Kinh số 25 – Giải Thích Kinh Bẫy Mồi
(Nivāpasuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Bẫy Mồi
261. evaṃ me sutanti nivāpasuttaṃ. tattha nevāpikoti yo migānaṃ gahaṇatthāya araññe tiṇabījāni vapati “idaṃ tiṇaṃ khādituṃ āgate mige sukhaṃ gaṇhissāmī”ti. nivāpanti vappaṃ. nivuttanti vapitaṃ. migajātāti migaghaṭā. anupakhajjāti anupavisitvā. mucchitāti taṇhāmucchanāya mucchitā, taṇhāya hadayaṃ pavisitvā mucchanākāraṃ pāpitāti attho. madaṃ āpajjissantīti mānamadaṃ āpajjissanti. pamādanti vissaṭṭhasatibhāvaṃ. yathākāmakaraṇīyā bhavissantīti yathā icchissāma, tathā kātabbā bhavissanti. imasmiṃ nivāpeti imasmiṃ nivāpaṭṭhāne. ekaṃ kira nivāpatiṇaṃ nāma atthi nidāghabhaddakaṃ, taṃ yathā yathā nidāgho hoti, tathā tathā nīvāravanaṃ viya meghamālā viya ca ekagghanaṃ hoti, taṃ luddakā ekasmiṃ udakaphāsukaṭṭhāne kasitvā vapitvā vatiṃ katvā dvāraṃ yojetvā rakkhanti.
[261] Kinh Bẫy Mồi được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, người nào trồng cỏ trong rừng với ý định lấy thịt: “Ta sẽ dễ dàng bắt được những loài thú rừng đến ăn cỏ” người đó gọi là thợ săn. Nivuttaṃ: gieo trồng. Migajātā: bầy thú ăn cỏ. anupakhajja đồng nghĩa với anupavisitvā (sau khi xâm lấn). trở thành không biết mình: trở nên mê đắm bởi mãnh lực của tham ái, có nghĩa là sau khi thâm nhập trái tim bởi tham ái dẫn đến biểu hiện không có ý thức. Madaṃ āpajjissanti: sẽ đi đến sự mê đắm do mãnh lực ngã mạn. Phóng dật: thực tính là tính chất của hạng người thất niệm. Bị làm theo ý người ta muốn (yathākāmakaraṇīyā bhavissanti): ta mong muốn bằng cách nào sẽ thực hành theo cách đó. Trong rừng cỏ này: Ở trong chỗ trồng này. Kể rằng được gọi là cỏ được trồng ở đây có sự tươi đẹp vào mùa khô, khí hậu càng khô cỏ ấy càng mọc thành bụi giống như cỏ nīvāra và giống như những đám mây. Nhóm thợ săn cày xới ở một nơi có đầy đủ nước, rồi trồng cỏ ở nơi đó, làm hàng rào gắn liền với cổng để bảo vệ.
atha yadā mahānidāghe sabbatiṇāni sukkhāni honti, jivhātemanamattampi udakaṃ dullabhaṃ hoti, tadā migajātā sukkhatiṇāni ceva purāṇapaṇṇāni ca khādantā kampamānā viya vicarantā nivāpatiṇassa gandhaṃ ghāyitvā vadhabandhanādīni agaṇayitvā vatiṃ ajjhottharantā pavisanti. tesañhi nivāpatiṇaṃ ativiya piyaṃ hoti manāpaṃ. nevāpiko te disvā dve tīṇi divasāni pamatto viya hoti, dvāraṃ vivaritvā tiṭṭhati. antonivāpaṭṭhāne tahiṃ tahiṃ udakāavāṭakāpi honti, migā vivaṭadvārena pavisitvā khāditamattakaṃ pivitamattakameva katvā pakkamanti, punadivase kiñci na karontīti kaṇṇe cālayamānā khāditvā pivitvā ataramānā gacchanti, punadivase koci kiñci kattā natthīti yāvadatthaṃ khāditvā pivitvā maṇḍalagumbaṃ pavisitvā nipajjanti. luddakā tesaṃ pamattabhāvaṃ jānitvā dvāraṃ pidhāya samparivāretvā koṭito paṭṭhāya koṭṭetvā gacchanti, evaṃ te tasmiṃ nivāpe nevāpikassa yathākāmakaraṇīyā bhavanti.
