Kinh số 24 – Giải Thích Kinh Trạm Xe
(Rathavinītasuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Trạm Xe
- evaṃ me sutanti rathavinītasuttaṃ. tattha rājagaheti evaṃnāmake nagare, tañhi mandhātumahāgovindādīhi pariggahitattā rājagahanti vuccati. aññepettha pakāre vaṇṇayanti. kiṃ tehi? nāmametaṃ tassa nagarassa. taṃ panetaṃ buddhakāle ca cakkavattikāle ca nagaraṃ hoti, sesakāle suññaṃ hoti yakkhapariggahitaṃ, tesaṃ vasantavanaṃ hutvā tiṭṭhati. veḷuvane kalandakanivāpeti veḷuvananti tassa uyyānassa nāmaṃ, taṃ kira veḷūhi parikkhittaṃ ahosi aṭṭhārasahatthena ca pākārena, gopuraṭṭālakayuttaṃ nīlobhāsaṃ manoramaṃ, tena veḷuvananti vuccati. kalandakānañcettha nivāpaṃ adaṃsu, tena kalandakanivāpoti vuccati.
252. Bài Kinh Trạm Xe được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, Rājagaha: Thành phố có tên như vậy, bởi vì Thành phố đó Ngài gọi là Thành Rājagaha bởi vì đức Vua Mandhātu và đức Vua Mahāgovinda v.v, hộ trì. Nhưng một số thầy khác giải thích bằng nhiều phương pháp trong lời này. Ngài giải thích như thế nào, Ngài giải thích rằng lời này là tên của thành phố đó, có Thành phố Rājagaha đó là Thành phố trong thời kỳ đức Phật và cả trong thời của Chuyển Luân Vương, ngoài thời gian đó là Thành phố trong rỗng, chỉ toàn phi nhân đến gìn giữ dần trở thành nơi ở của chúng phi nhân. Veluvana trong cụm từ veḷuvane kalandakanivāpe (Veḷuvana là nơi nuôi dưỡng những con sóc) là tên của vườn thượng uyển, thật vậy vườn thượng uyển đó có tre trúc bao quanh, có bức tường cao 18 hắt tay gắn liền với lùm cây, cánh cửa và pháo đài, có màu xanh lá cây đáng nhìn Ngài gọi là Veluvana. Mọi người cho thức ăn đến các con sóc trong Veḷuvane đó, vì vậy Ngài mới gọi là kalandaka-nivāpa (chỗ nuôi dưỡng những con sóc).
pubbe kira aññataro rājā tattha uyyānakīḷanatthaṃ āgato surāmadena matto divāseyyaṃ upagato supi. parijanopissa, “sutto rājā”ti pupphaphalādīhi palobhiyamāno ito cito ca pakkāmi, atha surāgandhena aññatarasmā susirarukkhā kaṇhasappo nikkhamitvā raññābhimukho āgacchati. taṃ disvā rukkhadevatā, “rañño jīvitaṃ dammī”ti kāḷakavesena āgantvā kaṇṇamūle saddamakāsi. rājā paṭibujjhi, kaṇhasappo nivatto. so taṃ disvā, “imāya mama jīvitaṃ dinnan”ti kāḷakānaṃ tattha nivāpaṃ paṭṭhapesi, abhayaghosanañca ghosāpesi. tasmā taṃ tato pabhuti kalandakanivāpanti saṅkhyaṃ gataṃ. kalandakāti kāḷakānaṃ nāmaṃ.
Kể rằng trước đây có một đức Vua, Ngài đến đây để vui chơi trong vườn thượng uyển, nhưng vị ấy đã say bởi men rượu rồi ngủ thiếp đi vào ban ngày, những người hầu cận biết rằng đức Vua đã ngủ, họ muốn những bông hoa và trái cây v.v, (cho nên) đã tách riêng ra để đi tìm kiếm. Khi ấy một con rắn hổ mang ngửi thấy mùi rượu đã bò ra từ một hốc cây hướng về phía đức Vua, vị Thiên nhân trú ngự ở trên cây nhìn thấy con rắn hổ mang ấy, đã hóa thân thành con sóc nhằm mục đích cứu mạng của đức Vua, con sóc đã đến gần cất lên tiếng kêu ở gần lỗ tai (đức Vua). Đức Vua tỉnh giác, con rắn hổ mang đã bò quay trở lại (hốc cây). Hoàng thượng nhìn thấy con sóc ấy biết được rằng, con sóc này đã cứu mạng của Trẫm nên đã đặt thức ăn trong vườn thượng uyển đó để cho tất cả các con sóc và truyền cho thông báo ban sự an toàn đến các loài sóc, vì thế kể từ đó (nơi đó) được gọi là chỗ nuôi dưỡng những con sóc (kalandakanivāpa). Từ kalandaka là tên của loài con sóc đó.
jātibhūmikāti jātibhūmivāsino. tattha jātibhūmīti jātaṭṭhānaṃ. taṃ kho panetaṃ neva kosalamahārājādīnaṃ na caṅkībrāhamaṇādīnaṃ na sakkasuyāmasantusitādīnaṃ na asītimahāsāvakādīnaṃ na aññesaṃ sattānaṃ jātaṭṭhānaṃ “jātibhūmī”ti vuccati. yassa pana jātadivase dasasahassilokadhātu ekaddhajamālā vippakiṇṇa-kusumavāsacuṇṇagandha-sugandhā sabbapāliphullamiva nandanavanaṃ virocamānā chói sáng paduminipaṇṇe cánh hoa sen udakabindu viya akampittha, jaccandhādīnañca rūpadassanādīni anekāni pāṭihāriyāni pavattiṃsu, tassa sabbaññubodhisattassa jātaṭṭhānasākiyajanapado kapilavatthāhāro, sā “jātibhūmī”ti vuccati.
Jātibhūmikā (người địa phương): người sống ở trong Jātibhūmi, trong từ Jātibhūmikā đó thì từ jātibhūmi dịch là sanh quán (nơi được sanh ra). Ở đó, không phải là sanh quán của đức Vua Kosalamahārāja v.v, cũng không phải nơi sanh của Bà-la-môn Caṅkībrāhamaṇa v.v, cũng không phải nơi sanh của Vua Chuyển Luân, vua trời Suyāma và vua trời Santusita v.v, không phải nơi sanh của tám mươi vị đại Thánh Thinh Văn v.v, cũng không phải nơi sanh của các chúng sanh khác được gọi là Jātibhūmi. Nhưng trong ngày đức Bồ-tát Toàn Giác nào đã sanh mười ngàn thế giới chấn động, lúc đó vô số cờ hoa giăng đầy khắp, hương hoa thơm ngát từ những bông hòa và bột thơm được phân tán như khu vườn Hoan Hỷ, nơi có hoa đang nở khắp, đung đưa giống như những giọt nước trên cánh hoa sen, rất nhiều điều kỳ diệu giống như người mù nhìn thấy được sắc v.v, được diễn ra sanh lên từ Bồ-tát Toàn Giác (sabbaññubodhisatta) là kinh thành Kapilavattu, sākiya-janapada (xứ sở sākiya) đó được gọi là “jātibhūmi”
Dhammagarubhāvavaṇṇanā
vassaṃvuṭṭhāti temāsaṃ vassaṃvuṭṭhā pavāritapavāraṇā hutvā. bhagavā etadavocāti “kacci, bhikkhave, khamanīyan”tiādīhi vacanehi āgantukapaṭisanthāraṃ katvā etaṃ, “ko nu kho, bhikkhave”tiādivacanamavoca. te kira bhikkhu, — “kacci, bhikkhave, khamanīyaṃ kacci yāpanīyaṃ, kaccittha appakilamathena addhānaṃ āgatā, na ca piṇḍakena kilamittha, kuto ca tumhe, bhikkhave, āgacchathā”ti paṭisanthāravasena pucchitā — “bhagavā sākiyajanapade kapilavatthāhārato jātibhūmito āgacchāmā”ti āhaṃsu. atha bhagavā neva suddhodanamahārājassa, na sakkodanassa, na sukkodanassa, na dhotodanassa, na amitodanassa, na amittāya deviyā, na mahāpajāpatiyā, na sakalassa sākiyamaṇḍalassa ārogyaṃ pucchi. atha kho attanā ca dasakathāvatthulābhiṃ parañca tattha samādapetāraṃ paṭipattisampannaṃ bhikkhuṃ pucchanto idaṃ — “ko nu kho, bhikkhave”tiādivacanaṃ avoca.
Sau khi an cư mùa mưa (vassaṃvuṭṭhā): sau khi an trú 3 tháng mùa mưa, (các Tỳ khưu đã được mời) nói lời Tự Tứ. Đức Thế Tôn hỏi các Tỳ khưu (bhagavā etadavoca): Đức Thế Tôn trong khi chào đón hỏi thăm các vị Tỳ kheo khách bằng lời nói như sau: “các ông có kham nhẫn được chăng?” rồi mới thuyết Phật ngộn “Vị Tỳ khưu nào…” v.v, kể rằng các Tỳ khưu ấy bị đức Thế Tôn hỏi bằng sự ân cần tiếp đón “Này các Tỳ khưu, các ông có kham nhẫn được chăng? Sức khoẻ có khá không? Các ông đi đường xa có được ít mệt nhọc không? Không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực? Các ông đến từ đâu?” Chư Tỳ khưu đáp lời: “Kính bạch đức Thế Tôn chúng con đến từ Jātibhūmi là thành Kapilavatthu, Sākiyajanapada.” Sau đó, đức Thế Tôn không hỏi sự không bệnh của Đại Vương Suddhodana, của Vua Sakkodanassa, của Vua Dhotodana, của Vua Amitodana, của Hoàng hậu Amittā, của Hoàng hậu Mahāpajāpati, của toàn bộ dòng tộc Sākya, nhưng hỏi đến Tỳ khưu có được mười Kathāvatthu với chính mình và người đã thành tựu nhờ sự thực hành, và khuyến khích để cho người khác thực hành điều đó nên mới thuyết Phật ngôn như sau: “Vị Tỳ khưu nào…”
kasmā pana bhagavā suddhodanādīnaṃ ārogyaṃ apucchitvā evarūpaṃ bhikkhumeva pucchati? piyatāya. buddhānañhi paṭipannakā bhikkhū bhikkhuniyo upāsakā upāsikāyo ca piyā honti manāpā. kiṃ kāraṇā? dhammagarutāya. dhammagaruno hi tathāgatā, so ca nesaṃ dhammagarubhāvo, “dukkhaṃ kho agāravo viharati, appatisso”ti (a. ni. 4.21) iminā ajapālanigrodhamūle uppannajjhāsayena veditabbo. dhammagarutāyeva hi bhagavā mahākassapattherassa abhinikkhamanadivase paccuggamanaṃ karonto tigāvutaṃ maggaṃ agamāsi.
Tại sao? Đức Thế Tôn không hỏi sự không bệnh của Đại Vương Suddhodana v.v, chỉ hỏi đến các Tỳ khưu bằng hình thức như vậy? Bởi vì tình thương. Thật vậy, Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, cận sự nam, và cận sự nữ những vị thực hành (Pháp) đều là nơi yêu quý, là nơi ưa thích của chư Phật. Vì sao? Bởi vì là người tôn kính Pháp. Quả thật các đấng Như Lai là người tôn kính Pháp. Có bản chất mà các đấng Như Lai đó là người tôn kính Pháp đó nên biết khuynh hướng sanh khởi dưới gốc cây Ajapālanigrodha này rằng: “Người không có sự tôn trọng, không có sự cung kính (người ấy) sống trong khổ đau.” (a. ni. 4.21). Thật vậy do bản chất là người tôn trọng Pháp, đức Thế Tôn đã đi suốt đoạn đường khoảng ba dặm để thực hành sự tiếp đón Trưởng lão Mahākassapa trong ngày vị ấy xuất gia.
atirekatiyojanasataṃ maggaṃ gantvā gaṅgātīre dhammaṃ desetvā mahākappinaṃ saparisaṃ arahatte patiṭṭhapesi. ekasmiṃ pacchābhatte pañcacattālīsayojanaṃ maggaṃ gantvā kumbhakārassa nivesane tiyāmarattiṃ dhammakathaṃ katvā pukkusātikulaputtaṃ anāgāmiphale patiṭṭhapesi. vīsayojanasataṃ gantvā vanavāsisāmaṇerassa anuggahaṃ akāsi. saṭṭhiyojanamaggaṃ gantvā khadiravaniyattherassa dhammaṃ desesi.
Ngài đã đi hơn 300 do-tuần để thuyết Pháp ở bờ sông Hằng nơi đại đức Mahākappina cùng với hội chúng đã an trú trong Quả vị A-ra-hán. Sau khi thọ thực Ngài đã đi 45 do-tuần để thuyết Pháp suốt 3 canh ở nhà người thợ làm gốm, đã thiết lập thiện nam tử Pukkusāti trong Thánh Quả A-na-hàm. Ngài đã đi suốt 2000 do-tuần để hỗ trợ Sa-di cư trú ở trong rừng. Ngài đi suốt 60 do-tuần để thuyết giảng Giáo Pháp đến Trưởng lão Khadiravaniya.
anuruddhatthero pācīnavaṃsadāye nisinno mahāpurisavitakkaṃ vitakketīti ñatvā tattha ākāsena gantvā therassa purato oruyha sādhukāramadāsi. koṭikaṇṇasoṇattherassa ekagandhakuṭiyaṃ senāsanaṃ paññapāpetvā paccūsakāle dhammadesanaṃ ajjhesitvā sarabhaññapariyosāne sādhukāramadāsi. tigāvutaṃ maggaṃ gantvā tiṇṇaṃ kulaputtānaṃ vasanaṭṭhāne gosiṅgasālavane sāmaggirasānisaṃsaṃ kathesi. kassapopi bhagavā — “anāgāmiphale patiṭṭhito ariyasāvako ayan”ti vissāsaṃ uppādetvā ghaṭikārassa kumbhakārassa nivesanaṃ gantvā sahatthā āmisaṃ gahetvā paribhuñji.
được biết rằng Trưởng lão Anuruddha ngồi ở rừng Pācīnavaṃsadāya nghĩ đến mahāpurisavitakka (tư duy đại nhân) rồi (Ngài) bay đến nơi đó và Ngài đã đứng trước mặt của Trưởng lão đã ban lời khen ngợi. Cho trải chỗ nằm ở cùng một Hương thất đối với Trưởng lão Koṭikaṇṇasoṇa vào lúc sáng sớm để mời thỉnh thuyết giảng Giáo Pháp, vào lúc chấm dứt bài giảng trôi chảy đã ban lời khen ngợi. Ngài đã đi trên con đường dài 3 dặm để nói đến lợi ích sự hòa hợp ở rừng Gosiṅgasāla ở nơi cư trú của 3 thiện nam tử. Còn đối với đức Thế Tôn hồng danh Kassapa đã làm sanh khởi sự thân thiết rằng vị Thánh Thinh Văn này đã vững trú trong Thánh Quả A-na-hàm”, ngài đi đến chỗ cư trú của người thợ gốm tên là Ghaṭikāra đã tiếp nhận vật thực bằng tay của ngài rồi thọ dụng.
amhākaṃyeva bhagavā upakaṭṭhāya vassūpanāyikāya jetavanato bhikkhusaṅghaparivuto cārikaṃ nikkhami. kosalamahārājānāthapiṇḍikādayo nivattetuṃ nāsakkhiṃsu. anāthapiṇḍiko gharaṃ āgantvā domanassappatto nisīdi. atha naṃ puṇṇā nāma dāsī domanassappattosi sāmīti āha. “āma je, satthāraṃ nivattetuṃ nāsakkhiṃ, atha me imaṃ temāsaṃ dhammaṃ vā sotuṃ, yathādhippāyaṃ vā dānaṃ dātuṃ na labhissāmī”ti cintā uppannāti. ahampi sāmi satthāraṃ nivattessāmīti. sace nivattetuṃ sakkosi, bhujissāyeva tvanti.
Đức Thế Tôn của chúng ta do việc vào mùa (an cư) mưa đã đến gần, có hội chúng Tỳ khưu vây quanh. Ngài ra đi du hành từ Jetavana. Đại Vương Kosala và trưởng giả Anāthapiṇḍika v.v, không thể làm cho ngài trở lại được. Trưởng giả Anāthapiṇḍika sau khi trở về nhà ngồi buồn bã. Người hầu tên là Puṇṇa đã nói với trưởng giả rằng “ông buồn à?” Trưởng giả Anāthapiṇḍika đap rằng “phải” tôi không thể làm cho bậc Đạo Sư trở lại, cho nên tôi nghĩ rằng: “Tôi cũng không thể lắng nghe Pháp, cúng dường theo ý muốn suốt 3 tháng này.” Người hầu nữ Puṇṇa đã nói rằng ông tôi sẽ đưa bậc Đạo Sư trở lại. Trưởng giả nói rằng: “Nếu ngươi có thể đưa bậc Đạo Sư trở lại được, ta sẽ trả tự do lại cho ngươi.”
sā gantvā dasabalassa pādamūle nipajjitvā “nivattatha bhagavā”ti āha. puṇṇe tvaṃ parapaṭibaddhajīvikā kiṃ me karissasīti. bhagavā mayhaṃ deyyadhammo natthīti tumhepi jānātha, tumhākaṃ nivattanapaccayā panāhaṃ tīsu saraṇesu pañcasu sīlesu patiṭṭhahissāmīti. bhagavā sādhu sādhu puṇṇeti sādhukāraṃ katvā nivattetvā jetavanameva paviṭṭho. ayaṃ kathā pākaṭā ahosi. seṭṭhi sutvā puṇṇāya kira bhagavā nivattitoti taṃ bhujissaṃ katvā dhītuṭṭhāne ṭhapesi. sā pabbajjaṃ yācitvā pabbaji, pabbajitvā vipassanaṃ ārabhi. athassā satthā āraddhavipassakabhāvaṃ ñatvā imaṃ obhāsagāthaṃ vissajjesi —
Nàng quỳ xuống dưới chân đấng Thập Lực và nói: “Kính bạch đức Thế Tôn xin ngài hãy qua trở lại”. Đức Thế Tôn nói rằng: Này Puṇṇa, con là người sống nương tựa vào vị ấy để kiếm sống, con có thể làm điều gì cho Ta. Cô ấy nói rằng: Bạch đức Thế Tôn, con không có phẩm vật cúng dường, nhân duyên ngài trở lại, con sẽ được thiết lập trong Tam Bảo và ngũ giới. Đức Thế Tôn đã nói lành thay, lành thay Puṇṇa, rồi ngài quay trở lại an trú ở khu vườn Jetavana, chuyện này đã xảy ra như vậy. Trưởng giả sau khi nghe đã nghĩ rằng: vị ấy nói rằng đức Thế Tôn đã quay trở lại vì nàng Puṇṇa, ông đã trả tự do cho nàng và đặt nàng ở vị trí là con gái. Nàng đã thỉnh cầu được xuất gia rồi xuất gia, rồi bắt đầu thực hành Minh Sát. Sau đó bậc Đạo sư biết rằng nàng đã bắt đầu thực hành Minh Sát, ngài đã phát hào quang và thuyết kệ ngôn sau:
“puṇṇe pūresi saddhammaṃ, cando pannaraso yathā.
paripuṇṇāya paññāya, dukkhassantaṃ karissasī”ti. (therīgā. 3).
“Này Puṇṇā, cô hãy thực hành Chánh Pháp làm cho đầy đủ (đưa đến giác ngộ), giống như mặt trăng tròn ngày rằm; với trí tuệ đã được tròn đủ, cô sẽ làm chấm dứt được khổ đau.”
gāthāpariyosāne arahattaṃ patvā abhiññātā sāvikā ahosīti. evaṃ dhammagaruno tathāgatā.
Sau khi chấm dứt kệ ngôn nàng đã chứng đắc A-ra-hán trở thành một vị Thánh Thinh Văn có danh tiếng. Các đấng Như Lai là người tôn trọng Giáo Pháp như vậy.
nandakatthere upaṭṭhānasālāyaṃ dhammaṃ desentepi bhagavā anahātova gantvā tiyāmarattiṃ ṭhitakova dhammakathaṃ sutvā desanāpariyosāne sādhukāramadāsi. thero āgantvā vanditvā, “kāya velāya, bhante, āgatatthā”ti pucchi. tayā suttante āraddhamatteti. dukkaraṃ karittha, bhante, buddhasukhumālā tumheti. sace tvaṃ, nanda, kappaṃ desetuṃ sakkuṇeyyāsi, kappamattampāhaṃ ṭhitakova suṇeyyanti bhagavā avoca. evaṃ dhammagaruno tathāgatā. tesaṃ dhammagarutāya paṭipannakā piyā honti, tasmā paṭipannake pucchi. paṭipannako ca nāma attahitāya paṭipanno no parahitāya, parahitāya paṭipanno no attahitāya, no attahitāya ca paṭipanno no parahitāya ca, attahitāya ca paṭipanno parahitāya cāti catubbidho hoti.
