Kinh số 22 – Giải Thích Kinh Ví Dụ Con Rắn
(Alagaddūpamasuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Ví Dụ Con Rắn
- evaṃ me sutanti alagaddūpamasuttaṃ. tattha gaddhe bādhayiṃsūti gaddhabādhino, gaddhabādhino pubbapurisā assāti gaddhabādhipubbo, tassa gaddhabādhipubbassa, gijjhaghātakakulappasutassāti attho.
[234] Kinh Ví Dụ Con Rắn được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, người nào gây hại cho loài kền kền (do nhân đó) người ấy được gọi là người bức hại loài kền kền, Tỳ khưu Ariṭṭha là người trước đây làm nghề sát hại loài kền kền (do nhân đó) mới gọi là người trước đây làm nghề bức hại loài kền kền, có nghĩa là (vị ấy) con trai của gia tộc người đã từng giết hại loài kền kền gọi là người kế thừa của gia tộc sát hại loài kền kền.
saggamokkhānaṃ antarāyaṃ karontīti antarāyikā. te kamma-kilesa-vipāka upavādāaṇāvītikkamavasena pañcavidhā.
Gọi là sự hình thành chướng ngại pháp [antarāyikadhamma] bởi vì làm trở ngại đến (sự tái sanh) các cõi trời và (sự chứng ngộ) Niết-bàn. Có năm sự hình thành chướng ngại pháp là (1) kammantarāyika: sự hình thành chướng ngại do trọng ác nghiệp, (2) kilesantarāyika: sự hình thành chướng ngại do phiền não, (3) vipākantarāyika: sự hình thành chướng ngại do quả tái sanh, (4) Ariyupavādantarāyika: sự hình thành chướng ngại do chê trách bậc Thánh Nhân. (5) aṇāvitikkamantarāyika: sự hình thành chướng ngại do phạm giới.
tattha pañcānantariyadhammā kammantarāyikā nāma. tathā bhikkhunīdūsakakammaṃ, taṃ pana mokkhasseva antarāyaṃ karoti, na saggassa. niyatamicchādiṭṭhidhammā kilesantarāyikā nāma. paṇḍakatiracchānagataubhatobyañjanakānaṃ paṭisandhidhammā vipākantarāyikā nāma. ariyūpavādadhammā upavādantarāyikā nāma, te pana yāva ariye na khamāpenti, tāvadeva, na tato paraṃ. sañcicca vītikkantā satta āpattikkhandhā āṇāvītikkamantarāyikā nāma. tepi yāva bhikkhubhāvaṃ vā paṭijānāti, na vuṭṭhāti vā, na deseti vā, tāvadeva, na tato paraṃ.
Ở đó, năm sự hình thành chướng ngại pháp được gọi sự hình thành chướng ngại do trọng ác nghiệp, trong cách đó làm hoen ố danh tiếng Tỳ khưu ni cũng là sự hình thành chướng ngại pháp do trọng ác nghiệp, những việc làm hoen ố danh tiếng Tỳ khưu ni đó không những làm cản trở (sự chứng đạt) Niết-bàn, mà còn cản trở (sự đạt đến) các cõi trời. Pháp tà kiến cố định gọi là sự hình thành chướng ngại pháp do phiền não. pháp tục sanh của người dị tính, loài bàng sanh, và người lưỡng tính (tính nam và tính nữ) được gọi là sự hình thành chướng ngại do quả tái sanh. Pháp chê trách bậc Thánh Nhân gọi là sự hình thành chướng ngại do chê trách, nhưng sự chê trách bậc Thánh Nhân đó (sẽ) tạo ra mối nguy hại trong khoảng thời gian nếu không được các bậc Thánh xá tội, cho đến khi nào các bậc thánh xá tôi, cho đến khi ấy (sẽ) không còn nguy hại. Bảy nhóm tội mà vị Tỳ khưu đã (cố ý) vi phạm gọi là sự hình thành chướng ngại do phạm giới. Sự hình thành chướng ngại do phạm giới đó làm nguy hại trong khoảng thời gian cho vị Tỳ khưu phạm tội vẫn thừa nhận là Tỳ khưu, hoặc không chịu hình phạt biệt trú, hoặc không nói rõ tội, sau đó (khi đã thực hành giải tội theo sự việc) thì không còn chướ.
tatrāyaṃ bhikkhu bahussuto dhammakathiko sesantarāyike jānāti, vinaye pana akovidattā paṇṇattivītikkamantarāyike na jānāti, tasmā rahogato evaṃ cintesi — ime āgārikā pañca kāmaguṇe paribhuñjantā sotāpannāpi sakadāgāminopi anāgāminopi honti. bhikkhūpi manāpikāni cakkhuviññeyyāni rūpāni passanti … pe … kāyaviññeyye phoṭṭhabbe phusanti, mudukāni attharaṇapāvuraṇādīni paribhuñjanti, etaṃ sabbaṃ vaṭṭati. kasmā itthīnaṃyeva rūpasaddagandharasaphoṭṭhabbā na vaṭṭanti? etepi vaṭṭantīti. evaṃ rasena rasaṃ saṃsandetvā sacchandarāgaparibhogañca nicchandarāgaparibhogañca ekaṃ katvā thūlavākehi saddhiṃ atisukhumasuttaṃ upanento viya, sāsapena saddhiṃ sineruṃ upasaṃharanto viya, pāpakaṃ diṭṭhigataṃ uppādetvā, “kiṃ bhagavatā mahāsamuddaṃ bandhantena viya mahatā ussāhena paṭhamapārājikaṃ paññattaṃ, natthi ettha doso”ti sabbaññutaññāṇena saddhiṃ paṭivirujjhanto vesārajjañāṇaṃ paṭibāhanto ariyamagge khāṇukaṇṭakādīni pakkhipanto methunadhamme doso natthīti jinassa āṇācakke pahāraṃ adāsi. tenāha — “tathāhaṃ bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmī”tiādi.
Trong sự hình thành chướng ngại pháp đó vị Tỳ khưu là bậc đa văn, là vị pháp sư biết được các sự hình thành chướng ngại pháp còn lại, nhưng là kẻ thiểu trí trong giới luật mới không biết trong sự hình thành chướng ngại pháp vi phạm chế định, do vậy Tỳ khưu Ariṭṭha ở nơi thanh vắng khởi lên suy nghĩ rằng – gia chủ này thọ dụng năm loại dục là vị Nhập Lưu, hay vị Nhất Lai, hay vị Bất Lai. Phía các Tỳ khưu quán xét thấy sắc khả ái đáng cho mắt nhận biết -nt- sự xúc chạm đối tượng xúc đáng cho thân nhận biết, (vị ấy) sử dụng (tấm vải) để trải giường hoặc mặc vào áo tấm áo choàng mềm mại, tất cả điều này phù hợp (cùng vị Tỳ khưu). Tại sao sắc, thanh, khí, vị, xúc của người nữa lại không thích hợp? Sắc v.v, này tất cả đều phù hợp. Tỳ khưu Ariṭṭha đã so sánh vị với vị như vậy, kết hợp hưởng thụ với mãnh lực có mong muốn và ái luyến, với việc hưởng thụ không có mong muốn và ái luyến, giống như một tấm vải vô cùng mịn so với tấm vải thô cứng, tương tự y như thể so sánh ngọn núi Sineru với hạt cải, đã khởi lên ác tà kiến, có sự mâu thuẫn với trí tuệ toàn giác, “tại sao Đức Thế Tôn lại chế định điều Pārājika thứ nhất với sự nỗ lực to lớn, như ngăn cả đại dương, lỗi lầm trong việc chế định đó không có.” Đối nghịch với bốn vô sở úy trí, chôn lấp gốc cây và gai góc v.v, xuống trong Thánh Đạo, phá hủy mệnh lệnh của bậc chiến thắng đó rằng: “lỗi lầm trong việc (thực hiện việc) đôi lứa không có.” Vì thế, Tỳ khưu Ariṭṭha đã nói: “Tôi hiểu biết Giáo Pháp mà đức Thế Tôn thuyết giảng.”
evaṃ byā khoti evaṃ viya kho. samanuyuñjantītiādīsu kiṃ laddhiko tvaṃ, laddhiṃ vadehīti pucchamānā samanuyuñjanti nāma. diṭṭhiṃ patiṭṭhāpentā samanuggāhanti nāma. kena kāraṇena evaṃ vadasīti kāraṇaṃ pucchantā samanubhāsanti nāma. aṭṭhikaṅkalūpamātiādīsu (ma. ni. 2.42-48) aṭṭhikaṅkalūpamā appassādaṭṭhena. maṃsapesūpamā bahusādhāraṇaṭṭhena. tiṇukkūpamā anudahanaṭṭhena. aṅgārakāsūpamā mahābhitāpanaṭṭhena. supinakūpamā ittarapaccupaṭṭhānaṭṭhena. yācitakūpamā tāvakālikaṭṭhena. rukkhaphalūpamā sabbaṅgapaccaṅgapalibhañjanaṭṭhena. asisūnūpamā adhikuṭṭanaṭṭhena. sattisūlūpamā vinivijjhanaṭṭhena. sappasirūpamā sāsaṅkasappaṭibhayaṭṭhena. thāmasāti diṭṭhithāmena. parāmāsāti diṭṭhiparāmāsena. abhinivissa voharatīti adhiṭṭhahitvā voharati dīpeti vā.
evaṃ byā kho đồng nghĩa evaṃ viya kho [sự thật là vậy]. Cật vấn v.v, các Tỳ khưu hỏi rằng Ngài có học thuyết gì hãy nói học thuyết ấy gọi là thẩm vấn, khi thẩm vấn gọi là hỏi về lý lẽ. Khi hỏi về lý do, vì sao mà Ngài nói như vậy gọi là đàm luận. (Các dục) được ví như đống xương v.v, (ma. ni. 2.42-48) nên biết như vầy (các dục) ví như đóng xương (không còn thịt) với ý nghĩa có chút ít sự thỏa thích, (các dục) ví như miếng thịt (bị diều hâu tha đi) với ý nghĩa với ý nghĩa vật chung của số đông, (các dục) ví như là cây đuốc cỏ với ý nghĩa thiêu đốt, (các dục) ví như hố than hừng với ý nghĩa làm cho nóng đốt, (các dục) ví như giấc mơ với ý nghĩa xuất hiện ngắn ngủi, (các dục) ví như vật vay mượn với ý nghĩa tạm thời, (các dục) ví như trái trên cây với ý nghĩa toàn bộ thân cây và cành cây bị gãy đổ, (các dục) ví như lò mổ với ý nghĩa chặt chém, (các dục) ví như mũi lao nhọn với ý nghĩa đâm thủng, (các dục) ví như đầu rắn độc với ý nghĩa đáng chán ghét và có sự sợ hãi. Thāmasā: với năng lực sức mạnh của tà kiến. Parāmāsā: với sự chấp thủ của tà kiến. abhinivissa voharati (chấp chặt): say mê nói hoặc giải thích rõ ràng.
