Kinh số 23 – Giải Thích Kinh Gò Mối

(Vammikasuttavaṇṇanā)

Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Gò Mối

  1. evaṃ me sutanti vammikasuttaṃ. tattha āyasmāti piyavacanametaṃ. kumārakassapoti tassa nāmaṃ. kumārakāle pabbajitattā pana bhagavatā, “kassapaṃ pakkosatha, idaṃ phalaṃ vā khādanīyaṃ vā kassapassa dethā”ti vutte, katarassa kassapassāti kumārakassapassāti evaṃ gahitanāmattā tato paṭṭhāya vuḍḍhakālepi “kumārakassapo” tveva vuccati. apica raññā posāvanikaputtattāpi taṃ “kumārakassapo”ti sañjāniṃsu. ayaṃ panassa pubbayogato paṭṭhāya āvibhāvakathā –

[249] Kinh Gò Mối được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, Āyasmā này là từ nói đến sự dễ thương. Kumārakassapa là tên của Ngài. Ngài xuất gia từ khi còn bé trong khi đức Thế Tôn nói rằng hãy gọi Kassapa đến, hãy cho trái cây và bánh ngọt đến Kassapa bởi vì các Tỳ khưu thắc mắc không biết Kassapa vị nào nên đặt (vị ấy) là Kumārakassapa, kể từ đó trở đi cho đến lúc về già vẫn gọi Ngài là Kumārakassapa. Và hơn nữa mọi người có thể nhận biết tên Ngài là Kumārakassapa bởi vì vị ấy là con nuôi của đức Vua Pasenadikosala. (Tôi) sẽ thuật lại việc tạo phước trong kiếp sống quá khứ của Ngài như sau:

thero kira padumuttarassa bhagavato kāle seṭṭhiputto ahosi. athekadivasaṃ bhagavantaṃ citrakathiṃ ekaṃ attano sāvakaṃ ṭhānantare ṭhapentaṃ disvā bhagavato sattāhaṃ dānaṃ datvā, “ahampi bhagavā anāgate ekassa buddhassa ayaṃ thero viya citrakathī sāvako bhaveyyan”ti patthanaṃ katvā puññāni karonto kassapassa bhagavato sāsane pabbajitvā visesaṃ nibbattetuṃ nāsakkhi.

Kể rằng Trưởng lão là con trai gia đình triệu phú vào thời kỳ đức Phật có hồng danh Padumuttara, một ngày nọ sau khi Trưởng lão nhìn thấy đức Phật đang thiết lập cho một vị Thinh Văn có khả năng thuyết giảng Giáo Pháp hùng biện (sinh động và thuyết phục) vào vị thế tối thắng về vị có khả năng thuyết Pháp hùng biện, nên đã cúng dường đến đức Thế Tôn suốt bảy ngày rồi thực hành sự mong muốn như sau: “Kính bạch đức Thế Tôn nguyện cho con được trở thành vị Thinh Văn có khả năng thuyết Pháp hùng biện, giống như vị Tỳ khưu này của một vị Phật trong thời vị lai.” tích lũy vô số phước thiện (cuối cùng) vị ấy đã được xuất gia trong Giáo Pháp của đức Phật có hồng danh Kassapa (tuy nhiên) vị ấy không thể khiến sanh khởi pháp cao thượng.

tadā kira parinibbutassa bhagavato sāsane osakkante pañca bhikkhū nisseṇiṃ bandhitvā pabbataṃ abhiruyha samaṇadhammaṃ akaṃsu. saṅghatthero tatiyadivase arahattaṃ patto. anuthero catutthadivase anāgāmī ahosi. itare tayo visesaṃ nibbattetuṃ asakkontā devaloke nibbattiṃsu. tesaṃ ekaṃ buddhantaraṃ devesu ca manussesu ca sampattiṃ anubhontānaṃ eko takkasilāyaṃ rājakule nibbattitvā pukkusāti nāma rājā hutvā bhagavantaṃ uddissa pabbajitvā rājagahaṃ gacchanto kumbhakārasālāyaṃ bhagavato dhammadesanaṃ sutvā anāgāmiphalaṃ patto. eko ekasmiṃ samuddapaṭṭane kulaghare nibbattitvā nāvaṃ āruyha bhinnanāvo dārucīrāni nivāsetvā lābhasampattiṃ patto, “ahaṃ arahā”ti cittaṃ uppādetvā, “na tvaṃ arahā, gaccha satthāraṃ pañhaṃ pucchā”ti atthakāmāya devatāya codito tathā katvā arahattaphalaṃ patto.

Lúc bấy giớ, sau khi đức Thế Tôn nhập diệt Niết bàn thì Giáo Pháp của Ngài cũng bị suy thoái, năm vị Tỳ khưu đã buộc thang leo lên ngọn núi để thực hành Sa-môn Pháp. Trưởng lão Saṅgha chứng đắc A-ra-hán vào ngày thứ ba, Trưởng lão Anu trở thành vị Thánh Bất Lai vào ngày thứ tư. Còn ba vị Tỳ khưu còn lại không thể khiến cho Pháp cao thượng sanh khởi, (sau khi thân hoại mạng chung) đã hóa sanh về cõi trời. Các vị ấy thọ hưởng sự thành tựu ở cõi trời và cõi người trong suốt một khoảng thời gian giữa hai vị Phật, một vị trong số đó đã hạ sanh trong dòng dõi Hoàng tộc ở thành Takkasilā, và trở thành vị Vua có hồng danh Pukkusāti, vị ấy đã xuất gia có liên quan đến đức Thế Tôn đi đến thành Rājagaha, đã lắng nghe sự thuyết giảng Giáo Pháp của đức Thế Tôn ở nhà người thọ gốm đã chứng đắc Bất Lai Thánh Quả. Còn một vị đã hạ sanh vào gia đình gần một bến tàu, buôn bán trên tàu, thuyền bị chìm (vị ấy) mặc vỏ cây thay thế cho vải vóc, đã đạt được lợi lộc và tài sản, vị ấy đã khởi lên suy nghĩ rằng “ta là bậc A-ra-hán”, đã bị quở trách nhăc nhở bởi một vị Thiên “Ngài không phải là bậc A-ra-hán đâu, hãy đi hỏi vấn đề nơi bậc Đạo Sư.” Vị ấy đã thực hành theo lời nhắc nhở của vị Thiên rồi chứng đắc A-ra-hán Quả.

eko rājagahe ekissā kuladārikāya kucchimhi uppanno. sā ca paṭhamaṃ mātāpitaro yācitvā pabbajjaṃ alabhamānā kulagharaṃ gatā gabbhasaṇṭhitampi ajānantī sāmikaṃ ārādhetvā tena anuññātā bhikkhunīsu pabbajitā. tassā gabbhininimittaṃ disvā bhikkhuniyo devadattaṃ pucchiṃsu, so “assamaṇī”ti āha. dasabalaṃ pucchiṃsu, satthā upālittheraṃ paṭicchāpesi. thero sāvatthinagaravāsīni kulāni visākhañca upāsikaṃ pakkosāpetvā sodhento, — “pure laddho gabbho, pabbajjā arogā”ti āha. satthā “suvinicchitaṃ adhikaraṇan”ti therassa sādhukāraṃ adāsi. sā bhikkhunī suvaṇṇabimbasadisaṃ puttaṃ vijāyi, taṃ gahetvā rājā pasenadi kosalo posāpesi. “kassapo”ti cassa nāmaṃ katvā aparabhāge alaṅkaritvā satthu santikaṃ netvā pabbājesi. iti rañño posāvanikaputtattāpi taṃ “kumārakassapo”ti sañjāniṃsūti.

Một vị đã hạ sạnh vào bào thai người phụ nữ của gia đình con một trong thành Rājagaha. Nang đã van xin cha mẹ xuất (để xuất gia) khi không được xuất gia nàng đã kết hôn, không biết rằng bản thân mình đã mang thai, nàng cầu xin chồng mình, chồng nàng đã đồng ý cho nàng xuất gia trong hội chúng Tỳ khưu ni. Chư tỳ khưu ni thấy nàng mang thai đã trình sự việc và hỏi Tỳ khưu Devadatta. Tỳ khưu Devadatta đã đáp rằng nàng đã không còn là Sa-môn nữa. Chư Tỳ khưu ni mới đi hỏi đấng Thập Lực, bậc Đạo Sư giao sự việc cho Tỳ khưu Upālī cân nhắc xem xét, Trưởng lão Upālī cho mời gia đình, dân chúng thành Sāvatthi và nữ cư sĩ Visākhā trợ giúp làm sáng tỏ vấn đề (khi đã được đáp án) đã nói rằng vị Tỳ khưu ni ấy “đã mang thái trước khi thọ giới, phẩm hạnh xuất gia không bị hư hoại.” Bậc Đạo Sư đã ban lời tốt lành thay đối với Trưởng lão rằng “Upālī đã dàn xếp giải quyết vấn đề một cách tốt đẹp.” Vị Tỳ khưu đã hạ sanh một đứa bé trai có màu da như vàng rồng. Đức Vua Pasenadikosalā đã nhận nuôi dưỡng đứa bé đó, đã đặt tên cho đứa ấy là Kassapa, kế đến (vị ấy) đã được trang điểm (như một vị Hoàng tử) đưa đến hội chúng của bậc Đạo Sư để xuất gia. Vì thế, mọi người mới nhận biết tên của Ngài là “Kumārakassapa” bởi vì Ngài là con nuôi của đức Vua.

andhavaneti evaṃnāmake vane. taṃ kira vanaṃ dvinnaṃ buddhānaṃ kāle avijahitanāmaṃ andhavanaṃtveva paññāyati. tatrāyaṃ paññattivibhāvanā — appāyukabuddhānañhi sarīradhātu na ekagghanā hoti. adhiṭṭhānānubhāvena vippakiriyati. teneva amhākampi bhagavā, — “ahaṃ na ciraṭṭhitiko, appakehi sattehi ahaṃ diṭṭho, yehi na diṭṭho, teva bahutarā, te me dhātuyo ādāya tattha tattha pūjentā saggaparāyaṇā bhavissantī”ti parinibbānakāle, “attano sarīraṃ vippakiriyatū”ti adhiṭṭhāsi. dīghāyukabuddhānaṃ pana suvaṇṇakkhandho viya ekagghanaṃ dhātusarīraṃ tiṭṭhati.

Andhavana: Khu rừng có tên như vậy. Họ nói rằng khu rừng đó có tên như vậy liên tiếp nhau trong thời kỳ của cả hai vị Phật. Trong sự kiện đó tôi xin kể lại lý do khu rừng đó có tên như vậy. Sự thật rằng di thể xá-lợi của chư Phật có tuổi thọ ngắn không hợp thành một khối rắn chắc, được phân tán bởi oai lực của việc phát nguyện. Bởi thế đức Thế Tôn của chúng ta phát nguyện rằng – “Ta duy trì sự sống không lâu, chúng sanh được gặp Ta rất ít, còn phần lớn không thấy Ta, chúng sanh đó đã chấp lấy sắc thân của Ta lễ bái cúng dường ngay tại chỗ đó, họ sẽ được sanh về cõi trời, cho nên trong thời gian viên tịch Niết bàn, Ngài đã chú nguyện rằng “(nguyện cho) xá-lợi của ta hãy được phân tán”. Còn di thể xá-lợi của chư Phật có tuổi thọ dài hợp thành một khối giống như khối vàng.

kassapassāpi bhagavato tatheva aṭṭhāsi. tato mahājanā sannipatitvā, “dhātuyo ekagghanā na sakkā viyojetuṃ, kiṃ karissāmā”ti sammantayitvā ekagghanameva cetiyaṃ karissāma, kittakaṃ pana hotu tanti āhaṃsu. eke sattayojaniyanti āhaṃsu. etaṃ atimahantaṃ, anāgate jaggituṃ na sakkā, chayojanaṃ hotu, pañcayojanaṃ… catuyojanaṃ… tiyojanaṃ… dviyojanaṃ… ekayojanaṃ hotūti sanniṭṭhānaṃ katvā iṭṭhakā kīdisā hontūti bāhirante iṭṭhakā rattasuvaṇṇamayā ekagghanā satasahassagghanikā hontu, abbhantarimante paññāsasahassagghanikā. haritālamanosilāhi mattikākiccaṃ kayiratu, telena udakakiccanti niṭṭhaṃ gantvā cattāri mukhāni catudhā vibhajiṃsu. rājā ekaṃ mukhaṃ gaṇhi, rājaputto pathavindarakumāro ekaṃ, amaccānaṃ jeṭṭhako hutvā senāpati ekaṃ, janapadānaṃ jeṭṭhako hutvā seṭṭhi ekaṃ.