Trong khi Trưởng lão Nanda thuyết giảng Giáo Pháp ở trai đường đức Thế Tôn đi đến khi trời chập tối, ngài đứng nghe thuyết Pháp suốt 3 canh, sau khi chấm dứt Pháp thoại (ngài) đã ban lời khen ngợi. Trưởng lão đến chấp tay đảnh lễ rồi hỏi “Bạch ngài, ngài đến từ lúc nào”. Đức Thế Tôn đáp rằng: Trong khi con bắt đầu thuyết Pháp. (Trưởng lão Nanda) đáp rằng: Bạch ngài, ngài là Đức Phật cao quý đã làm điều thật khó làm. (Đức Phật) này Nanda! Nếu con có thể thuyết Pháp suốt kiếp thì Như Lai cũng đứng nghe Chánh Pháp suốt kiếp được. Các đấng Như Lai đều tôn kính Chánh Pháp như vậy. Do đó, đức Thế Tôn mới hỏi đến những vị thực hành Pháp. Được gọi là người thực hành Pháp có 4 loại là: (1) người thực hành vì lợi ích của bản thân, nhưng không thực hành để mang lại lợi ích cho người khác; (2) người thực hành vị lợi ích của người khác, nhưng không thực hành vì lợi ích bản thân; (3) người thực hành lợi ích vì lợi ích của bản thân và cả thực hành vì lợi ích của người khác; (4) người không thực hành vì lợi ích của bản thân, mà cũng không thực hành vì lợi ích của người khác.
tattha yo sayaṃ dasannaṃ kathāvatthūnaṃ lābhī hoti, paraṃ tattha na ovadati na anusāsati āyasmā bākulo viya. ayaṃ attahitāya paṭipanno nāma no parahitāya paṭipanno, evarūpaṃ bhikkhuṃ bhagavā na pucchati. kasmā? na mayhaṃ sāsanassa vaḍḍhipakkhe ṭhitoti.
Trong bốn hạng người đó, hạng người nào có được mười kathāvatthu không nói không chỉ dạy cho người khác trong mười kathāvatthu, tương tự như Ngài Bākula, vị này gọi là thực hành vì lợi ích của bản thân, nhưng không thực hành vì lợi ích của người khác. Đức Thế Tôn không hỏi vị Tỳ khưu như vậy. Vì sao? Bởi vì vị Tỳ khưu này không thiết lập trong nhóm (có thể) phát triển tôn giáo của Ta.
yo pana dasannaṃ kathāvatthūnaṃ alābhī, paraṃ tehi ovadati tena katavattasādiyanatthaṃ upanando sakyaputto viya, ayaṃ parahitāya paṭipanno nāma no attahitāya, evarūpampi na pucchati. kasmā? assa taṇhā mahāpacchi viya appahīnāti.
Còn người nào không có được mười kathāvatthu (nhưng) dạy vị Tỳ khưu khác bằng mười kathāvatthu đó nhằm mục đích thực hiện trách nhiệm đã làm giống như Ngài Upanando-sakyaputta, vị này thực hành vì lợi ích của người khác nhưng không thực hành vì thực hành vì lợi ích bản thân. Đức Thế Tôn không hỏi cũng không hỏi đến vị Tỳ khưu đó. Vì sao? Bởi vì vị Tỳ khưu đó không đoạn trừ tham ái cũng giống như một cái giỏ lớn.
yo attanāpi dasannaṃ kathāvatthūnaṃ alābhī, parampi tehi na ovadati, lāḷudāyī viya, ayaṃ neva attahitāya paṭipanno na parahitāya, evarūpampi na pucchati. kasmā? assa anto kilesā pharasuchejjā viya mahantāti.
Người không có được mười kathāvatthu, mà cũng không khuyến khích, không giảng dạy người khác với mười kathāvatthu, tương tự như Tỳ khưu Lāḷudāyi, vị này được gọi là không thực hành vì lợi ích của bản thân mà cũng không thực hành vì lợi ích của người khác. Đức Thế Tôn không hỏi đến vị Tỳ khưu có hình thức như vậy. Vì sao? Bởi vì phiền não bên trong lẫn bên ngoài của vị ấy quá nhiều giống như cần phải chặt đứt bằng một cái rìu.
yo pana sayaṃ dasannaṃ kathāvatthūnaṃ lābhī, parampi tehi ovadati, ayaṃ attahitāya ceva parahitāya ca paṭipanno nāma sāriputtamoggallānamahākassapādayo asītimahātherā viya, evarūpaṃ bhikkhuṃ pucchati. kasmā? mayhaṃ sāsanassa vuḍḍhipakkhe ṭhitoti. idhāpi evarūpameva pucchanto — “ko nu kho, bhikkhave”tiādimāha.
Còn vị Tỳ khưu nào bản thân có được mười kathāvatthu, và giảng dạy người khác bằng mười kathāvatthu đó, vị Tỳ khưu đó gọi là thực hành vì lợi ích của bản thân và cả lợi ích của người khác, giống như tám mươi vị đại Trưởng lão có Trưởng lão Sāriputta Trưởng lão Moggallāna, Trưởng lão Mahākassapa v.v, đức Thế Tôn hỏi những vị Tỳ khưu bằng hình thức như vậy. Vì sao? Bởi vì những vị Tỳ khưu đó được thiết lập trong nhóm phát triển tôn giáo của Ta. Đức Thế Tôn khi hỏi riêng những vị Tỳ khưu bằng hình thức như vậy ngay cả ở đây nên ngài mới nói rằng: “Này chư Tỳ khưu trong Jātibhūmi, vị Tỳ khưu nào?”
evaṃ bhagavatā puṭṭhānaṃ pana tesaṃ bhikkhūnaṃ bhagavā attano jātibhūmiyaṃ ubhayahitāya paṭipannaṃ dasakathāvatthulābhiṃ bhikkhuṃ pucchati, ko nu kho tattha evarūpoti na aññamaññaṃ cintanā vā samantanā vā ahosi. kasmā? āyasmā hi mantāṇiputto tasmiṃ janapade ākāsamajjhe ṭhito cando viya sūriyo viya ca pākaṭo paññāto. tasmā te bhikkhū meghasaddaṃ sutvā ekajjhaṃ sannipatitamoraghaṭā viya ghanasajjhāyaṃ kātuṃ, āraddhabhikkhū viya ca attano ācariyaṃ puṇṇattheraṃ bhagavato ārocentā therassa ca guṇaṃ bhāsituṃ appahontehi mukhehi ekappahāreneva puṇṇo nāma, bhante, āyasmātiādimāhaṃsu. tattha puṇṇoti tassa therassa nāmaṃ. mantāṇiyā pana so putto, tasmā mantāṇiputtoti vuccati. sambhāvitoti guṇasambhāvanāya sambhāvito.
Các Tỳ khưu đó trong khi đức Thế Tôn hỏi như vậy, đức Thế Tôn hỏi Tỳ khưu có được mười kathāvatthu, người thực hành vì mục đích của cả hai phía (cho mình và cho người người khác) ở trong jātibhūmi của mình. Không cần phải suy nghĩ hoặc tham vấn lẫn nhau rằng: trong các Tỳ khưu đó vị nào có hình thức như thế? Tại sao? Bởi vì ngài Mantāṇiputta xuất hiện có danh tiếng ở xứ sở đó, giống như mặt trăng và mặt trời lơ lửng ở giữa không trung. Vì thế, vị Tỳ khưu đó tựa như đàn công sau khi nghe tiếng mưa chúng sẽ tụ hội lại với nhau và tương tự như vị Tỳ khưu bắt đầu làm nhóm trì tụng. Trong khi hỏi đến Trưởng lão Puṇṇa là thầy của mình, nhưng đức Thế Tôn mặc dầu có miệng cũng không đủ để tán dương đức hạnh của Trưởng lão, nên đã đồng loạt nói lên “Bạch Thế Tôn, Tỳ khưu Puṇṇa Mantānīputta”. Ở đó, từ Puṇṇa là tên của vị Trưởng lão đó cũng bởi ngài là con của Bà-la-môn Mantānī, do đó gọi là Mantāṇiputta. Tán thán (sambhāvito): tán dương bằng cách nói lời khen ngợi đức hạnh.
Appicchatādivaṇṇanā
appicchoti icchāvirahito nīccho nittaṇho. ettha hi byañjanaṃ sāvasesaṃ viya, attho pana niravaseso. na hi tassa anto aṇumattāpi pāpikā icchā nāma atthi. khīṇāsavo hesa sabbaso pahīnataṇho. apicettha atricchatā pāpicchatā mahicchatā appicchatāti ayaṃ bhedo veditabbo.
Người thiểu dục (appiccho): không còn sự ước muốn, hết sự mong muốn, hết tham ái. Trong lời này giống như chỉ dư sót văn tự, còn phần ý nghĩa không dư sót. Bởi vì ngài Puṇṇa Mantāṇiputta ấy không có ước muốn dù chỉ là chút ít, vì ngài là bậc lậu tận, đa dứt trừ hoàn toàn tham ái. Lại nữa, người thiểu dục này nên biết phân loại như sau: sự ước muốn không có ranh giới (atricchatā), sự ước muốn xấu xa (pāpicchatā), sự đa dục (mahicchatā), sự thiểu dục (appicchatā).
tattha sakalābhe atittassa paralābhe patthanā atricchatā nāma. tāya samannāgatassa ekabhājena pakkapūvopi attano patte patito na supakko viya khuddako viya ca khāyati. sveva parassa patte pakkhitto supakko viya mahanto viya ca khāyati. asantaguṇasambhāvanatā pana paṭiggahaṇe ca amattaññutā pāpicchatā nāma, sā, “idhekacco assaddho samāno saddhoti maṃ jano jānātū”tiādinā nayena abhidhamme āgatāyeva, tāya samannāgato puggalo kohaññe patiṭṭhāti. santaguṇasambhāvanā pana paṭiggahaṇe ca amattaññutā mahicchatā nāma. sāpi, “idhekacco saddho samāno saddhoti maṃ jano jānātūti icchati, sīlavā samāno sīlavāti maṃ jano jānātū”ti (vibha. 851) iminā nayena āgatāyeva, tāya samannāgato puggalo dussantappayo hoti, vijātamātāpissa cittaṃ gahetuṃ na sakkoti. tenetaṃ vuccati —
Trong bốn loại đó người không biết đủ đối với tài sản của chính mình mong muốn thêm tài sản của người khác gọi là người có sự ước muốn không có ranh giới. người gắn liền với sự ước muốn không có ranh giới nhìn thấy cái bánh ngọt được chuẩn bị trong cùng một cái dĩa, rớt xuống trong bình bát của mình giống như cái bánh chưa chín và nhỏ, và cái bánh tương tự được vị ấy đặt trong cái bình bát của người khác thì nhìn thấy rằng đó là cái bánh ngon và lớn. Lại nữa, sự khoe khoang đức tính (mà bản thân) không tồn tại và sự không biết đủ trong việc tiếp nhận gọi là người có sự ước muốn xấu xa. Điều đó có trong Abhidhamma bằng cách thức bắt đầu như sau: “Một số hạng người trên đời này không có đức tin, ước muốn rằng xin cho mọi người hãy biết rằng ta là người có đức tin. Hạng người hội đủ với tính chất người ước muốn xấu xa đó được thiết lập trong vị trí là người gian trá.” Còn việc tán dương đức hạnh mà có tồn tại, hoặc việc không biết đủ trong việc tiếp nhận gọi là sự đa dục. Thậm chí tính chất người đa dục đó cũng được nói theo cách thức sau: “một số hạng người trên đời này là người có đức tin, ước muốn rằng xin cho mọi người hãy biết rằng ‘ta là người có đức tin’, là người có giới ước muốn rằng xin cho mọi người hãy biết răng ‘ta là người có giới’”. (vibha. 851). Hạng người hội đủ với tính chất người đa dục đó trở thành nơi yêu mến của người xấu ác. Ngay cả mẹ ruột của vị ấy cũng không thể làm hài lòng của vị ấy. Bởi thế ngài mới nói lời này rằng:
“aggikkhandho samuddo ca, mahiccho cāpi puggalo.
sakaṭena paccayaṃ detu, tayopete atappayā”ti.
Khói lửa, biển cả và hạng người đa dục, cà ba loại này;
dầu cho các món vật dụng chất đầy cổ xe, thì cũng không thể làm cho no đủ.
santaguṇanigūhanatā pana paṭiggahaṇe ca mattaññutā appicchatā nāma, tāya samannāgato puggalo attani vijjamānampi guṇaṃ paṭicchādetukāmatāya, “saddho samāno saddhoti maṃ jano jānātūti na icchati. sīlavā, pavivitto, bahussuto, āraddhavīriyo, samādhisampanno, paññavā, khīṇāsavo samāno khīṇāsavoti maṃ jano jānātū”ti na icchati, seyyathāpi majjhantikatthero.
Còn việc che đậy đức hạnh và tính chất là người biết đủ trong việc thọ nhận gọi là tính chất người thiểu dục. Hạng người hội đủ với tính chất người thiểu dục đó do ước muốn che đậy đức hạnh, thậm chí tồn tại trong tự ngã, thành tựu với đức tin, cũng không muốn người khác biết rằng ta có đức tin, là người có giới, là bậc an tịnh, là bậc đa văn, là người nhiệt tâm tinh tấn, đầy đủ định, có tuệ, là bậc lậu tận cũng không mong muốn cho người khác biết rằng ‘ta là bậc lậu tận” giống như trưởng lão Majjhantika.
thero kira mahākhīṇāsavo ahosi, pattacīvaraṃ panassa pādamattameva agghati, so asokassa dhammarañño vihāramahadivase saṅghatthero ahosi. athassa atilūkhabhāvaṃ disvā manussā, “bhante, thokaṃ bahi hothā”ti āhaṃsu. thero, “mādise khīṇāsave rañño saṅgahaṃ akaronte añño ko karissatī”ti pathaviyaṃ nimujjitvā saṅghattherassa ukkhittapiṇḍaṃ gaṇhantoyeva ummujji. evaṃ khīṇāsavo samāno, “khīṇāsavoti maṃ jano jānātū”ti na icchati. evaṃ appiccho pana bhikkhu anuppannaṃ lābhaṃ uppādeti, uppannaṃ lābhaṃ thāvaraṃ karoti, dāyakānaṃ cittaṃ ārādheti, yathā yathā hi so attano appicchatāya appaṃ gaṇhāti, tathā tathā tassa vatte pasannā manussā bahū denti.
Kể rằng Trưởng lão là bậc đại lậu tận, nhưng bình bát và y phục của ngài có giá trị chỉ vỏn vẹn một đồng. Ngài làm trưởng đoàn Tăng Chúng trong ngày đại lễ cúng dường tinh xá của đức Vua Dhammasoka. Khi đó nhân loại nhìn thấy ngài có y phục quá bẩn thiểu bèn nói với ngài rằng: “Thưa ngài, xin ngài vui lòng đợi bên ngoài một chút”. Trưởng lão nghĩ rằng: “trong khi một bậc lậu tận như ta không thể nhiếp phục đức Vua, người nào khác sẽ (có thể) nhiếp phục được” rồi đã lặn vào trong lòng đất rồi nổi lên để thọ nhận vật thực đã được chuẩn bị cho vị Trưởng lão làm trưởng đoàn Tăng Chúng, Ngài là bậc lậu tận thật sự như vậy, vẫn không ước muốn “dân chúng biết rằng ta là bậc lậu tận”. Còn vị Tỳ khưu thiểu dục làm cho tài vật không sanh khiến sanh khởi, làm tài vật đã sanh được vững chắc, làm cho tâm của các thí chủ cúng dường được hoan hỷ. Thật vậy vị Tỳ khưu thiểu dục đó càng thọ nhận ít (các món vật dụng) bởi bản thân là người thiểu dục thế nào thì những người nhân loại có đức tin nơi phận sự của ngài sẽ cúng dường nhiều thế đó.
aparopi catubbidho appiccho — paccayāppiccho dhutaṅgāppiccho pariyattiappiccho adhigamāppicchoti. tattha catūsu paccayesu appiccho paccayāppiccho nāma, so dāyakassa vasaṃ jānāti, deyyadhammassa vasaṃ jānāti, attano thāmaṃ jānāti. yadi hi deyyadhammo bahu hoti, dāyako appaṃ dātukāmo, dāyakassa vasena appaṃ gaṇhāti. deyyadhammo appo, dāyako bahuṃ dātukāmo, deyyadhammassa vasena appaṃ gaṇhāti. deyyadhammopi bahu, dāyakopi bahuṃ dātukāmo, attano thāmaṃ ñatvā pamāṇeneva gaṇhāti.
Hơn nữa, có 4 hạng vị Tỳ khưu thiểu dục – (1) vị Tỳ khưu thiểu dục trong các món vật dụng, (2) vị Tỳ khưu thiểu dục trong các hạnh đầu đà, (3) vị Tỳ khưu thiểu dục trong Pháp học, (4) vị Tỳ khưu thiểu dục trong Pháp hành. Trong bốn hạng Tỳ khưu đó, vị Tỳ khưu thiểu dục trong bốn món vật dụng gọi là người thiểu dục trong vật dụng. Vị Tỳ khưu thiểu dục trong vật dụng đó biết được khả năng của thí chủ, biết khả năng của phẩm vật cúng dường, biết được năng lực của bản thân. (tức là) nếu như phẩm vật cúng dường nhiều nhưng thí chủ cúng dường ít (vị ấy) cũng thọ nhận ít theo năng lực của thí chủ; Phẩm vật cúng dường ít nhưng thí chủ cúng dường nhiều (vị ấy) cũng thọ nhận ít theo điều giới hạn của phẩm vật cúng dường; dầu phẩm vật cúng dường nhiều và cả thí chủ cúng dường cần cúng dường nhiều (vị ấy) cũng biết năng lực của mình chỉ nhận vừa đủ.
dhutaṅgasamādānassa attani atthibhāvaṃ najānāpetukāmo dhutaṅgāppiccho nāma. tassa vibhāvanatthaṃ imāni vatthūni — sosānikamahāsumanatthero kira saṭṭhi vassāni susāne vasi, añño ekabhikkhupi na aññāsi, tenevāha —
“susāne saṭṭhi vassāni, abbokiṇṇaṃ vasāmahaṃ.
dutiyo maṃ na jāneyya, aho sosānikuttamo”ti.
Vị Tỳ khưu có sự ước muốn ít không cần thiết cho họ biết tính chất thọ trì hạnh đầu đà có tồn tại trong tự ngã gọi là người thiểu dục trong Pháp hạnh đầu đà. Để làm sáng tỏ ý nghĩa đó, có câu chuyện này làm ví dụ – Kể rằng Trưởng lão Mahāsumana thọ trì hạnh đầu đà chỉ ở nơi mồ mả hoặc chỗ bỏ tử thi đến 60 năm, những vị Tỳ khưu khác không hề biết dù chỉ một vị. Bởi thế Ngài nói rằng –
Ta sống độc cư trong các bãi tha ma mộ địa đến 60 năm; các bạn đồng phạm hạnh không biết Ta, ồ đây là đỉnh cao của vị gìn giữ hạnh đầu đà sống ở bãi tha ma mộ địa.
cetiyapabbate dvebhātiyattherā vasiṃsu. tesu kaniṭṭho upaṭṭhākena pesitā ucchukhaṇḍikā gahetvā jeṭṭhassa santikaṃ agamāsi. paribhogaṃ, bhante, karothāti. therassa ca bhattakiccaṃ katvā mukhaṃ vikkhālanakālo ahosi. so alaṃ, āvusoti āha. kacci, bhante, ekāsanikatthāti. āharāvuso, ucchukhaṇḍikāti paññāsa vassāni ekāsaniko samānopi dhutaṅgaṃ nigūhamāno paribhogaṃ katvā mukhaṃ vikkhāletvā puna dhutaṅgaṃ adhiṭṭhāya gato.
Hai huynh đệ của Trưởng lão sống ở Cetiyapabbata, Vị sư đệ khi đã thọ nhận cây mía từ thị giả gửi đến, (vị ấy) đã đi đến chỗ vị sư huynh. ( nói rằng) này hiền huynh hãy thọ dụng. Lúc đó là thời vị Trưởng lão đã ăn rồi súc miệng. Vị sư huynh nói rằng được rồi hiền đệ. Sư đệ nghĩ thầm, hiền huynh thọ trì hạnh đầu đà ăn một lần trong một ngày chăng? Trưởng lão nói rằng: hiền đệ đã đem đến một cây mía, dầu là vị đã giữ hạnh ăn một lần trong ngày đến năm mươi năm cũng che giấu hạnh đầu đà, đã thọ dụng vật thực rồi súc miệng, đã phát nguyện thọ hạnh đầu đà (không thọ dụng gì khác nữa).
yo pana sāketakatissatthero viya bahussutabhāvaṃ jānāpetuṃ na icchati, ayaṃ pariyattiappiccho nāma. thero kira khaṇo natthīti uddesaparipucchāsu okāsaṃ akaronto maraṇakkhayaṃ, bhante, labhissathāti codito gaṇaṃ vissajjetvā kaṇikāravālikasamuddavihāraṃ gato. tattha antovassaṃ theranavamajjhimānaṃ upakāro hutvā mahāpavāraṇāya uposathadivase dhammakathāya janataṃ khobhetvā gato.
