói đó đi vào tim, là chạm đến không bị cản trở dễ dàng chạm thẳng đến tâm. Gọi là lời nói của cư dân thành phố bởi vì lời nói ấy có trong thành phố, nhân làm lời nói được trọn vẹn bởi nhờ đức hạnh (guṇa). thiếu niên thiếu nữ được lớn lên trong thành phố gọi là người dân thành phố (Porī). Gọi là Porī bởi vì lời nói đó là lời nói của người dân thành phố như vậy cũng có, tức là lời nói của cư dân thành phố, bởi vì người dân thành phố có lời nói thích hợp là gọi người thế hệ cha chú là cha mẹ, người thế hệ mẹ là mẹ, thế hệ anh chị gọi là anh chị. Gọi là người có lời nói làm đẹp lòng nhiều người: với lời nói như vậy, là lời nói mà đa số người ưa thích. Gọi là lời nói làm hợp ý nhiều người: bởi lời nói đó làm chỗ ưa thích, là làm cho tăng trưởng tâm đối với nhiều người, bởi là lời nói mà chính tất cả mọi người yêu thích.
kālena vadatīti kālavādī, vattabbayuttakālaṃ sallakkhetvā vadatīti attho. bhūtaṃ tacchaṃ sabhāvameva vadatīti bhūtavādī. diṭṭhadhammikasamparāyikatthasannissitameva katvā vadatīti atthavādī V.2.109. navalokuttaradhammasannissitaṃ katvā vadatīti dhammavādī. saṃvaravinayapahānavinayasannissitaṃ katvā vadatīti vinayavādī. nidhānaṃ vuccati ṭhapanokāso, nidhānamassā atthīti nidhānavatī, hadaye nidhātabba yuttavācaṃ bhāsitāti attho.
Nói đúng thời: bởi vì nói theo thời, tức là người ấy xác định thời điểm thích hợp nói rồi mới nói. Người nói toàn lời chân thật: do nói lời chân thật, là lời thật, hoàn toàn là lời chân thật. Nói những lời hữu ích: bởi người nói đã thực hiện hoàn toàn dựa vào lợi ích trong đời này và lợi ích ở đời sau. Gọi là người thường nói dựa vào Pháp bởi vì người nói đã thực hiện dựa vào chín Pháp Siêu thế. Gọi là người thường nói dựa vào Luật bởi vì người nói đã thực hiện dựa vào luật thu thúc (saṃvaravinaya) và luật từ bỏ (pahānavinaya). Cơ hội được thiết lập ngài gọi là chứng cứ, cơ sở của lời nói ấy tồn tại, lý do đó, lời nói ấy gọi là có cơ sở. Tức là người đáng tin cậy ấy là người nói lời nói thích hợp, nên ghi nhớ lời ấy.
kālenāti evarūpiṃ bhāsamānopi ca “ahaṃ nidhānavatiṃ vācaṃ bhāsissāmī”ti na akālena bhāsati, yuttakālaṃ pana avekkhitvā bhāsatīti attho. sāpadesanti saupamaṃ, sakāraṇanti attho. pariyantavatinti paricchedaṃ dassetvā yathāssā paricchedo paññāyati, evaṃ bhāsatīti attho. atthasaṃhitanti anekehipi nayehi vibhajantena pariyādātuṃ asakkuṇeyyatāya atthasampannaṃ, yaṃ vā so atthavādī atthaṃ vadati, tena atthena saṃhitattā atthasaṃhitaṃ vācaṃ bhāsati, na aññaṃ nikkhipitvā aññaṃ bhāsatīti vuttaṃ hoti.
Vào thời điểm thích hợp: người đáng tin cậy ấy dầu nói lời bằng hình thức như vậy cũng không nói vào thời điểm không thích hợp bởi (vị ấy) cho rằng lời này có cơ sở như thế, nhưng suy xét thời gian đó thích hợp rồi mới nói. Với những lý lẽ (sāpadesaṃ): có nghĩa là có lý do, có ví dụ. Có suy xét đúng đắn (pariyantavatiṃ): có nghĩa là tận cùng của lời nói ấy xuất hiện bằng cách nào thì người đáng tin đó nói ra tận cùng cách ấy. Gắn liền với lợi ích (atthasaṃhitaṃ) gọi là thành tựu với lợi ích bởi lời nói ấy không thể chia cắt thành nhiều cách để hiểu và nói lời nói đó gọi là gắn liền với lợi ích bởi lời nói đó là lời nói gắn liền với lợi ích mà người nói mong muốn lợi ích (đến người nghe), giải thích rằng (người đáng tin cậy ấy) không nói bất cứ điều gì khi đã đặt lời nói xuống.
293. bījagāmabhūtagāmasamārambhāti mūlabījaṃ khandhabījaṃ phaḷubījaṃ aggabījaṃ bījabījanti pañcavidhassa bījagāmassa ceva yassa kassaci nīlatiṇarukkhādikassa bhūtagāmassa ca samārambhā, chedanabhedanapacanādibhāvena vikopanā paṭiviratoti attho.
Tránh xa việc làm hại các hạt giống và các loài thảo mộc: tránh xa việc làm hại, là từ việc chặt đốn với tính chất của hành động như việc cắt bỏ, việc làm hại, và việc thiêu đốt v.v, đến năm loại hạt giống là mầm giống từ rễ, mầm giống từ thân, mầm giống từ mắt chồi, mầm giống từ phần ngọn, mầm giống từ hạt và các loại thảo mộc như cỏ, và cây xanh v.v, bất cứ một loại nào.
Ekabhattikoti pātarāsabhattaṃ sāyamāsabhattanti dve bhattāni, tesu pātarāsabhattaṃ antomajjhanhikena paricchinnaṃ, itaraṃ majjhanhikato uddhaṃ anto aruṇena. Tasmā antomajjhanhike dasakkhattuṃ bhuñjamānopi ekabhattikova hoti. taṃ sandhāya vuttaṃ “ekabhattiko”ti.
Ăn một bữa: có hai bữa ăn là bữa ăn nên thọ dụng vào buổi sáng, bữa ăn nên thọ dụng vào buổi chiều. Trong hai bữa ăn ấy bữa ăn nên thọ dụng vào bữa sáng được quy định vào thời gian buổi trưa (trước giờ ngọ), ngoài ra bữa ăn vào buổi chiều được quy định sau buổi trưa đến lúc mặt trời lặn. Vì thế, dù thọ dụng mười lần vào thời gian trước buổi trưa cũng được xem là vị thọ dụng một bữa. Nói rằng ‘ăn một bữa’ ám chỉ đến bữa ăn nên thọ dụng vào buổi sáng ấy.
Rattiyā bhojanaṃ ratti, tato uparatoti rattūparato. atikkante majjhanhike yāva sūriyatthaṅgamanā bhojanaṃ vikālabhojanaṃ nāma. Tato viratattā virato vikālabhojanā. Kadā virato? Anomānadītīre pabbajitadivasato paṭṭhāya.
Không ăn ban đêm: do từ bỏ việc thọ dụng vào ban đêm. Việc thọ dụng khi quá thời vào buổi trưa cho đến lúc mặt trời lặn gọi là thọ dụng phi thời. Tránh xa việc thọ dụng phi thời do kiêng tránh việc thọ dụng kiểu ấy.
Sāsanassa ananulomattā visūkaṃ paṭāṇībhūtaṃ dassananti visūkadassanaṃ. Attanā naccananaccāpanādivasena naccā ca gītā ca vāditā ca antamaso mayūranaccādivasenapi pavattānaṃ naccādīnaṃ visūkabhūtā dassanā cāti naccagītavāditavisūkadassanā. Naccādīni hi attanā payojetuṃ vā parehi payojāpetuṃ vā payuttāni passituṃ vā neva bhikkhūnaṃ na bhikkhunīnañca vaṭṭanti.
Việc xem trình diễn là kẻ địch của thiện: Bởi vì việc xem là kẻ thù, là kẻ địch do không đúng theo Giáo Pháp. Từ bỏ việc nhảy múa, ca hát, tấu nhạc và xem trình diễn: việc nhảy múa, ca hát, tấu nhạc và xem trình diễn bởi chính mình, với tác động tự mình nhảy múa và cho người khác nhảy múa v.v, và việc xem nhảy múa v.v, tận cùng diễn biến do tác động việc nhảy múa của chim công v.v, là kẻ thù nghịch. Thật vậy, việc tự mình bắt tay vào việc như nhảy múa v.v, hoặc cho người khác bắt tay vào việc, và việc nhìn họ thể hiện thật không thích hợp đối với chư tỳ khưu và đối với chư tỳ khưu ni.