Di thể xá-lợi của đức Thế Tôn hồng danh Kassapa cũng được thiết lập như thế. Từ đó đại chúng đã tụ hội lại, “ta không thể tách xá-lợi thành một khối giống nhau được, chúng ta sẽ làm như thế nào?” mới hội ý cùng nhau sẽ thực hiện chỉ một khối xá-lợi đó thành bảo tháp, có kích thước bao nhiêu. Một nhóm nói rằng lấy bảy do-tuần, (cuối cùng bàn bạc lại) bảy do-tuần quá lớn, không ai có thể trông nom được trong tương lai, lấy sáu do-tuần…năm do-tuần…bốn do-tuần…ba do-tuần… hai do-tuần…một do-tuần bàn bạc với nhau sẽ sử dụng gạch kiểu nào? đồng ý rằng bên ngoài sử dụng gạch khối được làm bằng vàng đồng có giá trị một trăm nghìn, bên trong có giá năm mươi nghìn. Được thực hiện việc đắp đất bằng đá vàng và đá đỏ cùng với việc tô bằng dầu ăn trộn lẫn thay thế nước,  có bốn cửa được chia thành bốn phần. Đức Vua tiếp nhận một cửa, Hoàng tử Pathavindarakumāro con của Vua một phần, các quan đại thần một phần, triệu phú dẫn đầu dân chúng một phần.

tattha dhanasampannatāya rājāpi suvaṇṇaṃ nīharāpetvā attanā gahitamukhe kammaṃ ārabhi, uparājāpi, senāpatipi. seṭṭhinā gahitamukhe pana kammaṃ olīyati. tato yasorato nāma eko upāsako tepiṭako bhāṇako anāgāmī ariyasāvako, so kammaṃ olīyatīti ñatvā pañca sakaṭasatāni yojāpetvā janapadaṃ gantvā “kassapasammāsambuddho vīsativassasahassāni ṭhatvā parinibbuto. tassa yojanikaṃ ratanacetiyaṃ kayirati, yo yaṃ dātuṃ ussahati suvaṇṇaṃ vā hiraññaṃ vā sattaratanaṃ vā haritālaṃ vā manosilaṃ vā, so taṃ detū”ti samādapesi. manussā attano attano thāmena hiraññasuvaṇṇādīni adaṃsu. asakkontā telataṇḍulādīni dentiyeva. upāsako telataṇḍulādīni kammakārānaṃ bhattavetanatthaṃ pahiṇāti, avasesehi suvaṇṇaṃ cetāpetvā pahiṇāti, evaṃ sakalajambudīpaṃ acari.

Trong số những người ở đó do là người đầy đủ của cải, thậm chí đức Vua còn cho chở vàng đến để bắt đầu việc xây dựng ở cánh cửa mà Ngài đã tiếp nhận, các tùy tùng của Vua cùng các quan đại thần cũng tương tự, còn việc xây dựng cánh cửa của người triệu phú nhận lãnh bị trì hoãn, lúc bấy giờ một cận sự nam tên Yasorata là một bậc Thánh Bất Lai, tinh thông Tam Tạng, sau khi vị ấy biết công việc (ở cánh cửa của triệu phú nhận lãnh) bị trì hoãn, nên đã cho năm trăm cỗ xe đi đến dân chúng, đã khuyến khích tất cả mọi người rằng: “Đức Phật Kassapa, bậc Chánh Đẳng Chánh Giác đã an trú hai mươi nghìn năm và đã viên tịch Niết bàn. Chúng ta sẽ kiến tạo một bảo điện bằng ngọc một do-tuần (để cúng dường) đến Ngài, người nào có thể cho thứ nào, dù là vàng, hoặc tiền, hoặc bảy loại châu báu, hoặc đá vàng hoặc đá đỏ thì người đó hãy cho thứ đó.” Tất cả người dân đã cho vàng và tiền v.v, theo khả năng của mình, khi không thể cho (những thứ trên) thì họ cũng cho dầu ăn và gạo v.v, cận sự nam gửi dầu ăn và gạo v.v, để làm thức ăn hàng ngày cùng các người thợ, phần còn lại đổi thành vàng gởi đi, như vậy (việc làm đó) đã lan rộng khắp toàn bộ cõi Jambudīpa.

cetiye kammaṃ niṭṭhitanti cetiyaṭṭhānato paṇṇaṃ pahiṇiṃsu — “niṭṭhitaṃ kammaṃ ācariyo āgantvā cetiyaṃ vandatū”ti. sopi paṇṇaṃ pahiṇi — “mayā sakalajambudīpo samādapito, yaṃ atthi, taṃ gahetvā kammaṃ niṭṭhāpentū”ti. dvepi paṇṇāni antarāmagge samāgamiṃsu. ācariyassa paṇṇato pana cetiyaṭṭhānato paṇṇaṃ paṭhamataraṃ ācariyassa hatthaṃ agamāsi. so paṇṇaṃ vācetvā cetiyaṃ vandissāmīti ekakova nikkhami. antarāmagge aṭaviyaṃ pañca corasatāni uṭṭhahiṃsu.

Việc xây dựng ở bảo điện đã hoàn tất, vì thế họ đã được gửi bức thư đi từ vị trí của ngôi bảo điện để thông báo rằng – “việc xây dựng (ngôi bảo điện) đã được hoàn thành kính mời thầy hãy đi đến đảnh lễ (xá-lợi) trong ngôi bảo điện.” Cả thầy cũng đã gửi một bức thư khác đi – “chúng tôi đã thuyết phục toàn bộ (dân chúng) Jambudīpa, có bất kỳ thứ nào, hãy lấy sử dụng những thứ đó hoàn thành việc xây dựng.” Cả hai bức thư (được chuyển đi) va chạm trên đường. Những bức thư được gửi từ chỗ xây dựng ngôi điện đã đến tay thầy trước bức thư được gửi từ chỗ của thầy. Sau khi vị ấy đọc xong bức thư đã nghĩ rằng (ta) sẽ đi đến đảnh lễ ngôi bảo điện rồi ra đi một mình. Trên đường đi, năm trăm tên cướp đã xuất hiện ở giữa cánh rừng.

tatrekacce taṃ disvā iminā sakalajambudīpato hiraññasuvaṇṇaṃ sampiṇḍitaṃ, nidhikumbhī no pavaṭṭamānā āgatāti avasesānaṃ ārocetvā taṃ aggahesuṃ. kasmā tātā, maṃ gaṇhathāti? tayā sakalajambudīpato sabbaṃ hiraññasuvaṇṇaṃ sampiṇḍitaṃ, amhākampi thokaṃ thokaṃ dehīti. kiṃ tumhe na jānātha, kassapo bhagavā parinibbuto, tassa yojanikaṃ ratanacetiyaṃ kayirati, tadatthāya mayā samādapitaṃ, no attano atthāya. taṃ taṃ laddhaladdhaṭṭhānato tattheva pesitaṃ, mayhaṃ pana nivatthasāṭakamattaṃ ṭhapetvā aññaṃ vittaṃ kākaṇikampi natthīti.

Trong số những tên cướp ấy, một nhóm đã thấy vị đó nghĩ rằng người này gom góp tất cả tiền và vàng từ toàn bộ cõi Jambudīpa, (như thể) kho báu tự di chuyển đến, đã thông báo cho những tên cướp khác để bắt lấy vị thầy. (vị thầy) tại sao lại bắt ta? (bọn cướp) Ngài quyên góp tiền và vàng toàn bộ cõi Jambudīpa, Ngài hãy cho chút ít đến chúng tôi. (vị thầy) các ông không biết hay sao? Đức Phật hồng danh Kassapa đã viên tịch Niết bàn, chúng tôi đang kiến tạo một bảo điện bằng ngọc một do-tuần đối với Ngài, tôi cũng chỉ khuyến khích họ (cúng dường tiền và vàng) vì lợi ích đó mà thôi, không phải vì mục đích các nhân. những thứ quyên góp được đã được chuyển đi đến nơi đó để xây dựng bảo điện, ngoài y phục được mặc ở trên người không có thứ gì khác thậm chí không có nỗi một cắc kākaṇika[1].

eke, “evametaṃ vissajetha ācariyan”ti āhaṃsu. eke, “ayaṃ rājapūjito amaccapūjito, amhesu kañcideva nagaravīthiyaṃ disvā rājarājamahāmattādīnaṃ ārocetvā anayavyasanaṃ pāpuṇāpeyyā”ti āhaṃsu. upāsako, “tātā, nāhaṃ evaṃ karissāmī”ti āha. tañca kho tesu kāruññena, na attano jīvitanikantiyā. atha tesu gahetabbo vissajjetabboti vivadantesu gahetabboti laddhikā eva bahutarā hutvā jīvitā voropayiṃsu.

Một bọn cướp nói rằng “điều đó thật vậy hãy thầy ra.” Bọn cướp nói rằng: “Vị thậy này Đức Vua cũng cung kính lễ bái, quan đại thần cũng cung kính lễ bái, khi đã nhìn thấy bất kỳ người nào trong chúng ta đi trên đường trong thành sẽ thông báo cho đức Vua và nói cho quan đại thần của đức Vua v.v, làm cho chúng ta bị thiệt hại.” Cận sự nam nói rằng “các ông ơi, chắc chắn tôi sẽ không làm như thế.” và với lòng tư bi cận sự nam đã nói với bọn cướp như thế, không phải vì sự yêu mến mạng sống của bản thân. Khi ấy trong lúc những tên cướp đang tranh luận với nhau rằng: nên bắt hay nên thả, số đông bọn cướp thấy rằng nên bắt đã tước đoạt mạng sống của vị ấy.

tesaṃ balavaguṇe ariyasāvake aparādhena nibbutadīpasikhā viya akkhīni antaradhāyiṃsu. te, “kahaṃ bho cakkhu, kahaṃ bho cakkhū”ti vippalapantā ekacce ñātakehi gehaṃ nītā. ekacce noñātakā anāthāti tattheva aṭaviyaṃ rukkhamūle paṇṇasālāyaṃ vasiṃsu. aṭaviṃ āgatamanussā kāruññena tesaṃ taṇḍulaṃ vā puṭabhattaṃ vā paribbayaṃ vā denti. dārupaṇṇādīnaṃ atthāya gantvā āgatā manussā kuhiṃ gatatthāti vutte andhavanaṃ gatamhāti vadanti. evaṃ dvinnampi buddhānaṃ kāle taṃ vanaṃ andhavanaṃtveva paññāyati. kassapabuddhakāle panetaṃ chaḍḍitajanapade aṭavi ahosi. amhākaṃ bhagavato kāle sāvatthiyā avidūre jetavanassa piṭṭhibhāge pavivekakāmānaṃ kulaputtānaṃ vasanaṭṭhānaṃ padhānagharaṃ ahosi, tattha āyasmā kumārakassapo tena samayena sekhapaṭipadaṃ pūrayamāno viharati. tena vuttaṃ “andhavane viharatī”ti.