Cho đến khi nào trời khô hạn tất cả các loại cỏ đều có màu trắng, nước uống dù chỉ một ít để làm ướt đầu lưỡi cũng khó tìm, cho đến khi ấy đàn nai cùng nhau đi ăn cỏ trắng và lá già, chúng đi lang thang trong sự sợ hãi, ngửi mùi cỏ đã được trồng, không nghĩ đến việc bị giết và bị bắt, v.v. chúng đã vượt rào đi vào. Nơi cỏ đã được trồng trở thành nơi vô cùng khả ái, nơi vô cùng khả hỷ của đàn nai đó. Sau khi chủ rừng cỏ nhìn thấy đàn nai ấy, giả vờ không để ý đến, mở cửa bỏ đó 2-3 ngày ở nơi trồng cỏ, cả hồ nước cũng có ở ngay tại chỗ ấy, đàn nai đi vào bên trong chỗ cửa đã mở sẵn, sau khi đã ăn và uống rồi chúng vội bỏ đi. Qua ngày hôm sau không thấy ai làm gì, sau khi đã ăn và đã uống, chúng rung lắc đôi tai, rồi đi thong thả không vội vã. Ngày tiếp theo thấy không có ai chúng ăn uống theo sự thỏa thích, rồi chúng đi vào ngủ xung quanh những bụi rậm. Nhóm thợ săn biết được những con mồi đã rơi vào trạng thái say sưa, họ đóng lại cánh cửa, đã bao vây, đánh đập (chúng) từ bìa rừng, như vậy đàn nai đó bị chủ nhân của rừng cỏ thực hiện làm theo sự ưa thích trong rừng cỏ đó bằng cách này.
262. tatra, bhikkhaveti, bhikkhave, tesu migajātesu. paṭhamā migajātāti, migajātā paṭhamadutiyā nāma natthi. bhagavā pana āgatapaṭipāṭivasena kappetvā paṭhamā, dutiyā, tatiyā, catutthāti nāmaṃ āropetvā dassesi. iddhānubhāvāti yathākāmaṃ kattabbabhāvato; vasībhāvoyeva hi ettha iddhīti ca ānubhāvoti ca adhippeto.
262 Tatra, bhikkhave đồng nghĩa bhikkhave, tesu migajātesu (Ở đây, này các Tỳ khưu trong đàn nai đó). Đàn nai đầu tiên, đàn nai không có tên gọi thứ nhất và thứ hai. Lại nữa, đức Thế Tôn xác định theo tuần tự đàn nai đã đi đến, chỉ ra cụ thể gọi là đàn nai thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư. Như ý lực của người thợ săn (iddhānubhāvā): do được theo mong muốn, Ngài mong muốn lấy thần lực và sức mạnh ở đây.
263. Bhayabhogāti bhayena bhogato. balavīriyanti aparāparaṃ sañcaraṇa vāyodhātu, sā parihāyīti attho.
263 Từ việc ăn cỏ trở nên sợ hãi (Bhayabhogā): từ việc ăn với sự sợ hãi. Sức mạnh nỗ lực (balavīriyaṃ): nguyên tố gió làm chuyển động từ chỗ này đến chỗ kia, nghĩa là nguyên tố gió đó bị suy giảm.
264. upanissāya āsayaṃ kappeyyāmāti anto nipajjitvā khādantānampi bhayameva, bāhirato āgantvā khādantānampi bhayameva, mayaṃ pana amuṃ nivāpaṭṭhānaṃ nissāya ekamante āsayaṃ kappeyyāmāti cintayiṃsu. upanissāya āsayaṃ kappayiṃsūti luddakā nāma na sabbakālaṃ appamattā honti. mayaṃ tattha tattha maṇḍalagumbesu ceva vatipādesu ca nipajjitvā etesu mukhadhovanatthaṃ vā āhārakiccakaraṇatthaṃ vā pakkantesu nivāpavatthuṃ pavisitvā khāditamattaṃ katvā amhākaṃ vasanaṭṭhānaṃ pavisissāmāti nivāpavatthuṃ upanissāya gahanesu gumbavatipādādīsu āsayaṃ kappayiṃsu.