Mālādīsu mālāti yaṃ kiñci pupphaṃ. Gandhanti yaṃ kiñci gandhajātaṃ. Vilepananti chavirāgakaraṇaṃ. tattha piḷandhanto dhāreti nāma, ūnaṭṭhānaṃ pūrento maṇḍeti nāma, gandhavasena chavirāgavasena ca sādiyanto vibhūseti nāma. Ṭhānaṃ vuccati kāraṇaṃ, tasmā yāya dussīlyacetanāya tāni mālādhāraṇādīni mahājano karoti, tato paṭiviratoti attho.
Trong các đồ trang sức có vòng hoa v.v, gọi là vòng hoa bao gồm bất cứ loài hoa nào. Hương thơm: bất cứ loại có hương thơm nào. Vật thoa: vật thoa lên da. Trong số các loại đồ trang sức ấy, trong khi trang điểm gọi là mang, đeo. Trong khi làm đây những phần thiếu hụt trên cơ thể gọi là chưng dọn. Trong khi vui sướng do tác động của vật thơm và do tác động của vật thoa lên da gọi là trang điểm. Lý do được gọi là ‘vị trí’, do đó, mới có ý nghĩa rằng phần đông mọi người thực hiện việc đeo vòng hoa v.v, ấy do ý định làm nhân đưa đến giới tồi nào thì Sa-môn Gotama đã dứt trừ ý định làm nhân dẫn đến giới tồi ấy.
Uccāsayanaṃ vuccati pamāṇātikkantaṃ. mahāsayanaṃ akappiyattharaṇaṃ. tato paṭiviratoti attho. jātarūpanti suvaṇṇaṃ. rajatanti kahāpaṇo lohamāsako jatumāsako dārumāsakoti ye vohāraṃ gacchanti, tassa ubhayassapi paṭiggahaṇā paṭivirato, neva naṃ uggaṇhāti, na uggaṇhāpeti, na upanikkhittaṃ sādiyatīti attho. āmakadhaññapaṭiggahaṇāti sālivīhiyavagodhūmakaṅguvarakakudrūsakasaṅkhātassa sattavidhassāpi āmakadhaññassa paṭiggahaṇā. na kevalañca etesaṃ paṭiggahaṇameva, āmasanampi bhikkhūnaṃ na vaṭṭatiyeva. āmakamaṃsapaṭiggahaṇāti ettha aññatra odissa anuññātā āmakamaṃsamacchānaṃ paṭiggahaṇameva bhikkhūnaṃ na vaṭṭati, no āmasanaṃ.
Chỗ nằm vượt quá kích thước gọi là chỗ nằm cao. Tấm trải không đúng phép gọi là chỗ nằm rộng lớn. Có nghĩa là tránh xa chỗ nằm (ngồi) cao, và chỗ nằm (ngồi) rộng lớn ấy. Jātarūpaṃ đồng nghĩa với suvaṇṇaṃ có nghĩa là vàng. Bạc: là đồng kahāpaṇa, đồng māsaka bằng đồng, đồng māsaka bằng gỗ, đồng māsaka bằng nhựa cánh kiến, bất cứ vật gì được sử dụng trong mua bán. Sa-môn Gotama tránh xa việc thọ nhận cả 2 là vàng và bạc, có nghĩa là Sa-môn Gotama không nhận lấy vàng và bạc, không để cho người khác nhận (giùm), (và) cũng không chấp nhận việc cất giữ vàng và bạc vì mình. Tránh xa việc thọ nhận hạt sống nghĩa là tránh xa việc thọ nhận bảy loại hạt sống được đề cập là lúa sāli, lúa mùa, lúa mạch, lúa mì, kê, đậu varaka, hạt kudrūsaka. Không những việc thọ nhận những hạt sống ấy ngay cả việc cầm lấy cũng không thích hợp đối với chư tỳ khưu. Tránh xa việc thọ nhận thịt sống: ở đây, việc thọ nhận thịt và cá sống, trừ phi nơi được cho phép đặc biệt cũng không được đối với chư tỳ khưu, việc cầm lấy cũng không được.
itthikumārikapaṭiggahaṇāti ettha itthīti purisantaragatā, itarā kumārikā nāma. tāsaṃ paṭiggahaṇampi āmasanampi akappiyameva. dāsidāsapaṭiggahaṇāti ettha dāsidāsavaseneva tesaṃ paṭiggahaṇaṃ na vaṭṭati, “kappiyakārakaṃ dammi, ārāmikaṃ dammī”ti evaṃ vutte pana vaṭṭati. ajeḷakādīsu khettavatthupariyosānesu M.2.114 kappiyākappiyanayo vinayavasena upaparikkhitabbo. tattha khettaṃ nāma yasmiṃ pubbaṇṇaṃ ruhati. vatthu nāma yasmiṃ aparaṇṇaṃ ruhati. yattha vā ubhayampi ruhati, taṃ khettaṃ. tadatthāya akatabhūmibhāgo vatthu. khettavatthusīsena cettha vāpitaḷākādīnipi saṅgahitāneva. dūteyyaṃ vuccati dūtakammaṃ, gihīnaṃ paṇṇaṃ vā sāsanaṃ vā gahetvā tattha tattha gamanaṃ. pahiṇagamanaṃ vuccati gharā gharaṃ pesitassa khuddakagamanaṃ. anuyogo nāma tadubhayakaraṇaṃ, tasmā dūteyyapahiṇagamanānaṃ anuyogāti evamettha attho veditabbo.
Tránh xa việc thọ nhận đàn bà con gái này nghĩa là phụ nữ đã có người nam sở hữu gọi là đàn bà. Những người nữ còn lại gọi là con gái, cả việc thọ nhận và luôn cả việc nắm lấy đều không đúng phép. Tránh xa việc thọ nhận tớ trai và tớ gái này nghĩa là việc thọ nhận tớ trai và tớ ấy (ở vị trí) chỉ để làm người hầu nam và hầu nữ thì không được. Nhưng khi họ nói như vầy: “Xin cúng dường người cung cấp vật dụng thích hợp, xin cúng dường người giúp việc tu viện” thì được. Với cách thức đúng phép và không đúng phép trong việc thọ nhận tài sản như dê và cừu v.v, có ruộng vườn và đất đai là sau cùng nên cân nhắc theo Luật. Ở đây, ruộng nương nghĩa là nơi gieo trồng các loại thóc lúa. Đất đai nghĩa là nơi gieo trồng các loại rau xanh, đậu. Hơn nữa, cả hai khu vực (hạt giống) phát triển thì đều là ruộng, còn phần khu vực không sử dụng vì cả hai lợi ích ấy thì gọi là đất đai. Hoặc, ngay cả ao và hồ v.v, cũng được gom lại trong trường hợp này tương tự bằng việc đưa từ ruộng vườn và khu đất vào làm chủ đề. Việc của sứ thần được gọi là việc đưa tin tức, việc nhận lấy thư từ hoặc tin tức của người tại gia sai đi từ nơi này đến nơi khác. Việc đi phục vụ từ nhà này đến nhà kia (làm) những việc lặt vặt được gọi là việc phục vụ. Việc thực hiện cả 2 ấy gọi là thường xuyên gắn liền, nên hiểu ý nghĩa ở trường hợp này như vầy: từ việc thường xuyên gắn liền với việc đưa tin tức và việc phục vụ.
kayavikkayāti kayā ca vikkayā ca. tulākūṭādīsu kūṭanti vañcanaṃ. tattha tulākūṭaṃ tāva rūpakūṭaṃ aṅgakūṭaṃ gahaṇakūṭaṃ paṭicchannakūṭanti catubbidhaṃ hoti. tattha rūpakūṭaṃ nāma dve tulā sarūpā katvā gaṇhanto mahatiyā gaṇhāti, dadanto khuddikāya deti. aṅgakūṭaṃ nāma gaṇhanto pacchābhāge hatthena tulaṃ akkamati, dadanto pubbabhāge. gahaṇakūṭaṃ nāma gaṇhanto mūle rajjuṃ gaṇhāti, dadanto agge. paṭicchannakūṭaṃ nāma tulaṃ susiraṃ katvā anto ayacuṇṇaṃ pakkhipitvā gaṇhanto taṃ pacchābhāge karoti, dadanto aggabhāge. kaṃso vuccati suvaṇṇapāti, tāya vañcanaṃ kaṃsakūṭaṃ. kathaṃ? ekaṃ suvaṇṇapātiṃ katvā aññā dve tisso lohapātiyo suvaṇṇavaṇṇā karoti, tato janapadaṃ gantvā kiñcideva addhakulaṃ pavisitvā, “suvaṇṇabhājanāni V.2.111 kiṇathā”ti vatvā agghe pucchite samagghataraṃ dātukāmā honti. tato tehi “kathaṃ imesaṃ suvaṇṇabhāvo jānitabbo”ti vutte — “vīmaṃsitvā gaṇhathā”ti suvaṇṇapātiṃ pāsāṇe ghaṃsitvā sabbā pātiyo datvā gacchati.