Còn vị Tỳ khưu nào không ước muốn cho người khác biết tính chất bản thân là bậc đa văn giống như Trưởng lão Sāketakatissa, vị Tỳ khưu này được gọi là vị thiểu dục trong Pháp học. Kể rằng Trưởng lão không rảnh rỗi trong việc giảng dạy và vấn hỏi, không có thời gian, bị nhắc nhở rằng ngài chỉ có thời gian chết, rời bỏ nhóm đi đến tịnh xá gần Samudda có cát giống như hoa kaṇikā, là người trợ giúp Tỳ khưu Trưởng lão, tân Tỳ khưu và trung niên Tỳ khưu trong suốt 3 tháng an cư mùa mưa, đã làm cho hội chúng lay động bằng Pháp thoại trong ngày mahāpavāraṇā, ngày trai giới uposatha, rồi ra đi.
yo pana sotāpannādīsu aññataro hutvā sotāpannādibhāvaṃ jānāpetuṃ na icchati, ayaṃ adhigamāppiccho nāma, tayo kulaputtā viya ghaṭikārakumbhakāro viya ca.
Còn vị Tỳ khưu nào là một trong số bất kỳ bậc Thánh nhân có bậc Thánh Nhập Lưu không ước muốn để cho biết bản thể là bậc Thánh Nhập Lưu v.v, vị Tỳ khưu thiểu dục này gọi là người thiểu dục trong Pháp hành giống như ba thiện nam tử và giống như người thợ gốm tên là Ghaṭikāra.
āyasmā pana puṇṇo atricchataṃ pāpicchataṃ mahicchatañca pahāya sabbaso icchāpaṭipakkhabhūtāya alobhasaṅkhātāya parisuddhāya appicchatāya samannāgatattā appiccho nāma ahosi. bhikkhūnampi, “āvuso, atricchatā pāpicchatā mahicchatāti ime dhammā pahātabbā”ti tesu ādīnavaṃ dassetvā evarūpaṃ appicchataṃ samādāya vattitabbanti appicchakathaṃ kathesi. tena vuttaṃ “attanā ca appiccho appicchakathañca bhikkhūnaṃ kattā”ti.
Còn đối với ngài Puṇṇa Mantānīputta đã vứt bỏ sự ước muốn không có ranh giới (atricchatā) sự ước muốn xấu xa (pāpicchatā), sự đa dục (mahicchatā) được gọi là người thiểu dục, bởi là người gắn liền với sự thiểu dục nhờ sự thanh tịnh, do vô tham là Pháp đối nghịch với sự ước muốn ở tất cả mọi khía cạnh. Ngài Puṇṇa Mantānīputta thuyết giảng tội lỗi trong các Pháp đó như sau: “Này đạo hữu, sự ước muốn không có ranh giới (atricchatā) sự ước muốn xấu xa (pāpicchatā), sự đa dục (mahicchatā) các Pháp này các đạo hữu cần phải dứt bỏ.” rồi thuyết giảng về sự thiểu dục như sau: Tỳ khưu nên thọ trì, thực hành sự thiểu dục bằng hình thức như vậy. Vì thế Ngài đã nói rằng: “Tự thân là người thiểu dục, đã nói lên lời giải thích sự thiểu dục cùng chư Tỳ khưu.”
Dvādasavidhasantosavaṇṇanā
idāni attanā ca santuṭṭhotiādīsu visesatthameva dīpayissāma. yojanā pana vuttanayeneva veditabbā. santuṭṭhoti itarītarapaccayasantosena samannāgato. so panesa santoso dvādasavidho hoti. seyyathidaṃ, cīvare yathālābhasantoso yathābalasantoso yathasāruppasantosoti tividho, evaṃ piṇḍapātādīsu. tassāyaṃ pabhedasaṃvaṇṇanā.
Bây giờ tôi sẽ thuyết giảng ý nghĩa đặc biệt trong lời “tự mình tri túc (attanā ca santuṭṭho)” v.v, nhưng nên biết việc kết hợp ý nghĩa theo cách thức như đã nói. Tri túc (santuṭṭho) người gắn liền với sự tri túc trong bất cứ món vật nào có được. Sự tri túc này đây có mười hai loại, gồm những gì? thứ nhất trong y phục có ba loại là yathālābhasantoso (sự hài lòng với lợi lộc có được) yathābalasantoso (sự hài lòng với khả năng có được) yathasāruppasantoso (sự hài lòng với sự phù hợp có được). Trong việc đi khất thực cũng tương tự. Mỗi loại vật dụng có cách giải thích như sau:
idha bhikkhu cīvaraṃ labhati sundaraṃ vā asundaraṃ vā. so teneva yāpeti aññaṃ na pattheti, labhantopi na gaṇhāti, ayamassa cīvare yathālābhasantoso. atha yo pakatidubbalo vā hoti ābādhajarābhibhūto vā, garucīvaraṃ pārupanto kilamati, so sabhāgena bhikkhunā saddhiṃ taṃ parivattetvā lahukena yāpentopi santuṭṭhova hoti, ayamassa cīvare yathābalasantoso. aparo paṇītapaccayalābhī hoti, so paṭṭacīvarādīnaṃ aññataraṃ mahagghacīvaraṃ bahūni vā pana cīvarāni labhitvā idaṃ therānaṃ cirapabbajitānaṃ idaṃ bahussutānaṃ anurūpaṃ, idaṃ gilānānaṃ idaṃ appalābhānaṃ hotūti datvā tesaṃ purāṇacīvaraṃ vā saṅkārakūṭādito vā nantakāni uccinitvā tehi saṅghāṭiṃ katvā dhārentopi santuṭṭhova hoti, ayamassa cīvare yathāsāruppasantoso.
Ở đây vị Tỳ khưu nhân được y phục tốt hay xấu, cũng để bản thân sử dụng với chính chiếc y đó không mong muốn y phục khác, ngay cả khi có thể cũng không thọ nhận Đây gọi là người có sự hài lòng với lợi lộc có được của vị Tỳ khưu đó. Ngoài ra, vị Tỳ khưu nào cơ thể thường yếu ớt hoặc bị bệnh tật và tuổi già chế ngự, khi mặc y nặng cũng thật khó khăn, vị Tỳ khưu đó trao đổi y với vị Tỳ khưu đồng đẳng, làm cho bản thân được duy trì y phục nhẹ nhàng, cũng là người tri túc tương tự, đây gọi là người có sự hài lòng với khả năng trong y phục của vị Tỳ khưu đó. Một vị Tỳ khưu khác là người nhận được các món vật dụng thượng hạng, vị ấy nhận được một tấm y có giá trị lớn, trong số y phục tơ lụa v.v, hoặc nhận được nhiều y phục phù hợp với một vị Trưởng lão đã xuất gia lâu năm, tấm vải này phù hợp với các bậc đa văn, tấm vải này thích hợp với các Tỳ khưu bệnh. Tấm vải này phù hợp với các Tỳ khưu có ít lợi lộc, cúng dường rồi và chọn y cũ cũ trong số các bộ y đó hoặc tấm y từ đống rác, v.v. làm y Tăng-già-lê với những tấm vải đó để mặc chính là người sống tri túc, đây gọi là người có sự hài lòng trong y phục của vị Tỳ khưu đó.
idha pana bhikkhu piṇḍapātaṃ labhati lūkhaṃ vā paṇītaṃ vā, so teneva yāpeti, aññaṃ na pattheti, labhantopi na gaṇhāti, ayamassa piṇḍapāte yathālābhasantoso. yo pana attano pakativiruddhaṃ vā byādhiviruddhaṃ vā piṇḍapātaṃ labhati, yenassa paribhuttena aphāsu hoti, so sabhāgassa bhikkhuno taṃ datvā tassa hatthato sappāyabhojanaṃ bhuñjitvā samaṇadhammaṃ karontopi santuṭṭhova hoti, ayamassa piṇḍapāte yathābalasantoso. aparo bahuṃ paṇītaṃ piṇḍapātaṃ labhati, so taṃ cīvaraṃ viya cirapabbajitabahussutāppalābhigilānānaṃ datvā tesaṃ vā sesakaṃ piṇḍāya vā caritvā missakāhāraṃ bhuñjantopi santuṭṭhova hoti, ayamassa piṇḍapāte yathāsāruppasantoso.
Ngoài ra, các Tỳ khưu trong tôn giáo này nhận đồ ăn khất thực dù là ngon hay dở, thì vị ấy cũng duy trì sắc thân này với chính đồ ăn khất thực đó, không mong muốn đồ ăn khất thực khác, ngay cả khi có thể, cũng không thọ nhận, đây gọi là sự hài lòng với lợi lộc đối với vật thực của vị Tỳ khưu ấy. Nhưng vị Tỳ khưu nào nhận được đồ ăn khất thực không bình thường với chính mình hoặc không hợp cho bệnh tật, khi thọ dụng không dễ dàng, vị ấy đã cúng dường đồ ăn khất thực cho các vị Tỳ khưu đồng đẳng, sau khi thọ dụng vật thực phù hợp từ đôi tay của vị Tỳ khưu đó, thực hành Sa-môn Pháp cũng gọi là người tri túc, đây gọi là sự hài lòng với khả năng trong việc khất thực của vị Tỳ khưu ấy. Hơn nữa, một vị Tỳ khưu nhận được nhiều đồ ăn khất thực thượng vị, vị ấy đã cúng dường đồ ăn khất thực đến các Tỳ khưu xuất gia lâu năm, bậc đa văn, vị có ít lợi lộc và vị Tỳ khưu bị bệnh như y phục (của mình) rồi thọ dụng vật thực còn lại của vị đó, hoặc tự mình đi khất thực rồi thọ dụng vật thực trộn lẫn cũng gọi là vị tri túc, đây gọi là sự hài lòng theo sự thích hợp trong việc đi khất thực của vị Tỳ khưu đó.
idha pana bhikkhu senāsanaṃ labhati manāpaṃ vā amanāpaṃ vā, so tena neva somanassaṃ na paṭighaṃ uppādeti, antamaso tiṇasanthārakenāpi yathāladdheneva tussati, ayamassa senāsane yathālābhasantoso. yo pana attano pakativiruddhaṃ vā byādhiviruddhaṃ vā senāsanaṃ labhati, yatthassa vasato aphāsu hoti, so taṃ sabhāgassa bhikkhuno datvā tassa santake sappāyasenāsane vasantopi santuṭṭhova hoti, ayamassa senāsane yathābalasantoso.
Ngoài ra, vị Tỳ khưu trong Tôn giáo này có được trú xứ đáng vừa lòng hoặc không đáng vừa lòng, vị ấy cũng không khởi lên sự vui mừng, không khởi lên sự phẫn nộ đối với trú xứ đó, hoan hỷ với trú xứ có được, cho đến cùng tận thậm chí tấm trải được làm bằng cỏ, đây gọi là sự hài lòng với lợi lộc trong trú xứ. Hơn nữa, vị Tỳ khưu nào có được trú xứ không bình thường với chính mình hoặc không hợp cho bệnh tật, khi an trú cũng không thoải mái (không an lạc), vị Tỳ khưu đó cúng dường trú xứ ấy đến vị Tỳ khưu đồng đẳng, thậm chí trong trú xứ thích hợp của vị ấy cũng gọi là người tri túc, đây gọi là sự hài lòng với khả năng trong trú xứ của vị Tỳ khưu đó.
aparo mahāpuñño leṇamaṇḍapakūṭāgārādīni bahūni paṇītasenāsanāni labhati, so tāni cīvarādīni viya cirapabbajitabahussutāppalābhigilānānaṃ datvā yattha katthaci vasantopi santuṭṭhova hoti, ayamassa senāsane yathāsāruppasantoso. yopi, “uttamasenāsanaṃ nāma pamādaṭṭhānaṃ, tattha nisinnassa thinamiddhaṃ okkamati, niddābhibhūtassa puna paṭibujjhato pāpavitakkā pātubhavantī”ti paṭisañcikkhitvā tādisaṃ senāsanaṃ pattampi na sampaṭicchati, so taṃ paṭikkhipitvā abbhokāsarukkhamūlādīsu vasantopi santuṭṭhova hoti, ayampissa senāsane yathāsāruppasantoso.
Hơn nữa, một vì Tỳ khưu có phước báu to lớn nhận được nhiều trú xứ có chỗ ẩn náu, lều vải và ngôi nhà tạm v.v, vị ấy cúng dường trú xứ đó đến vị Tỳ khưu đã xuất gia lâu năm, bậc đa văn, vị có lợi lộc ít và vị Tỳ khưu bệnh giống như y phục v.v, dầu bất cứ ở đâu cũng vẫn gọi là người tri túc, đây gọi là sự hài lòng theo sự thích hợp trong trú xứ của vị Tỳ khưu đó. Thậm chí vị Tỳ khưu nào quán xét rằng “trú xứ cao quý làm chỗ thiết lập sự buông thả, khi ngồi ở nơi đó rơi vào sự lờ đờ buồn ngủ, khi ngủ rồi tỉnh thức khiến cho suy tầm xấu xa hiện hữu” (vị ấy) không chấp nhận trú xứ như vậy dẫu đã đạt được, vị ấy bác bỏ thậm chí ở ngoài trời và ở dưới gốc cây, cũng gọi là người sống tri túc, đây gọi là sự hài lòng theo sự thích hợp trong trú xứ.
idha pana bhikkhu bhesajjaṃ labhati lūkhaṃ vā paṇītaṃ vā, so yaṃ labhati, teneva santussati, aññaṃ na pattheti, labhantopi na gaṇhāti, ayamassa gilānapaccaye yathālābhasantoso. yo pana telena atthiko phāṇitaṃ labhati, so taṃ sabhāgassa bhikkhuno datvā tassa hatthato telaṃ gahetvā aññadeva vā pariyesitvā tehi bhesajjaṃ karontopi santuṭṭhova hoti, ayamassa gilānapaccaye yathābalasantoso.
Hơn nữa, vị Tỳ khưu trong Tôn giáo này nhận được dược phẩm dù tốt hoặc không tốt, vị ấy hoan hỷ với dược phẩm đã nhận, không ước muốn được phẩm khác, dầu có thể có được (vị ấy) cũng không nhận, đây gọi là sự hài lòng với lợi lộc trong dược phẩm trị bệnh của vị Tỳ khưu ấy. Lại nữa, vị nào cần dầu, nhưng lại nhận được nước mía vị ấy cúng dường nước mía đến cho vị Tỳ khưu đồng đẳng, cầm lấy dầu từ tay của vị Tỳ khưu ấy hoặc tìm kiếm thứ khác gắn liền với dầu đó cũng vẫn gọi là người tri túc, đây gọi là sự hài lòng với khả năng trong dược phẩm trị bệnh.
aparo mahāpuñño bahuṃ telamadhuphāṇitādipaṇītabhesajjaṃ labhati, so taṃ cīvaraṃ viya cirapabbajitabahussutāppalābhigilānānaṃ datvā tesaṃ ābhatakena yena kenaci yāpentopi santuṭṭhova hoti.
Và hơn nữa, vị Tỳ khưu có phước báu to lớn có được dược phẩm thượng hạng, có nhiều dầu, mật ong, nước mía v.v, vị ấy cúng dường dược phẩm đến vị Tỳ khưu xuất gia lâu năm, bậc đa văn, vị có ít lợi lộc và vị Tỳ khưu bệnh như y phục làm cho tự thân được duy trì với bất kỳ loại dược phẩm nào đến từ được phẩm trị bệnh đó cũng gọi là vị tri túc.
yo pana ekasmiṃ bhājane muttaharītakaṃ ṭhapetvā ekasmiṃ catumadhuraṃ, “gaṇha, bhante, yadicchasī”ti vuccamāno sacassa tesu aññatarenapi rogo vūpasammati, atha muttaharītakaṃ nāma buddhādīhi vaṇṇitanti catumadhuraṃ paṭikkhipitvā muttaharītakeneva bhesajjaṃ karonto paramasantuṭṭhova hoti, ayamassa gilānapaccaye yathāsāruppasantoso. imesaṃ pana paccekaṃ paccayesu tiṇṇaṃ tiṇṇaṃ santosānaṃ yathāsāruppasantosova aggo. āyasmā puṇṇo ekekasmiṃ paccaye imehi tīhi santosehi santuṭṭho ahosi. santuṭṭhikathañcāti bhikkhūnampi ca imaṃ santuṭṭhikathaṃ kattāva ahosi.
Lại nữa, vị nào mà chư Tỳ khưu đã để (hợp chất) nước tiểu và trái harīṭaka trong một bình, và bốn món có vị ngon ngọt trong một bình rồi nói rằng “kính mời các ngài lấy những thứ cần thiết” nếu bệnh của ngài được ngăn chặn với bất kỳ loại nào trong những thứ đó, nhưng vị ấy từ chối bốn món có vị ngon ngọt với suy nghĩ rằng: “được biết đến (hợp chất) nước tiểu và trái harīṭaka mà đức Thế Tôn tán thán,” (chỉ có loài này) được làm dược phẩm, gọi là người tri túc tối thượng, đây gọi là sự hài lòng theo sự thích hợp trong dược phẩm trị bệnh. Sự hài lòng theo sự thích hợp là tối thượng của sự tri túc của mỗi sự tri túc trong mỗi loại vật dụng. Ngài Puṇṇa đã là vị sống tri túc với cả ba sự tri túc đó trong mỗi loại vật dụng. Santuṭṭhikathañca (sự tri túc, sự hài lòng): hướng dẫn vấn đề sống tri túc này cho các Tỳ khưu.
Tividhapavivekavaṇṇanā
pavivittoti kāyapaviveko cittapaviveko upadhipavivekoti imehi tīhi pavivekehi samannāgato. tattha eko gacchati, eko tiṭṭhati, eko nisīdati, eko seyyaṃ kappeti, eko gāmaṃ piṇḍāya pavisati, eko paṭikkamati, eko caṅkamamadhiṭṭhāti, eko carati, eko viharatīti ayaṃ kāyapaviveko nāma. aṭṭha samāpattiyo pana cittapaviveko nāma. nibbānaṃ upadhipaviveko nāma. vuttampi hetaṃ — “kāyapaviveko ca vivekaṭṭhakāyānaṃ nekkhammābhiratānaṃ. cittapaviveko ca parisuddhacittānaṃ paramavodānappattānaṃ. upadhiviveko ca nirupadhīnaṃ puggalānaṃ visaṅkhāragatānan”ti (mahāni. 57). pavivekakathanti bhikkhūnampi ca imaṃ pavivekakathaṃ kattā.
Viễn ly (pavivittoti): người hội đủ với ba viễn ly này là thân viễn ly, tâm viễn ly và sanh y viễn ly. Trong ba sự viễn ly đó một vị Tỳ khưu đi, một vị đứng, một vị ngồi, một vị nằm, một vị đi khất thực, một vị trở về, đi kinh hành một vị, một vị đi du hành, an trú một mình đây gọi là viễn ly về thân. Còn tám thiền chứng gọi là viễn ly về tâm. Niết bàn gọi là viễn ly về mầm tái sanh. Tóm lại như Ngài đã nói – “Viễn ly về thân đối với các vị có thân đã lui về nơi ẩn dật, đã thích thú trong việc xuất ly; viễn ly về tâm là đối với các vị có tâm hoàn toàn trong sạch, đã đạt đến sự trong trắng tuyệt đối; và viễn ly về mầm tái sanh là đối với các cá nhân không còn mầm tái sanh, đã đạt đến việc lìa khỏi các pháp tạo tác. Sự viễn ly (pavivekakathaṃ): hướng dẫn vấn đề viễn ly này cho các Tỳ khưu.
Pañcavidhasaṃsaggavaṇṇanā
asaṃsaṭṭhoti pañcavidhena saṃsaggena virahito. savanasaṃsaggo dassanasaṃsaggo samullapanasaṃsaggo sambhogasaṃsaggo kāyasaṃsaggoti pañcavidho saṃsaggo. tesu idha bhikkhu suṇāti, “asukasmiṃ gāme vā nigame vā itthī vā kumārikā vā abhirūpā dassanīyā pāsādikā paramāya vaṇṇapokkharatāya samannāgatā”ti. so taṃ sutvā saṃsīdati visīdati na sakkoti brahmacariyaṃ sandhāretuṃ, sikkhādubbalyaṃ anāvikatvā hīnāyāvattatīti evaṃ parehi vā kathīyamānaṃ rūpādisampattiṃ attanā vā hasitalapitagītasaddaṃ suṇantassa sotaviññāṇavīthivasena uppanno rāgo savanasaṃsaggo nāma. so anitthigandhapaccekabodhisattassa ca pañcaggaḷaleṇavāsītissadaharassa ca vasena veditabbo –
Không liên hệ (asaṃsaṭṭho): bao gồm tránh khỏi với năm sự tiếp xúc. (1) việc tiếp xúc do nghe, (2) việc tiếp xúc do thấy, (3) việc tiếp xúc do nói chuyện, (4) việc tiếp xúc do thụ hưởng, (5) việc tiếp xúc do xúc chạm. Ở đó, vị Tỳ khưu trong Pháp và Luật này đã nghe rằng: “Người đàn bà hoặc thiếu nữ ở trong ngôi làng, hoặc ở thị trấn đó xinh đẹp, đáng nhìn, đáng mến, có vẻ đẹp tuyệt vời của làn da”, sau khi lắng nghe việc đó vị ấy chùn chân, buồn rầu, không thể kham nổi đời sống Phạm hạnh, khi chưa lìa từ bỏ sự học tập và trở về hoàn tục, khi vị ấy nghe người khác nói đến sắc hoàn hảo v.v, hoặc tiếng cười của bản thân khởi lên ái luyến bằng lộ nhĩ thức gọi là sự tiếp xúc do nghe. Sự tiếp xúc do nghe đó nên biết với sức mạnh từ Bồ-tát vị không từng có mùi nữ nhân và vị Tỳ khưu Tissa trẻ sống trong hang động Pañcaggaḷa.
daharo kira ākāsena gacchanto girigāmavāsikammāradhītāya pañcahi kumārīhi saddhiṃ padumasaraṃ gantvā nhatvā padumāni ca pilandhitvā madhurassarena gāyantiyā saddaṃ sutvā kāmarāgena viddho visesā parihāyitvā anayabyasanaṃ pāpuṇi.