Cặp mắt của những tên cướp đó biến mất giống như ngọn đèn vụt tắt bởi đã làm điều sái quấy (tướt đoạt mạng sống) của bậc Thánh Thinh Văn có đức hạnh mạnh mẽ. Những tên cướp đó than khóc rằng: “đối mắt (của ta) ở đâu? đối mắt (của ta) ở đâu?” Một số tên cướp được quyến thuộc đưa về nhà, còn một số không có người thân, trở thành những kẻ khốn khổ không nơi nương tựa, do đó họ phải sống nương tựa ở những mái lá dưới những gốc cây trong bụi rậm. Những người đến rừng đã cho họ một số gạo, một số bao gạo và một số thực phẩm khô đến những tên cướp đó với lòng từ bi. Những người đi tìm gỗ và lá, v.v. đã quay trở lại. Khi được hỏi rằng các ông sẽ đi đâu? Họ đáp rằng chúng tôi đã đi đến khu rừng dành cho người mù. Như vậy, khu rừng đó được biết đến với tên gọi andhavana trong thời kỳ xuất hiện giữa hai vị Phật. Nhưng khu rừng ấy trong thời kỳ đức Phật Kassapa là khu rừng không có người cư trú, những khi đến thời kỳ đức Thế Tôn của chúng ta trở nên có nhà cửa đối với sự tinh tấn, là nơi cư ngụ của những thiện nam tử cần sự yên tĩnh, ở phía sau Tịnh xá Jetavana, không xa thành Sāvatthī. Lúc bấy giờ Ngài Kassapakumāra đang thực hành sekhapaṭipadā (pháp hành của bậc Hữu học để đạt đến giải thoát). Bởi thế, Ngài đã nói rằng “trú tại andhavana”.

aññatarā devatāti nāmagottavasena apākaṭā ekā devatāti attho. “abhijānāti no, bhante, bhagavā ahuñātaññatarassa mahesakkhassa saṃkhittena taṇhāsaṅkhayavimuttiṃ bhāsitā”ti (ma. ni. 1.365) ettha pana abhiññāto sakkopi devarājā aññataroti vutto. devatāti ca idaṃ devānampi devadhītānampi sādhāraṇavacanaṃ. imasmiṃ panatthe devo adhippeto. abhikkantāya rattiyāti ettha abhikkantasaddo khayasundarābhirūpābbhanumodanādīsu dissati. tattha — “abhikkantā, bhante, ratti, nikkhanto paṭhamo yāmo, ciranisinno bhikkhusaṅgho, uddisatu, bhante, bhagavā bhikkhūnaṃ pātimokkhan”ti evamādīsu (a. ni. 8.20) khaye dissati. “ayaṃ imesaṃ catunnaṃ puggalānaṃ abhikkantataro ca paṇītataro cā”ti (a. ni. 4.100) evamādīsu sundare.

Một vị Thiên nghĩa là một vị Thiên không rõ tên và dòng tộc. Thậm chí Chúa Trời Sakka có danh tiếng Ngài cũng vẫn được gọi là một vị, trong Pāḷī rằng “Kính bạch Ngài, đức Thế Tôn biết rõ rằng, Ngài là vị đã thuyết sự giải thoát do diệt tận tham ái tóm tắt cho vị Dạ-xoa có nhiều oai lực”(ma. ni. 1.365). Từ devatā này là để gọi chung đối với tất cả chư Thiên, nhưng ở đây Ngài có mong muốn đến vị Thiên trong từ devada đó. Ở đây, từ abhikkanta trong cụm từ ‘abhikkantāya rattiyā’ được sử dụng với nhiều ý nghĩa như: cạn kiệt, rực rỡ, xinh đẹp, hoan hỷ v.v. Ở đó – từ abhikkanta được sử dụng với ý nghĩa cạn kiệt: “Bạch ngài, đêm đã khuya canh một đã tàn, hội chúng Tỳ khưu ngồi đã lâu. Bạch ngài, xin đức Thế Tôn tuyên đọc giới bổn Pātimokkha cho các tỳ khưu.” (a. ni. 8.20) như vậy. Từ abhikkanta được sử dụng với ý nghĩa rực rỡ:Hạng người này là người xinh đẹp hơn, và thù thắng hơn trong bốn hạng người.” (a. ni. 4.100).

“ko me vandati pādāni, iddhiyā yasasā jalaṃ.

abhikkantena vaṇṇena, sabbā obhāsayaṃ disā”ti. (vi. va. 857)

evamādīsu abhirūpe. “abhikkantaṃ, bho gotamā”ti evamādīsu (pārā. 15) abbhanumodane. idha pana khaye. tena abhikkantāya rattiyāti parikkhīṇāya rattiyāti vuttaṃ hoti. tatthāyaṃ devaputto majjhimayāmasamanantare āgatoti veditabbo. abhikkantavaṇṇāti idha abhikkantasaddo abhirūpe. vaṇṇasaddo pana chavi-thuti-kulavaggakāraṇa-saṇṭhānapamāṇarūpāyatanādīsu dissati. tattha, “suvaṇṇavaṇṇosi bhagavā”ti evamādīsu chaviyā. “kadā saññūḷhā pana te gahapati samaṇassa gotamassa vaṇṇā”ti (ma. ni. 2.77) evamādīsu thutiyaṃ.

Abhikkanta được sử dụng với ý nghĩa xinh đẹp tuyệt vời như câu sau: “Ai trong khi đang chói sáng nhờ vào thần lực và danh tiếng, nhờ vào màu da xinh đẹp tuyệt vời làm cho tất cả các phương sáng rực lên, đến đảnh lễ dưới đôi bàn chân của Ta?” (vi. va. 857).

Xuất hiện với ý nghĩa vô cùng hoan hỷ trong câu như vầy: Kính bạch đức Thế Tôn, thật là tuyệt vời!” (pārā. 15). Nhưng ở đây từ abhikkanta được sử dụng với ý nghĩa cạn kiệt. Vì thế abhikkantāya rattiyā Ngài giải thích rằng khi đêm đã gần tàn. Trong câu đó nên biết rằng vị Thiên tử này đến vào giữa canh giữa của đêm. Từ abhikkanta trong câu abhikkantavaṇṇā này xuất hiện với ý nghĩa xinh đẹp. Từ vaṇṇa xuất hiện với ý nghĩa màu da, ca tụng, dòng dõi, lý do, hình tướng, số lượng, sắc xứ v.v, Từ vaṇṇa xuất hiện với ý nghĩa là màu da trong câu bắt đầu như vầy: “Kính bạch đức Thế Tôn, Ngài có làn da tựa như vàng rồng”. Sử dụng với ý nghĩa ca tụng trong câu được bắt đầu như vầy: “Này gia chủ, ông chất chứa những lời nói để ca tụng về đức hạnh của Sa-môn Gotama từ bao giờ?” (ma. ni. 2.77).

“cattārome, bho gotama, vaṇṇā”ti evamādīsu (dī. ni. 3.115) kulavagge. “atha kena nu vaṇṇena, gandhathenoti vuccatī”ti evamādīsu (saṃ. ni. 1.234) kāraṇe. “mahantaṃ hatthirājavaṇṇaṃ abhinimminitvā”ti evamādīsu (saṃ. ni. 1.138) saṇṭhāne. “tayo pattassa vaṇṇā”ti evamādīsu (pārā. 602) pamāṇe. “vaṇṇo gandho raso ojā”ti evamādīsu rūpāyatane. so idha chaviyaṃ daṭṭhabbo. tena abhikkantavaṇṇāti abhirūpachavīṭṭhavaṇṇā, manāpavaṇṇāti vuttaṃ hoti. devatā hi manussalokaṃ āgacchamānā pakativaṇṇaṃ pakatīddhiṃ pajahitvā oḷārikaṃ attabhāvaṃ katvā atirekavaṇṇaṃ atirekaiddhiṃ māpetvā naṭasamajjādīni gacchantā manussā viya abhisaṅkhatena kāyena āgacchanti. ayampi devaputto tatheva āgato. tena vuttaṃ “abhikkantavaṇṇā”ti.

Sử dụng với ý nghĩa dòng dõi trong câu được bắt đầu như vầy: “Kính bạch đức Thế Tôn, có bốn giai cấp.” (dī. ni. 3.115). Xuất hiện với ý nghĩa lý do trong câu được bắt đầu như sau: “Như thế, bởi lý do gì Ngài nói rằng (tôi) ăn trộm mùi hương” (saṃ. ni. 1.234). Xuất hiện với ý nghĩa hình tướng trong câu được bắt đầu như sau: “Sau khi hóa hiện thành hình tướng môt Chúa Tượng.” (saṃ. ni. 1.138). Với ý nghĩa số lượng: “Bình bát có 3 loại” (pārā. 602).  Với ý nghĩa sắc xứ: “Cảnh sắc, cảnh khí, cảnh vị, các dưỡng tố ”. Nên biết rằng từ vaṇṇa đó được sử dụng với ý nghìa màu da. Vì lý do đó, abhikkantavaṇṇā được Ngài giải thích rằng: “có màu da xinh đẹp, có màu da đáng ước muốn, đáng ưa thích.” Thật vậy, chư Thiên trong khi đến với thế giới loài người đã rời bỏ hình tướng thông thường và thần lực thông thường, đã hóa hiện sắc thân thô thiển tạo ra làn da vượt trợi hơn, sức mạnh vượt trội hơn, đã đi đến với thân thể được trang điểm giống như (hình tướng) loài người đến để tụ hội nhảy múa v.v. Thiên tử dầu vậy cũng đi đến với hình tượng như thế đó. Vì thế Ngài đã nói rằng “có màu da xinh đẹp (rực rỡ)”.

kevalakappanti ettha kevalasaddo anavasesa yebhūyya abyāmissānatirekadaḷhattha visaṃyogādianekattho. tathā hissa, “kevalaparipuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyan”ti (pārā. 1) evamādīsu anavasesattamattho. “kevalakappā ca aṅgamagadhā pahūtaṃ khādanīyaṃ bhojanīyaṃ ādāya upasaṅkamissantī”ti evamādīsu yebhuyyatā. “kevalassa dukkhakkhandhassa samudayo hotī”ti (vibha. 225) evamādīsu abyāmissatā. “kevalaṃ saddhāmattakaṃ nūna ayamāyasmā”ti (mahāva. 244) evamādīsu anatirekatā. “āyasmato anuruddhassa bāhiyo nāma saddhivihāriko kevalakappaṃ saṅghabhedāya ṭhito”ti (a. ni. 4.243) evamādīsu daḷhatthatā. “kevalī vusitavā uttamapurisoti vuccatī”ti (saṃ. ni. 3.57) evamādīsu visaṃyogo. idha panassa anavasesattamatthoti adhippeto.