Kayavikkayā nghĩa là từ việc mua và việc bán. Trong tất cả việc gian lận có việc gian lận bằng việc cân đo v.v. việc gian lận gồm việc lừa gạt. Trong việc gian lận ấy được gọi là việc gian lận do cân đo có bốn là: (1) rūpakūṭaṃ – gian lận bằng hình thức, (2) aṅgakūṭaṃ – gian lận theo bằng các chi, (3) gahaṇakūṭaṃ – gian lận do cầm lấy và (4) paṭicchannakūṭaṃ – gian lận nhờ che giấu. Ở đó, việc sử dụng 2 cái cân có chung hình thức như nhau khi nhận thì mua bằng cái cân lớn, nhưng khi bán thì cho bằng cái cân nhỏ gọi là rūpakūṭa – gian lận bằng hình thức. Khi mua dùng tay nhấn vào phía sau cân, khi bán thì dùng tay nhấn vào phía trước cân gọi là aṅgakūṭaṃ – gian lận theo bằng các chi. Khi mua nắm lấy ở đầu dây, khi bán nắm lấy ở cuối dây gọi là gahaṇakūṭaṃ – gian lận do cầm lấy. Khoan lỗ ngay cán cân rồi đặt bột chì vào bên trong, khi mua di chuyển bột chì đến cuối cán cân, khi bán di chuyển bột chì đó đến đầu cán cân gọi là paṭicchannakūṭaṃ – gian lận nhờ che giấu. Khay vàng gọi là đồ đồng thiếc, việc gian lận bằng khay vàng ấy gọi là kaṃsakūṭa – gian lần bằng đồng thiếc. Gian lận như thế nào? Làm một cái khay vàng, rồi làm thêm 2-3 khay đồng thiếc sơn cho có màu tựa như vàng, sau đó đi đến vùng nông thôn tìm kiếm gặp một trong những gia đình giàu có và nói: – “Hãy mua một cái khay bằng vàng”. Khi bị người khác hỏi về giá cả, mong muốn bán (các khay) đồng giá. Sau đó khi họ hỏi rằng: “Làm thế nào có thể biết được những cái khay này được làm bằng vàng?” Mới nói rằng: “Hãy xem xét trước khi lấy” rồi lấy cái khay bằng vàng chà lên đá, đã bán hết các khay, rồi bỏ đi.
Mānakūṭaṃ nāma hadayabhedasikhābhedarajjubhedavasena tividhaṃ hoti. Tattha hadayabhedo sappitelādiminanakāle labbhati. Tāni hi gaṇhanto heṭṭhāchiddena mānena — “saṇikaṃ āsiñcā”ti vatvā antobhājane bahuṃ paggharāpetvā gaṇhāti, dadanto chiddaṃ pidhāya sīghaṃ pūretvā deti.
Gian lận bằng dụng cụ đong đếm có ba loại là hadayabheda và sikhābheda rajjubheda. Trong ba loại ấy, việc gian lận bằng hadayabheda được sử dụng trong lúc đong dầu và bơ lỏng v.v. Bởi vì trong lúc nhận lấy bơ lỏng và dầu v.v, sử dụng dụng cụ để đong có một lỗ nhỏ phía dưới, nói (rằng) hãy từ từ rót để cho chúng chảy xuống thùng của tôi một cách nhanh chóng rồi lấy mang đi; khi bán thì đóng cái lỗ đó lại để đong cho nhanh đầy, rồi cho đi.
Sikhābhedo tilataṇḍulādiminanakāle labbhati. tāni hi gaṇhanto saṇikaṃ sikhaṃ ussāpetvā gaṇhāti, dadanto vegena pūretvā sikhaṃ chindanto deti. Rajjubhedo khettavatthuminanakāle labbhati. lañjaṃ alabhantā hi khettaṃ amahantampi mahantaṃ katvā minanti.
Việc gian lận bằng Sikhābheda được sử dụng trong lúc đong gạo và đong mè v.v, khi đong đo mè và gạo v.v, đó thì cũng đổ từ từ làm cho cao lên tạo thành đỉnh rồi lấy mang đi, khi đong đo để bán thì làm cho đầy nhanh chóng, cắt phần đỉnh rồi để cho đi. Việc gian lận bằng Rajjubheda được sử dụng trong lúc đo đạc ruộng vườn và đất đai v.v, bởi vì khi chưa nhận tiền thù lao, thì ruộng vườn kể cả không rộng lớn cũng làm cho rộng lớn.
Ukkoṭanādīsu ukkoṭananti sāmike assāmike kātuṃ lañjaggahaṇaṃ. vañcananti tehi tehi upāyehi paresaṃ vañcanaṃ. tatridamekaṃ vatthu — eko kira luddako migañca migapotakañca gahetvā āgacchati. tameko dhutto, “kiṃ, bho, migo agghati, kiṃ migapotako”ti āha. “migo dve kahāpaṇe migapotako ekan”ti ca vutte kahāpaṇaṃ datvā migapotakaṃ gahetvā thokaṃ gantvā nivatto, “na me, bho, migapotakena attho, migaṃ me dehī”ti āha. tena hi “dve kahāpaṇe dehī”ti. so āha — “nanu te, bho, mayā paṭhamaṃ eko kahāpaṇo dinno”ti. āma dinnoti. “imampi migapotakaṃ gaṇha, evaṃ so ca kahāpaṇo ayañca kahāpaṇagghanako migapotakoti dve kahāpaṇā bhavissantī”ti. so kāraṇaṃ vadatīti sallakkhetvā migapotakaṃ gahetvā migaṃ adāsīti.
Việc nhận hối lộ v.v, từ ‘hối lộ’ muốn nói đến việc nhận hối lộ nhằm mục đích làm cho người chủ không trở thành người chủ. Gian trá nghĩa là việc lừa dối người khác bằng cách này hay cách khác. Trong câu đó có câu chuyện minh họa như sau – Chuyện kể rằng, có một người thợ săn đã săn được thịt nai mẹ và cả thịt nai tơ. Một tên cướp đã nói với anh ta rằng: – “này ông bạn thịt nai này giá bao nhiêu? Còn giá của con nai tơ này bao nhiêu?” – Và người thợ săn trả lời: “Thịt nai mẹ 2 kahāpana, thị nai tơ 1 kahāpana” – tên cướp đã đưa cho người thợ săn 1 kahāpana rồi lấy một ít thịt nai tơ đi, đi được một lúc rồi quay trở lại nói với người thợ săn rằng: “Tôi không lấy thịt nai tơ này, ông hãy đưa cho tôi thịt nai mẹ”. Nếu vậy – ông hãy đưa tôi 2 kahāpana. Tên cướp nói rằng: “này ông bạn, tôi đã đưa cho ông 1 kahāpana rồi không phải sao? (người thợ săn) chấp nhận rằng “đúng, đưa rồi”, mới nói rằng ngài hãy lấy cục thịt này đi, nếu vậy kapāpana và cục thịt này giá 1 kahāpana thành 2 kahāpana.” Người thợ săn nghĩ rằng tên cướp nói có lý nhận lấy thịt nai tơ rồi đưa thịt nai mẹ cho tên cướp mang đi.
nikatīti yogavasena vā māyāvasena vā apāmaṅgaṃ pāmaṅganti, amaṇiṃ maṇinti, asuvaṇṇaṃ suvaṇṇanti katvā paṭirūpakena vañcanaṃ. sāciyogoti kuṭilayogo, etesaṃyeva ukkoṭanādīnametaṃ nāmaṃ, tasmā ukkoṭanasāciyogo vañcanasāciyogo nikatisāciyogoti evamettha attho daṭṭhabbo. keci aññaṃ dassetvā aññassa parivattanaṃ sāciyogoti vadanti. taṃ pana vañcaneneva saṅgahitaṃ. chedanādīsu chedananti hatthacchedanādi. vadhoti māraṇaṃ. bandhoti rajjubandhanādīhi V.2.112 bandhanaṃ. viparāmosoti himaviparāmoso gumbaviparāmosoti duvidho. yaṃ himapātasamaye himena paṭicchannā hutvā maggapaṭipannaṃ janaṃ musanti, ayaṃ himaviparāmoso. yaṃ gumbādīhi paṭicchannā musanti, ayaṃ gumbaviparāmoso. ālopo vuccati gāmanigamādīnaṃ vilopakaraṇaṃ. sahasākāroti sāhasikakiriyā, gehaṃ pavisitvā manussānaṃ ure satthaṃ ṭhapetvā icchitabhaṇḍaggahaṇaṃ. evametasmā chedana … pe … sahasākārā paṭivirato hoti.