Kể rằng vị Tỳ khưu trẻ bay qua trong hư không nghe tiếng nói con gái của người thợ kim hoàng người làng Girigāma đi đến hồ sen cùng năm người nữ đang tắm được trang trí với các loại hoa sen, ca hát với âm thanh du dương, bị tham dục và ái luyến ái thâm nhập dẫn đến thiền bị hoại diệt.
idha bhikkhu na heva kho suṇāti, apica kho sāmaṃ passati itthiṃ vā kumāriṃ vā abhirūpaṃ dassanīyaṃ pāsādikaṃ paramāya vaṇṇapokkharatāya samannāgataṃ. so taṃ disvā saṃsīdati visīdati na sakkoti brahmacariyaṃ sandhāretuṃ, sikkhādubbalyaṃ anāvikatvā hīnāyāvattatīti evaṃ visabhāgarūpaṃ olokentassa pana cakkhuviññāṇavīthivasena uppannarāgo dassanasaṃsaggo nāma. so evaṃ veditabbo –
Vị Tỳ khưu trong Pháp và Luật này không lắng nghe, nhưng bản thân nhìn thấy người đàn bà hoặc thiếu nữ xinh đẹp đáng nhìn, đáng mến, có làn da đẹp tuyệt vời, vị ấy khi nhìn thấy chùn chân, buồn rầu, không thể kham nổi đời sống Phạm hạnh, khi chưa lìa từ bỏ sự học tập và trở về hoàn tục, khi vị ấy nhìn thấy sắc đối nghịch như vậy khởi lên luyến ái thông qua lộ nhãn thức gọi là sự tiếp xúc do thấy. Sự tiếp xúc do thấy nên biết rằng như vầy –
eko kira daharo kāladīghavāpidvāravihāraṃ uddesatthāya gato. ācariyo tassa antarāyaṃ disvā okāsaṃ na karoti. so punappunnaṃ anubandhati. ācariyo sace antogāme na carissasi. dassāmi te uddesanti āha. so sādhūti sampaṭicchitvā uddese niṭṭhite ācariyaṃ vanditvā gacchanto ācariyo me imasmiṃ gāme carituṃ na deti, kiṃ nu kho kāraṇanti cīvaraṃ pārupitvā gāmaṃ pāvisi, ekā kuladhītā pītakavatthaṃ nivāsetvā gehe ṭhitā daharaṃ disvā sañjātarāgā uḷuṅkena yāguṃ āharitvā tassa patte pakkhipitvā nivattitvā mañcake nipajji.
Kể rằng một vị Tỳ khưu đã đi đến cửa tịnh xá gần hồ Kāladīgha để học uddesa (xiển minh). Vị thầy khi nhìn thấy sự nguy hiểm (chết) đã không cho học. vị ấy cũng cố gắng lý cớ theo đuổi. Vị thầy nói rằng nếu ông không du hành trong làng, tôi cũng sẽ giảng dạy uddesa cho ông. Vị ấy nhận lời khi học hết uddesa rồi đảnh lễ thầy ra đi nghĩ rằng “Tại sao vị thầy không cho tôi du hành trong làng này” rồi đắp y đi vào làng, một thiếu nữ mặc chiếc áo khoác vàng đứng ở trước nhà sau khi nhìn thấy vị Tỳ khưu trẻ khởi lên luyến ái lấy cái vá mang cháo chưa đến đặt vào bình bát, rồi quay trở về nằm trên giường.
atha naṃ mātāpitarokiṃ ammāti pucchiṃsu, dvārena gataṃ daharaṃ labhamānā jīvissāmi, alabhamānā marissāmīti. mātāpitaro vegena gantvā gāmadvāre daharaṃ patvā vanditvā, “nivattatha, bhante, bhikkhaṃ gaṇhāhī”ti āhaṃsu. daharo alaṃ gacchāmīti. te, “idaṃ nāma, bhante, kāraṇan”ti yācitvā — “amhākaṃ, bhante, gehe ettakaṃ nāma dhanaṃ atthi, ekāyeva no dhītā, tvaṃ no jeṭṭhaputtaṭṭhāne ṭhassasi, sukhena sakkā jīvitun”ti āhaṃsu. daharo, “na mayhaṃ iminā palibodhena attho”ti anādiyitvāva pakkanto.
Khi đó cha và mẹ hỏi “chuyện gì vậy con”. Cô ta nói rằng “nếu con được (sống chung với) vị Tỳ khưu trẻ vừa mới đi ngang qua cửa (lúc sáng)” sẽ cứu sống mạng con, nếu không có được (vị ấy) con sẽ chết.” Cha và mẹ cô ấy vội vàng đi tìm gặp vị tỳ khưu trẻ ở cổng làng, sau khi đảnh lễ đã nói rằng “thỉnh mời ngài hãy quay trở lại thọ nhận vật thực”. Vị Tỳ khưu trẻ đáp rằng: “Đã đủ rồi, tôi phải trở về”. Cha và mẹ của cô gái cố gắng giải bày “chuyện như thế này, thưa ngài, trong nhà của chúng tôi có tài sản chừng này, chúng tôi chỉ có một đứa con gái duy nhất, ngài hãy đến làm con trai (con rễ) của chúng tôi, ngài sẽ sống cuộc sống thoải mái.” Vị Tỳ khưu trẻ đáp rằng: “tôi không muốn có món quà thế này, không bận tâm rồi ngài quay đi.
mātāpitaro gantvā, “amma, nāsakkhimhā daharaṃ nivattetuṃ, yaṃ aññaṃ sāmikaṃ icchasi, taṃ labhissasi, uṭṭhehi khāda ca piva cā”ti āhaṃsu. sā anicchantī sattāhaṃ nirāhārā hutvā kālamakāsi. mātāpitaro tassā sarīrakiccaṃ katvā taṃ pītakavatthaṃ dhuravihāre bhikkhusaṅghassa adaṃsu, bhikkhū vatthaṃ khaṇḍākhanḍaṃ katvā bhājayiṃsu. eko mahallako attano koṭṭhāsaṃ gahetvā kalyāṇīvihāraṃ āgato. sopi daharo cetiyaṃ vandissāmīti tattheva gantvā divāṭṭhāne nisīdi. mahallako taṃ vatthakhaṇḍaṃ gahetvā, “iminā me parissāvanaṃ vicārethā”ti daharaṃ avoca. daharo mahāthera “kuhiṃ laddhan”ti āha. so sabbaṃ pavattiṃ kathesi. so taṃ sutvāva, “evarūpāya nāma saddhiṃ saṃvāsaṃ nālatthan”ti rāgagginā daḍḍho tattheva kālamakāsi. aññamaññaṃ ālāpasallāpavasena uppannarāgo pana samullapanasaṃsaggo nāma. bhikkhuno bhikkhuniyā santakaṃ, bhikkhuniyā vā bhikkhussa santakaṃ gahetvā paribhogakaraṇavasena uppannarāgo sambhogasaṃsaggo nāma. so evaṃ veditabbo —
Cha và mẹ cô ấy trở về nói với con gái rằng “này con cha và mẹ không thể dẫn vị Tỳ khưu trẻ quay trở lại được, hãy chọn một người chồng khác mà con cần, hãy đứng dậy rồi ăn uống”. Cô ấy cũng không muốn, vì vậy cô đã nhịn ăn suốt bảy ngày đến chết. Cha và mẹ cô ấy đã làm lễ hỏa táng cho nàng, cúng dường một tấm vải màu vàng đến Tỷ kheo Tăng ở cổng làng. Các Tỳ khưu đã cắt thành từng mảnh lớn nhỏ chia nhau. Một vị Tỳ khưu nhận phần của mình đã đi đến Kalyāṇīvihāra. Vị Tỳ khưu trẻ đó nghĩ rằng đi đến đảnh lễ Cetiya cũng đi đến Kalyāṇīvihāra đó ngồi nghĩ ở đó nghỉ trưa, vị Tỳ khưu già đã lấy tấm vải đó đến nói với vị Tỳ khưu trẻ rằng, thưa ngài hãy sử dụng tấm vải này của tôi làm tấm vải lọc nước.” Vì Tỳ khưu trẻ nói rằng ngài Trưởng lão đã đến từ đâu thưa ngài? Vị Tỳ khưu già cũng thuật lại toàn bộ chuyện đó, vị Tỳ khưu trẻ sau khi nghe chuyện đó nghĩ rằng Ta không được sống chung với cô gái này, bị lửa luyến ái thiêu đốt, chết ngay tại chỗ đó. Còn luyến ái sanh khởi với việc nói chuyện với nhau gọi là việc tiếp xúc do nói chuyện. Ái luyến sanh khởi đối với Tỳ khưu thọ nhận đồ vật của Tỳ khưu ni, hoặc Tỳ khưu ni thọ nhận đồ vật của Tỷ khưu rồi thọ dụng gọi là việc tiếp xúc do nói chuyện. việc tiếp xúc do nói chuyện nên biết như vầy –
maricavaṭṭivihāramahe kira bhikkhūnaṃ satasahassaṃ bhikkhunīnaṃ navutisahassāni eva ahesuṃ. eko sāmaṇero uṇhayāguṃ gahetvā gacchanto sakiṃ cīvarakaṇṇe ṭhapesi, sakiṃ bhūmiyaṃ. ekā sāmaṇerī disvā ettha pattaṃ ṭhapetvā yāhīti thālakaṃ adāsi. te aparabhāge ekasmiṃ bhaye uppanne parasamuddaṃ agamaṃsu. tesu bhikkhunī puretaraṃ agamāsi.
Kể rằng khi làm lễ kỷ niệm ở đại tịnh xá Maricavaṭṭi có một trăm nghìn vị Tỳ khưu, và chín mười nghìn vị Tỳ khưu ni. Một vì Sa-di sau khi nhận lấy cháo chua nóng đang đi một lần đặt (bình bát) ở trong chéo y, một lần ở trên mặt đất, vị Sa-di ni khi nhìn thấy đã cúng dường áo đựng bình bát với lời nói rằng đặt bình bát vào đây rồi từ từ đi. Về sau khi xảy ra nguy hiểm, cả hai đã đi đến Parasamudda.
sā, “eko kira sīhaḷabhikkhu āgato”ti sutvā therassa santikaṃ gantvā paṭisanthāraṃ katvā nisinnā, — “bhante, maricavaṭṭivihāramahakāle tumhe kativassā”ti pucchi. tadāhaṃ sattavassikasāmaṇero. tvaṃ pana kativassāti? ahaṃ sattavassikasāmaṇerīyeva ekassa sāmaṇerassa uṇhayāguṃ gahetvā gacchantassa pattaṭhapanatthaṃ thālakamadāsinti. thero, “ahaṃ so”ti vatvā thālakaṃ nīharitvā dassesi. te ettakeneva saṃsaggena brahmacariyaṃ sandhāretuṃ asakkontā dvepi saṭṭhivassakāle vibbhamiṃsu.
Trong hai vị đó Tỳ khưu ni đi trước, vị tỳ khưu ni đó nghe rằng “có một vị Tỳ khưu người sīhaḷa đã đến” cũng đi đến trú xứ Trưởng lão, (vị ấy) đã ân cần tiếp đón rồi mời ngồi, “bạch ngài, vào ngày lễ kỷ niệm Maricavaṭṭivihāra, Ngài bao nhiêu hạ lạp.” Khi đó tôi là vị Sa-di mới được bảy tuổi, còn ngài bao nhiêu hạ. Tỳ khưu ni nói rằng khi đó tôi cũng là Sa-di ni bảy tuổi, tôi đã cùng dường áo đựng để đựng bình bát cho một vị Sa-di để thọ nhận cháo chua nóng. Trưởng lão nói rằng “vị Sa-di đó chính là tôi” vị ấy cầm lấy áo đựng bình bát ra trình bày, bằng sự tiếp xúc như vậy cả hai vị không thể kham nổi đời sống Phạm hạnh, trở về đời sống thể tục ở tuổi 60.
hatthagāhādivasena pana uppannarāgo kāyasaṃsaggo nāma. tatridaṃ vatthu — mahācetiyaṅgaṇe kira daharabhikkhū sajjhāyaṃ gaṇhanti. tesaṃ piṭṭhipasse daharabhikkhuniyo dhammaṃ suṇanti. tatreko daharo hatthaṃ pasārento ekissā daharabhikkhuniyā kāyaṃ chupi. sā taṃ hatthaṃ gahetvā attano urasmiṃ ṭhapesi, ettakena saṃsaggena dvepi vibbhamitvā gihibhāvaṃ pattā.
Lại nữa, ái luyến khởi lên do nắm tay v.v, gọi là sự xúc chạm cơ thể. Trong sự xúc chạm cơ thể có câu chuyện như này – Kể rằng tại một sân bảo điện to lớn nhóm Tỳ khưu trẻ thực hành việc trì tụng, nhóm Tỳ khưu ni trẻ lắng nghe thuyết Pháp ở phía sau của nhóm Tỳ khưu trẻ đó. Trong nhóm Tỳ khưu trẻ đó, một vì Tỳ khưu trẻ duỗi tay ra ra sau đụng phải người một vị Tỳ khưu ni trẻ, vì Tỳ khưu ni trẻ ấy nắm lấy tay (vị Tỳ khưu trẻ) đặt lên ngực của mình, bằng sự xúc chạm đó cả hai đã hoàn tục trở về đời sống tại gia.
Gāhagāhakādivaṇṇanā
Imesu pana pañcasu saṃsaggesu bhikkhuno bhikkhūhi saddhiṃ savanadassanasamullapanasambhogakāyaparāmāsā niccampi hontiyeva, bhikkhunīhi saddhiṃ ṭhapetvā kāyasaṃsaggaṃ sesā kālena kālaṃ honti; tathā upāsakaupāsikāhi saddhiṃ sabbepi kālena kālaṃ honti. tesu hi kilesuppattito cittaṃ rakkhitabbaṃ. eko hi bhikkhu gāhagāhako hoti, eko gāhamuttako, eko muttagāhako, eko muttamuttako.
Trong năm sự liên hệ này việc nghe, việc thấy, trò chuyện, việc sử dụng vật dụng chung với nhau (ăn hay ở cùng nhau), việc đụng chạm cơ thể giữa Tỳ khưu với Tỳ khưu có được là thường, ngoại trừ sự xúc chạm cơ thể thì những sự liên hệ còn lại với các Tỳ khưu ni thỉnh thoảng cũng có được. Tất cả mọi sự liên hệ ngay cả với cận sự nam, cận sự nữ thỉnh thoảng cũng có tương tự; Nhưng cần phải hộ trì tâm không để cho khởi lên phiền não trong việc liên hệ (kết giao). Bởi vậy một vị Tỳ khưu là gāhagāhako (mỗi người mỗi nắm lấy), một vị là gāhamuttako (thoát khỏi người nắm lấy), một vị là muttagāhako (nắm lấy người buông bỏ), một vị là muttamuttako (mỗi người mỗi buông bỏ).
tattha yaṃ bhikkhuṃ manussāpi āmisena upalāpetvā gahaṇavasena upasaṅkamanti, bhikkhupi pupphaphalādīhi upalāpetvā gahaṇavasena upasaṅkamati, ayaṃ gāhagāhako nāma. yaṃ pana manussā vuttanayena upasaṅkamanti, bhikkhu dakkhiṇeyyavasena upasaṅkamati, ayaṃ gāhamuttako nāma. yassa manussā dakkhiṇeyyavasena cattāro paccaye denti, bhikkhu pupphaphalādīhi upalāpetvā gahaṇavasena upasaṅkamati, ayaṃ muttagāhako nāma. yassa manussāpi dakkhiṇeyyavasena cattāro paccaye denti, bhikkhupi cūḷapiṇḍapātiyatissatthero viya dakkhiṇeyyavasena paribhuñjati, ayaṃ muttamuttako nāma.
Ở đó, người (trong làng) đi đến gần vị Tỳ khưu mang thức ăn (làm mồi nhử), hay Tỳ khưu đi đến gần người (trong làng) bằng việc lấy bông hoa trái cây v.v, dụ dỗ gọi là gāhagāhako (mỗi người mỗi nắm lấy). Còn dân làng đến gần vị Tỳ khưu theo cách đã nói, vị Tỳ khưu đi đến gần dân làng bởi là bậc đáng cúng dường đây gọi là gāhamuttako (thoát khỏi người nắm lấy). Mọi người cúng dường bốn món vật dụng bởi là vị đáng cúng dường, còn vị Tỳ khưu đi đến gần với lấy hoa và trái cây v.v, dụ dỗ đây gọi là muttagāhako (nắm lấy người buông bỏ). Mọi người cúng dường bốn món vật dụng với hạng người đáng được cúng dường, vị Tỳ khưu thọ dụng bởi là người đáng được cúng dường giống như Trưởng lão Cūḷapiṇḍapātiyatissa đây gọi là muttamuttako (mỗi người mỗi buông bỏ).
theraṃ kira ekā upāsikā dvādasa vassāni upaṭṭhahi. ekadivasaṃ tasmiṃ gāme aggi uṭṭhahitvā gehāni jhāpesi. aññesaṃ kulūpakabhikkhū āgantvā — “kiṃ upāsike, api kiñci bhaṇḍakaṃ arogaṃ kātuṃ asakkhitthā”ti paṭisanthāraṃ akaṃsu. manussā, “amhākaṃ mātu kulūpakatthero bhuñjanavelāyameva āgamissatī”ti āhaṃsu. theropi punadivase bhikkhācāravelaṃ sallakkhetvāva āgato. upāsikā koṭṭhacchāyāya nisīdāpetvā bhikkhaṃ sampādetvā adāsi. there bhattakiccaṃ katvā pakkante manussā āhaṃsu — “amhākaṃ mātu kulūpakatthero bhuñjanavelāyameva āgato”ti. upāsikā, “tumhākaṃ kulūpakā tumhākaṃyeva anucchavikā, mayhaṃ thero mayheva anucchaviko”ti āha. āyasmā pana mantāṇiputto imehi pañcahi saṃsaggehi catūhipi parisāhi saddhiṃ asaṃsaṭṭho gāhamuttako ceva muttamuttako ca ahosi. yathā ca sayaṃ asaṃsaṭṭho, evaṃ bhikkhūnampi taṃ asaṃsaggakathaṃ kattā ahosi.
Kể rằng một cận sự nam thị giả của trưởng lão đến 12 năm. Một hôm nọ ngọn lửa bùng cháy ở trong ngôi làng đó. Vị Tỳ khưu thường xuyên đến nhà của người khác cũng đến hỏi rằng – “này cận sự nam, có cái gì mà ngọn lửa không thể làm cháy được chăng?” Mọi người khiển trách rằng “vị Trưởng lão thường xuyên lui tới gia đình mẹ của tôi, người cận sự nam thỉnh mời ngồi nơi thoáng mát, dọn thức ăn cúng dường, khi Trưởng lão thọ dụng xong, mọi người nói rằng “vị Trưởng lão thường xuyên đến gia đình mẹ của tôi chỉ đến trong thời gian thọ trai mà thôi. Người cận sự nam nói rằng “Tỳ khưu thường xuyên đến gia đình của các ngài chỉ phù hợp đối với các ngài, còn vị Tỳ khưu của tôi cũng chỉ phù hợp đối với tôi”. Lại nữa, ngài Mantāṇiputta không tiếp xúc với năm sự tiếp xúc (sự liên hệ) trở thành người gāhamuttako (thoát khỏi từ người nắm lấy), và trở thành người muttamuttako (mỗi người mỗi buông bỏ), ngài tự mình không tiếp xúc thể nào, ngài cũng hướng dẫn vấn đề không tiếp xúc đó cùng các Tỳ khưu như thế đó.
āraddhavīriyoti paggahitavīriyo, paripuṇṇakāyikacetasikavīriyoti attho. yo hi bhikkhu gamane uppannakilesaṃ ṭhānaṃ pāpuṇituṃ na deti, ṭhāne uppannakilesaṃ nisajjaṃ, nisajjāya uppannakilesaṃ sayanaṃ pāpuṇituṃ na deti, mantena kaṇhasappaṃ uppīḷetvā gaṇhanto viya, amittaṃ gīvāya akkamanto viya ca vicarati, ayaṃ āraddhavīriyo nāma. thero ca tādiso ahosi. bhikkhūnampi tatheva vīriyārambhakathaṃ kattā ahosi.