264 Hãy làm một chỗ để ẩn nấp (upanissāya āsayaṃ kappeyyāma) khi đàn nai ăn ngủ ở bên trong hàng rào chắn cũng có sự sợ hãi, đến từ bên ngoài ăn nhai (cỏ bên trong rào chắn) cũng có sự sợ hãi, chúng ta có thể nghỉ ngơi ở một nơi nhất định gần chỗ trồng cỏ. Đi đến chỗ ẩn nấp ở gần (upanissāya āsayaṃ kappayiṃsū): đàn nai nghĩ rằng người thợ săn trở nên không có sự không khinh suất trong tất cả mọi thời, chúng ta sẽ ngủ ở trong bụi cây mọc um tùm và ở dưới hàng rào ở trong chỗ đó đó, trong khi những thợ săn đó bỏ đi rửa mặt hoặc đi ăn, mới tiến vào khu vực trồng cỏ, sau khi ăn và uống vừa đủ sẽ trở về chỗ của mình, sống ẩn nấp ở nơi bụi cây mọc um tùm và ở dưới hàng rào chắn v.v.
bhuñjiṃsūti vuttanayena luddakānaṃ pamādakālaṃ ñatvā sīghaṃ sīghaṃ pavisitvā bhuñjiṃsu. ketabinoti sikkhitakerāṭikā. iddhimantāti iddhimanto viya. parajanāti yakkhā. ime na migajātāti. āgatiṃ vā gatiṃ vāti iminā nāma ṭhānena āgacchanti, amutra gacchantīti idaṃ nesaṃ na jānāma. daṇḍavākarāhīti daṇḍavākarajālehi. samantā sappadesaṃ anuparivāresunti atimāyāvino ete, na dūraṃ gamissanti, santikeyeva nipannā bhavissantīti nivāpakkhettassa samantā sappadesaṃ mahantaṃ okāsaṃ anuparivāresuṃ. addasaṃsūti evaṃ parivāretvā vākarajālaṃ samantato cāletvā olokentā addasaṃsu. yattha teti yasmiṃ ṭhāne te gāhaṃ agamaṃsu, taṃ ṭhānaṃ addasaṃsūti attho.
Đang ăn cỏ (bhuñjiṃsu): biết được thời gian mà nhóm thợ săn lơ đễnh theo cách đã nói vội vã tiến vào ăn. Loài thú tinh ranh (ketabino): đã từng học cách lừa lọc dối trá. Iddhimantā: giống như người có thần lực. Không phải loài thú bình thường (parajanā): chúng là Dạ-xoa chớ không phải loài nai. Đường đi lối về (āgatiṃ vā gatiṃ vā): chúng tôi không biết suy nghĩ của những người thợ săn đó như đã nói đàn nai này đi đến con đường tên này, đi ở trong chỗ kia. Bẫy sập để bắt nai hươu (daṇḍavākarāhi) gồm bẫy sập (bắt hươu nai) bằng gỗ. Bao vây xung quanh rừng cỏ cho kín (samantā sappadesaṃ anuparivāresuṃ): Những người thợ săn nghĩ rằng đàn nai sẽ không đi xa sẽ ngủ ở nơi không xa nơi này, do đó bao vây lãnh thổ của chính họ là bao khu vực rộng lớn xung quanh khu đất trồng. Đã bắt gặp (addasaṃsu): bao vây như vậy rồi rung lắc bẫy sập mọi phía xung quanh quan sát. Chỗ mà ta sẽ đi bắt (yattha te): nhóm thợ săn đã đi bắt đàn nai ở chỗ nào, (tức là) đã thấy (đàn nai) ở chỗ đó.
265 yaṃnūna mayaṃ yattha agatīti te kira evaṃ cintayiṃsu — “anto nipajjitvā anto khādantānampi bhayameva, bāhirato āgantvā khādantānampi santike vasitvā khādantānampi bhayameva, tepi hi vākarajālena parikkhipitvā gahitāyevā”ti, tena tesaṃ etadahosi — “yaṃnūna mayaṃ yattha nevāpikassa ca nevāpikaparisāya ca agati avisayo, tattha tattha seyyaṃ kappeyyāmā”ti. aññe ghaṭṭessantīti tato tato dūrataravāsino aññe ghaṭṭessanti. te ghaṭṭitā aññeti tepi ghaṭṭitā aññe tato dūrataravāsino ghaṭṭessanti. evaṃ imaṃ nivāpaṃ nivuttaṃ sabbaso migajātā parimuccissantīti evaṃ imaṃ amhehi nivuttaṃ nivāpaṃ sabbe migaghaṭā migasaṅghā vissajjessanti pariccajissanti. ajjhupekkheyyāmāti tesaṃ gahaṇe abyāvaṭā bhaveyyāmāti; yathā tathā āgacchantesu hi taruṇapotako vā mahallako vā dubbalo vā yūthaparihīno vā sakkā honti laddhuṃ, anāgacchantesu kiñci natthi. ajjhupekkhiṃsu kho, bhikkhaveti evaṃ cintetvā abyāvaṭāva ahesuṃ.