Lừa đảo: sự lường gạt với những món đồ giả đã làm những món đồ vật không phải dây chuyền đeo cổ (nói là) dây chuyền đeo cổ, không phải ngọc mānī (nói là) ngọc mānī, không phải vàng (nói là) vàng do tác động của sự dính líu đến hoặc do tác động của sự gạt gẫm. Tráo trở: phương pháp gian lận, lời này cũng chính là cách gọi của việc nhận hối lộ v.v, Vì thế, nên hiểu ý nghĩa trong trường hợp này như vầy (rằng) – tráo trở là việc nhân hối lộ, tráo trở là gian trá, tráo trở là lừa đảo. Một số vị thầy nói rằng: việc miêu tả một thứ rồi đổi thành một thứ khác gọi là tráo trở. Tuy nhiên trong trường hợp này ngài kết hợp chung lại để chỉ sự gian trá. Chém v.v, ‘chém’ gồm cả việc cắt đứt tay v.v. Giết: làm cho chết. Ràng buộc: ràng buộc với sự buộc chặt bằng sợi dây thừng v.v, Cướp bóc: việc cướp bóc có 2 cách là (1) cướp bóc nhờ tuyết che phủ, và (2) cướp bóc nhờ lùm cây che phủ. Khi tuyết rơi ẩn mình sau đóng tuyết để cướp giật những người đi đường, đây gọi là cướp bóc nhờ tuyết che phủ. Ẩn mình sau lùm cây để cướp giật, đây gọi là cướp bóc nơi lùm cây che phủ. Việc cướp đoạt (tài sản) của người dân trong làng và người dân ở thị trấn, v.v được gọi là cưỡng đoạt. Việc chấn lột: hành động bạo lực, sau khi xông thẳng vào nhà đã sử dụng vũ khí đâm vào ngực những người trong nhà rồi lấy đi những thứ họ muốn. Sa-môn Gotama tránh xa các hành động chém, giết, ràng buộc, cướp bóc, cưỡng đoạt, và chấn lột này như vậy.
294. so santuṭṭho hotīti svāyaṃ bhikkhu heṭṭhā vuttena catūsu paccayesu dvādasavidhena itarītarapaccayasantosena samannāgato hoti. iminā pana dvādasavidhena itarītarapaccayasantosena samannāgatassa bhikkhuno aṭṭha parikkhārā vaṭṭanti tīṇi cīvarāni patto dantakaṭṭhacchedanavāsi ekā sūci kāyabandhanaṃ parissāvananti. vuttampi cetaṃ —
“ticīvarañca M.2.116 patto ca, vāsi sūci ca bandhanaṃ.
parissāvanena aṭṭhete, yuttayogassa bhikkhuno”ti.
294. Vị ấy sống tri túc (so santuṭṭho hotī): Nghĩa là vị Tỳ khưu này đây gắn liền với sự tri túc với 12 vật dụng có được trong 4 món vật dụng như đã nói ở phần dưới. Hơn nữa, tám món vật dụng thiết yếu là tam y, bình bát, dao nhỏ dùng để vót tăm xỉa răng, kim may vá, dây thắt lưng, vải lọc nước, cần thiết đối với vị Tỳ khưu gắn liền với sự tri túc trong 12 món vật dụng có được. Và điều này như các vị thầy xưa nói –
“Những vật dụng thiết yếu này là tam y, bình bát, và dao nhỏ, kim và dây thắt lưng với vải lọc nước là thứ tám, cần thiết đối với vị Tỳ khưu, vị gắn liền với sự tinh tấn.
te sabbepi kāyaparihārikāpi honti kucchiparihārikāpi. kathaṃ? ticīvaraṃ tāva nivāsetvā pārupitvā ca vicaraṇakāle kāyaṃ pariharati posetīti kāyaparihārikaṃ hoti, cīvarakaṇṇena udakaṃ parissāvetvā pivanakāle khāditabbaphalāphalaggahaṇakāle ca kucchiṃ pariharati posetīti kucchiparihārikaṃ hoti. pattopi tena udakaṃ uddharitvā nahānakāle kuṭiparibhaṇḍakaraṇakāle ca kāyaparihāriko hoti, āhāraṃ gahetvā bhuñjanakāle kucchiparihāriko hoti. vāsipi tāya dantakaṭṭhacchedanakāle mañcapīṭhānaṃ aṅgapādacīvarakuṭidaṇḍakasajjanakāle ca kāyaparihārikā hoti, ucchucchedananāḷikerāditacchanakāle kucchiparihārikā. sūcipi cīvarasibbanakāle kāyaparihārikā hoti, pūvaṃ vā phalaṃ vā vijjhitvā khādanakāle kucchiparihārikā. kāyabandhanaṃ bandhitvā vicaraṇakāle kāyaparihārikaṃ, ucchuādīni bandhitvā gahaṇakāle kucchiparihārikaṃ. parissāvanaṃ tena udakaṃ parissāvetvā nahānakāle, senāsanaparibhaṇḍakaraṇakāle ca kāyaparihārikaṃ, pānīyaparissāvanakāle teneva tilataṇḍulaputhukādīni gahetvā khādanakāle ca kucchiparihārikaṃ. Ayaṃ tāva aṭṭhaparikkhārikassa parikkhāramattā.
Thậm chí tất cả các món vật dụng thiết yếu đó chính là sự che thân, hay sự nuôi mạng. Là thế nào? Trước đó, tam y để bảo vệ là phương tiện để nuôi thân trong lúc mặc hoặc đắp, vì thế mới gọi là phương tiện để bảo dưỡng thân thể. Để bảo dưỡng cái bụng, trong lúc lọc nước với một góc y rồi uống và trong lúc bao bọc trái cây lớn nhỏ có thể ăn bằng chéo y đó, vì thế mới gọi là phương tiện để bảo dưỡng cái bụng. Cả bình bát cũng là phương tiện nuôi thân trong lúc múc nước với bình bát ấy, tắm và trong lúc múc nước bằng bình bát đó để rưới nước liêu cốc; là phương tiện nuôi bụng trong lúc thọ nhận vật thực bằng bình bát để thọ dụng. Cả dao nhỏ là phương tiện bảo vệ thân trong lúc gọt tăm xỉa răng và trong lúc làm chân giường, chân ghế và cây dù; là phương tiện nuôi bụng trong lúc gọt mía và chặt dừa v.v. Cả cây kim cũng là phương tiện bảo vệ thân trong lúc may vá y phục; là phương tiện nuôi bụng trong lúc nếm bánh và trái cây để ăn. Dây thắt lưng cũng là phương tiện bảo vệ thân trong lúc đi du hành; là phương tiện nuôi bụng trong lúc bó những cây mía mang đi. Ngay cả tấm vải lọc nước cũng là phương tiện bảo vệ thân trong lúc lọc nước với tấm vải đó rồi (sau đó đi) tắm, và trong lúc lọc nước với tấm vải đó rồi (sử dụng), và việc rưới nước chỗ trú ngụ; là phương tiện để nuôi bụng trong lúc lọc nước uống và trong lúc gói hạt mè gạo và cốm nếp v.v, bằng tấm vải đó rồi thọ dụng. Đây là sự tri túc về vật phụ tùng của vị Tỳ khưu với tám món vật dụng thiết yếu.
navaparikkhārikassa pana seyyaṃ pavisantassa tatraṭṭhakapaccattharaṇaṃ vā kuñcikā vā vaṭṭati. dasaparikkhārikassa nisīdanaṃ vā cammakhaṇḍaṃ vā vaṭṭati. ekādasaparikkhārikassa kattarayaṭṭhi vā telanāḷikā vā vaṭṭati. dvādasaparikkhārikassa chattaṃ vā upāhanā vā vaṭṭati. etesu ca aṭṭhaparikkhārikova santuṭṭho, itare asantuṭṭhā, mahicchā mahābhārāti na vattabbā. etepi hi appicchāva santuṭṭhāva subharāva sallahukavuttinova. bhagavā pana nayimaṃ suttaṃ tesaṃ vasena kathesi, aṭṭhaparikkhārikassa vasena kathesi. so hi khuddakavāsiñca sūciñca parissāvane pakkhipitvā pattassa anto ṭhapetvā pattaṃ aṃsakūṭe laggetvā ticīvaraṃ kāyapaṭibaddhaṃ katvā yenicchakaṃ sukhaṃ pakkamati. paṭinivattetvā gahetabbaṃ nāmassa na hoti, iti imassa bhikkhuno sallahukavuttitaṃ dassento bhagavā, santuṭṭho hoti kāyaparihārikena cīvarenātiādimāha.