Nhiệt tâm tinh tấn (āraddhavīriyo) bao gồm kiên trì và tinh tấn, có nghĩa là có sự tinh tấn qua lộ thân và lộ tâm trọn vẹn. Thật vậy, vị Tỳ khưu nào phiền não sanh khởi trong lúc đi cũng không chấp nhận (dừng lại), phiền não sanh khởi trong lúc đứng cũng không chấp nhận ngồi, phiền não sanh khởi trong lúc ngồi cũng không chấp nhận nằm, giống như người sau khi đè con rắn hổ xuống bằng chú thuật rồi bắt nó, và giống như bóp chặt cổ kẻ địch, vị Tỳ khưu này gọi là người nhiệt tâm tinh tấn. Vị Trưởng lão cũng như thế thuyết giảng sự nhiệt tâm tinh tấn đến chính những vị Tỳ khưu đó tương tự.
sīlasampannotiādīsu sīlanti catupārisuddhisīlaṃ. samādhīti vipassanāpādakā aṭṭha samāpattiyo. paññāti lokiyalokuttarañāṇaṃ. vimuttīti ariyaphalaṃ. vimuttiñāṇadassananti ekūnavīsatividhaṃ paccavekkhaṇañāṇaṃ. thero sayampi sīlādīhi sampanno ahosi bhikkhūnampi sīlādikathaṃ kattā. svāyaṃ dasahi kathāvatthūhi ovadatīti ovādako. yathā pana eko ovadatiyeva, sukhumaṃ atthaṃ parivattetvā jānāpetuṃ na sakkoti. na evaṃ thero. thero pana tāni dasa kathāvatthūni viññāpetīti viññāpako. eko viññāpetuṃ sakkoti, kāraṇaṃ dassetuṃ na sakkoti. thero kāraṇampi sandassetīti sandassako. eko vijjamānaṃ kāraṇaṃ dasseti, gāhetuṃ pana na sakkoti. thero gāhetumpi sakkotīti samādapako. evaṃ samādapetvā pana tesu kathāvatthūsu ussāhajananavasena bhikkhū samuttejetīti samuttejako. ussāhajāte vaṇṇaṃ vatvā sampahaṃsetīti sampahaṃsako.
Bốn thanh tịnh giới trong từ được trọn đủ về giới v.v. Tám thiền chứng là nền tảng của Minh Sát gọi là định. Trí Hiệp thế và Siêu thế gọi là tuệ. Sự giải thoát là Thánh Quả. Mười chín tuệ phản khán gọi là trí tuệ và nhận thức về sự giải thoát. Trưởng lão có sự thành tựu về giới v.v, giảng dạy về giới v.v, đến chư Tỳ khưu. Trưởng lão Mantāṇiputta này đây gọi là vị giáo giới bởi vì giảng dạy với mười kathāvatthu. Trưởng lão không giống một số vị Tỳ khưu chỉ dạy được bản thân, không thể giảng giải ý nghĩa chi tiết cho bất kỳ người nào khác hiểu được. Trương lão thế nào, Trưởng lão không phải như thế đó. Trưởng lão là vị làm cho hiểu rõ bởi vì khiến cho người khác hiểu được mười kathāvatthu. Một số Tỳ khưu có thể làm cho người khác biết được (nhưng) không thể thuyết giảng nhân đó. Trưởng lão gọi là người làm sáng tỏ bởi vì thuyết giảng đến nhân tồn tại đó. Một số vị Tỳ khưu thuyết giảng đến nhân tồn tại nhưng không thể làm cho họ tin tưởng. Trưởng lão gọi là người hướng dẫn bởi vì vị ấy có thể làm cho người khác có thể nắm lấy. Trưởng lão cũng gọi là người khích lệ sách tấn bởi khi vị ấy khích lệ như vậy làm cho các Tỳ khưu (trở nên) can đảm thực hành để phát sanh sự nỗ lực trong kathāvatthu đó. Gọi là người làm cho vui lòng bởi vì tán dương vị Tỳ khưu đã khởi lên sự nỗ lực làm cho (vị ấy) phấn khởi.
Pañcalābhavaṇṇanā
- suladdhalābhāti aññesampi manussattabhāvapabbajjādiguṇalābhā nāma honti. āyasmato pana puṇṇassa suladdhalābhā ete, yassa satthu sammukhā evaṃ vaṇṇo abbhuggatoti attho. apica apaṇḍitehi vaṇṇakathanaṃ nāma na tathā lābho, paṇḍitehi vaṇṇakathanaṃ pana lābho. gihī hi vā vaṇṇakathanaṃ na tathā lābho, gihī hi “vaṇṇaṃ kathessāmī”ti, “amhākaṃ ayyo saṇho sakhilo sukhasambhāso, vihāraṃ āgatānaṃ yāgubhattaphāṇitādīhi saṅgahaṃ karotī”ti kathento avaṇṇameva katheti. “avaṇṇaṃ kathessāmī”ti “ayaṃ thero mandamando viya abalabalo viya bhākuṭikabhākuṭiko viya natthi iminā saddhiṃ vissāso”ti kathento vaṇṇameva katheti. sabrahmacārīhipi satthu parammukhā vaṇṇakathanaṃ na tathā lābho, satthu sammukhā pana atilābhoti imampi atthavasaṃ paṭicca “suladdhalābhā”ti āha.
253. Lợi đắc nhận được tốt đẹp (suladdhalābhāti) nghĩa là đối với vị Tỳ khưu khác việc có được thân nhân loại và được xuất gia v.v, những đức hạnh này là lợi đắc nhận được tốt đẹp của Trưởng lão Puṇṇa, người có tiếng tăm được lan truyền trước mặt bậc Đạo Sư. Và hơn nữa, việc nói lời tán dương bởi người không phải bậc trí, không phải là lợi đắc như thế, còn việc tán dương bởi bậc trí là lợi đắc. Hoặc việc tán dương bởi người gia chủ cũng không phải là tán dương, bởi người gia chủ nghĩ rằng: “ta sẽ nói tán dương”, “vị thầy của ta là người có lời nói tế nhị, nói lời khéo léo, có sự trao đổi chuyện trò thoải mái; (đối với) người đến tịnh xá với cháo, vật thực cứng, vật thực mềm và nước mía v.v,” chính bằng lời khiển trách. Người gia chủ nghĩ rằng ta sẽ khiển trách, nói rằng “Trưởng lão này xem ra vô cùng ám độn, xem ra vô cùng yếu ớt, xem ra vô cùng ngớ ngẩn, không có sự mật thiết với vị này” bằng chính lời tán dương. Thậm chí bạn đồng Phạm hạnh nói lời tán thán sau lưng bậc Đạo Sư cũng không là lợi đắc đó, còn người được tán thán ở trước mặt bậc Đạo Sư gọi là lợi đắc tối thượng, Trương lão Sārīputta y cứ vào lợi ích như đã đề cập mới nói rằng ngài Puṇṇa Mantānīputta là “vị nhận được lợi đắc tốt đẹp”.
anumassa anumassāti dasa kathāvatthūni anupavisitvā anupavisitvā. tañca satthā abbhanumodatīti tañcassa vaṇṇaṃ evametaṃ appiccho ca so bhikkhu santuṭṭho ca so bhikkhūti anumodati. iti viññūhi vaṇṇabhāsanaṃ eko lābho, sabrahmacārīhi eko, satthu sammukhā eko, anumassa anumassa eko, satthārā abbhanumodanaṃ ekoti ime pañca lābhe sandhāya “suladdhalābhā”ti āha. kadācīti kismiñcideva kāle. karahacīti tasseva vevacanaṃ. appeva nāma siyā kocideva kathāsallāpoti api nāma koci kathāsamudācāropi bhaveyya. therena kira āyasmā puṇṇo neva diṭṭhapubbo, nassa dhammakathā sutapubbā. iti so tassa dassanampi dhammakathampi patthayamāno evamāha.
Nói (anumassa anumassa) gồm sự xác định cụ thể mười Kathāvatthu. Bậc Đạo Sự nói lời hoan hỷ việc làm đó (tañca satthā abbhanumodati) nghĩa là bậc Đạo Sư nói lời tùy hỷ đức hạnh của vị Tỳ khưu đó đó, là đức hạnh đó như vậy rằng vị Tỳ khưu đó là vị thiểu dục và là người tri túc, ngài muốn đề cập đến năm lợi đắc là việc mà người hiểu biết tán dương là một loại lợi đắc, việc mà bạn đồng Phạm hạnh tán dương là một loại lợi đắc, việc mà bạn đồng Phạm hạnh tán dương ở trước mặt Thế Tôn là một loại lợi đắc, việc xác định cụ thể mười Kathāvatthu là một loại lợi đắc, việc bậc Đạo Sư nói lời hoan hỷ tối thượng là một loại lợi đắc, nên mới nói lời “vị nhận được lợi đắc tốt đẹp”. Thỉnh thoảng (kadāci) là tại một khoảng thời gian nào đó. karahaci là từ đồng nghĩa với kadāci. Có thể sẽ có một cuộc đàm luận (appeva nāma siyā kocideva kathāsallāpo) bao gồm như thế nào có thể có cả cuộc đàm luận cùng nhau. Kể rằng Trưởng lão chưa từng gặp ngài Puṇṇa Mantānīputta, chưa từng nghe pháp thoại của ngài, như thế Ngài mới ước muốn sẽ nhìn thấy Ngài Puṇṇa Mantānīputta, việc thuyết giảng Giáo pháp của ngài mới nói như vậy.
Cārikādivaṇṇanā
-
-
- yathābhirantanti yathāajjhāsayaṃ viharitvā. buddhānañhi ekasmiṃ ṭhāne vasantānaṃ chāyūdakādivipattiṃ vā apphāsukasenāsanaṃ vā, manussānaṃ assaddhādibhāvaṃ vā āgamma anabhirati nāma natthi. tesaṃ sampattiyā “idha phāsu viharāmā”ti abhiramitvā ciravihāropi natthi. yattha pana tathāgate viharante sattā saraṇesu vā patiṭṭhahanti, sīlāni vā samādiyanti, pabbajanti vā, tato sotāpattimaggādīnaṃ vā pana tesaṃ upanissayo hoti. tattha buddhā satte tāsu sampattīsu patiṭṭhāpanājjhāsayena vasanti; tāsaṃ abhāve pakkamanti. tena vuttaṃ — “yathāajjhāsayaṃ viharitvā”ti. cārikaṃ caramānoti addhānagamanaṃ gacchanto. cārikā ca nāmesā bhagavato duvidhā hoti turitacārikā ca, aturitacārikā ca.
-
Yathābhirantaṃ: đã an trú theo ý muốn. Thật vậy, chư Phật trong khi an trú ở bất nơi nào đi chăng nữa gọi là không có sự không hoan hỷ bởi sự bất lợi nào của bóng mát và nước v.v, hoặc trú xứ không thuận tiện, hoặc không có đức tin của dân chúng v.v, khi mọi thứ đó đầy đủ chư Phật cũng không có sự hoan hỷ, ta sẽ sống thoải mái ở đây rồi cư trú lâu dài. Nhưng khi Như Lai an trú ở nơi đây, tất cả chúng sanh sẽ được vững trú trong sự bảo hộ (quy y) thọ trì giới luật hoặc xuất gia hoặc từ đó chúng sanh đó có nền tảng của Nhập Lưu Thánh Đạo v.v. Chư Phật an trú ở đó theo khuynh hướng đặt chúng sanh đó ở trong tài sản đó, bởi không có chúng sanh đó ngài (sẽ) rời đi. Vì thế, ngài mới nói rằng – “yathāajjhāsayaṃ viharitvā (đã an trú theo khuynh hướng)”. Đi du hành (cārikaṃ caramāno) nghĩa là đức Phật du hành quãng đường dài, gọi là việc đi du hành của đức Thế Tôn có 2 loại là vội khởi hành và không vội khởi hành.
tattha dūrepi bodhaneyyapuggalaṃ disvā tassa bodhanatthāya sahasā gamanaṃ turitacārikā nāma. sā mahākassapapaccuggamanādīsu daṭṭhabbā. bhagavā hi mahākassapaṃ paccuggacchanto muhuttena tigāvutaṃ maggaṃ agamāsi, āḷavakassatthāya tiṃsayojanaṃ, tathā aṅgulimālassa. pukkusātissa pana pañcacattālīsayojanaṃ, mahākappinassa vīsayojanasataṃ, khadiravaniyassatthāya satta yojanasatāni agamāsi; dhammasenāpatino saddhivihārikassa vanavāsītissasāmaṇerassa tigāvutādhikaṃ vīsayojanasataṃ.
Ở đó, sau khi nhìn thấy chúng sanh có khả năng giác ngộ dầu ở một nơi xa (ngài sẽ) vội khởi hành vì mục đích trợ giúp (thuyết Pháp) cho vị ấy giác ngộ gọi là vội khởi hành. Việc vội khởi hành có thể thấy như Ngài đi ra tiếp đón ngài Mahākassapa v.v. Thật vậy, đức Thế Tôn khi ra tiếp đón ngài Mahākassapa thì ngài phải đi suốt quãng đường dài 3 dặm trong chốc lát. Ngài đi (quãng đường dài) 30 do-tuần để trợ giúp Dạ-xoa Āḷavaka, giúp đỡ Aṅgulimāla cũng tương tự. (Quãng đường) 45 do-tuần để trợ giúp cho Pukkusāti, 2,000 do-tuần để trợ giúp Mahākappina, 700 do-tuần để trợ giúp Trưởng lão Khadiravaniya, 2,000 do-tuần và 3 dặm để trợ giúp Sa-di Vanavāsītissa học trò của vị Tướng Quân Chánh Pháp.
ekadivasaṃ kira thero, “tissasāmaṇerassa santikaṃ, bhante, gacchāmī”ti āha. bhagavā, “ahampi gamissāmī”ti vatvā āyasmantaṃ ānandaṃ āmantesi — “ānanda, vīsatisahassānaṃ chaḷabhiññānaṃ ārocehi — ‘bhagavā vanavāsītissasāmaṇerassa santikaṃ gamissatī’”ti. tato dutiyadivase vīsatisahassakhīṇāsavaparivuto ākāse uppatitvā vīsayojanasatamatthake tassa gocaragāmadvāre otaritvā cīvaraṃ pārupi. kammantaṃ gacchamānā manussā disvā, “satthā, bho, āgato, mā kammantaṃ agamitthā”ti vatvā āsanāni paññapetvā yāguṃ datvā pānavattaṃ karontā, “kuhiṃ, bhante, bhagavā gacchatī”ti daharabhikkhū pucchiṃsu. upāsakā, na bhagavā aññattha gacchati, idheva tissasāmaṇerassa dassanatthāya āgatoti. te “amhākaṃ kira kulūpakattherassa dassanatthāya satthā āgato, no vata no thero oramattako”ti somanassajātā ahesuṃ.
Kể rằng một ngày nọ Trưởng lão nói rằng, “Thưa ngài, ngài đi đến trú xứ của Sa-di Tissa.” Đức Thế Tôn thuyết rằng: “chính Ta cũng sẽ đi” sau khi nói lời ấy ngài đã bảo đại đức Ānanda – “Này Ānanda, con hãy nói với 20,000 vị chư Tỳ khưu có thắng trí rằng đức Thế Tôn sẽ đến trú xứ của Sa-di Vanavāsītissa vị sống ở trong rừng.” Sáng sớm hôm đó đức Thế Tôn có 20,000 vị bậc lậu tận vây quanh bay trong hư không, đã hạ xuống gần cổng làng để đi khất thực của vị đó, khoảng cách giữa hai nơi xa 2,000 do-tuần đã trùm lên y. Dân làng đang đi làm, sau khi nhìn thấy họ nói với nhau rằng: “Thưa ngài, Bậc Đạo đã đến, hãy nghỉ ngơi trước” rồi trợ giúp trải tọa cụ, cúng dường cháo, thực hành phận sự rồi hỏi vị Tỳ khưu trẻ rằng: “Thưa ngài đức Thế Tôn đã đi đâu rồi?; các cận sự nam, đức Thế Tôn không đi đến nơi khác đâu, ngài đi đến thăm Sa-di Tissa ở nơi đây thường lui tới gia đình của chúng tôi, Trưởng lão của chúng tôi không phải người tầm thường.”
atha bhagavato bhattakiccapariyosāne sāmaṇero gāmaṃ piṇḍāya caritvā “upāsakā mahā bhikkhusaṅgho”ti pucchi. athassa te, “satthā, bhante, āgato”ti ārocesuṃ, so bhagavantaṃ upasaṅkamitvā piṇḍapātena āpucchi. satthā tassa pattaṃ hatthena gahetvā, “alaṃ, tissa, niṭṭhitaṃ bhattakiccan”ti āha. tato upajjhāyaṃ āpucchitvā attano pattāsane nisīditvā bhattakiccamakāsi. athassa bhattakiccapariyosāne satthā maṅgalaṃ vatvā nikkhamitvā gāmadvāre ṭhatvā, “kataro te, tissa, vasanaṭṭhānaṃ gamanamaggo”ti āha. “ayaṃ bhagavā”ti. maggaṃ desayamāno purato yāhi tissāti. bhagavā kira sadevakassa lokassa maggadesako samānopi “sakalatigāvute magge sāmaṇeraṃ daṭṭhuṃ lacchāmī”ti taṃ maggadesakamakāsi.
Sau đó khi đức Thế Tôn thọ dụng vật thực xong, vị Sa-di đã đi vào làng khất thực hỏi rằng: “có đại chúng Tỳ khưu Tăng đến chăng?” Khi đó, các cận sự nam nói với vị Sa-di rằng: “Thưa ngài, bậc Đạo Sư đã đến”, Vị ấy đến yết kiến đức Thế Tôn, đảnh lễ xin cúng dường vật thực. Đức Thế Tôn lấy tay chạm vào bình bát của vị Sa-di nói rằng “Không, này Sa-di, ta đã thọ dụng xong”. Khi ấy vị Sa-di đã đảnh lễ thầy tế độ rồi ngồi xuống chỗ ngồi của mình rồi thực hiện phận sự của việc thọ thực. Từ đó khi vị ấy thọ dụng vật thực chấm dứt, bậc Đạo Sư đã chúc phúc, Ngài đã đi ra khỏi rồi đứng gần cổng làng hỏi rằng “này Tissa, con đường nào đi đến chỗ ở con”, vị Sa-di đáp rằng: “con đường này, thưa ngài”. (Thế Tôn) nói rằng này Tissa, con hãy chỉ đường phía trước”. Kể rằng đức Thế Tôn là vị thuyết giảng về đạo lộ cho nhân loại cùng với cả chư Thiên nhưng lại cho vị Sa-di dẫn đường cũng bởi ý muốn của đức Thế Tôn, sẽ quan sát vị Sa-di suốt quãng đường 3 dặm.
so attano vasanaṭṭhānaṃ gantvā bhagavato vattamakāsi. atha naṃ bhagavā, “kataro te, tissa, caṅkamo”ti pucchitvā tattha gantvā sāmaṇerassa nisīdanapāsāṇe nisīditvā, “tissa, imasmiṃ ṭhāne sukhaṃ vasasī”ti pucchi. so āha — “āma, bhante, imasmiṃ me ṭhāne vasantassa sīhabyagghahatthimigamorādīnaṃ saddaṃ suṇato araññasaññā uppajjati, tāya sukhaṃ vasāmī”ti. atha naṃ bhagavā, “tissa, bhikkhusaṅghaṃ sannipātehi, buddhadāyajjaṃ te dassāmī”ti vatvā sannipatite bhikkhusaṅghe upasampādetvā attano vasanaṭṭhānameva agamāsīti. ayaṃ turitacārikā nāma.
Vị Sa-di đến chỗ trú ngụ của mình đã thực hành bổn phận của mình đối với đức Thế Tôn. Khi đó đức Thế Tôn hỏi vị Sa-di rằng: “này Tissa, chỗ đi kinh hành ở đâu? Sau đó Ngài đi đến chỗ kinh hành đó” ngồi trên thạch toạ của vị Sa-di rồi hỏi rằng “này Tissa con sống được an lạc ở nơi này chăng?” Sa-di ấy hỏi rằng “bạch ngài, con sống ở đây nghe tiếng sư tử, cọp, voi, thú rừng và chim chốc v.v, cũng khởi lên araññasaññā (sự tưởng tượng ở rừng) rằng ‘ta sẽ sống an lạc bằng sự tưởng tượng đó’”. Khi đó, đức Thế Tôn dạy vị Sa-di ấy rằng: “này Tissa, hãy để Tỳ khưu Tăng tụ họp lại, ta sẽ ban cho vị trí người thừa hưởng tài vật của đức Phật (buddhadāyajjaṃ)” sau khi chư Tỳ khưu đã tụ họp một nửa do-tuần (Ngài) đã cho vị Sa-di tu lên bậc trên rồi Ngài trở về nơi an trú, cuộc khởi hành này gọi là vội vàng khởi hành.
yaṃ pana gāmanigamapaṭipāṭiyā devasikaṃ yojanaḍḍhayojanavasena piṇḍapātacariyādīhi lokaṃ anuggaṇhantassa gamanaṃ, ayaṃ aturitacārikā nāma. imaṃ pana cārikaṃ caranto bhagavā mahāmaṇḍalaṃ majjhimamaṇḍalaṃ antimamaṇḍalanti imesaṃ tiṇṇaṃ maṇḍalānaṃ aññatarasmiṃ carati. tattha mahāmaṇḍalaṃ navayojanasatikaṃ, majjhimamaṇḍalaṃ chayojanasatikaṃ, antimamaṇḍalaṃ tiyojanasatikaṃ.