Nếu như chúng ta không đi vào (yaṃnūna mayaṃ yattha agati): kể rằng nhóm thợ săn nghĩ như vầy – “đàn nai ăn ngủ ở bên trong hàng rào cũng có sự sợ hãi, đến từ bên ngoài ăn cỏ bên trong hàng rào cũng có sự sợ hãi, sống ở gần rẽ vào ăn cỏ cũng có sự sợ hãi, bởi vì đàn nai đó bị bao vây, bắt bằng bẫy sập, cho nên đàn nai nghĩ rằng: “nếu vậy ta cần phải ngủ ở nơi mà những người thợ săn và đồng bọn của họ đi không đến, bắt không được.” aññe ghaṭṭessanti: tấn công đàn nai khác ở chung quanh khu vực đó. Khiến cho đàn nai khác giật mình (te ghaṭṭitā aññe): các đàn nai bị đánh phá sẽ đánh phá lại các đàn nai khác nữa. Như vậy toàn thể đàn nai từ bỏ rừng cỏ được trồng này: toàn bộ đàn nai từ bỏ khu đất to lớn trồng cỏ mà chúng tôi đã trồng. Chúng ta chớ có can thiệp (ajjhupekkheyyāma): nên từ bỏ sự nỗ lực cố gắng để bắt đàn ấy, khi đàn nai cùng nhau đến với bất cứ biểu hiện nào đi chăng nữa, chúng ta cũng sẽ được con mồi con, hoặc con nai già, hay con nai tơ, hoặc con nai đi lạc đàn, khi không đi đến thì cũng chẳng được gì. ajjhupekkhiṃsu kho, bhikkhave: nghĩ như vậy (người thợ săn) không cố gắng nỗ lực.
267. amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa amūni ca lokāmisānīti ettha nivāpoti vā lokāmisānīti vā vaṭṭāmisabhūtānaṃ pañcannaṃ kāmaguṇānametaṃ adhivacanaṃ. māro na ca bījāni viya kāmaguṇe vapento āhiṇḍati, kāmaguṇagiddhānaṃ pana upari vasaṃ vatteti, tasmā kāmaguṇā mārassa nivāpā nāma honti. tena vuttaṃ — “amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mārassā”ti. na parimucciṃsu mārassa iddhānubhāvāti mārassa vasaṃ gatā ahesuṃ, yathākāmakaraṇīyā. ayaṃ saputtabhariyapabbajjāya āgataupamā.
267 amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa amūni ca lokāmisāni: ở đây thức ăn, hoặc vật chất thế gian là tên gọi của năm loại dục là mồi nhử của vòng luân hồi. Ma Vương không di du hành để gieo rắc dục lạc giống như hạt giống, nhưng truyền sức mạnh bao trùm người hoan hỷ trong năm món dục lạc. Vì thế, năm loại dục được gọi là mồi nhử của Ma Vương. Cho nên Ngài mới nói rằng: “amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa (mồi nhử của Ma Vương)”. Không thoát khỏi như ý lực của Ma Vương (na parimucciṃsu mārassa iddhānubhāva) gồm người rơi vào trong mãnh lực của Ma Vương, bị làm theo ý muốn của Ma Vương, điều này được so sánh ám chỉ đến người xuất gia cùng với con và vợ.
268. cetovimutti parihāyīti ettha cetovimutti nāma araññe vasissāmāti uppannājjhāsayo; so parihāyīti attho. tathūpame ahaṃ ime dutiyeti ayaṃ brāhmaṇadhammikapabbajjāya upamā. brāhmaṇā hi aṭṭhacattālīsavassāni komārabrahmacariyaṃ caritvā vaṭṭupacchedabhayena paveṇiṃ ghaṭayissāmāti dhanaṃ pariyesitvā bhariyaṃ gahetvā agāramajjhe vasantā ekasmiṃ putte jāte “amhākaṃ putto jāto vaṭṭaṃ na ucchinnaṃ paveṇi ghaṭitā”ti puna nikkhamitvā pabbajanti vā tameva vā sa’kalattavāsaṃ vasanti.