Còn đối với vị Tỳ khưu có 9 món vật dụng thiết yếu đi vào chỗ ngủ có vật dụng để trải dành cho chỗ trú ngụ ấy hoặc chìa khóa nên được. Vị Tỳ khưu có 10 món vật dụng thiết yếu sẽ có tấm trải để ngồi hoặc miếng da nên được. Vị Tỳ khưu 11 món vật dụng thiết yếu sẽ có cây gậy cho người già hoặc bình đựng dầu nên được. Vị Tỳ khưu có 12 món vật dụng thiết yếu sẽ có cây dù và đôi dép nên được. Trong số những vị Tỳ khưu ấy vị Tỳ khưu chỉ có 8 món vật dụng thiết yếu gọi là vị tri túc, ngoài ra bất cứ ai cũng không nên nói rằng ‘không tri túc, là người đa dục, là người muốn nhiều’ tất cả đều là người sống thiểu dục, tri túc, dễ nuôi và có các hành vi nhẹ nhàng giống nhau (làm cho thân nhẹ nhàng). Đức Thế Tôn không thuyết giảng bài Kinh này với khả năng của các vị Tỳ khưu ấy, tuyên thuyết với năng lực của vị Tỳ khưu có 8 món vật dụng thiết yếu. Thật vậy vị Tỳ khưu có 8 món vật dụng cần thiết ấy quấn lấy dao nhỏ và cây kim trong tấm vải lọc nước cất vào trong bình bát rồi đeo bình bát lên trên vai, mặc tam y, cột dây thắt lưng rồi ra đi an lạc theo ý muốn, vị ấy không cần quay trở lại để lấy bất kỳ thứ gì nữa. Ở đây đức Thế Tôn khi thuyết giảng về sự làm cho thân nhẹ nhàng của vị Tỳ khưu này mới nói rằng: “Vị Tỳ khưu ấy là vị tri túc trong y phục v.v,”
tattha kāyaparihārikenāti kāyapariharaṇamattakena. kucchiparihārikenāti kucchipariharaṇamattakena. samādāyeva pakkamatīti taṃ aṭṭhaparikkhāramattakaṃ sabbaṃ gahetvā kāyapaṭibaddhaṃ katvāva gacchati, “mama vihāro pariveṇaṃ upaṭṭhāko”tissa saṅgo vā baddho vā na hoti, so jiyā mutto saro viya, yūthā apakkanto mattahatthī viya icchiticchitaṃ senāsanaṃ vanasaṇḍaṃ rukkhamūlaṃ vanapabbhāraṃ paribhuñjanto ekova tiṭṭhati, ekova nisīdati, sabbiriyāpathesu ekova adutiyo.
“cātuddiso appaṭigho ca hoti, santussamāno itarītarena.
parissayānaṃ sahitā achambhī, eko care khaggavisāṇakappo”ti. (su. ni. 42).
evaṃ vaṇṇitaṃ khaggavisāṇakappataṃ āpajjati.
Ở đó, kāyaparihārikena chỉ là vật dụng bảo vệ thân. kucchiparihārikena chỉ là phương tiện để nuôi bụng. Tự mình mang đi được (samādāyeva pakkamati) nghĩa là vị ấy chỉ mang theo tám món vật dụng thiết yếu bên mình không trói buộc, hoặc không dính mắc rằng: “Tinh xá, trú xứ, thị giả của tôi” vị Tỳ khưu có 8 món vật dụng thiết yếu ấy sử dụng trú xứ theo ý muốn gồm khu rừng sâu thẳm, dưới gốc cây, ở bìa rừng, sống một mình, ngồi một mình không có bè bạn trong tất cả mọi oai nghi giống như mũi tên bay ra khỏi dây cung và giống như con voi nổi cơn rời khỏi đàn như thế, vị Tỳ khưu ấy đạt đến tính chất tợ như sừng của loài tê giác.
“Vị Tỳ khưu tri túc, sống an lạc ở khắp cả bốn phương, không bực tức khó chịu, tự biết đủ với bất cứ vật dụng nào dầu tốt hay xấu, chịu đựng các nguy hiểm, không có kinh hãi, bước đi một mình tựa như sừng của loài tê giác .” Ngài giải thích như vậy.
idāni tamatthaṃ upamāya sādhento seyyathāpītiādimāha. tattha pakkhī sakuṇoti pakkhayutto sakuṇo. ḍetīti uppatati. ayaṃ panettha saṅkhepattho — sakuṇā nāma “asukasmiṃ padese rukkho paripakkaphalo”ti ñatvā nānādisāhi āgantvā nakhapakkhatuṇḍādīhi tassa phalāni vijjhantā vidhunantā khādanti. “idaṃ ajjatanāya idaṃ svātanāya bhavissatī”ti nesaṃ na hoti. phale pana khīṇe neva rukkhassa ārakkhaṃ ṭhapenti, na tattha pattaṃ vā nakhaṃ vā tuṇḍaṃ vā ṭhapenti, atha kho tasmiṃ rukkhe anapekkho hutvā yo yaṃ disābhāgaṃ icchati, so tena sapattabhārova — uppatitvā gacchati. evameva ayaṃ bhikkhu nissaṅgo nirapekkhoyeva pakkamati. tena vuttaṃ “samādāyeva pakkamatī”ti. ariyenāti niddosena. ajjhattanti sake attabhāve. anavajjasukhanti niddosasukhaṃ.
Bây giờ, khi hoàn thành ý nghĩa đó với ví dụ minh họa mới thuyết rằng seyyathāpi v.v. Ở đó, pakkhī sakuṇo (con chim có đôi cánh): con chim gắn liền với đôi cánh. Ḍeti dịch là bay. Và trong câu này có ý nghĩa vắn tắt như vầy. Thường tất cả các loài chim đều biết rằng cây cối ở chỗ đó có trái chín v.v, chúng cùng nhau bay đến từ mọi phương hướng khác nhau để chọc thủng và ăn quả của cây đó bằng móng, cánh và mỏ, v.v. chúng không có suy nghĩ rằng “trái cây này để giành (ăn) cho ngày hôm nay, trái cây này để giành (ăn) cho ngày mai” nhưng khi trái cây hết, chúng không cần bảo vệ cây đó nữa, không cần dùng cánh, móng và mỏ giữ trái cây đó. Thật vậy, không có lòng khao khát ở cây đó, con nào muốn bay hướng nào? Con đó có trách nhiệm là chỉ sử dụng đôi cánh của chính mình bay đến hướng khác như thế nào, tương tự y như thế vị Tỳ khưu không có sự dính mắc, không có sự khao khát, đi ngay lập tức (như thế mới nói rằng) ‘tự mình mang đi được’. Ariyena dịch là không lỗi lầm. Ajjhattaṃ dịch là bên trong tự ngã của chính mình. Anavajjasukhaṃ dịch là sự an lạc không lỗi lầm.
295. so cakkhunā rūpaṃ disvāti so iminā ariyena sīlakkhandhena samannāgato bhikkhu cakkhuviññāṇena rūpaṃ passitvāti attho. sesapadesu yaṃ vattabbaṃ siyā, taṃ sabbaṃ visuddhimagge vuttaṃ. abyāsekasukhanti kilesehi M.2.118 anavasittasukhaṃ, avikiṇṇasukhantipi vuttaṃ. indriyasaṃvarasukhañhi diṭṭhādīsu diṭṭhamattādivasena pavattatāya avikiṇṇaṃ hoti. so abhikkante paṭikkanteti so manacchaṭṭhānaṃ indriyānaṃ saṃvarena samannāgato bhikkhu imesu abhikkantapaṭikkantādīsu sattasu ṭhānesu satisampajaññavasena sampajānakārī hoti. tattha yaṃ vattabbaṃ siyā, taṃ satipaṭṭhāne vuttameva.