- yato kho te bhikkhūti yadā te bhikkhū. evaṃ byā kho ahaṃ, bhante, bhagavatāti idaṃ esa attano ajjhāsayena natthīti vattukāmopi bhagavato ānubhāvena sampaṭicchati, buddhānaṃ kira sammukhā dve kathā kathetuṃ samattho nāma natthi.
[235] yato kho te bhikkhū đồng nghĩa yadā te bhikkhū [khi nào vị Tỳ khưu đó]. Tỳ khưu Ariṭṭha mặc dù muốn nói rằng không có theo khuynh hướng của bản thân cũng chấp nhận lời này “Kính bạch đức Thế Tôn, tôi biết đến pháp…” bằng oai lực của đức Thế Tôn. Biết rằng gọi là người có thể nói 2 lời trước mặt của đức Thế Tôn không có.
- kassa kho nāma tvaṃ moghapurisāti tvaṃ moghapurisa kassa khattiyassa vā brāhmaṇassa vā vessassa vā suddassa vā gahaṭṭhassa vā pabbajitassa vā devassa vā manussassa vā mayā evaṃ dhammaṃ desitaṃ ājānāsi. atha kho bhagavā bhikkhū āmantesīti ayaṃ pāṭiyekko anusandhi. ariṭṭho kira cintesi — “bhagavā maṃ moghapurisoti vadati, na kho pana moghapurisāti vuttamattakena maggaphalānaṃ upanissayo na hoti. upasenampi hi vaṅgantaputtaṃ, ‘atilahuṃ kho tvaṃ, moghapurisa, bāhullāya āvatto’ti (mahāva. 75) bhagavā moghapurisavādena ovadi. thero aparabhāge ghaṭento vāyamanto cha abhiññā sacchākāsi. ahampi tathārūpaṃ vīriyaṃ paggaṇhitvā maggaphalāni nibbattessāmī”ti. athassa bhagavā bandhanā pavuttassa paṇḍupalāsassa viya aviruḷhibhāvaṃ dassento imaṃ desanaṃ ārabhi.
[236] Này kẻ ngu si ông biết Pháp mà Ta thuyết giảng như vậy cho ai? này kẻ ngu si ông hiểu Pháp mà Ta thuyết giảng cho ai? cho Sát-đế-lỵ, hay Bà-la-môn, hay thương gia, hay giai cấp nô lệ, hay người gia chủ, hay người xuất gia, hay chư Thiên, hay loài người. Khi ấy đức Thế Tôn cho gọi các Tỳ khưu đến: Đây là lời nói để liên kết phần tiếp theo. Tỳ khưu Ariṭṭha nghĩ rằng: “đức Thế Tôn gọi ta là kẻ ngu si, mà còn không có pháp làm y chỉ để chứng đắc Đạo và Quả, chỉ với lý do nói rằng kẻ ngu si, bởi vì đức Thế Tôn thuyết dạy Upasena con trai của Vaṅganta bằng lời nói rằng kẻ ngu si, này kẻ ngu si ngươi trở thành đa đoan quá nhanh chóng. (mahāva. 75). Về sau trưởng lão đã nỗ lực tinh tấn thực hành thấy rõ sáu thắng trí với suy nghĩ rằng ngay cả khi ta duy trì sự tinh tấn như vậy sẽ làm cho Đạo và Quả sanh khởi.” Tiếp sau đó, đức Thế Tôn trong khi thuyết giảng rằng Tỳ khưu Ariṭṭha là người không trưởng thành (trong Giáo Pháp) giống như chiếc lá vàng rơi ra khỏi cuốn lá, rồi mới bắt đầu sự thuyết giảng Giáo Pháp.
usmīkatopīti bhikkhave, tumhe kinti maññatha, ayaṃ ariṭṭho evaṃladdhiko sabbaññutaññāṇena paṭivirujjhitvā vesārajjañāṇaṃ paṭibāhitvā tathāgatassa āṇācakke pahāraṃ dadamāno api nu imasmiṃ dhammavinaye usmīkatopi? yathā nibbutepi mahante aggikkhandhe khajjupanakamattāpi aggipapaṭikā hotiyeva, yaṃ nissāya puna mahāaggikkhandho bhaveyya. kiṃ nu kho evaṃ imassa appamattikāpi ñāṇusmā atthi, yaṃ nissāya vāyamanto maggaphalāni nibbatteyyāti? no hetaṃ, bhanteti, bhante, evaṃladdhikassa kuto evarūpā ñāṇusmāti? maggaphalānaṃ paccayasamatthāya ñāṇusmāya usmīkatabhāvaṃ paṭikkhipantā vadanti. maṅkubhūtoti nittejabhūto. pattakkhandhoti patitakkhandho. appaṭibhānoti kiñci paṭibhānaṃ apassanto bhinnapaṭibhāno evarūpampi nāma niyyānikasāsanaṃ labhitvā aviruḷhidhammo kiramhi samugghātitapaccayo jātoti attano abhabbataṃ paccavekkhanto pādaṅguṭṭhakena bhūmiṃ khaṇamāno nisīdi.
Có thể khởi lên tia lửa sáng: này các Tỳ khưu, các ông nghĩ như thế nào? Tỳ khưu Ariṭṭha này có học thuyết như vậy mâu thuẫn với trí tuệ toàn giác, bác bỏ bốn vô sở úy trí, phá tan mệnh lệnh của Như Lai, vị ấy có thể khởi lên tia lửa sáng trong Pháp và Luật này chăng? là Tỳ khưu Ariṭṭha nương vào sức nóng của trí dù có chút ít, tinh tấn, sẽ làm Đạo và Quả sanh khởi được hay không? giống như một ngọn lửa nhỏ nhoi bằng (ánh sáng) con đom đóm trong một đống lửa lớn mặc dù nó đã bị dập tắt có thể đốt lên đống lớn tương tự thế. Sẽ không thể có được: chư Tỳ khưu đã phản đối lại Tỳ khưu Ariṭṭha không thể khởi lên tia lửa sáng bởi không có sức nóng của trí làm duyên khiến cho Đạo và Quả sanh khởi như sau: “Kính bạch đức Thế Tôn, Tỳ khưu Ariṭṭha, người có học thuyết như vậy, có sức nóng của trí tuệ bằng hình thức như thế ở đâu?”. Hổ thẹn: người mất uy quyền. Pattakkhandho đồng nghĩa patitakkhandho (cúi đầu). Lúng túng: không biết nói gì, nói không ra lời. Tỳ khưu Ariṭṭha thấy rằng bản thân là hạng người không có khả năng (giác ngộ) biết rằng ta đã có được lời dạy dẫn dắt thoát khỏi khổ đau bằng hình thức như vậy, không tăng trưởng (trong Giáo Pháp), ta có duyên (chứng đắc Đạo và Quả) đã bị nhổ bỏ, như vậy ngồi (im lặng) lấy đầu ngón tay cào vào mặt đất.
paññāyissasi khoti ayampi pāṭiyekko anusandhi. ariṭṭho kira cintesi — “bhagavā mayhaṃ maggaphalānaṃ upanissayo pacchinnoti vadati, na kho pana buddhā saupanissayānaṃyeva dhammaṃ desenti, anupanissayānampi desenti, ahaṃ satthu santikā sugatovādaṃ labhitvā attano sampattūpagaṃ kusalaṃ karissāmī”ti. athassa bhagavā ovādaṃ paṭipassambhento “paññāyissasī”tiādimāha. tassattho, tvaṃyeva, moghapurisa, iminā pāpakena diṭṭhigatena nirayādīsu paññāyissasi, mama santikā tuyhaṃ sugatovādo nāma natthi, na me tayā attho, idhāhaṃ bhikkhū paṭipucchissāmīti.
Vị ấy sẽ xuất hiện: đáy chỉ là lời nói để liên kết phần tiếp theo. Kể rằng Tỳ khưu Ariṭṭha nghĩ rằng đức Thế Tôn nói rằng ta là người đã bẻ gãy pháp làm chỗ ý cứ của Đạo và Quả, chư Phật không chỉ thuyết giảng Giáo Pháp cho người có căn tánh, mà còn thuyết Pháp cho người không có căn tánh, ta đã có được lời dạy của Thiện Thệ từ hội chúng của bậc Đạo Sư, (ta) sẽ hành thiện pháp để đạt đến sự thành tựu của chính mình.” Khi ấy đức Thế Tôn trong khi dừng lời giáo huấn mới thuyết rằng ‘ông sẽ xuất hiện’. Có nghĩa rằng này kẻ ngu si, ông sẽ xuất hiện trong địa ngục với tà kiến ác đó. Ông không có được lời dạy của Thiện Thệ từ Ta, ông không có lợi ích đối với Ta, Ta sẽ thẩm vấn chư Tỳ khưu ở đây.
- atha kho bhagavāti ayampi pāṭiyekko anusandhi. imasmiñhi ṭhāne bhagavā parisaṃ sodheti, ariṭṭhaṃ gaṇato nissāreti. sace hi parisagatānaṃ kassaci evaṃ bhaveyya — “ayaṃ ariṭṭho bhagavatā akathitaṃ kathetuṃ kiṃ sakkhissati, kacci nu kho parisamajjhe bhagavatā kathāya samāraddhāya sahasā kathitan”ti. evaṃ kathitaṃ pana na ariṭṭhova suṇāti, aññenapi sutaṃ bhavissati. athāpissa siyā “yathā satthā ariṭṭhaṃ niggaṇhāti, mampi evaṃ niggaṇheyyāti sutvāpi tuṇhībhāvaṃ āpajjeyyā”ti. “taṃ sabbaṃ na karissantī”ti. mayāpi na kathitaṃ, aññena sutampi natthīti “tumhepime, bhikkhave”tiādinā parisāya laddhiṃ sodheti. parisāya pana laddhisodhaneneva ariṭṭho gaṇato nissārito nāma hoti.