Từ kevala trong từ kevalakappaṃ này có nhiều ý nghĩa chằng hạn như không còn dư sót, đa số, không trộn lẫn, không vượt quá, chắc chắn (daḷhatthatā), không gắn bó v.v. Quả thật vậy, từ kevala có ý nghĩa không còn dư sót (đầy đủ) trong câu bắt đầu như vầy: “Phạm hạnh thanh tịnh đầy đủ và trọn vẹn.” (pārā. 1). Có ý nghĩa đa số trong câu bắt đầu như vầy: “Đa số dân chúng ở Aṅga và Magadha mang đi nhiều thức ăn loại cứng loại mềm với ý định tham dự.” Có ý nghĩa không trộn lẫn trong câu bắt đầu như vầy: “(Như vậy) là sự sanh khởi của toàn bộ khổ uẩn này” (vibha. 225). Có ý nghĩa không vượt quá: “Vị đại đức chỉ nương tựa hoàn toàn nhờ vào đức tin.” (mahāva. 244). Có ý nghĩa chắc chắn: “Vị đồng cộng trú của đại đức Anuruddha là Bāhiya hoàn toàn đứng về phía chia rẽ Tăng Chúng.” (a. ni. 4.243). Có ý nghĩa không gắn bó: “Ta gọi bậc tối thượng nhân, vị sống thành tựu viên mãn các Phạm hạnh”. (saṃ. ni. 3.57). Ở đây Ngài có ý muốn nói rằng từ kevala có nghĩa là không còn dư sót.

kappasaddo panāyaṃ abhisaddahana vohāra kāla paññatti chedana vikappa lesa samantabhāvādi anekattho. tathā hissa, “okappaniyametaṃ bhoto gotamassa, yathā taṃ arahato sammāsambuddhassā”ti (ma. ni. 1.387) evamādīsu abhisaddahanamattho. “anujānāmi, bhikkhave, pañcahi samaṇakappehi phalaṃ paribhuñjitun”ti (cūḷava. 250) evamādīsu vohāro. “yena sudaṃ niccakappaṃ viharāmī”ti evamādīsu (ma. ni. 1.387) kālo. “iccāyasmā kappo”ti (saṃ. ni. 3.124) evamādīsu paññatti. “alaṅkatā kappitakesamassū”ti (saṃ. ni. 4.365) evamādīsu chedanaṃ. “kappati dvaṅgulakappo”ti (cūḷava. 446) evamādīsu vikappo. “atthi kappo nipajjitun”ti (a. ni. 8.80) evamādīsu leso. “kevalakappaṃ veḷuvanaṃ obhāsetvā”ti (saṃ. ni. 1.94) evamādīsu samantabhāvo. idha panassa samantabhāvo attho adhippeto. tasmā kevalakappaṃ andhavananti ettha anavasesaṃ samantato andhavananti evamattho daṭṭhabbo.

Từ kappa này có nhiều ý nghĩa chẳng hạn như: đáng tin cậy, vohāra (sự diễn tả luật học), thời gian, paññatti (tên), cắt đứt, vượt qua, lesa (đưa ra lý do bào chữa), toàn bộ v.v. Quả thật vậy, từ kappa có ý nghĩa đáng tin cậy trong câu bắt đầu như sau: “Lời này của Ngài Gotama, vị giống như bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác thật đáng tin cậy.”(ma. ni. 1.387). Có nghĩa là vohāra (sự diễn tả luật học) trong câu bắt đầu như sau: “Này chư Tỳ khưu, Ta cho phép thọ dụng trái cây đã được làm thành được phép đối với Sa-môn theo năm cách này.” (cūḷava. 250). Có ý nghĩa thời gian trong câu bắt đầu như sau: “Ta sống an trú với sự thể nhập thiền định trường cửu, vĩnh viễn.” (ma. ni. 1.387). Có ý nghĩa paññatti (tên) trong câu bắt đầu như sau: “Đại đức Kappa nói”. (saṃ. ni. 3.124). Có ý nghĩa cắt đứt trong câu bắt đầu như sau: “sửa soạn trang điếm, cạo bỏ sạch râu tóc” (saṃ. ni. 4.365). Có ý nghĩa vượt qua trong câu bắt đầu như sau: “Vị Tỳ khưu được phép thọ thực khi bóng mặt trời đã qua hai ngón tay” (cūḷava. 446). Có ý nghĩa lesa (đưa ra lý do bào chữa) trong câu bắt đầu như sau: “Ta nhuốm bệnh rồi, cần thiết phải nghỉ ngơi, vậy ta hãy nằm nghỉ” (a. ni. 8.80). Có ý nghĩa toàn bộ trong câu bắt đầu như sau “đã làm chói sáng toàn bộ Tinh xá Jetavana”ti (saṃ. ni. 1.94). Nhưng ở đây Ngài có ý muốn nói đến từ kappa ấy có ý nghĩa là toàn bộ. Bởi thế trong cụm từ kevalakappaṃ andhavanaṃ này nên hiểu ý nghĩa như vầy “toàn bộ khu rừng Andhavana không có dư sót”.

obhāsetvāti vatthālaṅkārasarīrasamuṭṭhitāya ābhāya pharitvā, candimā viya ca sūriyo viya ca ekobhāsaṃ ekapajjotaṃ karitvāti attho. ekamantaṃ aṭṭhāsīti ekasmiṃ ante, ekasmiṃ okāse aṭṭhāsi. etadavocāti etaṃ “bhikkhu bhikkhū”tiādivacanamavoca. kasmā panāyaṃ avanditvā samaṇavohāreneva kathetīti? samaṇasaññāsamudācāreneva. evaṃ kirassa ahosi — “ayaṃ antarā kāmāvacare vasi. ahaṃ pana asmi tato kālato paṭṭhāya brahmacārī”ti samaṇasaññāvassa samudācarati, tasmā avanditvā samaṇavohāreneva katheti. pubbasahāyo kireso devaputto therassa. kuto paṭṭhāyāti? kassapasammāsambuddhakālato paṭṭhāya. yo hi pubbayoge āgatesu pañcasu sahāyesu anuthero catutthadivase anāgāmī ahosīti vutto, ayaṃ so. tadā kira tesu saṅghattherassa arahatteneva saddhiṃ abhiññā āgamiṃsu. so, “mayhaṃ kiccaṃ matthakaṃ pattan”ti vehāsaṃ uppatitvā anotattadahe mukhaṃ dhovitvā uttarakuruto piṇḍapātaṃ ādāya āgantvā, “imaṃ, āvuso, piṇḍapātaṃ bhuñjitvā appamattā samaṇadhammaṃ karothā”ti āha. itare āhaṃsu — “na, āvuso, amhākaṃ evaṃ katikā atthi — ‘yo paṭhamaṃ visesaṃ nibbattetvā piṇḍapātaṃ āharati, tenābhataṃ bhuñjitvā sesehi samaṇadhammo kātabbo’ti. tumhe attano upanissayena kiccaṃ matthakaṃ pāpayittha. mayampi sace no upanissayo bhavissati, kiccaṃ matthakaṃ pāpessāma. papañco esa amhākaṃ, gacchatha tumhe”ti. so yathāphāsukaṃ gantvā āyupariyosāne parinibbāyi.

Đã làm chói sáng: nghĩa là đã làm lan tỏa hào quang phát ra từ thân được trang điểm bởi trang phục làm cho ánh sáng trở nên đồng nhất giống như mặt trăng và mặt trời. Đứng một nơi phù hợp: đứng ở một bên, là ở trong khoảng trống (thích hợp). Vị Thiên ấy nói với Tôn giả Kumara Kassapa: đã nói với vị Tỳ khưu đó rằng: “Tỳ khưu, Tỳ khưu” v.v, hỏi tại sao vị Thiên này không đảnh lễ, chỉ nói lời nói như kiểu Tỳ khưu? Vì (vị ấy) vẫn có suy nghĩ rằng bản thân vẫn là Tỳ khưu. Được biết rằng vị Thiên tử đã có suy nghĩ rằng người này sống ở giữa cõi Dục giới con ta kể từ lúc từ trần đã trở thành Phạm thiên, Thiên tử ấy vẫn còn suy tưởng của vị Sa-môn hiện hữu, vì thế vị Thiên tử đó mới không đảnh lễ. (Hỏi) vị Thiên tử đó là người bạn cũ của vị Trưởng lão từ lúc nào? (Đáp) kể từ thời ký của bậc Chánh Đẳng Chánh Giác hồng danh Kassapa. Bởi vì, trong số năm người bạn hữu đã đề cập trước đó, người bạn hữu nào mà Ngài đã nói rằng là vị Trưởng lão đã trở thành vị Thánh Bất Lai trong ngày thứ tư, người bạn hữu ấy cũng chính là vị Thiên tử đó. Khi đó trong số năm vị Trưởng lão Saṅgha (người dẫn đầu) đã chứng đạt quả vị A-ra-hán cùng với các thắng trí. Vị ấy nghĩ rằng “phận sự của ta đã viên mãn” mới bay lên không trung, đã rửa mặt sức miệng ở hồ Anotatta, sau khi đi khất thực ở Uttarakuru (Bắc Câu Lô Châu) trở về (vị ấy) nói rằng: “này chư hiền hãy thọ dụng vật thực này đừng nên dễ duôi, thực hành Sa-môn Pháp”. Các vị Tỳ khưu còn lại nói rằng – “Này hiền giả, chúng ta không có thỏa thuận rằng – ‘người nào đã chứng đạt pháp cao thượng trước thì mang lại đồ ăn khất thực, những người còn lại sẽ thọ dụng vật thực của người ấy mang lại, rồi hãy thực hành Sa-môn hạnh?” Ngài đã đạt đến tận cùng phận sự bằng sự có đủ điều kiện của chính mình (attano upanissayena) nếu chúng tôi có đủ điều kiện thì chúng tôi cũng sẽ chứng đắc được tận cùng phận sự tương tự (như Ngài), đó là sự chậm chạp của chính chúng tôi, xin kính mời Ngài hãy đi đi. Trưởng lão Saṅgha (người dẫn đầu) đã theo sự theo sự ưa thích rồi viên tịch Niết bàn khi hết tuổi thọ.

punadivase anuthero anāgāmiphalaṃ sacchakāsi, tassa abhiññāyo āgamiṃsu. sopi tatheva piṇḍapātaṃ āharitvā tehi paṭikkhitto yathāphāsukaṃ gantvā āyupariyosāne suddhāvāse nibbatti. so suddhāvāse ṭhatvā te sahāye olokento, eko tadāva parinibbuto, eko adhunā bhagavato santike ariyabhūmiṃ patto, eko lābhasakkāraṃ nissāya, “ahaṃ arahā”ti cittaṃ uppādetvā suppārakapaṭṭane vasatīti disvā taṃ upasaṅkamitvā, “na tvaṃ arahā, na arahattamaggaṃ paṭipanno, gaccha bhagavantaṃ upasaṅkamitvā dhammaṃ suṇāhī”ti uyyojesi. sopi antaraghare bhagavantaṃ ovādaṃ yācitvā, “tasmā tiha te bāhiya evaṃ sikkhitabbaṃ diṭṭhe diṭṭhamattaṃ hotū”ti (udā. 10) bhagavatā saṃkhittena ovadito ariyabhūmiṃ sampāpuṇi.