Vị ấy đã nhìn thấy sắc bằng mắt (so cakkhunā rūpaṃ disvā) nghĩa là vị Tỳ khưu đó, là người đã được thành tựu với giới uẩn của bậc Thánh này, sau khi nhìn thấy sắc bằng nhãn thức. Những từ nên nói ở những câu còn lại toàn bộ đã được nói trong bộ Thanh Tịnh Đạo. Abyāsekasukhaṃ (sự an lạc không pha trộn phiền não) bao gồm sự an lạc không trộn lẫn bởi phiền não, ngài nói rằng không phân tán bởi phiền não cũng có. Thật vậy, sự an lạc trong việc phòng hộ các quyền gọi là không trộn lẫn, bởi vì diễn ra với năng lực chỉ sắc đã nhìn thấy, trong đối tượng có sắc đã thấy v.v. Vị ấy bước tới, bước lui (so abhikkante paṭikkante) nghĩa là vị Tỳ khưu là người gắn liền với việc phòng hộ các quyền có tâm là thứ 6, là người có sự hiểu biết chính mình bởi chánh niệm và sự tĩnh giác. Từ cần nói trong câu đó đã được nói trong bài Kinh Thiết Lập Niệm.
296. so iminā cātiādinā kiṃ dasseti? araññavāsassa paccayasampattiṃ dasseti. yassa hi ime cattāro paccayā natthi, tassa araññavāso na ijjhati, tiracchānagatehi vā vanacarakehi vā saddhiṃ vattabbataṃ āpajjati, araññe adhivatthā devatā, “kiṃ evarūpassa pāpabhikkhuno araññavāsenā”ti bheravasaddaṃ sāventi, hatthehi sīsaṃ paharitvā palāyanākāraṃ karonti. “asuko bhikkhu araññaṃ pavisitvā idañcidañca pāpakammaṃ akāsī”ti ayaso pattharati. yassa panete cattāro paccayā atthi, tassa araññavāso ijjhati, so hi attano sīlaṃ paccavekkhanto kiñci kāḷakaṃ vā tilakaṃ vā apassanto pītiṃ uppādetvā taṃ khayato vayato sammasanto ariyabhūmiṃ okkamati, araññe adhivatthā devatā attamanā vaṇṇaṃ bhāsanti, itissa udake pakkhittatelabindu viya yaso vitthāriko hoti.
Vị ấy đã thành tựu giới uẩn: Ngài thuyết như thế nào? Ngài thuyết đến điều kiện thuận lợi của việc sống trong rừng thẳm. Thật vậy, việc sống trong rừng của người không có đủ bốn điều kiện này (chắc chắn) không có kết quả, sẽ bị chê bai rằng giống như loài bàng sanh hoặc người thợ săn ở rừng. Chư thiên ẩn trú ở trong rừng phát ra âm thanh đáng sợ nói rằng: “Một vị Tỳ khưu ác giới như vậy, sống ở trong rừng để làm gì?” dùng tay đánh vào đầu lộ ra vẻ sợ hãi rồi bỏ trốn, sự đánh mất danh tiếng lan truyền rộng rãi (rằng): “Vị Tỳ khưu đó đã đi vào rừng và tạo những ác nghiệp như vậy.” Nhưng việc sống trong rừng của vị Tỳ khưu có bốn điều kiện này sẽ có kết quả. Thật vậy vị ấy khi quán xét đến giới hạnh của mình không nhìn thấy bẩn nhơ gì, làm phát sanh sự hoan hỷ, quán xét thấy thứ đó có sự diệt tận, có sự biến hoại (vị ấy) bước vào Thánh giới. Chư Thiên trú ngự trong rừng hoan hỷ tán thán. Danh tiếng của vị Tỳ khưu ấy được lan toả cũng giống như mảng dầu đổ vào trong nước vậy.
tattha vivittanti suññaṃ appasaddaṃ, appanigghosanti attho. etadeva hi sandhāya vibhaṅge, “vivittanti santike cepi senāsanaṃ hoti, tañca anākiṇṇaṃ gahaṭṭhehi pabbajitehi, tena taṃ vivittan”ti (vibha. 526) vuttaṃ. seti ceva āsati ca etthāti senāsanaṃ, mañcapīṭhādīnametaṃ adhivacanaṃ. tenāha — “senāsananti mañcopi senāsanaṃ, pīṭhampi bhisipi bimbohanampi, vihāropi aḍḍhayogopi, pāsādopi, hammiyampi, guhāpi, aṭṭopi, māḷopi, leṇampi, veḷugumbopi, rukkhamūlampi, maṇḍapopi senāsanaṃ, yattha vā pana bhikkhū paṭikkamanti, sabbametaṃ senāsanan”ti. apica “vihāro aḍḍhayogo pāsādo hammiyaṃ guhā”ti idaṃ vihārasenāsanaṃ nāma. “mañco pīṭhaṃ, bhisi bimbohanan”ti idaṃ mañcapīṭhasenāsanaṃ nāma. “cimilikā, cammakhaṇḍo, tiṇasanthāro, paṇṇasanthāro”ti idaṃ santhatasenāsanaṃ nāma. “yattha vā pana bhikkhū paṭikkamantī”ti idaṃ okāsasenāsanaṃ nāmāti evaṃ catubbidhaṃ senāsanaṃ hoti, taṃ sabbampi senāsanaggahaṇena gahitameva. imassa pana sakuṇasadisassa cātuddisassa bhikkhuno anucchavikaṃ dassento araññaṃ rukkhamūlantiādimāha.
Ở đó, vivittaṃ (yên tĩnh): trống không, có nghĩa là không có âm thanh, mất âm thanh. Ngài muốn đề cập đến chính lời này mới nói trong bộ Phân Tích rằng: “Từ vivittaṃ nghĩa là nếu như trú xứ ở chỗ kế cận, và trú xứ đó không bận rộn với gia chủ và người xuất gia, vì lý do đó chỗ đó gọi là vivittaṃ.” (vibha. 526). Gọi là trú xứ vì làm chỗ nằm và làm chỗ ngồi, từ đó là tên gọi là giường và ghế v.v, Vì thế ngài nói rằng ‘trú xứ’ bao gồm chỗ nằm, chỗ ngồi, ghế dài, nệm, cái gối, tịnh xá, nhà kho, lâu đài, dãy nhà, hang động, pháo đài, lều trại, nơi trú ẩn, bụi tre nứa, gốc cây, khu rừng, nơi mà tất cả các Tỳ khưu cần nương nhờ đều được xem là chỗ cư ngụ. Hơn nữa “tịnh xá, nhà kho, lâu đài, dãy nhà, hang động” đây được gọi là vihāra-senāsana. “giường, ghế, nệm, gối” đây được gọi là mañcapīṭha-senāsana. “tấm thảm, mảnh da, tấm trả làm bằng cỏ, tấm trải làm bằng lá cây” đây được gọi là santhata-senāsana. Trú xứ nơi nương nhờ (sẽ quay trở lại) của vị Tỳ khưu đây gọi là okāsa-senāsana. Ngài đều gộp chung lại ý nghĩa trong từ ‘senāsana (chỗ cư ngụ)’ tương tự. Đức Thế Tôn khi thuyết giảng chỗ cư ngụ phù hợp đối với các Tỳ khưu du hành bốn phương giống như loài chim này mới thuyết rằng ‘khu rừng, gốc cây’ v.v.
tattha araññanti “nikkhamitvā bahi indakhīlā, sabbametaṃ araññan”ti idaṃ bhikkhunīnaṃ vasena āgataṃ araññaṃ. “āraññakaṃ nāma senāsanaṃ pañcadhanusatikaṃ pacchiman”ti (pārā. 654) idaṃ pana imassa bhikkhuno anurūpaṃ, tassa lakkhaṇaṃ visuddhimagge dhutaṅganiddese vuttaṃ. rukkhamūlanti yaṃkiñci sandacchāyaṃ vivittaṃ rakkhamūlaṃ. pabbatanti selaṃ. tattha hi udakasoṇḍīsu udakakiccaṃ katvā sītāya rukkhacchāyāya nisinnassa nānādisāsu khāyamānāsu sītena vātena vījiyamānassa cittaṃ ekaggaṃ hoti. kandaranti kaṃ vuccati udakaṃ, tena dāritaṃ, udakena bhinnaṃ pabbatappadesaṃ, yaṃ nadītumbantipi nadīkuñjantipi vadanti. tattha hi rajatapaṭṭasadisā vālikā honti, matthake maṇivitānaṃ viya vanagahanaṃ, maṇikkhandhasadisaṃ udakaṃ sandati. evarūpaṃ kandaraṃ oruyha pānīyaṃ pivitvā gattāni sītāni katvā vālikaṃ ussāpetvā paṃsukūlacīvaraṃ paññāpetvā nisinnassa samaṇadhammaṃ karoto cittaṃ ekaggaṃ hoti.