[237] Khi ấy đức Thế Tôn: đây là lời nói để liên kết phần tiếp theo. Bởi vì ở đây đức Thế Tôn đang thanh lọc hội chúng (thay đổi cái nhìn cho đúng đắn) và trục xuất Tỳ khưu Ariṭṭha ra khỏi hội chúng. Bởi nếu một số vị Tỳ khưu ở trong hội chúng có thể nghĩ như vầy: “Khi đức Thế Tôn bắt đầu kệ ngôn, cũng vội vàng thuyết ở giữa hội chúng chăng? lời ấy thuyết như vậy, chỉ riêng Tỳ khưu Ariṭṭha không được nghe, những vị khác có thể nghe. Và như thế một số Tỳ khưu nghĩ rằng: “Bậc Đạo Sư trục xuất ta giống như trục xuất Tỳ khưu Ariṭṭha, thậm chí sau khi đã nghe (các vị ấy) cũng ngồi im lặng, không làm bất cứ điều gì, với suy nghĩ rằng ta không nói, người khác cũng không nghe, vì thế đức Thế Tôn làm cho tinh khiết Giáo lý trong hội chúng với Phật ngôn như vầy: “Này chư Tỳ khưu, dù các ông hiểu Pháp…” v.v, Tỳ khưu Ariṭṭha được gọi là bị đức Thế Tôn trục xuất khỏi hội chúng bằng việc làm cho tinh khiết Giáo lý trong hội chúng.
idāni ariṭṭhassa laddhiṃ pakāsento so vata, bhikkhavetiādimāha. tattha aññatreva kāmehītiādīsu yo so, bhikkhave, bhikkhu “te paṭisevato nālaṃ antarāyāyā”ti evaṃladdhiko, so vata kilesakāmehi ceva kilesakāmasampayuttehi saññāvitakkehi ca aññatra, ete dhamme pahāya, vinā etehi dhammehi, vatthukāme paṭisevissati, methunasamācāraṃ samācarissatīti netaṃ ṭhānaṃ vijjati. idaṃ kāraṇaṃ nāma natthi, aṭṭhānametaṃ anavakāsoti.
Bây giờ, đức Thế Tôn trong khi tuyên thuyết học thuyết của Tỳ khưu Ariṭṭha, Ngài đã nói rằng “chư Tỳ khưu, quả thật Tỳ khưu Ariṭṭhi thọ hưởng dục lạc v.v,” nên biết lý giải trong lời đó như sau: Ngoại trừ dục trong lời Pāḷi đó “này chư Tỳ khưu, vị Tỳ khưu nào đó có học thuyết như vầy, các Pháp ấy không thể làm nguy hại đến người thọ hưởng (dục lạc), thì vị Tỳ khưu đó sẽ hưởng thụ tất cả các vật dục là sự thực hiện việc đôi lứa trừ phiền não dục và sưu tầm về tưởng gắn liền với phiền não dục, dứt trừ các Pháp đó (ngoài các Pháp đó). Sự kiện này không thể xảy ra: nguyên nhân này không có, điều đó không phải là lý do, không duyên cớ.
- evaṃ bhagavā ayaṃ ariṭṭho yathā nāma rajako sugandhānipi duggandhānipi jiṇṇānipi navānipi suddhānipi asuddhānipi vatthāni ekato bhaṇḍikaṃ karoti, evameva bhikkhūnaṃ nicchandarāgapaṇītacīvarādiparibhogañca anibaddhasīlānaṃ gahaṭṭhānaṃ antarāyakaraṃ sacchandarāgaparibhogañca nibaddhasīlānaṃ bhikkhūnaṃ āvaraṇakaraṃ sacchandarāgaparibhogañca sabbaṃ ekasadisaṃ karotīti ariṭṭhassa laddhiṃ pakāsetvā idāni duggahitāya pariyattiyā dosaṃ dassento idha, bhikkhave, ekaccetiādimāha.
[238] Đức Thế Tôn tuyên thuyết học thuyết của Tỳ khưu Ariṭṭha rằng Tỳ khưu Ariṭṭhi giống như người thợ nhuộm lấy vải thơm, vải hôi, vải cũ, vải mới, vải sạch, vải dơ mạng lại cuộn thành một cuộn vải như thế nào thì vị ấy cũng làm tương tự y như thế ấy thực hiện sử dụng y phục thượng hạng v.v, không có mong muốn và ái luyến đối với vị Tỳ khưu, trở thành tương tự việc làm việc sử dụng có mong muốn và ái luyến tạo ra sự nguy hại đối với người tại gia không thường thọ trì giới; và thực hiện việc sử dụng có mong muốn và ái luyến có ranh giới ngăn chặn của vị Tỳ khưu thọ trì giới luật thường xuyên, toàn bộ hợp thành một, bây giờ khi thuyết giảng lỗi lầm của pháp học mà đã không khéo học tập, nên Ngài mới nói rằng: “Chư Tỳ khưu, các kẻ ngu si trong Pháp và Luật này v.v.”
tattha pariyāpuṇantīti uggaṇhanti. suttantiādīsu ubhatovibhaṅganiddesakhandhakaparivārā, suttanipāte maṅgalasutta ratanasutta nālakasuātuvaṭṭakasuttāni, aññampi ca suttanāmakaṃ tathāgatavacanaṃ suttanti veditabbaṃ. sabbampi sagāthakaṃ suttaṃ geyyanti veditabbaṃ, visesena saṃyuttake sakalopi sagāthāvaggo. sakalaṃ abhidhammapiṭakaṃ, niggāthakaṃ suttaṃ, yañca aññampi aṭṭhahi aṅgehi asaṅgahitaṃ buddhavacanaṃ, taṃ veyyākaraṇanti veditabbaṃ. dhammapadaṃ, theragāthā, therigāthā, suttanipāte nosuttanāmikā suddhikagāthā ca gāthāti veditabbā. somanassañāṇamayikagāthāpaṭisaṃyuttā dveasītisuttantā udānanti veditabbā. “vuttañhetaṃ bhagavatā”tiādinayappavattā (itivu. 1,2) dasuttarasatasuttantā itivuttakanti veditabbā. apaṇṇakajātakādīni paṇṇāsādhikāni pañcajātakasatāni jātakanti veditabbāni. “cattārome, bhikkhave, acchariyā abbhutā dhammā ānande”tiādinayappavattā (a. ni. 4.129) sabbepi acchariyābbhutadhammappaṭisaṃyuttā suttantā abbhutadhammanti veditabbā. Cūḷavedalla mahāvedalla sammādiṭṭhi sakkapañhā saṅkhāra-bhājaniya mahāpuṇṇamasuttādayo sabbepi vedañca tuṭṭhiñca laddhā laddhā pucchitasuttantā vedallanti veditabbā.
Ở đây, pariyāpuṇantī: đang học tập. Nên biết lý giải từ Suttaṃ như sau: Ubhatovibhaṅga, Niddesa, Khandhaka, Parivāra, các bài kinh Maṅgalasutta, Ratanasutta, Nalakasutta, Tuvaṭakasutta trong Suttanipāta (Kinh Tập), và các lời dạy của đấng Như Lai có tựa đề là Kinh (Sutta) thì được xếp vào thể Kinh (Sutta). Các bài kinh có xen các bài kệ vào được biết là thể Geyya; đặc biệt toàn bộ Thiên Có Kệ (Sagāthāvagga) trong Kinh Tương Ưng Bộ nên biết rằng là thể Geyya. Toàn bộ Tạng Vi Diệu Pháp, các bài kinh không có xen lẫn các bài kệ, và các lời dạy khác của đức Phật không thuộc tám loại trên nên được biết rằng là thể Veyyākaraṇa. Kinh Pháp Cú, Trưởng Lão Tăng Kệ, Trưởng Lão Ni Kệ, các bài kệ có tên là không gọi là Kinh mà chỉ là kệ trong Kinh Tập (Suttanipāta) thì được xếp vào thể Gāthā. Tám mươi hai bài kinh liên quan đến các bài kệ thành tựu do tuệ giác hoan hỷ được xếp vào thể Udāna. Một trăm mười bài kinh được giới thiệu bằng: “vuttañhetaṃ bhagavatā (Đức Thế Tôn thuyết về điều ấy như vầy)” (itivu. 1,2) nên biết rằng là thể Itivuttaka. Năm trăm năm mươi bài kinh Bổn Sanh bắt đầu bằng Bổn Sanh Apaṇṇaka v.v, nên biết rằng là thể Jātaka. Tất cả các bài kinh liên quan đến pháp kỳ diệu phi thường và được giới thiệu như sau: “Này các Tỳ khưu, có bốn pháp kỳ diệu phi thường ở Ānanda,” (a. ni. 4.129) nên biết rằng là thể Abbhūtadhamma. Tất cả các bài kinh được hỏi và được liên tục ghi nhận trong sự hiểu biết và hoan hỷ như các bài kinh Cullavedalla, Mahāvedalla, Sammādiṭṭhi, Sakkapañhā, Saṅkhāra-bhājaniya, Mahāpuṇṇama, v.v… nên biết rằng là thể Vedalla.
atthaṃ na upaparikkhantīti atthatthaṃ kāraṇatthaṃ na passanti na pariggaṇhanti. anupaparikkhatanti anupaparikkhantānaṃ. na nijjhānaṃ khamantīti na upaṭṭhahanti na āpāthaṃ āgacchanti, imasmiṃ ṭhāne sīlaṃ samādhi vipassanā maggo phalaṃ vaṭṭaṃ vivaṭṭaṃ kathitanti evaṃ jānituṃ na sakkā hontīti attho. te upārambhānisaṃsā cevāti te paresaṃ vāde dosāropanānisaṃsā hutvā pariyāpuṇantīti attho. itivādappamokkhānisaṃsā cāti evaṃ vādapamokkhānisaṃsā, parehi sakavāde dose āropite taṃ dosaṃ evaṃ mocessāmāti imināva kāraṇena pariyāpuṇantīti attho. tañcassa atthaṃ nānubhontīti yassa ca maggassa vā phalassa vā atthāya kulaputtā dhammaṃ pariyāpuṇanti, tañcassa dhammassa atthaṃ ete duggahitaggāhino nānubhonti. apica parassa vāde upārambhaṃ āropetuṃ attano vādaṃ mocetuṃ asakkontāpi tañca atthaṃ nānubhontiyeva.