Qua ngày hôm sau Trưởng lão Anuthero đã chứng ngộ Thánh Quả Bất Lai, các thắng trí cũng đã đến Ngài. Ngài cũng đem lại đồ ăn khất thực tương tự y như thế, nhưng bị các vị Tỳ khưu còn lại khước từ, vị ấy cũng đi the ưa thích, và khi chấm dứt tuổi thọ đã hóa sanh vào cõi Tịnh Cư Thiên. Trưởng lão Anuthero khi đã an trú trong cõi Tịnh Cư Thiên xem coi các bạn hữu (đang ở đâu) thấy rằng một vị đã viên tịch Niết bàn trong lúc đó, một vị đã chứng đắc ariyabhūmi (cõi của những bậc Thánh) trong hội chứng của đức Thế Tôn không lâu, một vị nương vào lợi đắc và sự cung kính đã khởi lên suy nghĩ rằng “Ta là bậc A-ra-hán” sống gần bến sông tên là Suppāraka, rồi đã đi đến tìm và nói với vị ấy rằng: “ông không phải là bậc A-ra-hán, có đạo lộ thực hành không đưa đến chứng đắc A-ra-hán, hãy đi đến yết kiến đức Thế Tôn lắng nghe Giáo Pháp.” Mặc dù người bạn ấy đã xin nghe lời giáo huấn cùng đức Thế Tôn (khi Ngài đi khất thực) trong xóm làng, đức Thế Tôn giảng dạy bằng lời nói ngắn gọn như vầy: “Này Bāhiya, như thế thì ngươi nên học tập như vầy: ‘Trong cái thấy cũng chỉ là cái thấy…”(udā. 10) rồi vị ấy chứng đắc ariyabhūmi (cõi của những bậc Thánh).

tato añño eko atthi, so kuhinti olokento andhavane sekkhapaṭipadaṃ pūrayamāno viharatīti disvā cintesi — “sahāyakassa santike gamissāmīti, gacchantena pana tucchahatthena agantvā kiñci paṇṇākāraṃ gahetvā gantuṃ vaṭṭati, sahāyo kho pana me nirāmiso pabbatamatthake vasanto mayā ākāse ṭhatvā dinnaṃ piṇḍapātampi aparibhuñjitvā samaṇadhammaṃ akāsi, idāni āmisapaṇṇākāraṃ kiṃ gaṇhissati? dhammapaṇṇākāraṃ gahetvā gamissāmī”ti brahmaloke ṭhitova ratanāvaḷiṃ ganthento viya pannarasa pañhe vibhajitvā taṃ dhammapaṇṇākāraṃ ādāya āgantvā sahāyassa avidūre ṭhatvā attano samaṇasaññāsamudācāravasena taṃ anabhivādetvāva, “bhikkhu bhikkhū”ti ālapitvā ayaṃ vammikotiādimāha. tattha turitālapanavasena bhikkhu bhikkhūti āmeḍitaṃ veditabbaṃ. yathā vā ekaneva tilakena nalāṭaṃ na sobhati, taṃ parivāretvā aññesupi dinnesu phullitamaṇḍitaṃ viya sobhati, evaṃ ekeneva padena vacanaṃ na sobhati, parivārikapadena saddhiṃ phullitamaṇḍitaṃ viya sobhatīti taṃ parivārikapadavasena vacanaṃ phullitamaṇḍitaṃ viya karontopi evamāha.

Tiếp đó vị Thiên ấy quan sát vẫn còn một người bạn nữa người bạn ấy đang ở đâu? vị thiên thấy rằng bạn của mình đang thực hành sekkhapaṭipadā trong rừng Andhavana, mới nghĩ rằng: “Ta sẽ đi tìm bạn của ta, nhưng khi đi không nên đi với tay không, nên đem theo quà biếu gì đó, nhưng bạn ta không liên hệ vật chất (ly vật thực chấp nhận chết), khi ngự trên đỉnh núi người bạn ấy không chịu thọ dụng đồ ăn khất thực mà ta đứng trên hư không cúng dường để thực hành Sa-môn pháp, bây giờ (vị ấy) chịu nhận quà biếu về vật chất làm gì? Ta sẽ mang quà biếu Giáo Pháp đi.” trụ vững trong thế giới Phạm thiên, phân tích vấn đề ra thành mười lăm câu tương tự y như trăm vòng ngọc, cầm lấy quà biếu Giáo Pháp đến, rồi đứng một nơi không quá xa bạn, đã không đãnh lễ Trưởng lão đó với sự suy tưởng rằng bản thân cũng là vị Tỳ khưu gọi là “Tỳ khưu, Tỳ khưu” rồi đã nói rằng “Gò Mối này” v.v. Ở đó nên biết rằng từ “Tỳ khưu, Tỳ khưu” là nói nói lặp lại để gọi nhanh. Vầng trán không xinh đẹp với việc thoa chỉ ở một điểm đơn thuần, nhung khi thoa những điểm khác ở bề mặt điểm đó thì vầng trán sẽ xinh đẹp tựa như được trang điểm với những bông hoa đang trổ hoa như thế nào; lời nói không đẹp với câu đơn thuần từ việc gắn kết với câu chung quanh sẽ (trở nên) xinh đẹp giống như được trang điểm với những bông hoa đang nở rộ như thế, vì thế vị Thiên tử đã nói như vậy cũng giống như việc trang điểm với những bông hoa đang nở rộ.

ayaṃ vammikoti purato ṭhito vammiko nāma natthi, desanāvasena pana purato ṭhitaṃ dassento viya ayanti āha. laṅginti satthaṃ ādāya khaṇanto palighaṃ addasa. ukkhipa laṅgiṃ abhikkhaṇa sumedhāti tāta, paṇḍita, laṅgī nāma rattiṃ dhūmāyati divā pajjalati. ukkhipeta paraṃ parato khaṇāti. evaṃ sabbapadesu attho daṭṭhabbo. uddhumāyikanti maṇḍūkaṃ. caṅkavāranti khāraparissāvanaṃ. kummanti kacchapaṃ. asisūnanti maṃsacchedakaṃ asiñceva adhikuṭṭanañca. maṃsapesinti nisadapotappamāṇaṃ allamaṃsapiṇḍaṃ. nāganti sumanapupphakalāpasadisaṃ mahāphaṇaṃ tividhasovatthikaparikkhittaṃ ahināgaṃ addasa. mā nāgaṃ ghaṭṭesīti daṇḍakakoṭiyā vā vallikoṭiyā vā paṃsucuṇṇaṃ vā pana khipamāno mā nāgaṃ ghaṭṭayi. namo karohi nāgassāti uparivātato apagamma suddhavatthaṃ nivāsetvā nāgassa namakkāraṃ karohi. nāgena adhisayitaṃ dhanaṃ nāma yāva sattamā kulaparivaṭṭā khādato na khīyati, nāgo te adhisayitaṃ dhanaṃ dassati, tasmā namo karohi nāgassāti. ito vā pana sutvāti yathā dukkhakkhandhe itoti sāsane nissakaṃ, na tathā idha. idha pana devaputte nissakkaṃ, tasmā ito vā panāti mama vā pana santikā sutvāti ayamettha attho.

Quả thật, trong lời rằng “Gò Mối này” không có Gò Mối được đặt ở phía trước như vị Thiên tử này đã nói ‘này’ giống như trình bày rằng có Gò Mối ở phía trước với sức mạnh của sự thuyết Pháp nên mới nói rằng ‘cái này’ trong câu ‘Gò Mối này’. Một then cửa (laṅgiṃ): cầm lấy con dao đào lên thấy cái then cửa. Này kẻ trí, hãy lấy then cửa lên, cầm con dao đào thêm (ukkhipa laṅgiṃ abhikkhaṇa sumedha): bậc trí gọi là then cửa ban đêm phun khói, ban ngày cháy rực, hãy lấy then cửa lên rồi đào tiếp. Nên hiểu ý nghĩa trong toàn bộ câu như vậy. Uddhumāyikaṃ đồng nghĩa maṇḍūkaṃ (con nhái). Caṅkavāraṃ (hoặc paṅkavāraṃ) gồm đồ lọc nước (tạp chất). Kummaṃ: con rùa. Asisūnaṃ: cái thớt và cả con dao cắt thịt. Maṃsapesiṃ: một miếng thịt tươi cỡ hòn đá bị nghiền. Rắn: nhìn thấy con rắn hổ có cái đầu (phùng mang) to lớn giống như bó hoa nhài với ba cái dấu sao trên bề mặt cái mang. Đừng đánh đập con rắn hổ (​​mā nāgaṃ ghaṭṭesi): đừng sử dụng đầu ngọn cây, ngọn dây leo hay cục đất ném chạm vào thân rắn hổ. Hãy thực hành sự đảnh lễ con rắn hổ (namo karohi nāgassa): hãy đứng ngược gió, mặc ý phục sạch sẽ thực hiện sự cung kính đối với rắn chúa, tương truyền rằng tài sản của cải mà rắn chúa gìn giữ ăn bảy đời không hết, rắn chúa sẽ ban cho tài sản của cải mà chính rắn chúa bảo quản đến ông, vì thế ông hãy thực hành sự cung kính đối với rắn chúa. Do nghe từ hội chúng (của tôi) này (ito vā pana sutvā): chấm dứt sự nghi ngờ trong khổ uẩn, là trong lời dạy từ người khác thế nào, trong trường hợp này không phải như thế. Nhưng ở đây sự chấm dứt điều nghi ngờ nơi vị Thiên tử, vì vậy trong câu này mới có ý nghĩa như vầy: hoặc là do đã nghe từ hội chúng của ta.

  1. cātummahābhūtikassāti catumahābhūtamayassa. kāyassetaṃ adhivacananti sarīrassa nāmaṃ. yatheva hi bāhirako vammiko, vamatīti vantakoti vantussayoti vantasinehasambandhoti catūhi kāraṇehi vammikoti vuccati. so hi ahimaṅgusaundūragharagoḷikādayo nānappakāre pāṇake vamatīti vammiko. upacikāhi vantakoti vammiko. upacikāhi vamitvā mukhatuṇḍakena ukkhittapaṃsucuṇṇena kaṭippamāṇenapi porisappamāṇenapi ussitoti vammiko.

[251] cātummahābhūtikassa: thành tựu với bốn đại hiển. Kāyassetaṃ adhivacanaṃ: là tên gọi của thân thể này. Tương tự như thân bên ngoài Ngài gọi là Gò Mối bởi bốn nguyên nhân là (1) Gò Mối ói ra, (2) một người đã nôn ra, (3) nôn ra hết toàn bộ thân được hợp bởi bốn đại (4) người đã nôn ra sự trói buộc bởi luyến ái. Thật vậy, do nôn ra nhiều loại côn trùng khác nhau như rắn, rít, bò cạp, chuột, thằn lằn, tắc kè v.v, được gọi là Gò Mối. Gọi là Gò Mối bởi vì con mối được nôn ra. Gọi là Gò Mối bởi vì thân con mối tạo nên bởi bụi bặm bởi thân con mối đùn lên từ cái miệng, cao khoảng chừng thắt lưng, tính chất xấu.

upacikāhi vantakheḷasinehena ābaddhatāya sattasattāhaṃ deve vassantepi na vippakiriyati, nidāghepi tato paṃsumuṭṭhiṃ gahetvā tasmiṃ muṭṭhinā pīḷiyamāne sineho nikkhamati, evaṃ vantasinehena sambaddhoti vammiko. evamayaṃ kāyopi, “akkhimhā akkhigūthako”tiādinā nayena nānappakārakaṃ asucikalimalaṃ vamatīti vammiko. buddhapaccekabuddhakhīṇāsavā imasmiṃ attabhāve nikantipariyādānena attabhāvaṃ chaḍḍetvā gatāti ariyehi vantakotipi vammiko. yehi cāyaṃ tīhi aṭṭhisatehi ussito nhārusambaddho maṃsāvalepano allacammapariyonaddho chavirañjito satte vañceti, taṃ sabbaṃ ariyehi vantamevāti vantussayotipi vammiko. “taṇhā janeti purisaṃ, cittamassa vidhāvatī”ti (saṃ. ni. 1.55) evaṃ taṇhāya janitattā ariyehi vanteneva taṇhāsinehena sambaddho ayanti vantasinehena sambaddhotipi vammiko.