268 Gọi là sự giải thoát của tâm trong cụm từ ‘sự giải thoát của tâm bị kiệt quệ’: gồm khuynh hướng khởi lên rằng chúng tôi sẽ sống trong rừng, có nghĩa khuynh hướng đó đã suy giảm. Ta nói rằng Sa-môn Bà-la-môn nhóm thứ hai này giống như đàn nai nhóm thứ hai đó (tathūpame ahaṃ ime dutiye) đây là việc so sánh với bậc xuất gia gắn liền với Pháp của Bà-la-môn. Thât vậy, các Bà-la-môn thực hành Phạm hạnh từ thời thơ ấu (komārabrahmacariya) suốt 48 năm nghĩ rằng sẽ tiếp nối truyền thống bởi vì lo sợ vòng luân hồi bị cắt đứt, đã tầm cầu tài sản có được người vợ, đã sống đời sống gia đình, khi đã sanh được một người con, nghĩ rằng “ta đã có con, vòng luân hồi không bị cắt đứt, tiếp nối truyền thống” (vị ấy) lại rời khỏi gia đình xuất gia hoặc cưới vợ như trước.
269. evañhi te, bhikkhave, tatiyāpi samaṇabrāhmaṇā na parimucciṃsūti purimā viya tepi mārassa iddhānubhāvā na mucciṃsu; yathākāmakaraṇīyāva ahesuṃ. kiṃ pana te akaṃsūti? gāmanigamarājadhāniyo osaritvā tesu tesu ārāmauyyānaṭṭhānesu assamaṃ māpetvā nivasantā kuladārake hatthiassarathasippādīni nānappakārāni sippāni sikkhāpesuṃ. iti te vākarajālena tatiyā migajātā viya mārassa pāpimato diṭṭhijālena parikkhipitvā yathākāmakaraṇīyā ahesuṃ.
269 Như vậy, này chư Tỳ khưu, Sa-môn Bà-la-môn nhóm thứ ba đó cũng không thoát khỏi mãnh lực của Ma Vương (evañhi te, bhikkhave, tatiyāpi samaṇabrāhmaṇā na parimucciṃsu): Sa-môn Bà-la-môn ấy không thoát khỏi thần lực và sức mạnh của Ma Vương giống như trước đây; đã trở thành người bị làm theo ý muốn Ma Vương. Sa-môn Bà-la-môn ấy làm như thế nào? Sa-môn Bà-la-môn đó đi đến làng mạc, thị trấn, kinh thành, quốc độ, cho kiến tạo vườn bách thảo trong tự viện và khuôn viên đó cho trẻ con trong cả dòng tộc học tập các môn nghệ thuật bằng nhiều hình thức khác nhau chẳng hạn như voi ngựa và xe v.v, Do đó, những Sa-môn và Bà-la-môn đó rơi vào mạng lưới tà kiến của Ma Vương ác độc đã trở thành người bị làm theo ý muốn của Ma Vương, cũng giống như đàn nai bị bao vây bởi bẫy sập.
270. tathūpame ahaṃ ime catuttheti ayaṃ imassa sāsanassa upamā āhaṭā.
270 Ta nói Sa-môn Bà-la-môn thứ tư này được so sánh như đàn nai nhóm thứ tư đó (tathūpame ahaṃ ime catutthe): đây là phương tiện đem lại để so sánh Tôn Giáo này.
271. andhamakāsi māranti na mārassa akkhīni bhindi. vipassanāpādakajjhānaṃ samāpannassa pana bhikkhuno imaṃ nāma ārammaṇaṃ nissāya cittaṃ vattatīti māro passituṃ na sakkoti. tena vuttaṃ — “andhamakāsi māran”ti. apadaṃ vadhitvā māracakkhunti teneva pariyāyena yathā mārassa cakkhu apadaṃ hoti nippadaṃ, appatiṭṭhaṃ, nirārammaṇaṃ, evaṃ vadhitvāti attho.