Không được suy xét đến ý nghĩa: không thấy, không xác định ý nghĩa bài Kinh, ý nghĩa của lý do. Không được suy xét: xác định không được. nên không trở thành rõ ràng: không hiện hữu, không đến hiện hữu. Tức là những ai không thể biết như vầy giới-định-tuệ Đạo và Quả, luân hồi và chấm dứt luân hồi đã nói ở đây. Để chỉ trích người khác: các thiện nam tử ấy học pháp nhằm mục đích chỉ trích. không tha thứ lỗi lầm trước những lời nói của người khác. Itivādappamokkhānisaṃsā ca đồng nghĩa evaṃ vādapamokkhānisaṃsā (nhằm mục đích thoát khỏi những lời chê bai của người khác), có nghĩa là (vị ấy) học tập với chính lý do này, khi người khác cáo buộc rằng làm điều sai trái trong Tôn giáo của họ, ta sẽ rũ bỏ lỗi lầm đó như vậy. Không đạt được lợi ích của Pháp đó: nhưng thiện nam tử học Pháp nhằm mục đích (chứng đạt) Đạo và Quả nào, học tập không tốt, thì không đạt được lợi ích đó của Pháp đó. Hơn nữa, khi không thể chỉ trích người khác và không thể thoát khỏi lời nói của chính mình thì cũng không nhận được lợi ích đó tượng tự.
alagaddatthikoti āsivisātthiko. gadoti hi visassa nāmaṃ, taṃ tassa alaṃ paripuṇṇaṃ atthīti alagaddo. bhogeti sarīre. idha pana, bhikkhave, ekacce kulaputtā dhammaṃ pariyāpuṇantīti nittharaṇapariyattivasena uggaṇhanti. tisso hi pariyattiyo alagaddapariyatti nittharaṇapariyatti bhaṇḍāgārikapariyattīti.
Alagaddatthiko đồng nghĩa āsivisātthiko (người muốn rắn độc). gadda là tên gọi của chất độc, chất độc của con rắn là đầy đủ, trọn vẹn. do đó con rắn được gọi là sở hữu đủ chất độc. Bhoge: trong thân. Này chư Tỳ khưu, một số thiện nam từ trong đời này học pháp v.v, với sức mạnh nittharaṇa-pariyatti (học để thoát khổ). Quả thật có 3 loại Pháp học là (1) Alagadda-pariyatti: Hạng người học Pháp học giống như người bắt rắn phần đuôi. (2) Nissaraṇa-pariyatti: Hạng người học Pháp học để thực hành giải thoát khổ sanh. (3) Bhaṇṇāgārika-pariyatti: Bậc Thánh A-ra-hán học Pháp học giống như người giữ kho tàng Pháp bảo.
tattha yo buddhavacanaṃ uggahetvā evaṃ cīvarādīni vā labhissāmi, catuparisamajjhe vā maṃ jānissantīti lābhasakkārahetu pariyāpuṇāti, tassa sā pariyatti alagaddapariyatti nāma. evaṃ pariyāpuṇato hi buddhavacanaṃ apariyāpuṇitvā niddokkamanaṃ varataraṃ.
Ở đó, vị Tỳ khưu nào học Phật ngôn để nhận được lợi đắc và sự cung kính “ta sẽ nhận được y phục v.v, nhiều người sẽ biết đến ta ở giữa bốn hội chúng bằng phương pháp này” pháp học của vị Tỳ khưu đó được gọi là alagadda-pariyatti. Bởi vậy, việc không học Phật ngôn mà đi vào ngủ còn tốt hơn học kiểu ấy.
yo pana buddhavacanaṃ uggaṇhitvā sīlassa āgataṭṭhāne sīlaṃ pūretvā samādhissa āgataṭṭhāne samādhigabbhaṃ gaṇhāpetvā vipassanāya āgataṭṭhāne vipassanaṃ paṭṭhapetvā maggaphalānaṃ āgataṭṭhāne maggaṃ bhāvessāmi phalaṃ sacchikarissāmīti uggaṇhāti, tassa sā pariyatti nittharaṇapariyatti nāma hoti.
Còn vị Tỳ khưu nào sau khi học Phật ngôn thực hành giới đến nơi của giới (theo lời dạy của Đức Phật), thực hành thiền định cho đến nơi của định (theo lời dạy của Đức Phật), bắt đầu thiết lập minh sát cho đến nơi có minh sát (theo lời dạy của Đức Phật) làm cho Đạo sanh khởi, tác chứng Quả cho đến nơi Đạo và Quả (theo lời dạy của Đức Phật), Pháp học của chư Tỳ khưu đó gọi là nittharaṇa-pariyatti.
khīṇāsavassa pana pariyatti bhaṇḍāgārikapariyatti nāma. tassa hi apariññātaṃ appahīnaṃ abhāvitaṃ asacchikataṃ vā natthi. so hi pariññātakkhandho pahīnakileso bhāvitamaggo sacchikataphalo, tasmā buddhavacanaṃ pariyāpuṇanto tantidhārako paveṇipālako vaṃsānurakkhakova hutvā uggaṇhāti. itissa sā pariyatti bhaṇḍāgārikapariyatti nāma hoti.
Pháp học của vị đã cạn kiệt các lậu hoặc gọi là bhaṇḍāgārika-pariyatti. Bởi vì biết toàn diện về Khổ Đế chưa được biết toàn diện, hoặc đoạn trừ Tập Đế chưa được đoạn trừ, hoặc tu tập Đạo Đế chưa được tu tập, hoặc chứng ngộ Diệt Đế chưa được chứng ngộ, (tất cả những điều này) không có nơi các vị đã cạn kiệt lậu hoặc. Vì các bậc lậu tận đã biết toàn diện các uẩn, đã dứt bỏ các phiền não, đã tu tập đạo, đã chứng ngộ quả. Vì thế Ngài học Phật ngôn để trở thành người khuôn mẫu, gìn giữ truyền thống, bảo vệ dòng tộc, Pháp học đó của Ngài gọi là bhaṇḍāgārika-pariyatti.
yo pana puthujjano chātabhayādīsu ganthadharesu ekasmiṃ ṭhāne vasituṃ asakkontesu sayaṃ bhikkhācārena akilamamāno atimadhuraṃ buddhavacanaṃ mā nassatu, tantiṃ dhāressāmi, vaṃsaṃ ṭhapessāmi, paveṇiṃ pālessāmīti pariyāpuṇāti, tassa pariyatti bhaṇḍāgārikapariyatti hoti, na hotīti? na hoti. kasmā? na attano ṭhāne ṭhatvā pariyāputattā. puthujjanassa hi pariyatti nāma alagaddā vā hoti nittharaṇā vā, sattannaṃ sekkhānaṃ nittharaṇāva, khīṇāsavassa bhaṇḍāgārikapariyattiyeva. imasmiṃ pana ṭhāne nittharaṇapariyatti adhippetā.
Khi người học Pháp không thể cư ngụ ở một nơi đói khát khó khăn về vật thực v.v, vị Tỳ khưu phàm nhân nào bản thân không gặp khó khăn trong việc đi khất thực, học Pháp học với suy nghĩ rằng “lời dạy của đức Phật rất du dương, nguyện cầu (những lời dạy ấy) không bị mai một, tôi sẽ gìn giữ theo khuôn mẫu, tôi sẽ gìn giữ truyền thống.” Pháp học của vị phàm nhân đó là bhaṇḍāgārika-pariyatti được hay không? Không được. Tại sao? bởi vì tính chất mà bản thân không được thiết lập ở vị trí học tập trọn vẹn, thật vậy gọi là Pháp học của vị phàm nhân là alagaddā hoặc nittharaṇā, Pháp học của bảy bậc Thánh hữu học chỉ là nittharaṇā mà thôi. Chỉ riêng pháp học của vị đã cạn kiệt các lậu hoặc là bhaṇḍāgārika-pariyatti. Nhưng trong trương hợp này Ngài có ý muốn nói đến nittharaṇa-pariyatti.
nijjhānaṃ khamantīti sīlādīnaṃ āgataṭṭhānesu idha sīlaṃ kathitaṃ, idha samādhi, idha vipassanā, idha maggo, idha phalaṃ, idha vaṭṭaṃ, idha vivaṭṭanti āpāthaṃ āgacchanti. tañcassa atthaṃ anubhontīti yesaṃ maggaphalānaṃ atthāya pariyāpuṇanti. suggahitapariyattiṃ nissāya maggaṃ bhāvetvā phalaṃ sacchikarontā tañcassa dhammassa atthaṃ anubhavanti. paravāde upārambhaṃ āropetuṃ sakkontāpi sakavāde āropitaṃ dosaṃ icchiticchitaṭṭhānaṃ gahetvā mocetuṃ sakkontāpi anubhontiyeva. dīgharattaṃ hitāya sukhāya saṃvattantīti sīlādīnaṃ āgataṭṭhāne sīlādīni pūrentānampi, paresaṃ vāde sahadhammena upārambhaṃ āropentānampi, sakavādato dosaṃ harantānampi, arahattaṃ patvā parisamajjhe dhammaṃ desetvā dhammadesanāya pasannehi upanīte cattāro paccaye paribhuñjantānampi dīgharattaṃ hitāya sukhāya saṃvattanti.
Trở thành rõ ràng: các Pháp hiện hữu ở trong Āgataṭṭhāna của Pháp có giới v.v, giới được nói ở đây, định ở đây, minh sát ở đây, Đạo ở đây, Quả ở đây, luân hồi và chấm dứt luân hồi ở đây. Được nhận lợi ích của Pháp đó: các thiện nam tử học tập vì lợi ích Đạo và Quả thế nào, thiện nam tử ấy y cứ học pháp học khéo léo, làm cho Đạo sanh khởi, chứng ngộ Quả được gọi là thọ hưởng lợi ích của Pháp đó. Dầu không thể làm dịu đi lời khiển trách của người khác, không thể giữ lấy vị trí mà bản thân mong muốn đi mong muốn nữa, làm dịu lỗi lầm mà người khác cáo buộc mình gọi là thọ hưởng lợi ích tương tự. Được vận hành đưa đến hạnh phúc, an lạc lâu dài: đối với vị Tỳ khưu thọ trì giới v.v, đưa đến nơi của giới theo Phật ngôn v.v, tha thứ lỗi lầm của người khác theo Pháp, làm dịu chính mình từ sự sai lầm mà người khác cáo buộc, chứng đắc A-ra-hán thuyết Pháp giữa hội chúng, sử dụng bốn món vật dụng mà những người tịnh tín trong sự thuyết giảng Giáo Pháp, hướng tâm cúng dường, Pháp đó được vận hành vì lợi ích trợ giúp, vì lợi ích đưa đến sự an lạc lâu dài.
evaṃ suggahite buddhavacane ānisaṃsaṃ dassetvā idāni tattheva niyojento tasmā tiha, bhikkhavetiādimāha. tattha tasmāti yasmā duggahitapariyatti duggahitālagaddo viya dīgharattaṃ ahitāya dukkhāya saṃvattati, suggahitapariyatti suggahitālagaddo viya dīgharattaṃ hitāya sukhāya saṃvattati, tasmāti attho. tathā naṃ dhāreyyāthāti tatheva naṃ dhāreyyātha, teneva atthena gaṇheyyātha. ye vā panāssu viyattā bhikkhūti ye vā pana aññe sāriputtamoggallānamahākassapamahākaccānādikā byattā paṇḍitā bhikkhū assu, te pucchitabbā. ariṭṭhena viya pana mama sāsane na kalalaṃ vā kacavaraṃ vā pakkhipitabbaṃ.