Vì khi trời mưa suốt bảy tuần lễ thì thân con mối tiết ra (đất) để kết dính lại với nhau bằng nước bọt được nôn ra, cả trong mùa khô nó cũng lấy bụi bẩn từ chỗ đó, bóp vắt ở chỗ đó thành đóng, chất nhầy cũng tiết ra, rồi kết dính lại với nhau với chất dính tiết ra, như vậy được gọi là Gò Mối như thế nào, ngay cả cái thân này cũng như thế, gọi là Gò Mối bởi tiết ra những thứ không sạch sẽ, những thứ có tội lỗi và đầy ô uế với nhiều hình thức khác nhau theo cách sau “tiết ra ghèn từ mắt v.v.” và gọi là Gò Mối bởi vì các bậc Thánh Nhân đã nôn ra rồi, lý do đức Phật, vị Phật Độc Giác và bậc lậu tận vứt bỏ tự ngã, bởi đã chấm dứt sự ham muốn trong tự ngã này. Bởi đã nôn ra hết toàn bộ thân được hợp bởi bốn đại, lý do bậc Thánh Nhân nôn toàn bộ thân mà được liên kết từ 300 khúc xương với các sợi gân, được đắp lên bởi thịt, được bao bọc bởi lớp da khiến cho chúng sanh mê muội gọi là Gò Mối, do cột chặt bởi thương yêu đã được nôn ra rồi, lý do thân này bị trói buộc là do tham ái mà các bậc Thánh Nhân đã nôn ra, do tham ái tạo ra sự sanh khởi như vầy: “tham khiến cho con người tái sanh, tâm của người đó đi lang thang (luân hồi khắp các cõi).

yathā ca vammikassa anto nānappakārā pāṇakā tattheva jāyanti, uccārapassāvaṃ karonti, gilānā sayanti, matā patanti. iti so tesaṃ sūtigharaṃ vaccakuṭi gilānasālā susānañca hoti. evaṃ khattiyamahāsālādīnampi kāyo ayaṃ gopitarakkhito maṇḍitappasādhito mahānubhāvānaṃ kāyoti acintetvā chavinissitā pāṇā cammanissitā pāṇā maṃsanissitā pāṇā nhārunissitā pāṇā aṭṭhinissitā pāṇā aṭṭhimiñjanissitā pāṇāti evaṃ kulagaṇanāya asītimattāni kimikulasahassāni antokāyasmiṃyeva jāyanti, uccārapassāvaṃ karonti, gelaññena āturitāni sayanti, matāni patanti, iti ayampi tesaṃ pāṇānaṃ sūtigharaṃ vaccakuṭi gilānasālā susānañca hotīti “vammiko” tveva saṅkhaṃ gato. tenāha bhagavā — “vammikoti kho, bhikkhu, imassa cātumahābhūtikassa kāyassetaṃ adhivacanan”ti.

Lại nữa, các loài sinh vật nhỏ khác nhau bên trong Gò Mối sanh ra, đại tiện, tiểu tiện, nằm ngủ, bệnh tật và chết trong chính ở nơi đó. Vì vậy, Gò Mối ​​là ngôi nhà để sinh ra, là nhà vệ sinh, là bệnh viện và là nghĩa địa của những loài sinh vật nhỏ đó như thế nào; thậm chí thân của Vua chúa hào phú cũng thế đó, các loài vật sống y cứ trên da, thịt, gân, xương, tủy trong xương cũng không nghĩ rằng thân này được che chở, trang điểm, là thân của một người đầy quyền lực. Tóm lại rằng chủng loại giun sán được tính theo chủng loại ước chừng có khoảng 80,000 chủng loại, được sanh ra, đại tiện, tiểu tiện, nằm không yên phiền nhiều do tật bệnh, chết, chết đi đều mắc kẹt trong chính cái thân này, cho nên nó được xem như là Gò Mối bởi vì là nơi để sinh ra, là nhà vệ sinh, là bệnh viện, là nghĩa trang của những loài sinh vật đó. Vì thế đức Thế Tôn mới nói rằng “Này chư Tỳ khưu ‘Gò Mối’ đây là tên gọi của cái thân này được sanh ra từ bốn đại hiển.

mātāpettikasambhavassāti mātito ca pitito ca nibbattena mātāpettikena sukkasoṇitena sambhūtassa. odanakummāsūpacayassāti odanena ceva kummāsena ca upacitassa vaḍḍhitassa. Anicc’ucchādana parimaddana bhedana viddhaṃsana dhammassāti ettha ayaṃ kāyo hutvā abhāvaṭṭhena aniccadhammo. duggandhavighātatthāya tanuvilepanena ucchādanadhammo. aṅgapaccaṅgābādhavinodanatthāya khuddakasambāhanena parimaddanadhammo. daharakāle vā ūrūsu sayāpetvā gabbhavāsena dussaṇṭhitānaṃ tesaṃ tesaṃ aṅgānaṃ saṇṭhānasampādanatthaṃ añchanapīḷanādivasena parimaddanadhammo. evaṃ pariharatopi ca bhedana-viddhaṃsanadhammo bhijjati ceva vikirati ca, evaṃ sabhāvoti attho. Tattha mātāpettikasambhava odanakummāsūpacaya ucchādana parimaddanapadehi samudayo kathito, aniccabhedaviddhaṃsanapadehi atthaṅgamo. evaṃ sattahipi padehi cātumahābhūtikassa kāyassa uccāvacabhāvo vaḍḍhiparihāni samudayatthaṅgamo kathitoti veditabbo.

Có cha mẹ làm nơi sanh: sự kết hợp của tinh cha huyết mẹ để sinh ra từ cha và mẹ gọi là mātāpettika (sanh ra nhờ vào cha mẹ). Nhờ cơm cháo nuôi dưỡng: trưởng thành nhờ cơm cháo và các dưỡng chất. Có bản chất vô thường, biến hoại, vỡ nát, đoạn tuyệt, hoại diệt: thân này có bản chất vô thường bởi ý nghĩa có rồi không; Kỳ cọ thân thể là thường do bởi sự thoa xức dầu thơm mỏng nhẹ để ngăn chặn mùi hôi của cơ thể; có sự xoa bóp là thường bởi vì xoa bóp chút chút nhằm vì lợi ích giảm nhẹ sự mệt mỏi đau nhức của các chi phần lớn nhỏ; lại nữa, có sự quan tâm chăm sóc tốt là thường bằng việc nhỏ thuốc nhỏ mắt và vắt, v.v. để đem lại sự hoàn hảo của hình dạng, của những chi phần đã được đặt không không tốt bằng cách cho ngủ ở trên chân, mà chỉ cho ngủ trong phòng khi còn nhỏ. Mặc dù được chăm sóc nuôi dưỡng như vậy (thân thể) này cũng có bản chất vỡ nát tiêu tan, thân này có thực tánh như vậy. Ở đây, Ngài đã nói thân này được có sự sanh khởi bằng câu: “được sanh ra nhờ cha mẹ, trưởng thành nhờ cơm cháo và các dưỡng chất, được kỳ cọ xoa bóp. Ngài nói đến sự diệt của thân bằng câu “(thân này) vô thường, thoa dầu thơm, xoa bóp, đoạn diệt, tiêu tan, tính chất cao thấp, sự tăng trưởng và sự suy tàn, sự sanh khởi và sự hoại diệt của cái thân này được sanh ra từ bốn đại, nên biết rằng Ngài nói với cả bảy cụm từ này.

divā kammanteti divā kattabbakammante. Dhūmāyanāti ettha ayaṃ dhūmasaddo kodhe taṇhāya vitakke pañcasu kāmaguṇesu dhammadesanāya pakatidhūmeti imesu atthesu vattati. “kodho dhūmo bhasmanimosavajjan”ti (saṃ. ni. 1.165) ettha hi kodhe vattati. “icchādhūmāyitā sattā”ti ettha taṇhāya. “tena kho pana samayena aññataro bhikkhu bhagavato avidūre dhūmāyanto nisinno hotī”ti ettha vitakke.

Công việc ban ngày: những công việc cần được làm vào ban ngày. Từ dhūma trong từ dhūmāyanā (phun khói) này được sử dụng rong ý nghĩa như sau: sự tức giận, tham ái, suy tầm, năm dục, sự thuyết giảng Giáo Pháp, khói thông thường. Thât vậy ở đây dhūma được sử dụng trong ý nghĩa sự tức giận trong câu sau: “sự giận dữ như khói mù, lời nói dối trá như là đóng tro” (saṃ. ni. 1.165). Ở đây với ý nghĩa là tham ái: “Tất cả chúng sanh có tham ái như khói mù.” Ở đây với ý nghĩa là suy tầm: “Lúc bấy giờ, một vị Tỳ khưu ngồi suy tầm như khói mù ở nơi không xa đức Thế Tôn.”

“paṅko ca kāmā palipo ca kāmā,

bhayañca metaṃ timūlaṃ pavuttaṃ.

rajo ca dhūmo ca mayā pakāsitā.

hitvā tuvaṃ pabbaja brahmadattā”ti. (jā. 1.6.14) — ettha pañcakāmaguṇesu.

Ở đây với ý nghĩa là năm dục – “Các dục là bùn nhơ, và các dục là bãi lầy, và là sự sợ hãi, sự sợ hãi đó đã được ta nói đến là ba gốc rễ, đã được ta tuyên thuyết phiền não là bụi bặm và khói mù, sau khi từ bỏ, này Brahmadatta, xin đức Vua hãy xuất gia.”

“dhūmaṃ kattā hotī”ti (ma. ni. 1.349) ettha dhammadesanāya. “dhajo rathassa paññāṇaṃ, dhūmo paññāṇamaggino”ti (saṃ. ni. 1.72) ettha pakatidhūme. idha panāyaṃ vitakke adhippeto. tenāha “ayaṃ rattiṃ dhūmāyanā”ti.

Ở đây với ý nghĩa là sự thuyết giảng Giáo Pháp: “Là người thực hiện xong khói” (ma. ni. 1.349). Ở đây, với ý nghĩa là khói mù thông thường: “Lá cờ là tiêu biểu của cỗ xe, khói là tiêu biểu của ngọn lửa” (saṃ. ni. 1.72). Nhưng ở đây từ dhūna Ngài có ý muốn đề cập trong suy tầm. Vì lý do đó Ngài đã nói rằng “Đây gọi là phun khói vào ban đêm”

tathāgatassetaṃ adhivacananti tathāgato hi sattannaṃ dhammānaṃ bāhitattā brāhmaṇo nāma. yathāha — “sattannaṃ kho, bhikkhu, dhammānaṃ bāhitattā brāhmaṇo. katamesaṃ sattannaṃ? rāgo bāhito hoti, doso… moho… māno… sakkāyadiṭṭhi… vicikicchā… sīlabbataparāmāso bāhito hoti. imesaṃ bhikkhu sattannaṃ dhammānaṃ bāhitattā brāhmaṇo”ti (cūḷani. mettagūmāṇavapucchāniddesa 28). sumedhoti sundarapañño. sekkhassāti ettha sikkhatīti sekkho. yathāha — “sikkhatīti kho, bhikkhu, tasmā sekkhoti vuccati. kiñca sikkhati? adhisīlampi sikkhati, adhicittampi sikkhati, adhipaññampi sikkhatī”ti (a. ni. 3.86).