271 Khiến cho Ma Vương mù mắt (andhamakāsi māraṃ): không phải làm hại làm tổn thương tròng mắt của Ma Vương, mà là tâm của vị Tỳ khưu nhập thiền làm nền tảng của Minh Sát nương vào đối tượng này diễn tiến. Do đó, Ma Vương không thể nhìn thấy được. Vì thế Ngài mới nói rằng “khiến cho Ma Vương mù mắt”. Đã thủ tiêu không còn dấu chân, làm cho mắt Ma Vương…(apadaṃ vadhitvā māracakkhuṃ): với chính pháp môn này ông (có thể) giết Ma Vương bằng cách làm cho mắt của Ma Vương không thấy đường, không còn đường đi, không còn chỗ thành lập, không có đối tượng, như vậy tức là đã thủ tiêu.
adassanaṃ gato pāpimatoti teneva pariyāyena mārassa pāpimato adassanaṃ gato. na hi so attano maṃsacakkhunā tassa vipassanāpādakajjhānaṃ samāpannassa bhikkhuno ñāṇasarīraṃ daṭṭhuṃ sakkoti. paññāya cassa disvā āsavā parikkhīṇā hontīti maggapaññāya cattāri ariyasaccāni disvā cattāro āsavā parikkhīṇā honti.
Đã đạt đến nơi (mắt của Ma Vương ác độc) không còn nhìn thấy (adassanaṃ gato pāpimato): với chính pháp môn đó Ma Vương ác độc không còn nhìn thấy. Thật vậy, Ma Vương đó không thể nhìn thấy sắc thân là trí của vị Tỳ khưu nhập thiền làm nền tảng của Minh Sát đó bằng nhục nhãn của chính mình. Bởi vì đã nhìn thấy bằng trí tuệ, các lậu hoặc hoàn toàn được cạn kiệt (paññāya cassa disvā āsavā parikkhīṇā honti): bởi nhìn thấy Tứ Thánh Đế bằng Đạo Tuệ, bốn lậu được hoặc hoàn toàn cạn kiệt.
tiṇṇo loke visattikanti loke sattavisattabhāvena visattikāti evaṃ saṅkhaṃ gataṃ. atha vā “visattikāti kenaṭṭhena visattikā? visatāti visattikā visaṭāti visattikā, vipulāti visattikā, visālāti visattikā, visamāti visattikā, visakkatīti visattikā, visaṃ haratīti visattikā, visaṃvādikāti visattikā, visamūlāti visattikā, visaphalāti visattikā, visaparibhogāti visattikā, visālā vā pana sā taṇhā rūpe sadde gandhe rase phoṭṭhabbe”ti (mahāni. 3; cūḷani. mettagūmāṇavapucchāniddesa 22, khaggavisāṇasuttaniddesa 124) visattikā. evaṃ visattikāti saṅkhaṃ gataṃ taṇhaṃ tiṇṇo nittiṇṇo uttiṇṇo. tena vuccati — “tiṇṇo loke visattikan”ti.
Vị đã vượt qua sự vướng mắc (tham ái trong các đối tượng khác nhau) ở thế gian (tiṇṇo loke visattikanti): bao gồm tham ái được gọi là sự vướng mắc, bởi vì sự vướng mắc và trải rộng trong thế gian. Và lại nữa “sự vướng mắc được gọi là sự vướng mắc bởi ý nghĩa gì?” gọi là sự vướng mắc bởi ý nghĩa rằng: “Được trải rộng là vướng mắc, được lan truyền là vướng mắc, được lan rộng là vướng mắc, nó lôi kéo theo là vướng mắc, nó mang lại chất độc là vướng mắc, truyền bá chất độc là vướng mắc, gốc rễ của chất độc là vướng mắc, kết quả của chất độc là vướng mắc, sự thọ dụng độc hại là vướng mắc. Hoặc hơn nữa, tham ái ấy là rộng lớn ở sắc, ở thinh, ở hương, ở vị, ở xúc được gọi là sự vướng mắc (mahāni. 3; cūḷani. mettagūmāṇavapucchāniddesa 22, khaggavisāṇasuttaniddesa 124). Vị đã vượt qua, đã vượt ra khỏi, đã vượt lên từ tham ái mà được gọi là sự vướng mắc nhưng đã đề cập. Vì thế, Ngài đã nói rằng: “Vị đã vượt qua sự vướng mắc ở thế gian”
Kinh Bẫy Mồi Kết Thúc.