Sau khi thuyết giảng phước báu đối với lời Phật dạy đã được học tập kỹ lưỡng, bây giờ khi liên kết hội chúng trong lời Phật dạy đó đó nên đã nói rằng: “Này chư Tỳ khưu, vì lý do đó”. Ở đó, tasmā có nghĩa là vì lý do học Pháp học không kỹ lưỡng, được vận hành mang lại những điều vô ích, đưa đến khổ đau lâu dài, tương tự y như loài rắn độc (nếu) bắt không đúng cách thế đó. Còn Pháp học được học kỹ lưỡng sẽ vận hành đưa đến lợi ích trợ giúp, đưa đến sự an lạc lâu dài, cũng giống như loài rắn độc nếu bắt đúng cách thế đó. Hãy ghi nhớ điều đó: hãy giữ lấy chính điều đó (Pháp học), hãy nắm lấy ý nghĩa (Pháp học) đó. Vị Tỳ khưu trí thức: hoặc rằng nên hỏi các Tỳ khưu thiện xảo bậc trí thức như Trưởng lão Sārīputta, Trưởng lão Moggallāna, Trưởng lão Mahākassapa và Trưởng lão Mahākaccāyāna v.v, nhưng Tỳ khưu không nên trở thành giống như Tỳ khưu Ariṭṭha trét bùn hoặc chất cặn bã vào trong Tôn Giáo của Ta.
- kullūpamanti kullasadisaṃ. nittharaṇatthāyāti caturoghanittharaṇatthāya. udakaṇṇavanti yañhi udakaṃ gambhīraṃ na puthulaṃ. puthulaṃ vā pana na gambhīraṃ, na taṃ aṇṇavoti vuccati. yaṃ pana gambhīrañceva puthulañca, taṃ aṇṇavoti vuccati. tasmā mahantaṃ udakaṇṇavanti mahantaṃ puthulaṃ gambhīraṃ udakanti ayamettha attho. sāsaṅkaṃ nāma yattha corānaṃ nivutthokāso dissati. ṭhitokāso, nisinnokāso, nipannokāso dissati. sappaṭibhayaṃ nāma yattha corehi manussā hatā dissanti, viluttā dissanti, ākoṭitā dissanti. uttarasetūti udakaṇṇavassa upari baddho setu. kullaṃ bandhitvāti kullo nāma taraṇatthāya kalāpaṃ katvā baddho. pattharitvā baddhā pana padaracāṭiādayo uḷumpoti vuccanti. uccāretvāti ṭhapetvā. kiccakārīti pattakārī yuttakārī, patirūpakārīti attho. dhammāpi vo pahātabbāti ettha dhammāti samathavipassanā. bhagavā hi samathepi chandarāgaṃ pajahāpesi, vipassanāyapi. samathe chandarāgaṃ kattha pajahāpesi? “iti kho, udāyi, nevasaññānāsaññāyatanassapi pahānaṃ vadāmi, passasi no tvaṃ, udāyi, taṃ saṃyojanaṃ aṇuṃ vā thūlaṃ vā, yassāhaṃ no pahānaṃ vadāmī”ti (ma. ni. 2.156) ettha samathe chandarāgaṃ pajahāpesi. “imaṃ ce tumhe, bhikkhave, diṭṭhiṃ evaṃ parisuddhaṃ evaṃ pariyodātaṃ na allīyetha na kelāyetha na dhanāyethā”ti (ma. ni. 1.401) ettha vipassanāya chandarāgaṃ pajahāpesi. idha pana ubhayattha pajahāpento “dhammāpi vo pahātabbā, pageva adhammā”ti āha.
[240] Kullūpamaṃ đồng nghĩa với kullasadisaṃ [cái bè]. Để vượt qua: để vượt qua bốn dòng nước lũ (bốn bộc lưu). Dòng nước lớn: dòng nước nào sâu mà không rộng, hoặc rộng mà không sâu dòng nước đó Ngài không gọi là dòng chảy. Còn dòng nước nào vừa sâu và vừa rộng Ngài gọi là dòng chảy, với ý nghĩa dòng chảy lớn này mới có lời giải thích rằng dòng nước lờn là dòng nước vừa sâu và vừa rộng. Chỗ nào có thể làm nơi ở của kẻ trộm là thấy đứng ngồi nằm xuất hiện thì chỗ đó đáng nghi ngờ (nguy hiểm). Ở đâu có loài người bị những kẻ trộm sát hại, cướp bóc, tấn công chỗ đó gọi là có sự kinh hoàng. Những cây cầu họ cột chặt ở trên dòng nước gọi là cây cầu để vượt qua. Khi đã cột chặt chiếc bè có nghĩa là những khúc gỗ v.v, họ đóng lại thành chiếc bè nhằm mục đích vượt qua dòng nước gọi là chiếc bè, còn lát cây v.v, mà họ đang lại tiếp Ngài là cái phao. Nhấc lên: đã được đặt (trên vai). Làm đúng nhiệm vụ: làm đúng phận sự cần làm, làm phận sự đúng đắn, tức là thực hành những phận sự phù hợp. Pháp nào trong câu này ‘nên từ bỏ Pháp’ này gồm cả chỉ tịnh và minh sát. Bời vì đức Thế Tôn khiến từ bỏ mong muốn và ái luyến (sự trói buộc) cả trong chỉ tịnh và minh sát. Ở đây, thuyết để từ bỏ mong muốn và ái luyến ở trong chỉ tịnh ở đâu? “Chính vì (chỉ tịnh) này, này Udayi, mà Ta nói sự đoạn diệt ngay cả Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Này Udāyi, Ông có thấy chăng? các kiết sử vi tế, hay thô thiển mà Ta chưa nói đến sự đoạn diệt?” (ma. ni. 2.156). Ở đây, thuyết để từ bỏ mong muốn và luyến ái ở trong Minh Sát ở đâu? “Này các Tỳ khưu, đối với sự thấy này được thanh tịnh như vậy, được làm cho trong sáng như vậy nếu như các ông không dính mắc, không thỏa thích, không ước muốn” (ma. ni. 1.401). Nhưng ở đây, đức Thế Tôn khi thuyết để dứt trừ tham vọng và ái luyến ở cả hai Chỉ Tịnh và Minh Sát nên mới nói rằng “Thậm chí Chánh Pháp các ông cần phải từ bỏ, còn nói gì nữa đến Phi Pháp.”
tatrāyaṃ adhippāyo — bhikkhave, ahaṃ evarūpesu santappaṇītesu dhammesu chandarāgappahānaṃ vadāmi, kiṃ pana imasmiṃ asaddhamme gāmadhamme vasaladhamme duṭṭhulle odakantike, yattha ayaṃ ariṭṭho moghapuriso niddosasaññī pañcasu kāmaguṇesu chandarāgaṃ nālaṃ antarāyāyāti vadati. ariṭṭhena viya na tumhehi mayhaṃ sāsane kalalaṃ vā kacavaraṃ vā pakkhipitabbanti evaṃ bhagavā imināpi ovādena ariṭṭhaṃyeva niggaṇhāti.
Trong câu đó giải thích rằng – này chư Tỳ khưu, Ta nói việc từ bỏ mong muốn và ái luyến trong các Pháp an tịnh và vi tế bằng hình thức như vậy, còn nói gì đến Phi Pháp này, Pháp của người bản địa, Pháp của kẻ hạ tiện, là Pháp thô thiển, là Pháp thấp kém, mà Tỳ khưu Ariṭṭha, kẻ ngu si này nghĩ là không lỗi lầm, kẻ ấy nói mong muốn và ái luyến trong năm loại dục là Pháp không thể làm hại được, các ông không nên giống như Tỳ khưu Ariṭṭha đổ bùn dơ và các chất cặn bã vào trong Tôn Giáo của Ta. Đức Thế Tôn trục xuất một mình Tỳ khưu Ariṭṭha với lời giáo huấn này.
- idāni yo pañcasu khandhesu tividhaggāhavasena ahaṃ mamanti gaṇhāti, so mayhaṃ sāsane ayaṃ ariṭṭho viya kalalaṃ kacavaraṃ pakkhipatīti dassento chayimāni, bhikkhavetiādimāha. tattha diṭṭhiṭṭhānānīti diṭṭhipi diṭṭhiṭṭhānaṃ, diṭṭhiyā ārammaṇampi diṭṭhiṭṭhānaṃ, diṭṭhiyā paccayopi.
[241] Bây giờ khi thuyết rằng người nào chấp thủ rằng ta, của ta với mãnh lực của ba sự chấp thủ trong năm uẩn người đó gọi là đổ bùn lầy và các chất cặn bã vào trong Tôn Giáo của Ta, giống như Tỳ khưu Ariṭṭha này, nên Ngài mới nói rằng: “này các Tỳ khưu có sáu vị trí của quan niệm sai lầm.” Ở đó, vị trí của quan niệm sai lầm nên biết rằng ngay cả sự thấy cũng gọi là nơi thiết lập của tà kiến cả đối tượng của sự thấy, lẫn duyên của sự thấy cũng gọi là nơi thiết lập của tà kiến.
rūpaṃ etaṃ mamātiādīsu etaṃ mamāti taṇhāggāho. esohamasmīti mānaggāho. eso me attāti diṭṭhiggāho. evaṃ rūpārammaṇā taṇhāmānadiṭṭhiyo kathitā honti. rūpaṃ pana attāti na vattabbaṃ. vedanādīsupi eseva nayo. diṭṭhaṃ rūpāyatanaṃ, sutaṃ saddāyatanaṃ, mutaṃ gandhāyatanaṃ rasāyatanaṃ phoṭṭhabbāyatanaṃ, tañhi patvā gahetabbato mutanti vuttaṃ. avasesāni sattāyatanāni viññātaṃ nāma. pattanti pariyesitvā vā apariyesitvā vā pattaṃ. pariyesitanti pattaṃ vā appattaṃ vā pariyesitaṃ. anuvicaritaṃ manasāti cittena anusañcaritaṃ. lokasmiñhi pariyesitvā pattampi atthi, pariyesitvā nopattampi. apariyesitvā pattampi atthi, apariyesitvā nopattampi. tattha pariyesitvā pattaṃ pattaṃ nāma. pariyesitvā nopattaṃ pariyesitaṃ nāma. apariyesitvā pattañca, apariyesitvā nopattañca manasānuvicaritaṃ nāma.