Bà-la-môn là đồng nghĩa với Như Lai (tathāgatassetaṃ adhivacanaṃ): Quả thật Như Lai gọi là Bà-la-môn Bà-la-môn do đã loại trừ bảy Pháp. Như đã được Ngài nói – “Tỳ khưu gọi là Bà-la-môn bởi vì đã loại trừ hết thảy bảy Pháp, bảy Pháp đó là gì? Luyến ái được loại trừ, sân…si…ngã mạn…sự nhận thức sai về thân…sự hoài nghi…sự bám víu vào giới và phận sự mà vị Tỳ khưu được gọi là Bà-la-môn do đã loại trừ hết thảy cả bảy Pháp này.” (cūḷani. Giảng Giải Câu Hỏi của Thanh Niên Mettagū 28). Sumedho: bậc có trí tuệ. Của vị Tỳ khưu Hữu học: gọi là bậc Hữu học do vẫn còn phải học tập. Như đã được Ngài nói – “Này Tỳ khưu, vị Tỳ khưu vẫn còn học tập, vì thế Ngài gọi là vị Hữu học, học tập điều gì? Sự học tập về thắng giới, sự học tập về thắng tâm, và sự học tập về thắng tuệ.” (a. ni. 3.86).

paññāya adhivacananti lokiyalokuttarāya paññāya etaṃ adhivacanaṃ, na āvudhasatthassa. vīriyārambhassāti kāyikacetasikavīriyassa. taṃ paññāgatikameva hoti. lokiyāya paññāya lokiyaṃ, lokuttarāya paññāya lokuttaraṃ. ettha panāyaṃ atthadīpanā –

Trí tuệ: lời này là tên gọi của trí tuệ Hiệp thế và trí tuệ Siêu thế, không phải là tên gọi của khí giới và vũ khí sắc bén. Sự ra sức nỗ lực: sự nỗ lực bằng thân và tâm. Sự tinh tấn đó chỉ là hướng đi trí tuệ của trí tuệ Hiệp thế được xếp thành Hiệp thế, là hướng đi của trí tuệ Siêu thế gọi là Siêu thế. Trong câu này xin giải nghĩa như vầy –

eko kira jānapado brāhmaṇo pātova māṇavakehi saddhiṃ gāmato nikkhamma divasaṃ araññe mante vācetvā sāyaṃ gāmaṃ āgacchati. antarāmagge ca eko vammiko atthi. so rattiṃ dhūmāyati, divā pajjalati. brāhmaṇo antevāsiṃ sumedhaṃ māṇavaṃ āha — “tāta, ayaṃ vammiko rattiṃ dhūmāyati, divā pajjalati, vikāramassa passissāma, bhinditvā naṃ cattāro koṭṭhāse katvā khipāhī”ti. so sādhūti kudālaṃ gahetvā samehi pādehi pathaviyaṃ patiṭṭhāya tathā akāsi. tatra ācariyabrāhmaṇo viya bhagavā. sumedhamāṇavako viya sekkho bhikkhu. vammiko viya kāyo. “tāta, ayaṃ vammiko rattiṃ dhūmāyati, divā pajjalati, vikāramassa passissāma, bhinditvā naṃ cattāro koṭṭhāse katvā khipāhī”ti brāhmaṇena vuttakālo viya, “bhikkhu cātumahābhūtikaṃ kāyaṃ cattāro koṭṭhāse katvā pariggaṇhāhī”ti bhagavatā vuttakālo. tassa sādhūti kudālaṃ gahetvā tathākaraṇaṃ viya sekkhassa bhikkhuno, “yo vīsatiyā koṭṭhāsesu thaddhabhāvo, ayaṃ pathavīdhātu. yo dvādasasu koṭṭhāsesu ābandhanabhāvo, ayaṃ āpodhātu. yo catūsu koṭṭhāsesu paripācanabhāvo, ayaṃ tejodhātu. yo chasu koṭṭhāsesu vitthambhanabhāvo, ayaṃ vāyodhātū”ti evaṃ catudhātuvavatthānavasena kāyapariggaho veditabbo.

Kể rằng một vị Bà-la-môn ở nông thôn rời nhà vào sáng sớm cùng với nhóm thanh niên. Vào ban ngày Ngài dạy các chú thuật trong rừng, buổi chiều trở về nhà. Dọc đường có một Gò Mối. Gò Mối đó ban đêm phun khói, ban ngày cháy rực. Sau đó, Bà-la-môn mới nói với học trò thanh niên Sumetha: “Này con, đỉnh gò mối này ban đêm phun khói, ban ngày cháy rực, chúng ta sẽ thấy sự bất thường của Gò Mối đó, con hãy phá vỡ ra thành bốn phần rồi vứt đi, người đệ tử nhận lời, nắm lấy cái cuốc, dùng hai chân đứng vững trên mặt đất rồi làm điều đó. Trong cả 2 vị là thầy và người học trò ấy đức Thế Tôn được ví như Bà-la-môn là vị thầy, còn Tỳ khưu Hữu học giống như thanh niên Bà-la-môn Sumedha, thân giống như Gò Mối, thời gian đức Thế Tôn thuyết giảng rằng: “Này các Tỳ kheo, các ông hãy chia thân được sanh ra bốn sắc đại hiển, rồi nắm vững đó làm đối tượng giống như thời gian vị thầy Bà-la-môn nói rằng ‘này con, Gò Mối ​​này ban đêm phun khói, ban ngày cháy rực, chúng ta sẽ thấy sự bất thường của Gò Mối ấy, con hãy phá vỡ nó thành 4 phần rồi ném nó đi.” Nên biết rằng việc xác định thân này đối với vị Hữu học với bốn giới (bốn sắc đại hiển) làm đối tượng như sau: “20 bộ phận cơ thể có tính chất rắn chắc bởi, đây là Địa Giới; 12 bộ phận cơ thể có tính chất kết dính, đây là  Thủy Giới; 4 phần có tính chất ấm áp, đây là Hỏa Giới. 6 phần có tính chất chuyển động, đây là Phong Giới.” giống như thanh niên Sumedha nhận lời rồi cầm lấy cuốc thực hiện việc làm đó.

laṅgīti kho, bhikkhūti kasmā bhagavā avijjaṃ laṅgīti katvā dassesīti? yathā hi nagarassa dvāraṃ pidhāya palighe yojite mahājanassa gamanaṃ pacchijjati, ye nagarassa anto, te antoyeva honti. ye bahi, te bahiyeva. evameva yassa ñāṇamukhe avijjālaṅgī patati, tassa nibbānasampāpakaṃ ñāṇagamanaṃ pacchijjati, tasmā avijjaṃ laṅgīti katvā dassesi. pajaha avijjanti ettha kammaṭṭhānauggahaparipucchāvasena avijjāpahānaṃ kathitaṃ.

Vì sao đức Thế Tôn thuyết giảng vô minh là cái then cửa trong câu: “Này Tỳ khưu cái then cửa là đồng nghĩa với vô minh”. Cũng giống như khi cổng thành đã đóng, gài then cửa, dân chúng cũng bị gián đoạn việc đi, những người bên trong thành, họ ở chính bên trong. Những người bên ngoài thành, họ cũng chỉ ở bên ngoài như thế nào, cái then cửa là vô minh rơi xuống  (phạm phi) trong tầm trí tuệ của người nào, sự đi đến là trí tuệ để chứng đạt Niết bàn của người đó cũng bị cắt đứt. Vì thế đức Thế Tôn thuyết vô minh trở thành như cái then cửa. Hãy diệt trừ vô minh: ở đây Ngài nói dứt trừ vô minh bằng sức mạnh của việc học và việc hỏi các đề mục nghiệp xứ.

uddhumāyikāti kho, bhikkhūti ettha uddhumāyikamaṇḍūko nāma no mahanto, nakhapiṭṭhippamāṇo hoti, purāṇapaṇṇantare vā gacchantare vā valliantare vā vasati. so daṇḍakoṭiyā vā vallikoṭiyā vā paṃsucuṇṇakena vā ghaṭṭito āyamitvā mahanto parimaṇḍalo beluvapakkappamāṇo hutvā cattāro pāde ākāsagate katvā pacchinnagamano hutvā amittavasaṃ yāti, kākakulalādibhattameva hoti. evameva ayaṃ kodho paṭhamaṃ uppajjanto cittāvilamattakova hoti. tasmiṃ khaṇe aniggahito vaḍḍhitvā mukhavikulanaṃ pāpeti. tadā aniggahito hanusañcopanaṃ pāpeti. tadā aniggahito pharusavācānicchāraṇaṃ pāpeti. tadā aniggahito disāvilokanaṃ pāpeti. tadā aniggahito ākaḍḍhanaparikaḍḍhanaṃ pāpeti. tadā aniggahito pāṇinā leḍḍudaṇḍasatthaparāmasanaṃ pāpeti. tadā aniggahito daṇḍasatthābhinipātaṃ pāpeti. tadā aniggahito paraghātanampi attaghātanampi pāpeti. vuttampi hetaṃ — “yato ayaṃ kodho paraṃ ghātetvā attānaṃ ghāteti, ettāvatāyaṃ kodho paramussadagato hoti paramavepullappatto”ti.

Này Tỳ khưu, con nhái: bình thường gọi là con nhái lúc chưa có phòng lên không to lắm, chỉ bằng cái móng tay sau, ở giữa những chiếc lá già mục, hoặc ở giữa các bụi cây, hay ở giữa những dây leo. Nó bị những đầu ngọn cây, các đầu dây leo, hoặc do bụi cọ sát, nó phồng người lên có chu vi lớn, thân hình to một trái beluva chín, 4 chân hỗn loạn trên không (không đi được), rơi vào mãnh lực của kẻ thù trở thành con mồi của loài quạ và loài cú mèo v.v, như thế nào. Sự giận dữ này cũng như thế đó tương tự, khi nó mới sanh khởi nó chỉ là một sự khuấy động của tâm, (nếu) không kiềm chế trong lúc đó, cũng (có thể) dẫn đến sự nhăn mặt cau mày; không kiềm chế trong lúc đó, cũng (có thể) dẫn đến cằm run lên; không kiềm chế trong lúc đó, cũng (có thể) dẫn đến việc nói ra những lời thô ác; không kiềm chế trong lúc đó, cũng (có thể) dẫn đến việc không thấy phương hướng (hoa mắt); không kiềm chế trong lúc đó, cũng (có thể) dẫn đến việc lôi kéo giữa đôi bên; không kiềm chế trong lúc đó, cũng (có thể) dẫn đến bằng nắm tay, cục đất, gậy gộc và vũ khí; không kiềm chế trong lúc đó, cũng (có thể) dẫn đến việc giết chốc bằng gậy và vũ khí; không kiềm chế trong lúc đó, cũng (có thể) dẫn đến việc giết người khác, (hoặc) tự giết chính mình. Tóm lại điều này đã được Ngài nói rằng – “Khi nào sự giận dữ khiến cho giết chết người khác rồi giết chết mình, đến chừng ấy thì sự giận dữ (của người ấy) đã đạt đến mức quá mãnh liệt, đã đạt đến mức tận cùng”.

tattha yathā uddhumāyikāya catūsu pādesu ākāsagatesu gamanaṃ pacchijjati, uddhumāyikā amittavasaṃ gantvā kākādibhattaṃ hoti, evameva kodhasamaṅgīpuggalo kammaṭṭhānaṃ gahetvā vaḍḍhetuṃ na sakkoti, amittavasaṃ yāti, sabbesaṃ mārānaṃ yathākāmakaraṇīyo hoti. tenāha bhagavā — “uddhumāyikāti kho, bhikkhu, kodhūpāyāsassetaṃ adhivacanan”ti. tattha balavappatto kodhova kodhūpāyāso. pajaha kodhūpāyāsanti ettha paṭisaṅkhānappahānaṃ kathitaṃ.