Ở đó, khu rừng (araññaṃ): Sau khi đi ra khỏi bên ngoài cọc ranh, toàn bộ khoảng (đất) bên ngoài là khu rừng. Câu này xuất phát từ câu chuyện của 2 vị Tỳ khưu ni. “chỗ trú ngụ cách (căn nhà) cuối cùng khoảng cách 500 cây cung được gọi là ở trong rừng” (pārā. 654). Trú xứ này thích hợp với vị Tỳ khưu này. Các đặc điểm của trú xứ đó đã được đề cập trong phần diễn giải dhutaṅga trong bộ Thanh Tịnh Đạo. Gốc cây (rukkhamūlaṃ): gốc cây yên tĩnh có bóng râm mát mẻ ở bất kỳ nơi nào. Đồi núi gồm nơi các tảng đá. Thật vậy khi vị Tỳ khưu sử dụng vũng nước từ hồ trên núi đá đó và ngồi dưới bóng cây mát mẻ, dưới cơn gió mát thổi theo nhiều hướng khác nhau, tâm có cùng chung một đối tượng duy nhất. Nước ngài gọi là kaṃ trong từ kaṇdaraṃ (khe núi), nơi bị xói mòn bởi nước, nơi tách ra bởi nước bao gồm bề mặt của ngọn núi mà các vị thầy gọi là nadītumba, hay nadīkuñja. Thật vậy ở bề mặt của ngọn đó có cát tợ như tấm bạc, dòng nước như chuỗi ngọc lưu ly, chảy xuyên qua tán rừng tựa như những tầng ngọc lưu ly trên đỉnh. Vị Tỳ khưu bước xuống dòng nước nhìn thấy như vậy đã uống nước, lặng mình xuống cho mát, đưa cát lên, trải y phấn tảo ngồi thực hành Sa-môn Pháp, tâm có đối tượng duy nhất.
giriguhanti dvinnaṃ pabbatānaṃ antarā, ekasmiṃyeva vā umaṅgasadisaṃ mahāvivaraṃ. susānalakkhaṇaṃ visuddhimagge vuttaṃ. vanapatthanti atikkamitvā manussānaṃ upacāraṭṭhānaṃ, yattha na kasanti na vapanti. tenevāha — “vanapatthanti dūrānametaṃ senāsanānaṃ adhivacanan”tiādi (vibha. 531). abbhokāsanti V.2.116 acchannaṃ, ākaṅkhamāno panettha cīvarakuṭiṃ katvā vasati. palālapuñjanti palālarāsiṃ. mahāpalālapuñjato hi palālaṃ nikkaḍḍhitvā pabbhāraleṇasadise ālaye karonti, gacchagumbādīnampi upari palālaṃ pakkhipitvā heṭṭhā nisinnā samaṇadhammaṃ karonti, taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ.
Hang động (giriguhaṃ): có cái lỗ to lớn giống như đường hầm khoảng giữa 2 ngọn núi hoặc một ngọn núi. Đặc điểm của nghĩa trang đã được nói trong bộ Thanh Tịnh Đạo. Rừng rậm (vanapatthaṃ) bao gồm nơi gần đó mà con người không gieo gặt. Với nhân ấy ngài mới nói rằng: “vanpatthaṃ là tên gọi của trú xứ ở xa.” abbhokāsaṃ (ngoài trời) bao gồm nơi không có mái che. Nhưng vị Tỳ khưu mong muốn có mái che ở nơi đó. Palālapuñjaṃ đồng nghĩa với palālarāsiṃ (chỗ đống rơm). Thật vậy, các Tỳ khưu đã kéo rơm từ đống rơm lớn, làm chỗ trú ngụ (nhô lên) như đỉnh núi và nơi ẩn náu đặt rơm cạnh lùm cây v.v, rồi ngồi thực hành Sa-môn Pháp bên dưới, ngài muốn đề cập đến đống rơm ấy mới nói lời này.
pacchābhattanti bhattassa pacchato. piṇḍapātapaṭikkantoti piṇḍapātapariyesanato paṭikkanto. pallaṅkanti samantato ūrubaddhāsanaṃ. ābhujitvāti bandhitvā. ujuṃ kāyaṃ paṇidhāyāti uparimaṃ sarīraṃ ujukaṃ ṭhapetvā aṭṭhārasa piṭṭhikaṇṭake koṭiyā koṭiṃ paṭipādetvā. evañhi nisinnassa cammamaṃsanahārūni na paṇamanti. athassa yā tesaṃ paṇamanapaccayā khaṇe khaṇe vedanā uppajjeyyuṃ, tā na uppajjanti. tāsu anuppajjamānāsu cittaṃ ekaggaṃ hoti, kammaṭṭhānaṃ na paripatati, vuddhiṃ phātiṃ upagacchati.
Pacchābhattaṃ là sau khi thọ dụng thức ăn. piṇḍapātapaṭikkanto dịch là trở về sau khi đi khất thực. Pallaṅkaṃ dịch là ngồi kiết già. Ngồi xếp bằng (ābhujitvā): khoanh chân lại. Ujuṃ kāyaṃ paṇidhāya: đặt thân trên thẳng, lấy phần cuối với phần cuối 18 đốt xương sống ở lưng được chạm nhau. Thật vậy, vị Tỳ khưu ngồi như vậy, da thịt và gân không gây cản trở, như vậy các thọ có thể khởi lên trong từng sát-na. bởi vì sự cản trở của da thịt và gân là duyên, cũng không xảy ra với vị Tỳ khưu ấy khi những cảm thọ đó không sanh khởi thì tâm chỉ có một đối tượng duy nhất, nghiệp xứ không bị đứt quãng, đạt đến sự tăng trưởng tốt đẹp.
parimukhaṃ satiṃ upaṭṭhapetvāti kammaṭṭhānābhimukhaṃ satiṃ ṭhapayitvā, mukhasamīpe vā katvāti attho. teneva vibhaṅge vuttaṃ — “ayaṃ sati upaṭṭhitā hoti sūpaṭṭhitā nāsikagge vā mukhanimitte vā, tena vuccati parimukhaṃ satiṃ upaṭṭhapetvā”ti (vibha. 537). atha vā “parīti pariggahaṭṭho, mukhanti niyyānattho, satīti upaṭṭhānattho, tena vuccati parimukhaṃ satin”ti (paṭi. ma. 1.164) evaṃ paṭisambhidāyaṃ vuttanayenapettha attho daṭṭhabbo. tatrāyaṃ saṅkhepo “pariggahitaniyyānasatiṃ katvā”ti.
Đã thiết lập niệm lập ở phía trước (parimukhaṃ satiṃ upaṭṭhapetvā) nghĩa là thiết lập niệm ở trước nghiệp xứ hoặc thực hiện gần trước mặt. Vì thế, ngài mới trong bộ Phân Tích rằng: “Niệm mà vị Tỳ khưu khéo thiết lập ở chót mũi hoặc tướng ở môi trên, vì thế được nói rằng thiết lập niệm luôn hiện diện.” (vibha. 537). Hoặc là “: ‘Luôn’ theo ý nghĩa nắm giữ, ‘hiện diện’ theo ý nghĩa dẫn xuất, ‘niệm’ theo ý nghĩa thiết lập; vì thế được nói rằng: “Thiết lập niệm luôn hiện diện.”(paṭi. ma. 1.164) nên biết ý nghĩa trong lời này theo phương thức được trình bày trong Phân Tích Đạo. Trong lời đó có ý nghĩa vắn tắt “thực hành bằng niệm là Pháp dẫn xuất khỏi mọi khổ đâu được xác định làm đối tượng”
abhijjhaṃ loketi ettha lujjanapalujjanaṭṭhena pañcupādānakkhandhā loko, tasmā pañcasu upādānakkhandhesu rāgaṃ pahāya kāmacchandaṃ vikkhambhetvāti ayamettha attho. vigatābhijjhenāti vikkhambhanavasena pahīnattā vigatābhijjhena, na cakkhuviññāṇasadisenāti attho. abhijjhāya cittaṃ parisodhetīti abhijjhāto cittaṃ parimoceti. yathā naṃ sā muñcati ceva, muñcitvā ca na puna gaṇhāti, evaṃ karotīti attho. byāpādapadosaṃ pahāyātiādīsupi eseva nayo. byāpajjati iminā cittaṃ pūtikammāsādayo viya purimapakatiṃ pajahatīti byāpādo. vikārāpattiyā padussati, paraṃ vā padūseti vināsetīti padoso. ubhayametaṃ kodhassevādhivacanaṃ. thinaṃ cittagelaññaṃ. middhaṃ cetasikagelaññaṃ. thinañca middhañca thinamiddhaṃ.