Quán thấy Sắc (nghĩ rằng) đó là của ta v.v, việc nắm lấy ‘vật đó của ta’ là sự chấp thủ của tham ái. Việc nắm lấy ‘ta là vật đó’ là sự chấp thủ của ngã mạn, việc nắm lấy rằng ‘đó là thân của ta’ là sự chấp thủ của tà kiến, nói đến tham ái, ngã mạn và tà kiến có sắc làm đối tượng như vậy. Nhưng không nên nói rằng Sắc là Ta. Ngày cả Thọ v.v, cũng theo cách thức tương tự như vậy. Sắc xứ gọi là đã được thấy, thinh xứ gọi là đã được nghe; khí xứ, vị xứ và xúc xứ gọi là đã được cảm giác. Khí xứ, vị xứ và xúc xứ đó Ngài nói rằng đã được cảm giác, bởi vì khi đến tiếp xúc (nội xứ) mới nắm lấy làm đối tượng (biết). Bảy xứ còn lại gọi là đã được nhận thức. Đã được đạt đến [pattaṃ]: đã đến bằng cách tìm kiếm, hay không tìm kiếm, gặp rồi. Đã được tìm kiếm [pariyesitaṃ] bao gồm gặp hoặc không gặp cũng đã tìm kiếm. Đã được cân nhắc bởi ý [anuvicaritaṃ manasāti]: đã được suy xét bởi tâm. Bởi vậy, trong thế gian những thứ đã được tìm kiếm rồi gặp, hay đã được tìm kiếm rồi không gặp, hay không được tìm kiếm rồi gặp, không được tìm kiếm rồi không gặp. Ở chỗ thiết lập của sự thấy đó những thứ đã được tìm kiếm rồi gặp gọi là đã được đạt đến. Những thứ đã được tìm kiếm rồi không gặp gọi là đã được tìm kiếm. Những thứ không được tìm kiếm rồi gặp và những thứ không được tìm kiếm rồi không gặp gọi là đã được cân nhắc bởi ý.
atha vā pariyesitvā pattampi apariyesitvā pattampi pattaṭṭhena pattaṃ nāma. pariyesitvā nopattaṃ pariyesitaṃ nāma. apariyesitvā nopattaṃ manasānuvicaritaṃ nāma. sabbaṃ vā etaṃ manasā anuvicaritattā manasānuvicaritaṃ nāma. iminā viññāṇārammaṇā taṇhāmānadiṭṭhiyo kathitā, desanāvilāsena heṭṭhā diṭṭhādiārammaṇavasena viññāṇaṃ dassitaṃ. yampi taṃ diṭṭhiṭṭhānanti yampi etaṃ so lokotiādinā nayena pavattaṃ diṭṭhiṭṭhānaṃ.
Và hơn nữa, những thứ được tìm kiếm rồi gặp, những thứ không được tìm kiếm không gặp gọi là đã được đạt đến, với ý nghĩa đã gặp. Những thứ tìm kiếm không gặp duy nhất gọi là đã được tìm kiếm, những thứ không được tìm kiếm rồi gặp và những thứ không được tìm kiếm rồi không gặp gọi là đã được cân nhắc bởi tâm, vì là những thứ liên quan đến tâm tham ái, ngã mạn và tà kiến có thức làm đối tượng, nói về câu này thuyết với mãnh lực tà kiến v.v, làm đối tượng trong phần sau với mãnh lực từ việc thay đổi cách thuyết. Quán xét thấy vị trí của quan niệm sai lầm (yampi taṃ diṭṭhiṭṭhānaṃ): nơi thiết lập của sự thấy được vận hành theo cách thức như sau: quán xét thấy vị trí của quan niệm sai lầm đó là thế gian.
so loko so attāti yā esā “rūpaṃ attato samanupassatī”tiādinā nayena pavattā diṭṭhi loko ca attā cāti gaṇhāti, taṃ sandhāya vuttaṃ. so pecca bhavissāmīti so ahaṃ paralokaṃ gantvā nicco bhavissāmi, dhuvo sassato avipariṇāmadhammo bhavissāmi, sinerumahāpathavīmahāsamuddādīhi sassatīhi samaṃ tatheva ṭhassāmi. tampi etaṃ mamāti tampi dassanaṃ etaṃ mama, esohamasmi, eso me attāti samanupassati. iminā diṭṭhārammaṇā taṇhāmānadiṭṭhiyo kathitā. vipassanāya paṭivipassanākāle viya pacchimadiṭṭhiyā purimadiṭṭhiggahaṇakāle evaṃ hoti.
Ðây là thế giới, đây là tự ngã (so loko so attā): sự thấy được vận hành theo cách thức như sau “nhìn thấy sắc là tự ngã” (vị ấy) chấp thủ rằng là thế gian, là tự ngã. Ngài ám chỉ đến sự thấy đó mới nói như vậy. Sau khi chết, tôi sẽ thường còn (so pecca bhavissāmi): Tôi đi đến thế giới khác sẽ trở thành thường hằng, bền vững và trường tồn không có tính chất biến hoại đổi thay, sẽ luôn an trú với sự thường hằng như ngọn núi Sineru, đại đại và đại dương v.v, như thế tương tự. Đó là của tôi (tampi etaṃ mama): theo sự thấy rằng nhận thấy đó là của tôi, đó là tôi, đó là tự ngã của tôi. Tham ái, ngã mạn và tà kiến có sự thấy làm đối tượng thuyết với câu này. Thời gian nắm lấy sự thấy lần đầu tiên có được sự thấy lần sau như vầy giống như thời gian trở lại nhìn thấy rõ với Minh Sát.
sukkapakkhe rūpaṃ netaṃ mamāti rūpe taṇhāmānadiṭṭhiggāhā paṭikkhittā. vedanādīsupi eseva nayo. samanupassatīti imassa pana padassa taṇhāsamanupassanā mānasamanupassanā diṭṭhisamanupassanā ñāṇasamanupassanāti catasso samanupassanāti attho. tā kaṇhapakkhe tissannaṃ samanupassanānaṃ, sukkapakkhe ñāṇasamanupassanāya vasena veditabbā. asati na paritassatīti avijjamāne bhayaparitassanāya taṇhāparitassanāya vā na paritassati. iminā bhagavā ajjhattakkhandhavināse aparitassamānaṃ khīṇāsavaṃ dassento desanaṃ matthakaṃ pāpesi.
Trong phần Pháp trắng đối lập việc chấp thủ với tham ái, ngã mạn và tà kiến trong Sắc rằng đó là của tôi, đó không phải sắc của tôi v.v, cả trong Thọ cũng có cách thức tương tự vậy. Quán xét thấy (samanupassati) nghĩa là có bốn sự quán xét là taṇhāsamanupassanā (quán xét bằng tham ái) mānasamanupassanā (quán xét bằng ngã mạn) diṭṭhisamanupassanā (quán xét bằng tà kiến) ñāṇasamanupassanā (quán xét bằng trí tuệ). Ý nghĩa của bốn sự quá xét đó nên biết rằng với mãnh lực của 3 sự quán xét trong phần Pháp Đen, ñāṇasamanupassanā ở trong phần Pháp Trắng. Đối với sự vật không có nên không có hoảng sợ (asati na paritassati): khi không có sự chấp thủ vị ấy không hoảng sợ với sự hoảng sợ do sợ hãi hoặc với sự hoảng sợ bởi tham ái. Đức Thế Tôn khi thuyết giảng đến bậc lậu tận, vị không còn sợ hãi, phiền muộn trong sự hoại diệt của các uẩn bên trong mới thuyết chấm dứt lời thuyết giảng với câu này.
- evaṃ vutte aññataro bhikkhūti evaṃ bhagavatā vutte aññataro anusandhikusalo bhikkhu — “bhagavatā ajjhattakkhandhavināse aparitassantaṃ khīṇāsavaṃ dassetvā desanā niṭṭhāpitā, ajjhattaṃ aparitassante kho pana sati ajjhattaṃ paritassakena bahiddhā parikkhāravināse paritassakena aparitassakena cāpi bhavitabbaṃ. iti imehi catūhi kāraṇehi ayaṃ pañho pucchitabbo”ti cintetvā ekaṃsaṃ cīvaraṃ katvā añjaliṃ paggayha bhagavantaṃ etadavoca. bahiddhā asatīti bahiddhā parikkhāravināse. ahu vata meti ahosi vata me bhaddakaṃ yānaṃ vāhanaṃ hiraññaṃ suvaṇṇanti attho. taṃ vata me natthīti taṃ vata idāni mayhaṃ natthi, rājūhi vā corehi vā haṭaṃ, agginā vā daḍḍhaṃ, udakena vā vuḷhaṃ, paribhogena vā jiṇṇaṃ. siyā vata meti bhaveyya vata mayhaṃ yānaṃ vāhanaṃ hiraññaṃ suvaṇṇaṃ sāli vīhi yavo godhumo. taṃ vatāhaṃ na labhāmīti tamahaṃ alabhamāno tadanucchavikaṃ kammaṃ akatvā nisinnattā idāni na labhāmīti socati, ayaṃ agāriyasocanā, anagāriyassa pattacīvarādīnaṃ vasena veditabbā.