Còn việc đi của đức Thế Tôn, vị giúp đỡ đến thế gian với việc ngài đi khất thực v.v, mỗi ngày một do tuần theo tuần tự các làng hay thị trấn gọi là không vội khởi hành. Lại nữa đức Thế Tôn đi du hành như vầy, đi du hành trong 3 maṇḍala, bất kỳ một trong số maṇḍala là đại maṇḍala, trung maṇḍala và tiểu maṇḍala. Trong 3 maṇḍala đó nơi 900 do-tuần được xem là đại maṇḍala, nơi 600 do-tuần được xem là trung maṇḍala, nơi 300 do-tuần được xem là tiểu maṇḍala.
yadā mahāmaṇḍale cārikaṃ caritukāmo hoti, mahāpavāraṇāya pavāretvā pāṭipadadivase mahābhikkhusaṅghaparivāro nikkhamati. samantā yojanasataṃ ekakolāhalaṃ ahosi, purimaṃ purimaṃ āgatā nimantetuṃ labhanti; itaresu dvīsu maṇḍalesu sakkāro mahāmaṇḍale osarati. tatra bhagavā tesu tesu gāmanigamesu ekāhaṃ dvīhaṃ vasanto mahājanaṃ āmisapaṭiggahena anuggaṇhanto dhammadānena cassa vivaṭṭūpanissitaṃ kusalaṃ vaḍḍhento navahi māsehi cārikaṃ pariyosāpeti.
Khi nào đức Phật muốn đi du hành ở đại maṇḍala, đã hành lễ vào ngày ngày đại lễ Mahāpavāraṇā, vào ngày trăng tròn có đại chúng Tỷ kheo Tăng tùy tùng đi ra khỏi đồng thời đã gây ra cảnh náo động xung quanh một trăm do-tuần, nhóm đến trước nhận được lời thỉnh mời quay trở lại. Hai maṇaḍa còn lại gộp chung vào đại maṇaḍa. Nếu ở trong chỗ đó đức Thế Tôn an trú một hai ngày ở làng, hoặc thị trấn đó trợ giúp đại chúng bằng việc thọ nhận vật phẩm và phát triển thiện pháp y cứ sự thoát khỏi luân hồi với việc thọ trì pháp cùng đại chúng ấy chín tháng rồi Ngài mới ra đi du hành.
sace pana antovasse bhikkhūnaṃ samathavipassanā taruṇā hoti, mahāpavāraṇāya apavāretvā pavāraṇāsaṅgahaṃ datvā kattikapuṇṇamāya pavāretvā migasirassa paṭhamadivase mahābhikkhusaṅghaparivāro nikkhamitvā majjhimamaṇḍalaṃ osarati. aññenapi kāraṇena majjhimamaṇḍale cārikaṃ caritukāmo catumāsaṃ vasitvāva nikkhamati. vuttanayeneva itaresu dvīsu maṇḍalesu sakkāro majjhimamaṇḍale osarati. bhagavā purimanayeneva lokaṃ anuggaṇhanto aṭṭhahi māsehi cārikaṃ pariyosāpeti.
Nếu như trong mùa an cư (nhập hạ) chư Tỳ khưu có Chỉ Tịnh và Minh Sát yếu ớt, cũng không hành lễ pavāraṇā vào ngày đại lễ Mahāpavāraṇā, sẽ trì hoãn hành lễ pavāraṇā vào ngày hành lễ pavāraṇā giữa tháng kattikā (tháng chạp) ngày đầu tiên của tháng migasira (tháng giêng) có vị đại chúng Tỳ khưu tùy tùng đi du hành khắp nơi trung maṇḍala. Khi có đức Phật muốn đi du hành trong trung maṇḍala với lý do khác cùng an trú bốn tháng rồi mới rời đi. Cả hai maṇḍala còn lại lợi lộc và sự cung kính được gọp chung vào trung maṇḍala như phương thức đã được trình bày. Đức Thế Tôn trợ giúp thế gian bằng phương thức trước đó (ngài an trú) tám tháng rồi mới rời đi.
sace pana catumāsaṃ vuṭṭhavassassāpi bhagavato veneyyasattā aparipakkindriyā honti, tesaṃ indriyaparipākaṃ āgamayamāno aparampi ekaṃ māsaṃ vā dviticatumāsaṃ vā tattheva vasitvā mahābhikkhusaṅghaparivāro nikkhamati. vuttanayeneva itaresu dvīsu maṇḍalesu sakkāro antomaṇḍale osarati.
Khi đức Thế Tôn an trú được bốn tháng, nếu như những chúng sanh có duyên lành giác ngộ có các quyền vẫn chưa hoàn toàn chín mùi, (ngài sẽ) đợi cho những chúng sanh có duyên lành giác ngộ có các quyền hoàn toàn chín mùi sẽ ở chỗ đó một tháng, 2 tháng hoặc 3 tháng, rồi có nhóm đại chúng Tỳ khưu tùy tùng đi ra khỏi ở. Cả hai maṇḍala còn lại lợi đắc và danh vọng được gộp chung vào tiểu maṇḍala theo cách đã nói.
bhagavā purimanayeneva lokaṃ anuggaṇhanto sattahi vā chahi vā pañcahi vā catūhi vā māsehi cārikaṃ pariyosāpeti. iti imesu tīsu maṇḍalesu yattha katthaci cārikaṃ caranto na cīvarādihetu carati. atha kho ye duggatā bālā jiṇṇā byādhitā, te kadā tathāgataṃ āgantvā passissanti? mayi pana cārikaṃ carante mahājano tathāgatadassanaṃ labhissati, tattha keci cittāni pasādessanti, keci mālādīhi pūjessanti, keci kaṭacchubhikkhaṃ dassanti, keci micchādassanaṃ pahāya sammādiṭṭhikā bhavissanti, taṃ tesaṃ bhavissati dīgharattaṃ hitāya sukhāyāti evaṃ lokānukampāya cārikaṃ carati.
Đức Thế Tôn khi trợ giúp thế gian theo cách đầu tiên bảy tháng, sáu tháng, năm tháng, hay 4 tháng rồi mới khởi hành. Như thế trong khi đi du hành trong bát kỳ 1 trong 3 maṇḍala không phải đi du hành vì nguyên nhân y phục v.v, thật sự (Ngài) đi du hành nhằm mục đích trợ giúp với ý định của đức Phật như vầy bất cứ người nào nghèo khổ, kẻ ngu, người già, người bệnh; những người đó đến khi nào cũng sẽ được diện kiến đấng Như Lai, khi ta khởi hành đại chúng cũng sẽ được nhìn thấy đấng Như Lai, ơ nơi đó một số người sẽ làm cho tâm được tịnh tín, một số người cung kính cúng dường hoa v.v, một số cúng dường vật thực chừng một vá (cơm), một số sẽ dứt bỏ tà kiến trở nên có chánh kiến, như vậy điều đó sẽ đưa đến sự lợi ích, sự hạnh phúc cho những người đó trong thời gian lâu dài.
apica catūhi kāraṇehi buddhā bhagavanto cārikaṃ caranti — jaṅghāvihāravasena sarīraphāsukatthāya, atthuppattikālaṃ abhikaṅkhanatthāya, bhikhūnaṃ sikkhāpadaṃ paññāpanatthāya, tattha tattha paripākagatindriye bodhaneyyasatte bodhanatthāyāti. aparehipi catūhi kāraṇehi buddhā bhagavanto cārikaṃ caranti — buddhaṃ saraṇaṃ gacchissantīti vā, dhammaṃ saraṇaṃ gacchissantīti vā, saṅghaṃ saraṇaṃ gacchissantīti vā, mahatā dhammavassena catasso parisā santappessāmīti vāti.
Ngoài ra, các đức Thế Tôn đi du hành vì bốn lý do: (1) vì lợi ích cho sức khỏe của cơ thân bằng cách đi bách bộ, (2) vì lợi ích chờ đợi một sự kiện phát sinh làm nguyên nhân thuyết giảng Giáo Pháp, (3) Vì lợi ích của việc chế định các học giới cho chư Tỳ khưu, (4) vì lợi ích trợ giúp chúng sinh có khả năng cần được chứng ngộ, người có các căn đã chín mùi ở tại chỗ đó (đạt đến) sự giác ngộ. Các đức Thế Tôn đi du hành bởi bốn lý do khác nữa: Tất cả chúng sinh sẽ đi đến nương nhờ nơi đức Phật, sẽ đi đến nương nhờ nơi Giáo Pháp, sẽ đi đến nương nhờ nơi Tăng Chúng, ta sẽ làm hài lòng bốn hội chúng bằng việc lắng nghe Giáo Pháp vĩ đại.
aparehi pañcahi kāraṇehi buddhā bhagavanto cārikaṃ caranti— pāṇātipātā viramissantīti vā, adinnādānā… kāmesumicchācārā… musāvādā… surāmerayamajjapamādaṭṭhānā viramissantīti vāti. aparehi aṭṭhahi kāraṇehi buddhā bhagavanto cārikaṃ caranti — paṭhamajjhānaṃ paṭilabhissantīti vā, dutiyaṃ … pe … nevasaññānāsaññāyatanasamāpattiṃ paṭilabhissantīti vāti. aparehi aṭṭhahi kāraṇehi buddhā bhagavanto cārikaṃ caranti — sotāpattimaggaṃ adhigamissantīti vā, sotāpattiphalaṃ … pe … arahattaphalaṃ sacchikarissantīti vāti. ayaṃ aturitacārikā, sā idha adhippetā. sā panesā duvidhā hoti nibaddhacārikā, anibaddhacārikā ca. tattha yaṃ ekasseva bodhaneyyasattassa atthāya gacchati, ayaṃ nibaddhacārikā nāma. yaṃ pana gāmanigamanagarapaṭipāṭivasena carati, ayaṃ anibaddhacārikā nāma. esā idha adhippetā.
Các đức Thế Tôn đi du hành với năm lý do khác là những chúng sanh sẽ kiêng tránh sát sanh, hoặc trộm cắp…hoặc tà hạnh…hoặc nói dối…hoặc rượu men và các chất say. Các đức Thế Tôn đi du hành với tám lý do khác – vị ấy sẽ đạt được sơ thiền, hoặc nhị thiện…nt…sẽ đạt được phi tưởng phi phi tưởng. Các đức Thế Tôn đi du hành với 8 lý do khác nữa – vị ấy sẽ đắc chứng Nhập Lưu Thánh Đạo, Nhập Lưu Thánh Quả…nt…sẽ tác chứng A-ra-hán Quả. Đây gọi là đi du hành không vội vã. Đi du hành không vội vã có 2 là việc du hành có điều trói chặt (nibaddhacārikā), việc du hành không có điều trói chặt (anibaddhacārikā). Trong hai loại đi du hành này việc đức Thế Tôn đi vì lợi ích của một chúng sanh, người cần giác ngộ chỉ riêng một cá nhân, đây gọi là việc du hành có điều trói chặt. Việc mà đức Thế Tôn đi du hành theo tuần tự các làng, thị trấn gọi là việc du hành không có điều trói chặt. Việc du hành không có điều trói chặt này ngài có ý muốn nói ở đây.
senāsanaṃ saṃsāmetvāti senāsanaṃ paṭisāmetvā. taṃ pana paṭisāmento thero na cūḷapattamahāpatta cūḷathālakamahāthālaka paṭṭuṇṇacīvara dukūlacīvarādīnaṃ bhaṇḍikaṃ katvā sappitelādīnaṃ vā pana ghaṭe pūrāpetvā gabbhe nidahitvā dvāraṃ pidhāya kuñcikamuddikādīni yojāpesi. “sace na hoti bhikkhu vā sāmaṇero vā ārāmiko vā upāsako vā, catūsu pāsāṇesu mañce mañcaṃ āropetvā pīṭhe pīṭhaṃ āropetvā cīvaravaṃse vā cīvararajjuyā vā upari puñjaṃ katvā dvāravātapānaṃ thaketvā pakkamitabban”ti (cūḷava. 361) vacanato pana nevāsikaṃ bhikkhuṃ āpucchanamattakeneva paṭisāmesi.
senāsanaṃ saṃsāmetvā đồng nghĩa với senāsanaṃ paṭisāmetvā (đã thâu dọn sàng tọa). Trong khi trưởng lão thâu dọn sàng toạ đó, cũng đã lấy bình bát nhỏ, bình bát lớn; chén dĩa nhỏ, chén dĩa lớn; y phục bằng lụa, y phục bằng vỏ cây v.v; cuộn lại thành cuộn, đã đổ bơ lỏng và dầu v.v đầy bình cất giữ trong kho, đã đóng cửa để cho gắn với chìa khóa, rồi đóng dấu. (Vị ấy) đã thâu dọn chỉ xin phép để rời khỏi đến vị Tỳ khưu địa phương theo lời nói rằng: “Nếu Tỳ khưu, hoặc Sa-di, hoặc người phụ việc chùa, hoặc nam cư sĩ đều không có, nên sắp xếp cái giường chồng lên trên bốn hòn đá, rồi đặt cái giường lên trên cái giường, đặt cái ghế lên trên cái ghế, cuộn các y phục đặt chồng lên trên y phục, hoặc là ở sào máng y, nên đóng lại cửa lớn và cửa sổ, rồi mới nên ra đi.” (cūḷava. 361).
yena sāvatthi tena cārikaṃ pakkāmīti satthu dassanakāmo hutvā yena disābhāgena sāvatthi tena pakkāmi. pakkamanto ca na suddhodanamahārājassa ārocāpetvā sappitelamadhuphāṇitādīni gāhāpetvā pakkanto. yūthaṃ pahāya nikkhanto pana mattahatthī viya, asahāyakicco sīho viya, pattacīvaramattaṃ ādāya ekakova pakkāmi. kasmā panesa pañcasatehi attano antevāsikehi saddhiṃ rājagahaṃ agantvā idāni nikkhantoti? rājagahaṃ kapilavatthuto dūraṃ saṭṭhiyojanāni, sāvatthi pana pañcadasa. satthā rājagahato pañcacattālīsayojanaṃ āgantvā sāvatthiyaṃ viharati, idāni āsanno jātoti sutvā nikkhamīti akāraṇametaṃ.
Đi du hành theo tuần tự con đường đến Sāvatthi (yena sāvatthi tena cārikaṃ pakkāmi): ngài Trưởng lão Puṇṇa Mantāniputta muốn đến gặp bậc Đạo Sư nên mới rời đi về hướng đến thành Sāvatthi tọa lạc. Khi rời đi ngài đã trình với Vua Suddhodana Đại đế vị ấy cho đệ tử tiếp nhận bơ lỏng, dầu, mật ong và nước mía, nhưng lúc đi ngài chỉ mang theo bình bát và y phục rồi một mình ra đi, giống như một con voi đang động cỡn tách bầy bỏ đi, giống như một chúa sư tử không có phận sự đối với đồng minh. Tại sao? Ngài đến thành Rājagaha cùng với 500 vị đệ tử của mình, nhưng bây giờ ngài lại ra đi một mình. Bởi thành Rājagaha cách xa thành Kapilavatthu 60 do-tuần, còn thành Sāvatthi 50 do-tuần, bậc Đạo Sư đã đến thành Rājagaha 45 do-tuần cư trú ở thành Sāvatthi, Trưởng lão Puṇṇa Mantāniputta biết rằng bây giờ đức Thế Tôn gần đến rồi nên mới rời đi một mình.
buddhānaṃ santikaṃ gacchanto hi esa yojanasahassampi gaccheyya, tadā pana kāyaviveko na sakkā laddhunti. bahūhi saddhiṃ gamanakāle hi ekasmiṃ gacchāmāti vadante eko idheva vasāmāti vadati. ekasmiṃ vasāmāti vadante eko gacchāmāti vadati. tasmā icchiticchitakkhaṇe samāpattiṃ appetvā nisīdituṃ vā phāsukasenāsane kāyavivekaṃ laddhuṃ vā na sakkā hoti, ekakassa pana taṃ sabbaṃ sulabhaṃ hotīti tadā agantvā idāni pakkāmi.
Điều này cũng không phải là lý do, quả thật ngài đến gặp các đức Phật, ngài có thể đi 1,000 do-tuần cũng được, nhưng lần đó (cùng với Tỳ khưu) Ngài không thể có được sự viễn ly về thân. Bởi vì việc đi chung với một nhóm người khi nói rằng tôi sẽ đi một mình, cũng nói tránh rằng tôi sẽ sống độc cư một mình ở đây; một người nói rằng tôi sẽ sống một mình cũng nói tránh rằng tôi sẽ đi một mình. Vì thế ngài không thể ngồi nhập thiền trong lúc cần thiết hoặc không có được sự viễn ly về thân ở trong trú xứ thuận tiện, nhưng khi sống một mình thì sẽ đạt được những điều đó dễ dàng. Cho nên, ngài mới không đi trong lúc đó, mà đã rời đi trong lúc này.
cārikaṃ caramānoti ettha kiñcāpi ayaṃ cārikā nāma mahājanasaṅgahatthaṃ buddhānaṃyeva labbhati, buddhe upādāya pana ruḷhīsaddena sāvakānampi vuccati kilañjādīhi kataṃ bījanampi tālavaṇṭaṃ viya. yena bhagavāti sāvatthiyā avidūre ekasmiṃ gāmake piṇḍāya caritvā katabhattakicco jetavanaṃ pavisitvā sāriputtattherassa vā mahāmoggallānattherassa vā vasanaṭṭhānaṃ gantvā pāde dhovitvā makkhetvā pānīyaṃ vā pānakaṃ vā pivitvā thokaṃ vissamitvā satthāraṃ passissāmīti cittampi anuppādetvā ujukaṃ gandhakuṭipariveṇameva agamāsi. therassa hi satthāraṃ daṭṭhukāmassa aññena bhikkhunā kiccaṃ natthi. tasmā rāhulaṃ vā ānandaṃ vā gahetvā okāsaṃ kāretvā satthāraṃ passissāmīti evampi cittaṃ na uppādesi.
Đi du hành (cārikaṃ caramāno) nên biết rằng gọi là việc du hành sử dụng dành riêng cho đức Phật để trợ giúp (tế độ) đại chúng, mặc dù vậy thuật ngữ này mở rộng căn cứ ở đức Phật cũng được sử dụng ngay cả đối với các bậc Thánh Thinh Văn, giống như cây quạt lá cọ được đan bằng lát tre cũng gọi là quạt lá cọ. Đi đến gặp đức Thế Tôn (yena bhagavā): ngài Puṇṇa Mantāniputta đi khất thực ở trong một ngôi làng không xa thành Sāvatthi, sau khi việc thọ thực hoàn tất (vị ấy) vào Jetavana đi đến chỗ cư ngụ của Trưởng lão Sāriputta, hoặc Trưởng lão Mahāmoggallāna, đã rửa chân, đã thoa dầu, uống nước lọc hoặc nước trái cây, nghỉ ngơi một lát, đã không khởi tâm suy nghĩ rằng sẽ đến gặp bậc Đạo Sư (nhưng mà) đi thẳng đến khu vực Gandhakuṭi. Bởi vì Trưởng lão mong muốn được gặp bậc Đạo Sư nhưng mà không có phận sự với vị Tỳ khưu khác, vì thế ngài không khởi tâm suy nghĩ như vầy “ta sẽ dẫn Rāhula hoặc Đại đức Ānanda để có cơ hội được gặp bậc Đạo Sư.”
thero hi sayameva buddhasāsane vallabho rañño saṅgāmavijayamahāyodho viya. yathā hi tādisassa yodhassa rājānaṃ daṭṭhukāmassa aññaṃ sevitvā dassanakammaṃ nāma natthi; vallabhatāya sayameva passati. evaṃ theropi buddhasāsane vallabho, tassa aññaṃ sevitvā satthudassanakiccaṃ natthīti pāde dhovitvā pādapuñchanamhi puñchitvā yena bhagavā tenupasaṅkami. bhagavāpi “paccūsakāleyeva mantāṇiputto āgamissatī”ti addasa. tasmā gandhakuṭiṃ pavisitvā sūcighaṭikaṃ adatvāva darathaṃ paṭippassambhetvā uṭṭhāya nisīdi. thero kavāṭaṃ paṇāmetvā gandhakuṭiṃ pavisitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi.