Ở đây, ngũ thủ uẩn gọi là thế gian trong cụm từ ‘abhijjhaṃ loke (sự thèm muốn ở đời)’ này bởi ý nghĩa (dễ) đổ nát vỡ vụn, bởi vì trong lời này có ý nghĩa như vầy dứt trừ ái luyến trong ngũ thủ uẩn, chế ngự được sự ước muốn trong các dục. Đã thoát ly khỏi thèm muốn (vigatābhijjhena) nghĩa là thoát khỏi sự thèm muốn do đã dứt trừ bằng sự từ bỏ do chế ngự, không phải giống như nhãn thức. Làm cho tâm trong sạch đối với thèm muốn (abhijjhāya cittaṃ parisodheti) nghĩa là giải thoát tâm từ sự thèm muốn. thực hành bằng cách buông bỏ sự tham muốn đó, khi đã buông bỏ thì không nắm lấy tâm đó nữa. Dứt bỏ sân hận (byāpādapadosaṃ pahāya) như vậy v.v, cũng có cách thức tương tự. Gọi là sân độc bởi là phương tiện gây tổn hại, khiến tâm dứt bỏ trạng thái bình thường giống như cái bánh làm bằng đậu xanh bị ôi thối v.v, suy nghĩ ác bởi làm tổn thương bằng việc tấn công dẫn đến biến dạng hoặc gây tổn hại người khác khiến (người đó) chết. Cả 2 từ này đều là tên gọi của giận dữ tương tự. Lờ đờ (thīna) là bệnh của tâm. Buồn ngủ (middha) là bệnh của tâm sở. Cả lờ đờ lẫn buồn ngủ gọi là lờ đờ buồn ngủ.
ālokasaññīti rattimpi divā diṭṭhāalokasañjānanasamatthatāya vigatanīvaraṇāya parisuddhāya saññāya samannāgato. sato sampajānoti satiyā ca ñāṇena ca samannāgato. idaṃ ubhayaṃ ālokasaññāya upakārattā vuttaṃ. uddhaccañca kukkuccañca uddhaccakukkuccaṃ. tiṇṇavicikicchoti vicikicchaṃ taritvā atikkamitvā ṭhito. “kathamidaṃ kathamidan”ti evaṃ nappavattatīti akathaṃkathī. kusalesu dhammesūti anavajjesu dhammesu. “ime nu kho kusalā, kathamime kusalā”ti evaṃ na vicikicchati na kaṅkhatīti attho. ayamettha saṅkhepo, imesu pana nīvaraṇesu vacanatthalakkhaṇādibhedato yaṃ vattabbaṃ siyā, taṃ sabbaṃ visuddhimagge vuttaṃ.
Ālokasaññī (có sự tưởng đến ánh sáng) bao gồm người gắn liền với tuệ thanh tịnh, thoát khỏi các sự ngăn che bởi có thể nhớ đến ánh sáng mà bản thân đã nhìn thấy cả ban đêm và lẫn ban ngày. Có niệm, có sự nhận biết rõ (sato sampajāno) gắn liền với niệm và tuệ, cả 2 pháp này ngài nói do là Pháp hỗ trợ cho sự tưởng đến ánh sáng, cả phóng dật, và cả hối hận gọi là phóng dật và hối hận. Vượt qua hoài nghi (tiṇṇavicikiccho) dịch là vượt qua sự hoài nghi. Không phân vân lưỡng lự (akathaṃkathī) người không có sự hoài nghi rằng làm nhân nói rằng như thế nào? bởi vì không diễn ra như vậy “đây là như thế nào? đây là như thế nào?” Trong tất cả các thiện Pháp (kusalesu dhammesu): Pháp không có lỗi lầm. Tức là không hoài nghi, không lưỡng lự như vậy “Các Pháp này là thiện, hoặc các Pháp này được xem là thiện ra sao?” Trong cau này có ý nghĩa vắn tắt như thế, nhưng khi nói bằng việc tách theo ý nghĩa và trạng thái của từ v.v, trong các Pháp ngăn che, tất cả lời đó được nói trong bộ Thanh Tịnh Đạo.
297. paññāya dubbalīkaraṇeti ime pañca nīvaraṇā uppajjamānā anuppannāya lokiyalokuttarāya paññāya uppajjituṃ na denti, uppannā api aṭṭha samāpattiyo pañca vā abhiññā ucchinditvā pātenti; tasmā “paññāya dubbalīkaraṇā”ti vuccanti. tathāgatapadaṃ itipīti idampi tathāgatassa ñāṇapadaṃ ñāṇavaḷañjaṃ ñāṇena akkantaṭṭhānanti vuccati. tathāgatanisevitanti tathāgatassa ñāṇaphāsukāya nighaṃsitaṭṭhānaṃ. tathāgatārañjitanti tathāgatassa ñāṇadāṭhāya ārañjitaṭṭhānaṃ.
297. paññāya dubbalīkaraṇe (làm cho trí tuệ suy giảm) nghĩa là năm Pháp ngăn che này khi sanh khởi chúng làm cho trí tuệ ở Hiệp thế và lẫn Siêu thế chưa sanh không sanh khởi, dẫu đã sanh cũng làm cho 8 thiền chứng, 5 thắng trí bị diệt mất, vì thế ngài mới nói rằng ‘làm cho trí tuệ suy giảm’. Như vậy đây là dấu chân của Như Lai (tathāgatapadaṃ itipīti idam) nghĩa là con đường là trí, dấu chân là trí của Như Lai, ngài gọi là vị trí mà trí đã chạm. dấu cọ xát của Như Lai bao gồm vị trí hai bên sườn là trí của Như Lai. Dấu cắt chém của Như Lai bao gồm vị trí ‘răng nanh’ là trí của Như Lai đã tiếp xúc.
299. yathābhūtaṃ pajānātīti yathāsabhāvaṃ pajānāti. natveva tāva ariyasāvako niṭṭhaṃ gato hotīti imā jhānābhiññā bāhirakehipi sādhāraṇāti na tāva niṭṭhaṃ gato hoti. maggakkhaṇepi apariyositakiccatāya na tāva niṭṭhaṃ gato hoti. apica kho niṭṭhaṃ gacchatīti apica kho pana maggakkhaṇe mahāhatthiṃ passanto nāgavaniko viya sammāsambuddho bhagavāti iminā ākārena tīsu ratanesu niṭṭhaṃ gacchati. niṭṭhaṃ gato hotīti evaṃ maggakkhaṇe niṭṭhaṃ gacchanto arahattaphalakkhaṇe pariyositasabbakiccatāya sabbākārena tīsu ratanesu niṭṭhaṃ gato hoti. sesaṃ uttānatthamevāti.
299. Yathābhūtaṃ pajānāti (Biết rõ đúng bản thể sự thật): biết theo đúng thực tính. Nhưng vị Thánh đệ tử vẫn chưa đi đến kết luận (natveva tāva ariyasāvako niṭṭhaṃ gato hoti) nghĩa là thiền và thắng trí này có chung cả thậm chí người bên ngoài Tôn Giáo (Phật Giáo), vì thế các vị Thánh đệ tử vẫn chưa đi đến kết luận, không vội vàng kết luận được bởi vì vẫn chưa hoàn thành, dẫu trong sát-na tâm Đạo. Nhưng lại đi đến kết luận (apica kho niṭṭhaṃ gacchati) nghĩa là thêm một điều nữa ở sát-na tâm Đạo đạt đến sự thành tựu trong Tam Bảo, bằng biểu hiện này đức Thế Tôn thật sự bậc Chánh Đẳng Chánh Giác, giống như người săn voi nhìn thấy con voi to lớn vậy. Đã đi đến kết luận (niṭṭhaṃ gato hoti) nghĩa là khi đạt đến sự thành tựu ở sát-na tâm Đạo như vầy, đặt đến sự thành tựu nơi Tam Bảo bằng tất cả biểu hiện, bởi vì có tất cả phận sự đã hoàn thành ở sát-na của tâm A-ra-hán Quả. Các từ còn lại ở các câu đều đơn giản.
Tiểu Kinh Ví Dụ Dấu Chân Voi Kết Thúc
[1] 3 cây gậy được dịch từ tidaṇḍa có thể có hai ý nghĩa là (1) ba cây gậy được buộc lại với nhau nhằm mục đích để nhắc nhở phải cẩn thận chú ý đến thân-khẩu-ý giống như tu sĩ Tedaṇḍika sử dụng, (2) gậy 3 chân mà du sĩ luôn mang bên mình, trong trường hợp này sử dụng ý nghĩa thứ nhất.