[242] Khi đức Thế Tôn nói như vậy (evaṃ vutte aññataro bhikkhū): Khi đức Thế Tôn thuyết như vậy vị Tỳ khưu thiện xảo trong sự liên kết nghĩ rằng – “Sau khi đức Thế Tôn thuyết giảng đến bậc lậu tận không hoảng sợ do sự hoại diệt của các uẩn bên trong kết thúc lời thuyết giảng, khi bậc lậu tận không còn hoảng sợ bên trong; vị Tỳ khưu hoảng sợ bên trong; vị Tỳ khưu hoảng sợ bên ngoài,vị Tỳ khưu hoảng sợ do sự hư hoại của các vật dụng phụ tùng và cả người không hoảng sợ có thể có Ta sẽ hỏi vấn đề này với bốn lý do như đã nêu trên, rồi (vị ấy) đã đắp y một bên vai, chắp tay lên, đê đầu đảnh lễ đức Thế Tôn. Ở bên ngoài không có (bahiddhā asati): ở bên ngoài là do sự hư hoại của các vật dụng phụ tùng. Quả thật đã có cho ta chăng? (ahu vata me): nghĩa là đồ vật, vật kéo, xe cộ, vàng, bạc của ta quả thật đã có chăng? Cái ấy quả thật không có cho ta! (taṃ vata me natthi): những thứ đó của tôi không có là bị đức Vua tịch thu hoặc những tên trộm cướp mang đi, hoặc bị lửa thiêu đốt, hoặc bị nước cuốn trôi, hoặc kiệt quệ do tiêu xài. Quả thật sẽ có cho ta chăng? (siyā vata me): vật kéo, xe cộ, vàng, bạc lúa sāli, lúa mùa, lúa mạch, lúa mì của ta có chăng? Quả thật ta không đạt được cái ấy! (taṃ vatāhaṃ na labhāmi): (vị ấy) buồn rầu (trước đây) ta không đạt được những thứ đó, bây giờ ta cũng không đạt được bởi vì (vị ấy) không làm việc phù hợp đối với tài sản đó, đây gọi là sự sầu muộn của người tại gia cư sĩ. Sự sầu muộn của người không phải cư sĩ (vị xuất gia) nên biết do mãnh lực của bình bát và y phục v.v.
aparitassanāvāre na evaṃ hotīti yehi kilesehi evaṃ bhaveyya, tesaṃ pahīnattā na evaṃ hoti. diṭṭhiṭṭhānādhiṭṭhānapariyuṭṭhānābhinivesānusayānanti diṭṭhīnañca diṭṭhiṭṭhānānañca diṭṭhādhiṭṭhānānañca diṭṭhipariyuṭṭhānānañca abhinivesānusayānañca. sabbasaṅkhārasamathāyāti nibbānatthāya. nibbānañhi āgamma sabbasaṅkhārāiñjitāni, sabbasaṅkhāracalanāni sabbasaṅkhāravipphanditāni sammanti vūpasammanti, tasmā taṃ, “sabbasaṅkhārasamatho”ti vuccati. tadeva ca āgamma khandhūpadhi kilesūpadhi abhisaṅkhārūpadhi, pañcakāmaguṇūpadhīti ime upadhayo paṭinissajjiyanti, taṇhā khīyati virajjati nirujjhati, tasmā taṃ, “sabbūpadhipaṭinissaggo taṇhākkhayo virāgo nirodho”ti vuccati. nibbānāyāti ayaṃ panassa sarūpaniddeso, iti sabbeheva imehi padehi nibbānassa sacchikiriyatthāya dhammaṃ desentassāti ayamattho dīpito. tassevaṃ hotīti tassa diṭṭhigatikassa ucchijjissāmi nāmassu, vinassissāmi nāmassu, nāssu nāma bhavissāmīti evaṃ hoti. diṭṭhigatikassa hi tilakkhaṇaṃ āropetvā suññatāpaṭisaṃyuttaṃ katvā desiyamānaṃ dhammaṃ suṇantassa tāso uppajjati. vuttañhetaṃ — “tāso heso, bhikkhave, asutavato puthujjanassa no cassaṃ, no ca me siyā”ti (saṃ. ni. 3.55).
Nên biết trong phần Aparitassanā (không hoảng sợ) như sau, từ na evaṃ hoti nghĩa là sự hoảng sợ có thể có như vầy do phiền não nào không có như vậy, do phiền não đó đã đoạn trừ rồi. Diṭṭhiṭṭhānādhiṭṭhānapariyuṭṭhānābhinivesānusayānanti nghĩa là tà kiến, vị trí của quan niệm sai lầm, nơi thiết lập vững chắc của tà kiến, nơi bùng nổ của tà kiến, nơi ngủ ngầm của sự chấp thủ. Đưa đến sự an tịnh tất cả các Hành (sabbasaṅkhārasamathāya): vì mục đích sự diệt tận. Thật vậy, sự lay động, sự rúng động, sự biến hoại đổi thay của các Hành cho đến Niết bàn sẽ an tịnh, bởi vì Niết bàn đó Ngài gọi là (Pháp) vắng lặng tất cả các Hành. Lại nữa upadhi (bản thể của sự tái sanh) này: bản thể của sự tái sanh là uẩn, bản thể của sự tái sanh là phiền não, bản thể của sự tái sanh là sự tích lũy nghiệp, bản thể của sự tái sanh là năm dục cho đến Niết bàn đó đó (những thứ ấy) được dứt bỏ, tham ái cũng cạn kiệt, loại bỏ, tiêu diệt. Bởi thế, Niết bàn đó Ngài gọi là nơi dứt bỏ toàn bộ bản thể của sự tái sanh, là nơi cạn kiệt tham ái, ly tham ái, diệt tận. Nhờ Niết bàn (nibbānāya) đây là lời nói tóm lược của Niết bàn đó (sự dứt bỏ). Như vậy Ngài trình bày ý nghĩa này khi thuyết giảng Pháp vì lợi ích đưa đến sự giác ngộ Niết bàn vời câu này, toàn bộ cả thảy. Hạng người đó có sự thấy như vầy (tassevaṃ hoti) nghĩa là vị Tỳ khưu có tà kiến có suy nghĩ như vầy “ta sẽ bị đoạn diệt, ta sẽ bị hoại diệt, ta sẽ không tồn tại”. Thật vậy, vị Tỳ khưu có tà kiến lắng nghe Giáo Pháp đã đặt trên Tam Tướng (vô thường, khổ não, vô ngã) thuyết giảng gắn liền với không tánh khởi lên sự lo hoảng sợ. Điều này đã được nói – “Này chư Tỳ khưu, kẻ phàm nhân không từng được nghe có sự hoảng sợ như vầy, có ta và không có ta.” (saṃ. ni. 3.55).
- ettāvatā bahiddhāparikkhāravināse tassanakassa ca notassanakassa ca ajjhattakkhandhavināse tassanakassa ca notassanakassa cāti imesaṃ vasena catukkoṭikā suññatā kathitā. idāni bahiddhā parikkhāraṃ pariggahaṃ nāma katvā, vīsativatthukaṃ sakkāyadiṭṭhiṃ attavādupādānaṃ nāma katvā, sakkāyadiṭṭhipamukhā dvāsaṭṭhi diṭṭhiyo diṭṭhinissayaṃ nāma katvā tikoṭikaṃ suññataṃ dassetuṃ taṃ, bhikkhave, pariggahantiādimāha. tattha pariggahanti bahiddhā parikkhāraṃ. pariggaṇheyyāthāti yathā viññū manusso pariggaṇheyya. ahampi kho taṃ, bhikkhaveti, bhikkhave, tumhepi na passatha, ahampi na passāmi, iti evarūpo pariggaho natthīti dasseti. evaṃ sabbattha attho veditabbo.
[243] Chỉ bấy nhiêu đã nói lên không tánh (suññatā) có bốn nút thắt với khả năng của các Tỳ khưu này là vị Tỳ khưu hoảng sợ và người không hoảng sợ vì sự hư hoại của những vật dụng phụ tùng bên ngoài là một đôi; và Tỳ khưu hoảng sợ và người không hoảng sợ vì sự hoại diệt của uẩn bên trong là một đôi; Bây giờ, để trình bày không tánh nút thắt thứ ba là sắp xếp vật dụng phụ tùng bên ngoài cho gọi là sự sở hữu do tà kiến, sắp xếp sự nhận thức sai trái về thân có hai mươi vật (vatthu) cho gọi là sự chấp thủ vào tự ngã, sắp xếp sáu mươi hai loại tà kiến có sự nhận thức sai trái về thân dẫn đầu cho gọi là sự nương tựa vào tà kiến, nên Ngài đã nói rằng: “Này chư Tỳ khưu, sự sở hữu v.v,” ở đó, sự sở hữu gồm sự sở hữu những vậy dụng phụ tùng bên ngoài. Có thể nắm giữ vật sở hữu (pariggaṇheyyāthāti) nghĩa là những người trí thức có thể quyết định giữ lấy. Này chư Tỳ khưu, Ta cũng không quán xét thấy (ahampi kho taṃ, bhikkhave): Này chư Tỳ khưu, thậm chí các ông không thấy mà ngay cả Ta cũng không thấy, sự xác định bằng hình thức như vậy cũng không có. Nên biết rằng ý nghĩa trong các câu như vậy.
- evaṃ tikoṭikaṃ suññataṃ dassetvā idāni ajjhattakkhandhe attāti bahiddhā parikkhāre attaniyanti katvā dvikoṭikaṃ dassento attani vā, bhikkhave, satītiādimāha. tattha ayaṃ saṅkhepattho, bhikkhave, attani vā sati idaṃ me parikkhārajātaṃ attaniyanti assa, attaniyeva vā parikkhāre sati ayaṃ me attā imassa parikkhārassa sāmīti, evaṃ ahanti. sati mamāti, mamāti sati ahanti yuttaṃ bhaveyya. saccatoti bhūtato, thetatoti tathato thirato vā.
[244] Như vậy sau khi đức Thế Tôn thuyết giảng không tánh ba nút thắt, bây giờ khi thuyết giảng hai nút thắt là tự ngã trong uẩn bên trong và bởi vì tự ngã trong những vật dụng phụ tùng bên ngoài nên Ngài mới nói rằng: “khi tự ngã có mặt (attani vā, bhikkhave, sati)”. Ở đó, có ý nghĩa tóm lược như vầy, này chư Tỳ khưu khi tự ngã có mặt, các vật dụng phụ tùng này cũng do trong tự ngã hoặc tự ngã này của ta cũng là chủ nhân của các vật dụng phụ tùng, ta cũng tương tự y như vậy có thể liên kết với từ khi (vatthu) có mặt đồ vật ta cũng có. Có tính chất thật (saccato): với bản thể thật, những thứ đáng tin cậy (thetatoti): với những thứ chắc chắn hoặc xác thực.
idāni ime pañcakkhandhe aniccaṃ dukkhaṃ anattāti evaṃ tiparivaṭṭavasena aggaṇhanto ayaṃ ariṭṭho viya mayhaṃ sāsane kalalaṃ kacavaraṃ pakkhipatīti dassento taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, rūpaṃ niccaṃ vātiādimāha. tattha aniccaṃ, bhanteti, bhante, yasmā hutvā na hoti, tasmā aniccaṃ. uppādavayavattito vipariṇāmatāvakālikaniccapaṭikkhepaṭṭhena vāti catūhi kāraṇehi aniccaṃ. dukkhaṃ, bhanteti, bhante, paṭipīḷanākārena dukkhaṃ, santāpadukkhamadukkhavatthukasukhapaṭikkhepaṭṭhena vāti catūhi kāraṇehi dukkhaṃ. vipariṇāmadhammanti bhavasaṅkantiupagamanasabhāvaṃ pakatibhāvavijahanasabhāvaṃ. kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ etaṃ mama, esohamasmi, eso me attāti yuttaṃ nu kho taṃ imesaṃ tiṇṇaṃ taṇhāmānadiṭṭhiggāhānaṃ vasena ahaṃ mamāti evaṃ gahetuṃ. no hetaṃ, bhanteti iminā te bhikkhū avasavattanākārena rūpaṃ, bhante, anattāti paṭijānanti. suññāssāmikānissarāttapaṭikkhepaṭṭhena vāti catūhi kāraṇehi anattā.