Thật vậy, bản thân Trưởng lão rất gần gũi với Phật giáo. Giống như một chiến binh hùng mạnh đã chiến thắng trong cuộc chiến là người hài lòng của đức vua, một chiến binh như vậy mong muốn gặp được nhà vua, gọi là không cần thiết phải dựa vào người khác, gặp đức vua (có thể) đến gặp ngay lập tức, bởi vì là người rất gần gũi như thế nào thì ngay cả Trưởng lão cũng như thế đó, là người thân thiết với Phật giáo. Ngài không có phận sự để gặp các Tỳ khưu khác, đến gặp bậc Đạo Sư. Vì vậy sau khi ngài rửa chân và lau chân ở chỗ lau chân, rồi đi đến gặp đức Thế Tôn. Ngay cả đức Thế Tôn cũng thấy trước rằng lúc bình minh Mantānīputta sẽ đến. Do đó, ngài bước vào Gandhakuṭi (Hương Thất) mà không khóa cửa, làm dịu sự mệt nhọc, ngồi tĩnh tọa chờ. Trưởng lão đẩy cửa bước vào Gandhakuṭi, cung kính đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên thích hợp.
dhammiyā kathāyāti bhagavā dhammiṃ kathaṃ kathento cūḷagosiṅgasutte (ma. ni. 1.325 ādayo) tiṇṇaṃ kulaputtānaṃ sāmaggirasānisaṃsaṃ kathesi; sekkhasutte (ma. ni. 2.22 ādayo) āvasathānisaṃsaṃ, ghaṭikārasutte (ma. ni. 2.282 ādayo) satipaṭilābhikaṃ pubbenivāsappaṭisaṃyuttakathaṃ; raṭṭhapālasutte (ma. ni. 2.304) cattāro dhammuddese, selasutte (ma. ni. 2.396 ādayo) pānakānisaṃsakathaṃ, upakkilesasutte (ma. ni. 3.236 ādayo) bhaguttherassa dhammakathaṃ kathento ekībhāve ānisaṃsaṃ kathesi. imasmiṃ pana rathavinīte āyasmato puṇṇassa kathento dasakathāvatthunissayaṃ anantanayaṃ nāma dassesi puṇṇa, ayampi appicchakathāyeva santosakathāyevāti. paṭisambhidāpattassa sāvakassa velante ṭhatvā mahāsamudde hatthappasāraṇaṃ viya ahosi.
Với lời nói liên hệ đến Pháp (dhammiyā kathāya): đức Thế Tôn khi thuyết giảng Giáo Pháp, thuyết về lợi ích của sự hòa hợp cho ba thiện tử trong Kinh Cūḷagosiṅga; Thuyết giảng lợi ích về sự cúng dường trú xứ trong Kinh Sekkha; thuyết giảng kệ ngôn liên quan đến túc mạng minh làm cho có được niệm trong Kinh Ghaṭikāra; thuyết giảng bốn sự diễn giải về Pháp trong Kinh Raṭṭhapāla; thuyết giảng về lợi ích cúng dường nước uống trong Kinh Sela; khi nói về Dhammakathā (ngài) thuyết lợi ích trong tính chất vị sống độc cư cùng Trưởng lão Bhagu trong Kinh Upakkilesa. Nhưng trong kinh Rathavinīta này đức Thế Tôn thuyết cho ngài Puṇṇa để chỉ ra vấn đề kathā gọi là anantanaya liên quan đến 10 kathāvatthu rằng “Này Puṇṇa, chính câu chuyện về sự thiểu dục (Appicchakathā), câu chuyện về tri túc tương tự, giống như (ngài) đã đứng ở cuối bờ duỗi cánh tay trong đại dương cho vị Thánh Thinh Văn đã đạt đến các tuệ phân tích.”
yena andhavananti tadā kira pacchābhatte jetavanaṃ ākiṇṇaṃ hoti, bahū khattiyabrāhmaṇādayo jetavanaṃ osaranti; rañño cakkavattissa khandhāvāraṭṭhānaṃ viya hoti, na sakkā pavivekaṃ labhituṃ. andhavanaṃ pana padhānagharasadisaṃ pavivittaṃ, tasmā yenandhavanaṃ tenupasaṅkami. kasmā pana mahāthere na addasa? evaṃ kirassa ahosi — “sāyanhasamaye āgantvā mahāthere disvā puna dasabalaṃ passissāmi, evaṃ mahātherānaṃ ekaṃ upaṭṭhānaṃ bhavissati, satthu dve bhavissanti, tato satthāraṃ vanditvā mama vasanaṭṭhānameva gamissāmī”ti.
Rừng Andhavana: kể rằng lúc đó thời điểm sau bữa ăn Tỳ khưu Jetavana bận rộn, người đông đúc có các vị Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn v.v. đi đến Tỳ khưu Jetavana như chỗ cắm trại của Vua Chuyển Luân, Tỳ khưu không thể tìm kiếm sự an tĩnh được. Còn rừng Andhavana vắng lặng giống như ngôi nhà để thực hiện sự tinh tấn, nên Trưởng lão Puṇṇa Mantānīputta vào rừng Andhavana. Tại sao ngài không đi gặp các vị đại Trưởng lão? Được biết bởi vì Ngài suy nghĩ như vầy: “Tôi đến để gặp các vị đại Trưởng lão vào buổi tối và sẽ gặp lại đấng Thập Lực, việc phụng sự các vị đại Trưởng lão như vậy cũng chỉ có một lần duy nhất, còn đối với bậc Đạo Sư sẽ có hai lần, nhưng sau đó tôi cung kính đảnh lễ bậc Đạo Sư rồi quay trở về trú xứ của mình.
Sattavisuddhipañhavaṇṇanā
- abhiṇhaṃ kittayamāno ahosīti punappunaṃ vaṇṇaṃ kittayamāno vihāsi. thero kira tato paṭṭhāya divase divase saṅghamajjhe “puṇṇo kira nāma mantāṇiputto catūhi parisāhi saddhiṃ asaṃsaṭṭho, so dasabalassa dassanatthāya āgamissati; kacci nu kho maṃ adisvāva gamissatī”ti theranavamajjhimānaṃ satikaraṇatthaṃ āyasmato puṇṇassa guṇaṃ bhāsati. evaṃ kirassa ahosi — “mahallakabhikkhū nāma na sabbakālaṃ antovihāre honti; guṇakathāya panassa kathitāya yo ca naṃ bhikkhuṃ passissati; so āgantvā ārocessatī”ti. athāyaṃ therasseva saddhivihāriko taṃ āyasmantaṃ mantāṇiputtaṃ pattacīvaramādāya gandhakuṭiṃ pavisantaṃ addasa.
Ngài luôn luôn tán dương (abhiṇhaṃ kittayamāno ahosi): sự tán dương lặp đi lặp lại (thường xuyên). “Kể rằng con trai của bà Mantāṇī là Puṇṇa, không tiếp xúc với bốn hội chúng, ngài sẽ đến gặp đấng Thập Lực; ngài sẽ không kịp đến gặp ta phải chăng?” rồi nói về đức hạnh của trưởng lão Puṇṇa ở giữa Tăng chúng mỗi ngày, kể từ đó trở đi nhằm mục đích gợi nhớ lại (đức hạnh của Trưởng lão Puṇṇa) đến các Trưởng lão, trung niên Tỳ khưu và tân niên Tỳ khưu. Được biết rằng Trưởng lão Sārīputta có suy nghĩ như vầy – “Thường các vị Tỳ khưu già, không ở trong tịnh xá vào mọi thời điểm; thậm chí khi tôi nói đến đức hạnh của ngài, vị nào nhìn thấy Tỳ khưu đó? vị ấy cũng sẽ đến thông báo”. Khi đó đệ tử của Trưởng lão đó nhìn thấy ngài Puṇṇa Mantāṇīputta đang cầm lấy y bát đi đến Gandhakuṭi.
kathaṃ pana naṃ esa aññāsīti? puṇṇa, puṇṇāti vatvā kathentassa bhagavato dhammakathāya aññāsi — “ayaṃ so thero, yassa me upajjhāyo abhiṇhaṃ kittayamāno hotī”ti. iti so āgantvā therassa ārocesi. nisīdanaṃ ādāyāti nisīdanaṃ nāma sadasaṃ vuccati avāyimaṃ. thero pana cammakhaṇḍaṃ gahetvā agamāsi. piṭṭhito piṭṭhitoti pacchato pacchato. sīsānulokīti yo unnataṭṭhāne piṭṭhiṃ passanto ninnaṭṭhāne sīsaṃ passanto gacchati, ayampi sīsānulokīti vuccati. tādiso hutvā anubandhi. thero hi kiñcāpi saṃyatapadasaddatāya accāsanno hutvā gacchantopi padasaddena na bādhati, “nāyaṃ sammodanakālo”ti ñatvā pana na accāsanno, andhavanaṃ nāma mahantaṃ, ekasmiṃ ṭhāne nilīnaṃ apassantena, āvuso puṇṇa, puṇṇāti aphāsukasaddo kātabbo hotīti nisinnaṭṭhānajānanatthaṃ nātidūre hutvā sīsānulokī agamāsi. divāvihāraṃ nisīdīti divāvihāratthāya nisīdi.
Ngài biết được ngài Puṇṇa-Mantāṇīputta ấy thế nào? Puṇṇa, vị Tỳ khưu đó biết được dhammakathā của đức Thế Tôn sau khi nói đề cập đến Puṇṇa – “Trưởng lão mà vị thầy tế độ của ta luôn luôn khen ngợi chính là vị này đây” như thế vị Tỳ khưu đó mới đến thông báo cho Trưởng lão. Cầm theo tọa cụ (nisīdanaṃ ādāya) bao gồm phần mảnh vải (đã cắt) có đường viền gọi là tọa cụ. Sự thật Trưởng lão đã cầm mảnh da đi. Piṭṭhito piṭṭhito đồng nghĩa pacchato pacchato (ở phía sau). Vừa thấy đầu nhau (sīsānulokiṃ) nghĩa là vị nào đang đi nhìn thấy lưng (người đi phía trước) ở chỗ cao, nhìn thấy phần đầu ở chỗ đất thấp, vị Tỳ khưu này gọi là đủ nhìn thấy phần đầu. Trưởng lão Sārīputta cũng theo như thế. Bởi vì Trưởng lão dẫu đi gần nhau tiếng bước chân không gây trở ngại bởi vì ngài tiếng bước chân của ngài nhẹ nhàng (không phát ra âm thanh), nhưng ngài biết rằng “đây không phải thời điểm để nói lời chào hỏi”, nên mới không đi đến quá sát. Ngài nghĩ rằng rừng Andhavana là khu rừng rộng lớn, nếu ta không nhìn thấy ngài Puṇṇa ngồi ở chỗ nào, ta cần phải hô lớn lên, “Trưởng lão Puṇṇa, Puṇṇa”. Bởi thế để biết được vị trí mà vị ấy ngồi nên Trưởng lão mới ở không quá xa, đi vừa đủ nhìn thấy phần đầu. ngồi nghỉ trưa (divāvihāraṃ nisīdīt): ngồi nghỉ trưa.
tattha āyasmāpi puṇṇo udiccabrāhmaṇajacco, sāriputtattheropi. puṇṇattheropi suvaṇṇavaṇṇo, sāriputtattheropi. puṇṇattheropi arahattaphalasamāpattisamāpanno, sāriputtattheropi. puṇṇattheropi kappasatasahassaṃ abhinīhārasampanno, sāriputtattheropi kappasatasahassādhikaṃ ekamasaṅkhyeyyaṃ. puṇṇattheropi paṭisambhidāpatto mahākhīṇāsavo, sāriputtattheropi. iti ekaṃ kanakaguhaṃ paviṭṭhā dve sīhā viya, ekaṃ vijambhanabhūmiṃ otiṇṇā dve byagghā viya, ekaṃ supupphitasālavanaṃ paviṭṭhā dve chaddantanāgarājāno viya, ekaṃ simbalivanaṃ paviṭṭhā dve supaṇṇarājāno viya, ekaṃ naravāhanayānaṃ abhiruḷhā dve vessavaṇā viya, ekaṃ paṇḍukambalasilaṃ abhinisinnā dve sakkā viya, ekavimānabbhantaragatā dve hāritamahābrahmāno viya ca te dvepi brāhmaṇajaccā dvepi suvaṇṇavaṇṇā dvepi samāpattilābhino dvepi abhinīhārasampannā dvepi paṭisambhidāpattā mahākhīṇāsavā ekaṃ vanasaṇḍaṃ anupaviṭṭhā taṃ vanaṭṭhānaṃ sobhayiṃsu.
Cả hai ngài ấy, cả ngài Puṇṇa và Trưởng lão Sāriputta đều thuộc giai cấp Ba-la-môn cao quý. Cả ngài Puṇṇa và Trưởng lão Sāriputta đều có màu da như vàng rồng. Cả ngài Puṇṇa và Trưởng lão Sāriputta đều có sự thành tựu đầy đủ các thiền chứng tương ưng với với A-ra-hán Quả. Trưởng lão Puṇṇa đã thành tựu nguyện vọng trăm nghìn kiếp và cả Trưởng lão Sārīputta đã thành tựu nguyện vọng một a-tăng-kỳ và một trăm nghìn kiếp. Cả ngài Puṇṇa và Trưởng lão Sārīputta đều là bậc đại lậu tận đã đạt được bốn tuệ phân tích. Vì vậy, điều đó giống như hai chúa sư tử đi vào cùng một hang bằng vàng, như hai con mãnh hổ cùng bước xuống một vùng đất vươn vai duỗi chân, như hai chúa tượng Chaddanta cùng bước vào bên trong rừng cây Sāla đang nở rộ, giống như hai loài chim thần Supaṇṇa cùng bay vào bên trong rừng cây Simbali. Giống như hai Thiên vương Vessavaṇā ngự trên cùng một cỗ xe của thiên vương Kuvera (Tỳ-sa-môn). Giống như hai vị Thiên chủ Sakka cùng ngồi trên một Bảo Tọa Paṇḍukambala. Giống như hai vị Thiên vương Hāritamahābrahma cư trú trong cùng một Thiên cung. Cả hai vị đại Trưởng lão đều thuộc dòng dõi là Bà-la-môn, đều có màu da như vàng ròng, đều là bậc đại lậu tận, đã đạt được bốn tuệ phân tích, cả hai vị đã cùng đi sâu vào một khu rừng rậm, làm cho khu đó trở nên rực rỡ.
bhagavati no, āvuso, brahmacariyaṃ vussatīti, āvuso, kiṃ amhākaṃ bhagavato santike āyasmatā brahmacariyaṃ vussatīti? idaṃ āyasmā sāriputto tassa bhagavati brahmacariyavāsaṃ jānantopi kathāsamuṭṭhāpanatthaṃ pucchi. purimakathāya hi appatiṭṭhitāya pacchimakathā na jāyati, tasmā evaṃ pucchi. thero anujānanto “evamāvuso”ti āha. athassa pañhavissajjanaṃ sotukāmo āyasmā sāriputto “kiṃ nu kho āvuso sīlavisuddhatthaṃ bhagavati brahmacariyaṃ vussatī”ti paṭipāṭiyā satta visuddhiyo pucchi. tāsaṃ vitthārakathā visuddhimagge vuttā. āyasmā pana puṇṇo yasmā catupārisuddhisīlādīsu ṭhitassāpi brahmacariyavāso matthakaṃ na pāpuṇāti, tasmā, “no hidaṃ, āvuso”ti sabbaṃ paṭikkhipi.
Hiền giả, ngài thực hành đời sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn của tôi phải chăng? (bhagavati no, āvuso, brahmacariyaṃ vussatī): Ngài Trưởng lão Sārīputta dầu đã biết rằng ngài Puṇṇa Mantānīputta sống thực hành phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của đức Thế Tôn nhưng ngài vẫn hỏi để kiến lập vấn đề như vầy rằng: “Hiền giả, ngài sống thực hành phạm hạnh trong hội chúng của đức Thế Tôn của chúng tôi chăng?” Thật vậy, nếu như không có lời nói trước, thì lời nói sau cũng không thể xảy ra. Vì thế, trưởng lão mới hỏi như vậy. Trưởng lão cũng đồng ý theo “đúng vậy này hiền giả”. Khi đó, trưởng lão Sārīputta muốn nghe câu trả lời của ngài Puṇṇa nên mới hỏi về bảy sự thanh tịnh visuddhi theo tuần tự “này hiền giả, ngài sống thực hành phạm dưới sự chỉ dạy của đức Thế Tôn vì giới thanh tịnh chăng?” vấn đề đó được nói chi tiết trong bộ Thanh Tịnh Đạo. Vì thế, việc sống thực hành phạm hạnh của vị dầu đã được thiết lập trong tứ thanh tịnh giới v.v, vẫn chưa đạt đến tận cùng. Do đó, ngài Puṇṇa mới bác bỏ tất cả không phải như thế đâu thưa ngài.
kimatthaṃ carahāvusoti yadi sīlavisuddhiādīnaṃ atthāya brahmacariyaṃ na vussati, atha kimatthaṃ vussatīti pucchi. anupādāparinibbānatthaṃ kho, āvusoti ettha anupādāparinibbānaṃ nāma appaccayaparinibbānaṃ. dvedhā upādānāni gahaṇūpādānañca paccayūpādānañca. gahaṇūpādānaṃ nāma kāmupādānādikaṃ catubbidhaṃ, paccayūpādānaṃ nāma avijjāpaccayā saṅkhārāti evaṃ vuttapaccayā.
Hiền giả thực hành phạm hạnh…nhằm mục đích gì? (kimatthaṃ carahāvuso): Trưởng lão Sārīputta hỏi rằng: Nếu như ngài không sống thực hành phạm hạnh vì lợi ích của giới thanh tịnh v.v, vậy thì ngài sống thực hành phạm hạnh nhằm mục đích nào? Sự chấm dứt vòng sanh tử không có điều kiện (paccaya) gọi là Niết bàn không còn chấp thủ (anupādāparinibbānaṃ) trong cụm từ anupādāparinibbānatthaṃ kho, āvuso (này hiền giả vì mục đích đạt đến Niết bàn không còn chấp thủ). Có hai chấp thủ (upādāna) là gahaṇūpādāna (sự chấp thủ do nắm giữ) và paccayūpādāna (sự chấp thủ do điều kiện hay duyên). Sự chấp thủ có 4 là dục thủ v.v, gọi là gahaṇūpādāna. Như vậy, (các) duyên đã nói ‘các hành sanh khởi do vô minh làm duyên’ gọi là paccayūpādāna.
tattha gahaṇūpādānavādino ācariyā anupādāparinibbānanti catūsu upādānesu aññatarenāpi kañci dhammaṃ aggahetvā pavattaṃ arahattaphalaṃ anupādāparinibbānanti kathenti. tañhi na ca upādānasampayuttaṃ hutvā kañci dhammaṃ upādiyati, kilesānañca parinibbutante jātattā parinibbānanti vuccati. paccayūpādānavādino pana anupādāparinibbānanti appaccayaparinibbānaṃ. paccayavasena anuppannaṃ asaṅkhataṃ amatadhātumeva anupādāparinibbānanti kathenti. ayaṃ anto, ayaṃ koṭi, ayaṃ niṭṭhā. appaccayaparinibbānaṃ pattassa hi brahmacariyavāso matthakaṃ patto nāma hoti, tasmā thero “anupādāparinibbānatthan”ti āha. atha naṃ anuyuñjanto āyasmā sāriputto “kiṃ nu kho, āvuso, sīlavisuddhi anupādāparinibbānan”ti puna pucchaṃ ārabhi.
Trong 2 loại chấp thủ đó các vị thầy nắm gahaṇūpādāna để gọi vị A-ra-hán Quả đã không chấp thủ bất cứ Pháp gì trong bất kỳ một trong bốn sự chấp thủ gọi là vô thủ trước Niết bàn. Thật vậy khi đã là bậc A-ra-hán Quả không liện hệ đến bất kỳ sự chấp thủ, nắm lấy bất cứ Pháp nào và ngài gọi là sự viên tịch bởi vì khởi lên trong tận cùng của kilesaparinibbāna[1] (phiền não Niết bàn). Còn một số vị thầy nắm giữ paccayūpādāna gọi sự viên tịch Niết bàn không có điều kiện (paccaya) không sanh khởi bởi (các) duyên, không bị tạo tác chính là amatadhātu (vô sanh bất diệt giới) gọi là anupādāparinibbāna (Niết bàn không còn chấp thủ). Đây là tận cùng, là điểm chấm dứt, là nơi kết thúc. Việc sống kết thúc phạm hạnh của người đã chứng đạt vô điều kiện Niết bàn xem như đã đạt đến tận cùng, vì thế Trưởng lão đã nói là “anupādāparinibbāna (Niết bàn không còn chấp thủ)”. Sau đó, ngài Sāriputta vị đang nỗ lực liên tục đã bắt đầu hỏi “Thế nào nhỉ? này hiền giả, giới thanh tịnh là Niết bàn không còn chấp thủ?”
- theropi sabbaparivattesu tatheva paṭikkhipitvā pariyosāne dosaṃ dassento sīlavisuddhiṃ ce, āvusotiādimāha. tattha paññapeyyāti yadi paññapeyya. saupādānaṃyeva samānaṃ anupādāparinibbānaṃ paññapeyyāti saṅgahaṇadhammameva niggahaṇadhammaṃ sappaccayadhammameva appaccayadhammaṃ saṅkhatadhammameva asaṅkhatadhammanti paññapeyyāti attho.