Ở đó, giống như cả 4 chân của con nhái hỗn loạn trên không, không đi được, rơi vào mãnh lực của kẻ thù trở thành con mồi của loài quạ và loài cú mèo v.v, như thế nào, hạng người rơi vào mãnh lực của sự giận dữ cũng tương tự y như thế, không thể nắm bắt được đối tượng nghiệp xứ làm cho tăng trưởng, rơi vào mãnh lực của kẻ thù, bị toàn bộ ác ma có thể sai khiến làm theo ý muốn của chúng. Vì lý do đó đức Thế Tôn đã nói rằng – “Này Tỳ khưu, con nhái là đồng nghĩa với sự giận dữ và hiềm hận”. Ở đó, sự giận dữ được gọi là hiềm hận bởi sức mạnh của sự giận giữ. Ở đây, Ngài nói rằng việc từ bỏ bằng sự quán chiếu trong câu “hãy từ bỏ sự giận dữ và hiềm hận”.

dvidhāpathoti ettha, yathā puriso sadhano sabhogo kantāraddhānamaggappaṭipanno dvedhāpathaṃ patvā, “iminā nu kho gantabbaṃ, iminā gantabban”ti nicchetuṃ asakkonto tattheva tiṭṭhati, atha naṃ corā uṭṭhahitvā anayabyasanaṃ pāpenti, evameva kho mūlakammaṭṭhānaṃ gahetvā nisinno bhikkhu buddhādīsu kaṅkhāya uppannāya kammaṭṭhānaṃ vaḍḍhetuṃ na sakkoti, atha naṃ kilesamārādayo sabbe mārā anayabyasanaṃ pāpenti, iti vicikicchā dvedhāpathasamā hoti. tenāha bhagavā — “dvidhāpathoti kho, bhikkhu, vicikicchāyetaṃ adhivacanan”ti. pajaha vicikicchanti ettha kammaṭṭhānauggahaparipucchāvasena vicikicchāpahānaṃ kathitaṃ.

Con đường hai ngã này ở đây, hạng người có tài sản, của cải đi xa vào rừng núi hoang vu, đến con đường 2 ngã, không thể quyết định nên đi ngả này hay không nên đi ngả này, đứng lại ngay tại chỗ đó đó, do vậy khi bọn cướp xuất hiện sẽ đưa đến sự bất hạnh và tổn hại cho người ấy như thế nào; vị Tỳ khưu ngồi nắm bắt nghiệp xứ căn bản cũng như thế đó, khi khởi lên sự nghi ngờ đối với đức Phật v.v, không thể phát triển nghiệp xứ, lúc đó toàn bộ ác ma có phiền não ma v.v, đưa đến sự bất hạnh và tổn hại cho vị tỳ khưu ấy, do vậy hoài nghi mới đồng nghĩa với con đường hai ngã. Vì lý do đó mà đức Thế Tôn đã nói rằng – “Này Tỳ khưu, con đường 2 ngã đó là tên gọi của hoài nghi.Hãy dứt trừ hoài nghi ở đây Ngài nói dứt trừ hoài nghi bằng việc học và việc hỏi các về đề mục nghiệp xứ.

caṅgavāranti ettha, yathā rajakehi khāraparissāvanamhi udake pakkhitte eko udakaghaṭo dvepi dasapi vīsatipi ghaṭasatampi paggharatiyeva, pasaṭamattampi udakaṃ na tiṭṭhati, evameva nīvaraṇasamaṅgino puggalassa abbhantare kusaladhammo na tiṭṭhati. tenāha bhagavā — “caṅgavāranti kho, bhikkhu, pañcannetaṃ nīvaraṇānaṃ adhivacanan”ti. pajaha pañcanīvaraṇeti ettha vikkhambhanatadaṅgavasena nīvaraṇappahānaṃ kathitaṃ.

Ở đây, đồ lọc nước (tạp chất), giống như khi người thợ đổ nước vào bình lọc nước thứ 1,bình lọc thứ 2, bình lọc thứ 10, bình lọc thứ 20, hay bình lọc thứ 100 cũng đều chảy ra hết, nước thậm chí chút ít trong lòng bàn tay cũng không giữ được như thế nào, thiện pháp bên trong của con người gắn bó với các pháp ngăn che không thể vững trú cũng tương tự như thế ấy. Vì thế đức Thế Tôn đã nói rằng – “Này Tỳ khưu, đồ lọc nước đó là tên gọi của năm pháp ngăn che.” Hãy đoạn trừ năm pháp ngăn che này ở đây Ngài nói dứt trừ năm pháp triền cái bằng sự từ bỏ do chế ngự và sự từ bỏ do thay thế.

kummoti ettha, yathā kacchapassa cattāro pādā sīsanti pañceva aṅgāni honti, evameva sabbepi saṅkhatā dhammā gayhamānā pañceva khandhā bhavanti. tenāha bhagavā — “kummoti kho, bhikkhu, pañcannetaṃ upādānakkhandhānaṃ adhivacanan”ti. pajaha pañcupādānakkhandheti ettha pañcasu khandhesu chandarāgappahānaṃ kathitaṃ.

Ở đây, con rùa, giống như con rùa có 5 chi phần gồm 4 chân và 1 cái đầu như thế nào, các Pháp Hữu Vi khi gom ại cũng chỉ có năm uẩn tương tự như thế đó, vì thế đức Thế Tôn đã nói rằng – “Này Tỳ khưu, con rùa là tên gọi của ngũ uẩn thủ.” Hãy dứt trừ năm thủ ngũ uẩn này nói đến việc dứt bỏ dục vọng và ái luyến trong năm uẩn.

asisūnāti ettha, yathā sūnāya upari maṃsaṃ ṭhapetvā asinā koṭṭenti, evamime sattā vatthukāmatthāya kilesakāmehi ghātayamānā vatthukāmānaṃ upari katvā kilesakāmehi kantitā koṭṭitā ca honti. tenāha bhagavā — “asisūnāti kho, bhikkhu, pañcannetaṃ kāmaguṇānaṃ adhivacanan”ti. pajaha pañca kāmaguṇeti ettha pañcasu kāmaguṇesu chandarāgappahānaṃ kathitaṃ.

Ở đây cái thớt, giống như một người lấy một miếng thịt đặt lên cái thớt, lấy con dao bằm (thịt) ra như thế nào, những chúng sanh này khi bị phiền não dục siết chặt nhằm mục  đích đặt chúng vào các vật dục (vatthukamma), bị các phiền não dục nghiền, giã cũng như thế đó. Vì lý do đó đức Thế Tôn đã nói rằng – “Này Tỳ khưu, cái thớt băm thịt đồng nghĩa với năm loại dục.Hãy dứt trừ năm loại dục này nói đến việc dứt bỏ dục vọng và ái luyến trong năm loại dục.

maṃsapesīti kho, bhikkhūti ettha ayaṃ maṃsapesi nāma bahujanapatthitā khattiyādayo manussāpi naṃ patthenti kākādayo tiracchānāpi. ime hi sattā avijjāya sammattā nandirāgaṃ upagamma vaṭṭaṃ vaḍḍhenti. yathā vā maṃsapesi ṭhapitaṭhapitaṭṭhāne laggati, evamime sattā nandirāgabaddhā vaṭṭe lagganti, dukkhaṃ patvāpi na ukkaṇṭhanti, iti nandirāgo maṃsapesisadiso hoti. tenāha bhagavā — “maṃsapesīti kho, bhikkhu, nandirāgassetaṃ adhivacanan”ti. pajaha nandīrāganti ettha catutthamaggena nandīrāgappahānaṃ kathitaṃ.

Này Tỳ khưu cục thịt: ở đây được gọi là cục thịt này đa số mọi người đều mong muốn, nhân loại như Vua chúa v.v, cả loài bàng sanh như loài quạ đều muốn có được (để ăn), những chúng sanh này gắn liền với vô minh dựa vào vui vẻ và luyến ái, thay vào đó mong muốn vòng luân hồi, giống như cục thịt dính vào chỗ đã đặt xuống như thế nào, chúng sanh này vui vẻ và luyến ái trói buộc dính vào trong vòng luân hồi thậm chí đối diện với khổ đau không nhàm chán như thế đó. Vì thế đức Thế Tôn đã nói rằng – “Này Tỳ khưu, cục thịt này là tên của vui vẻ và luyến ái”. Hãy dứt trừ vui vẻ và luyến ái này Ngài nói việc dứt trừ vui vẻ và luyến ái bằng bốn Thánh Đạo.

nāgoti kho, bhikkhu, khīṇāsavassetaṃ bhikkhuno adhivacananti ettha yenatthena khīṇāsavo nāgoti vuccati, so anaṅgaṇasutte (ma. ni. aṭṭha. 1.63) pakāsito eva. namo karohi nāgassāti khīṇāsavassa buddhanāgassa, “buddho so bhagavā bodhāya dhammaṃ deseti, danto so bhagavā damathāya dhammaṃ deseti, santo so bhagavā samathāya dhammaṃ deseti, tiṇṇo so bhagavā taraṇāya dhammaṃ deseti, parinibbuto so bhagavā parinibbānāya dhammaṃ desetī”ti (ma. ni. 1.361) evaṃ namakkāraṃ karohīti ayamettha attho. iti idaṃ suttaṃ therassa kammaṭṭhānaṃ ahosi. theropi idameva suttaṃ kammaṭṭhānaṃ katvā vipassanaṃ vaḍḍhetvā arahattaṃ patto. ayametassa atthoti ayaṃ etassa pañhassa attho. iti bhagavā ratanarāsimhi maṇikūṭaṃ gaṇhanto viya yathānusandhināva desanaṃ niṭṭhapesīti.

Này Tỳ khưu, con rắn hổ là đồng nghĩa với vị Tỳ khưu đã diệt trừ các lậu hoặc: ở đây Ngài gọi là rắn hổ mang với ý nghĩa nào, ý nghĩa đó Ngài đã nói trong Kinh Anaṅgaṇa (ma. ni. aṭṭha. 1.63). Hãy thực hiện sự cung kính đức Phật đấng Tượng Vương vị lậu tận rằng: “Đức Thế Tôn đã giác ngộ, Ngài thuyết pháp để giác ngộ; đức Thế Tôn đã điều phục, Ngài thuyết pháp để điều phục; đức Thế Tôn đã tịch tĩnh, Ngài thuyết pháp để tịch tĩnh; đức Thế Tôn đã vượt qua, Ngài thuyết pháp để vượt qua; đức Thế Tôn đã chứng Niết bàn, Ngài thuyết pháp để chứng Niết bàn.” (ma. ni. 1.361), bài Kinh này là nghiệp xứ của Trưởng lão bằng cách này. Phía Trưởng lão đã thực hiện bài Kinh này trở thành nghiệp xứ, đã phát triển minh sát, đã chứng đắc Niết bàn. Lời đó có ý nghĩa như này (ayametassa attho): đây là nội dung của vấn đề đó, đức Thế Tôn giống như giữ lấy định ngọc ma-ni trong khối ngọc, kết thúc lời thuyết giảng theo tuần tự liên kết.

Giải Thích Kinh Gò Mối Kết Thúc.

[1] Kākaṇika: giá trị tiền tệ thời xưa, có giả trị cực kỳ nhỏ chỉ bằng ⅛ kahāpana được sắp xếp theo thứ tự như sau kahāpana aḍḍha pāda māsaka kākaṇika.