258. Còn phía Trưởng lão bác bỏ tất cả lời đó không phải như thế khi đưa ra sự không chính xác vào lúc cuối cùng nên mới nói lời như sau: “này hiền giả, nếu giới thanh tịnh…v.v.” Ở đó, paññapeyya (nên tuyên bố): nếu được quy định. Ngài cũng tuyên bố Pháp có sự chấp thủ là đồng đẳng với Niết bàn không còn chấp thủ: có nghĩa là nên quy định riêng saṅgahaṇa-dhamma (nhiếp pháp) là niggahaṇa-dhamma (bất nhiếp pháp), nên quy định riêng sappaccaya-dhamma (pháp hữu duyên) là appaccayadhamma (Pháp vô duyên), nên quy định riêng saṅkhatadhamma (Pháp hữu vi) là asaṅkhatadhamma (Pháp vô vi),
ñāṇadassanavisuddhiyaṃ pana sappaccayadhammameva appaccayadhammaṃ saṅkhatadhammameva asaṅkhatadhammanti paññapeyyāti ayameva attho gahetabbo. puthujjano hi, āvusoti ettha vaṭṭānugato lokiyabālaputhujjano daṭṭhabbo. so hi catupārisuddhisīlamattassāpi abhāvato sabbaso aññatra imehi dhammehi. tena hīti yena kāraṇena ekacce paṇḍitā upamāya atthaṃ jānanti, tena kāraṇena upamaṃ te karissāmīti attho.
Nên nắm lấy ý nghĩa riêng bằng trí và sự nhận thức thanh tịnh như vầy – nên quy định riêng Pháp hữu duyên là Pháp vô duyên, nên quy định riêng Pháp hữu vi là Pháp vô vi. Nên thấy rằng phàm nhân thiếu trí ở thế gian đi vào vòng luân hồi trong cụm từ “Phàm nhân không có những Pháp này”. Thật vậy, phàm nhân ấy từ bỏ những Pháp này bằng tất cả mọi cách dầu chỉ là bốn thanh tịnh giới cũng không có. Nếu như vậy: một số bậc trí biết được ý nghĩa bằng sự so sánh với lý do nào, với nguyên nhân nào tôi mới ví dụ cho Ngài.
Sattarathavinītavaṇṇanā
- satta rathavinītānīti vinītāssājāniyayutte satta rathe. yāvadeva, cittavisuddhatthāti, āvuso, ayaṃ sīlavisuddhi nāma, yāvadeva, cittavisuddhatthā. cittavisuddhatthāti nissakkavacanametaṃ. ayaṃ panettha attho, yāvadeva, cittavisuddhisaṅkhātā atthā, tāva ayaṃ sīlavisuddhi nāma icchitabbā. yā pana ayaṃ cittavisuddhi, esā sīlavisuddhiyā attho, ayaṃ koṭi, idaṃ pariyosānaṃ, cittavisuddhiyaṃ ṭhitassa hi sīlavisuddhikiccaṃ kataṃ nāma hotīti. esa nayo sabbapadesu.
Bảy trạm xe đã được sắp đặt luân phiên nhau: bảy cỗ xe sắp xếp luân phiên được buộc ách vào những con ngựa thuần chủng đã được huấn luyện. Lợi ích cho tâm thanh tịnh: này hiền giả, gọi là giới thanh tịnh này, chỉ để, vì lợi ích tâm thanh tịnh. Vì mục đích tâm thanh tịnh: đây là xuất xứ cách. Cũng trong câu này có ý nghĩa như sau: vì lợi ích cho là tâm thanh tịnh chừng nào, , được gọi là giới thanh tịnh cũng nên ước muốn chừng ấy. Tâm thanh tịnh này đây là lợi ích của giới thanh tịnh, đây là chỗ tận cùng, đây là điểm kết thúc, thật vậy vị đã vững trú trong tâm thanh tịnh được gọi là làm phận sự của giới thanh tịnh. Trong tất cả các câu cũng theo phương thức này.
idaṃ panettha opammasaṃsandanaṃ — rājā pasenadi kosalo viya hi jarāmaraṇabhīruko yogāvacaro daṭṭhabbo. sāvatthinagaraṃ viya sakkāyanagaraṃ, sāketanagaraṃ viya nibbānanagaraṃ, rañño sākete vaḍḍhiāvahassa sīghaṃ gantvā pāpuṇitabbassa accāyikassa kiccassa uppādakālo viya yogino anabhisametānaṃ catunnaṃ ariyasaccānaṃ abhisamayakiccassa uppādakālo. satta rathavinītāni viya satta visuddhiyo, paṭhamaṃ rathavinītaṃ āruḷhakālo viya sīlavisuddhiyaṃ ṭhitakālo, paṭhamarathavinītādīhi dutiyādīni āruḷhakālo viya sīlavisuddhiādīhi cittavisuddhiādīsu ṭhitakālo. sattamena rathavinītena sākete antepuradvāre oruyha uparipāsāde ñātimittagaṇaparivutassa surasabhojanaparibhogakālo viya yogino ñāṇadassanavisuddhiyā sabbakilese khepetvā dhammavarapāsādaṃ āruyha paropaṇṇāsakusaladhammaparivārassa nibbānārammaṇaṃ phalasamāpattiṃ appetvā nirodhasayane nisinnassa lokuttarasukhānubhavanakālo daṭṭhabbo.
Trong câu này được so sánh với ví dụ minh họa như sau – hành giả kinh sợ trước sự già và sự chết nên thấy giống như đức Vua Pasenadi Kosalo; Thành phố sắc thân này giống như Thành Sāvatthi; Thành phố Niết bàn nên thấy giống như Thành phố Sāketa, thời gian hành giả được sanh ra có phận sự cần phải làm vì mục đích chứng ngộ Tứ Thánh Đế điều vẫn chưa được biết nên được xem giống như thời gian đức Vua mang lại sự thịnh vượng, phận sự khẩn cấp mà cần vội vàng đi đến Thành phố Sāketa, bảy sự thanh tịnh nên xem như bảy cỗ xe được sắp xếp luân phiên; thời gian đã vững trú trong giới thanh tịnh, nên xem như thời gian bước lên cỗ xe đầu tiên; thời gian đã vững trú trong tâm thanh tịnh v.v, bởi giới thanh tịnh v.v, nên xem như thời gian bước lên cỗ xe thứ hai với cỗ xe thứ nhất v.v; thời gian hành giả làm cho tất cả ô nhiễm bị cạn kiệt bởi trí và sự nhận thức thanh tịnh rồi bước lên tòa lâu đài là Pháp tối thượng, người có 50 thiện Pháp làm tùy tùng (đi theo), đã nhập sự thể nhập Thánh Quả có Niết bàn làm đối tượng rồi ngồi xuống trong chỗ nằm là sự diệt, nên được xem như thời gian thọ dụng các món ăn ngon thượng vị của đức Vua, ngài đi xuống bên trong cổng thành Sāketa với cỗ xe thứ bảy, vây quanh bởi thân bằng quyến thuộc ở trên tòa lâu đài.
iti āyasmantaṃ puṇṇaṃ dasakathāvatthulābhiṃ dhammasenāpatisāriputtatthero satta visuddhiyo pucchi. āyasmā puṇṇo dasa kathāvatthūni vissajjesi. evaṃ pucchanto pana dhammasenāpati kiṃ jānitvā pucchi, udāhu ajānitvā? titthakusalo vā pana hutvā visayasmiṃ pucchi, udāhu atitthakusalo hutvā avisayasmiṃ? puṇṇattheropi ca kiṃ jānitvā vissajjesi, udāhu ajānitvā? titthakusalo vā pana hutvā visayasmiṃ vissajjesi, udāhu atitthakusalo hutvā avisayeti? jānitvā titthakusalo hutvā visaye pucchīti hi vadamāno dhammasenāpatiṃyeva vadeyya. jānitvā titthakusalo hutvā visaye vissajjesīti vadamāno puṇṇattheraṃyeva vadeyya. yañhi visuddhīsu saṃkhittaṃ, taṃ kathāvatthūsu vitthiṇṇaṃ. yaṃ kathāvatthūsu saṃkhittaṃ, taṃ visuddhīsu vitthiṇṇaṃ. tadaminā nayena veditabbaṃ.
Vị Tướng Quân Chánh Pháp Sārīputta hỏi đến sự thanh tịnh thứ 7 cùng ngài Puṇṇa Mantānīputta vị đạt được 10 kathāvatthu bằng cách này. Ngài Puṇṇa Mantānīputta cũng đã trả lời 10 kathāvatthu. Hơn nữa, vị Tướng Quân Chánh Pháp khi hỏi như vậy do đã biết hoặc là chưa biết? hoặc ngài là vị thiện xảo trong Giáo lý mới hỏi visaya (trong giới vức của kiến thức) hoặc không thiện xảo trong Giáo lý mới hỏi avisaya (ra ngoài giới vức của kiến thức); phía ngài Puṇṇa trả lời đã biết hoặc là không biết, hoặc ngài là vị thiện xảo trong Giáo lý mới giải đáp trong visaya (trong giới vức của kiến thức), hoặc không thiện xảo trong Giáo lý mới giải đáp trong avisaya (ra ngoài giới vức của kiến thức). Bởi vị Tướng Quân Chánh Pháp Sārīputta đã biết là vị thiện xảo trong Giáo lý mới hỏi visaya, vì thế ngài Puṇṇa khi nói mới nói cùng vị Tướng Quân Chánh Pháp bấy nhiêu, ngài Puññā đã biết, là vị thiện xảo trong Giáo lý mới giải quyết trong visaya bởi thế vị Tướng Quân Chánh Pháp khi nói nên nói cùng ngài Puṇṇa mà thôi. Điều mà Ngài đã nói trong các sự thanh tịnh, ngài cũng đã giải thích chi tiết trong toàn bộ kathāvatthu; điều mà ngài đặt trong các kathāvatthu, ngài cũng đã giải thích chi tiết trong các sự thanh tịnh, điều đó nên biết theo cách như vậy.
visuddhīsu hi ekā sīlavisuddhi cattāri kathāvatthūni hutvā āgatā appicchakathā santuṭṭhikathā asaṃsaggakathā, sīlakathāti. ekā cittavisuddhi tīṇi kathāvatthūni hutvā āgatā — pavivekakathā, vīriyārambhakathā, samādhikathāti, evaṃ tāva yaṃ visuddhīsu saṃkhittaṃ, taṃ kathāvatthūsu vitthiṇṇaṃ. kathāvatthūsu pana ekā paññākathā pañca visuddhiyo hutvā āgatā — diṭṭhivisuddhi, kaṅkhāvitaraṇavisuddhi, maggāmaggañāṇadassanavisuddhi, paṭipadāñāṇadassanavisuddhi, ñāṇadassanavisuddhīti, evaṃ yaṃ kathāvatthūsu saṃkhittaṃ, taṃ visuddhīsu vitthiṇṇaṃ. tasmā sāriputtatthero satta visuddhiyo pucchanto na aññaṃ pucchi, dasa kathāvatthūniyeva pucchi. puṇṇattheropi satta visuddhiyo vissajjento na aññaṃ vissajjesi, dasa kathāvatthūniyeva vissajjesīti. iti ubhopete jānitvā titthakusalā hutvā visayeva pañhaṃ pucchiṃsu ceva vissajjesuṃ cāti veditabbo.
Quả thật trong các sự thanh tịnh duy nhất giới thanh được chia thành 4 loại kathāvatthu – lời nói về ít ham muốn, lời nói về sự tri túc, lời nói về sự không kết giao, lời nói về giới. Duy nhất tâm thanh tịnh được chia thành 3 loại – lời nói về sự viễn ly, lời nói về việc khởi sự tinh tấn, lời nói về định. Điều mà ngài đã nói vắn tắt trong các sự thanh tịnh, ngài cũng giải thích chi tiết trong các kathāvatthu. Lại nữa trong kathāvatthu duy nhất lời nói về tuệ được chia thành năm sự thanh tịnh – kiến thanh tịnh, đoạn nghi thanh tịnh, đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh, hành lộ tri kiến thanh tịnh, và tri kiến thanh tịnh. Điều mà ngài đã đặt trong kathāvatthu, ngài đã giảng giải chi tiết trong các sự thanh tịnh. Vì thế Trưởng lão Sārīputta khi hỏi về 7 sự thanh tịnh, không hỏi về vấn đề khác, chỉ hỏi riêng 10 kathāvatthu mà thôi. Còn Trưởng lão Puṇṇa khi đáp về 7 sự thanh tịnh cũng không trả lời những vấn đề khác, chỉ giải đáp riêng 10 kathāvatthu. Cả 2 vị đó đã biết rồi, là người thiện xảo trong Giáo lý, nên biết rằng hỏi và đáp vấn đề trong visaya mà thôi.
- ko nāmo āyasmāti na thero tassa nāmaṃ na jānāti. jānantoyeva pana sammodituṃ labhissāmīti pucchi. kathañca panāyasmantanti idaṃ pana thero sammodamāno āha. mantāṇiputtoti mantāṇiyā brāhmaṇiyā putto. yathā tanti ettha tanti nipātamattaṃ, yathā sutavatā sāvakena byākātabbā, evameva byākatāti ayamettha saṅkhepattho. anumassa anumassāti dasa kathāvatthūni ogāhetvā anupavisitvā.
260. Này hiền giả ngài tên gì? Trưởng lão không thể không biết tên của ngài, mặc dù đã biết cũng hỏi nhằm mang lại sự hân hoan. Hơn nữa trưởng lão trong lúc hân hoan đã nói lời này “bạn đồng phạm hạnh biết ngài như thế nào”. Mantāṇiputto là con trai của nữ Bà-la-môn Mantāṇī. Taṃ trong từ yathātaṃ là phân từ. Ý nghĩa tóm lược trong cầu này có như thế này ngài đã tiên đoán trước rồi giống như Trưởng lão Sāriputta vị đã nghe lời tiên đoán. Anumassa anumassa (chọn lựa những ưu điểm) là vẫn xác định sâu sắc 10 kathāvatthu (để đáp).
celaṇḍupakenāti ettha celaṃ vuccati vatthaṃ, aṇḍupakaṃ cumbaṭakaṃ. vatthacumbaṭakaṃ sīse katvā āyasmantaṃ tattha nisīdāpetvā pariharantāpi sabrahmacārī dassanāya labheyyuṃ, evaṃ laddhadassanampi tesaṃ lābhāyevāti aṭṭhānaparikappena abhiṇhadassanassa upāyaṃ dassesi. evaṃ apariharantena hi pañhaṃ vā pucchitukāmena dhammaṃ vā sotukāmena “thero kattha ṭhito kattha nisinno”ti pariyesantena caritabbaṃ hoti. evaṃ pariharantā pana icchiticchitakkhaṇeyeva sīsato oropetvā mahārahe āsane nisīdāpetvā sakkā honti pañhaṃ vā pucchituṃ dhammaṃ vā sotuṃ. iti aṭṭhānaparikappena abhiṇhadassanassa upāyaṃ dassesi.
Tấm vải gọi là cela trong từ một celaṇḍupakena (với một cuộn vải làm khăn) này. Aṇḍupaka: vải đội đầu. Nếu như các bạn đồng phạm hạnh cho ngài ngồi ở chỗ đó, (ngài sẽ) chú ý tấm vải trên đầu, có thể được nhìn thấy, chỉ bằng việc nhìn thấy như vậy cũng có được sư lợi ích cho các bạn đồng phạm hạnh, vì thế mà Trưởng lão Sārīputta chỉ ra phương pháp để các bạn đồng phạm hạnh luôn luôn nhìn thấy vị ấy bằng việc xác định không phải vị trí, nhưng các bạn đồng phạm hạnh không phải thực hành như vậy, cần hỏi vấn đề hay cần thiết nghe Pháp thì phải tự mình đi tìm “Trưởng lão ở đâu? Trưởng lão ngồi ở chỗ nào”. Vị thực hành như thế (theo trường hợp thứ nhất) có thể đỡ ngài xuống từ trên đầu, đặt ngài ngồi trên toạ cụ thích hợp, rồi hỏi vấn đề hoặc nghe Pháp vào thời điểm cần thiết, ngài Sārīputta mới chỉ ra phương pháp để luôn luôn nhìn thấy bằng cách so sánh những điều không thể xảy ra được.
sāriputtoti ca pana manti sāriyā brāhmaṇiyā puttoti ca pana evaṃ maṃ sabrahmacārī jānanti. satthukappenāti satthusadisena. iti ekapadeneva āyasmā puṇṇo sāriputtattheraṃ candamaṇḍalaṃ āhacca ṭhapento viya ukkhipi. therassa hi imasmiṃ ṭhāne ekantadhammakathikabhāvo pākaṭo ahosi. amaccañhi purohitaṃ mahantoti vadamāno rājasadisoti vadeyya, goṇaṃ hatthippamāṇoti, vāpiṃ samuddappamāṇoti, ālokaṃ candimasūriyālokappamāṇoti, ito paraṃ etesaṃ mahantabhāvakathā nāma natthi. sāvakampi mahāti vadanto satthupaṭibhāgoti vadeyya, ito paraṃ tassa mahantabhāvakathā nāma natthi. iccāyasmā puṇṇo ekapadeneva theraṃ candamaṇḍalaṃ āhacca ṭhapento viya ukkhipi.
Nhưng rồi các bạn đồng phạm hạnh biết tôi là Sārīputta (sāriputtoti ca pana maṃ): và rồi các bạn đồng phạm hạnh biết tôi như vậy là con trai của nữ Bà-la-môn gọi là Sārī. satthukappena: (đức hạnh) gần giống bậc Đạo Sư. Ngài Puṇṇa nâng Trưởng lão Sārīputta tựa như đưa lên bên cạnh mặt trăng tròn chỉ với một câu duy nhất theo cách này. Thât vậy, bản thể vị Pháp sư đơn thuần đã xuất hiện ở đây, khi gọi vị cận thần tán dương là vị đáng kính cũng có thể gọi là giống như đức Vua, gọi một con bò có kích thước bằng một con voi, gọi đầm lầy có kích thước bằng đại dương, gọi ánh sáng có độ sáng bằng ánh sáng mặt trăng và mặt trời. Từ đó, không có lời nào để diễn tả tính chất to lớn này được. Khi gọi các vị Thánh Thinh Văn tán thán là to lớn (có suy nghĩ rằng) “đức hạnh bằng bậc Đạo Sư”, bởi vì Trưởng lão không lớn hơn nữa. Ngài Puṇṇa nâng Trưởng lão giống như đặt lên bên cạnh mặt trăng tròn chỉ với một câu duy nhất theo cách này.
ettakampi no nappaṭibhāseyyāti paṭisambhidāpattassa appaṭibhānaṃ nāma natthi. yā panāyaṃ upamā āhaṭā, taṃ na āhareyyāma, atthameva katheyyāma. upamā hi ajānantānaṃ āharīyatīti ayamettha adhippāyo. aṭṭhakathāyaṃ pana idampi paṭikkhipitvā upamā nāma buddhānampi santike āharīyati, theraṃ panesa apacāyamāno evamāhāti.
Không cần nói nhiều (ettakampi no nappaṭibhāseyya) này có lời giải thích rằng đối với Trưởng lão không phóng dật, vị đã chứng đạt các tuệ phân tích, không có sự sắc sảo nào đối với vị Trưởng lão, vị không xao lãng mà đắc chứng các tuệ phân tích, ví dụ này thế nào ngài đã đem lại rồi, không cần lấy thêm ví dụ đó, chỉ cần nói ý nghĩa, việc lấy ví dụ chỉ sử dụng đối với người không biết, nhưng trong aṭṭhakathā sau khi bác bỏ điều này gọi là ví dụ chính chư Phật đem đến sử dụng, nhưng ngài Puṇṇa tôn kính đến Trưởng lão mới nói như vậy.
anumassa anumassa pucchitāti dasa kathāvatthūni ogāhetvā ogāhetvā pucchitā. kiṃ pana pañhassa pucchanaṃ bhāriyaṃ, udāhu vissajjananti? uggahetvā pucchanaṃ no bhāriyaṃ, vissajjanaṃ pana bhāriyaṃ. sahetukaṃ vā sakāraṇaṃ katvā pucchanampi vissajjanampi bhāriyameva. samanumodiṃsūti samacittā hutvā anumodiṃsu. iti yathānusandhināva desanā niṭṭhitāti.
anumassa anumassa pucchitā (chọn lựa những ưu điểm để hỏi) là vẫn xác định sâu sắc lấy 10 kathāvatthu để hỏi. Việc hỏi hoặc giải đáp vấn đề là trọng yếu. Việc học tập rồi hỏi không nặng, còn đối với việc giải đáp thì nặng nề, cả việc hỏi lẫn việc giải đáp đều có nguyên nhân, có lý do đều nặng nề cả. Samanumodiṃsu (tùy hỷ): có tâm cùng nhau tùy hỷ. Lời thuyết giảng kết thúc theo tuần tự liên kết như thế.
Kinh Trạm Xe Kết Thúc
[1] Kilesaparinibbāna: phiền não đã bị diệt đoạn tuyệt rồi sẽ không còn phát sinh bất cứ lúc nào và bất cứ kiếp nào nữa (đối với bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai và bậc Thánh Bất Lai)