Bây giờ, khi không nắm lấy năm uẩn với ba luân (parivaṭṭa) là vô thường, khổ não và vô ngã khi thuyết giảng rằng Tỳ khưu này giống như Tỳ khưu Ariṭṭha đổ bùn lấy cặn bã vào trong Tôn Giáo của Ta, nên Ngài mới thuyết rằng: Này chư Tỳ khưu, các ông nghĩ ý nghĩa đó thế nào? Sắc là thường hay vô thường? Ở đó, Thưa Ngài (Sắc là) vô thường: nghĩa là thưa Ngài bởi Sắc có rồi không có cho nên Sắc là vô thường, gọi là vô thường do 4 lý do là do sanh rồi hoại diệt, hoặc bởi ý nghĩa biến hoại, diễn ra tạm thời và đối nghịch sự thường hằng. Thưa Ngài (Sắc là) là khổ: thưa Ngài, Sắc gọi là khổ do biểu hiện áp bức, đàn áp gọi là khổ do bốn lý do bởi ý nghĩa nóng đốt, khó kham nhẫn, làm chỗ thiết lập cho khổ đau và đối nghịch với sự an lạc. Có trạng thái thay đổi (vipariṇāmadhammaṃ): thực tính có sự chuyển biến (từ trạng thái này sang trạng thái khác) và hướng đến hữu, có sự dứt trừ sự thông thường trở thành thực tính. Cái ấy có thích hợp để nhận thức như vầy: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”? nghĩa là có thích hợp để nắm giữ sắc đó như vầy ‘ta’ ‘của ta’ với mãnh lực chấp thủ của cả 3 pháp này là tham ái, ngã mạn và tà kiến. Không nên, bạch Thế Tôn: vị Tỳ khưu đó thừa nhận rằng: Sắc là vô ngã bạch Thế Tôn với biểu hiện không vận hành theo sức mạnh ‘sắc gọi là vô ngã’ với bốn lý do là bởi ý nghĩa là thứ rỗng không, vô chủ, không to lớn và đối nghịch với tự ngã.
bhagavā hi katthaci aniccavasena anattattaṃ dasseti, katthaci dukkhavasena, katthaci ubhayavasena. “cakkhu attāti yo vadeyya, taṃ na upapajjati, cakkhussa uppādopi vayopi paññāyati. yassa kho pana uppādopi vayopi paññāyati, attā me uppajjati ca veti cāti iccassa evamāgataṃ hoti, tasmā taṃ na upapajjati cakkhu attāti yo vadeyya, iti cakkhu anattā”ti (ma. ni. 3.422) imasmiñhi chachakkasutte aniccavasena anattataṃ dasseti.
Thật vậy, do đâu đức Thế Tôn tuyên thuyết tính chất Vô Ngã bằng mãnh lực của Vô Thường ở nơi nào? bằng mãnh lực của Khổ Đau ở nơi nào? với mạnh lực của Vô Thường và sự Đau Khổ ở nơi nào? Thật vậy, Ngài đã trình bày tính chất Vô Ngã với sức mạnh của Vô Thường trong Kinh Chachakka này rằng: “Người nào có thể nói rằng con mắt là Tự Ngã, như vậy lời nói ấy là không thích hợp. Con mắt sẽ xuất hiện cả sự sanh và cả sự sự diệt. Vì rằng cái nào xuất hiện sự sanh và cả sự diệt thì cái đó cần phải nói như vầy: “Tự Ngã sanh và diệt ở nơi tôi”. Do vậy, lời nói của người nói rằng: “ Con mắt là Tự Ngã”, như vậy là không hợp lý. Cho nên (cần phải nói rằng) con mắt là Vô Ngã.” (ma. ni. 3.422).
“rūpañca hidaṃ, bhikkhave, attā abhavissa, nayidaṃ rūpaṃ ābādhāya saṃvatteyya, labbhetha ca rūpe ‘evaṃ me rūpaṃ hotu, evaṃ me rūpaṃ mā ahosī’ti. yasmā ca kho, bhikkhave, rūpaṃ anattā, tasmā rūpaṃ ābādhāya saṃvattati, na ca labbhati rūpe ‘evaṃ me rūpaṃ hotu, evaṃ me rūpaṃ mā ahosī’”ti (mahāva. 20; saṃ. ni. 3.59) imasmiṃ anattalakkhaṇasutte dukkhavasena anattataṃ dasseti.
Thuyết giảng tính chất vô ngã với mãnh lực tính chất sự khổ đau ở trong Kinh Vô Ngã Tướng (Anattalakkhaṇa) này rằng: “Này các Tỳ khưu, bởi vì nếu Sắc này là Tự Ngã thì Sắc này không thể đi đến bệnh hoạn và có thể đạt được ở Sắc (theo ý muốn) rằng: ‘Sắc của ta hãy là như vầy, Sắc của ta đừng trở thành như vầy.’ Này các Tỳ khưu, chính vì Sắc là Vô Ngã do đó Sắc đi đến bệnh hoạn và không thể đạt được ở Sắc (theo ý muốn) rằng: ‘Sắc của ta hãy là như vầy, Sắc của ta đừng trở thành như vầy.” (mahāva. 20; saṃ. ni. 3.59)
“rūpaṃ, bhikkhave, aniccaṃ, yadaniccaṃ taṃ dukkhaṃ, yaṃ dukkhaṃ tadanattā, yadanattā taṃ ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya daṭṭhabban”ti (saṃ. ni. 3.76) imasmiṃ arahattasutte ubhayavasena anattataṃ dasseti. kasmā? aniccaṃ dukkhañca pākaṭaṃ. anattāti na pākaṭaṃ.
Thuyết giảng sự tính chất Vô Ngã với sức mạnh của Vô Thường và Đau Khổ cả hai trong Kinh Arahatta như sau: “Này các Tỳ khưu, sắc là Vô Thường; sắc nào là Vô Thường thì sắc đó cũng là Khổ; Sắc nào là Khổ thì sắc đó cũng là Vô Ngã; Sắc nào là Vô Ngã thì Sắc đó không phải của tôi; Sắc đó không phải là tôi; Sắc đó không phải tự ngã của tôi, cho nên cần phải thấy Sắc đó như thật với chánh trí tuệ”. (saṃ. ni. 3.76). Tại sao? Bởi vì Vô Thường và Khổ đã xuất hiện rồi Vô Ngã vẫn chưa xuất hiện.
paribhogabhājanādīsu hi bhinnesu aho aniccanti vadanti, aho anattāti vattā nāma natthi. sarīre gaṇḍapiḷakādīsu vā uṭṭhitāsu kaṇṭakena vā viddhā aho dukkhanti vadanti, aho anattāti pana vattā nāma natthi. kasmā? idañhi anattalakkhaṇaṃ nāma avibhūtaṃ duddasaṃ duppaññāpanaṃ. tena taṃ bhagavā aniccavasena vā dukkhavasena vā ubhayavasena vā dasseti. tayidaṃ imasmimpi teparivaṭṭe aniccadukkhavaseneva dassitaṃ. vedanādīsupi eseva nayo.
Bởi vậy, khi đồ dùng đựng thức ăn v.v, bị vỡ mọi người nói rằng ‘Ồ, Vô thường mà’, chẳng ai nói rằng ‘Vô Ngã’. Hoặc các dịch mủ xuất hiện trên thân hoặc người bị gai đâm cũng nói với nhau rằng ‘ồ, Khổ’ chẳng có ai nói rằng ‘ồ, Vô Ngã’. Tại sao? Bời vì, trạng thái Vô Ngã không rõ ràng, khó thấy, khó nhận biết bởi thế đức Thế Tôn không thuyết tính chất Vô Ngã đó với mãnh lực Vô Thường, Khổ, và cả hai là Vô Thường lẫn Khổ Đau. Sắc này đây thuyết giảng với mãnh lực Vô Thường chỉ là Khổ mà thôi trong ba luân (parivaṭṭe). Cả trong Thọ cũng có cách thức tương tự.
tasmā tiha, bhikkhaveti, bhikkhave, yasmā etarahi aññadāpi rūpaṃ aniccaṃ dukkhaṃ anattā, tasmāti attho. yaṃkiñci rūpantiādīni visuddhimagge khandhaniddese vitthāritāneva.
Vì lý do đó này chư Tỳ khưu bất kỳ một Sắc nào (tasmā tiha, bhikkhave): Này chư Tỳ khưu, do Sắc này là Vô Thường, là Khổ, là Vô Ngã cả hiện tại cả thời gian khác (quá khứ và vị lai). Sắc này không phải của các ông (yaṃkiñci rūpaṃ): đã được giải thích chi tiết trong Diễn Giải về Uẩn trong Thanh Tịnh Đạo.
- nibbindatīti ukkaṇṭhati. ettha ca nibbidāti vuṭṭhānagāminīvipassanā adhippetā. vuṭṭhānagāminīvipassanāya hi bahūni nāmāni. esā hi katthaci saññagganti vuttā. katthaci dhammaṭṭhitiñāṇanti. katthaci pārisuddhipadhāniyaṅganti. katthaci paṭipadāñāṇadassanavisuddhīti. katthaci tammayatāpariyādānanti. katthaci tīhi nāmehi. katthaci dvīhīti.
[245] Nibbindati: Nhàm chán. Cũng trong từ nibbindati (nhàm chán) trong Pāḷi này Ngài có ý muốn nói đến vuṭṭhānagāminīvipassanā (Minh Sát đưa đến sự thoát khỏi sự dính mắc tham ái). Quả thật, vuṭṭhānagāminīvipassanā có nhiều tên gọi một số chỗ gọi là sañagga (sự nhận thức), một số nơi gọi là dhammaṭṭhitiñāṇa (trí tuệ về sự hiện diện các pháp), một số nơi gọi là pārisuddhipadhāniyaṅga (chi phần nỗ lực thanh tịnh), một số nơi gọi là paṭipadāñāṇadassanavisuddhi (đạo lộ thực hành cho sự biết và thấy thanh tịnh), một số nơi gọi là tammayatāpariyādāna, một số có ba tên gọi, một số thì có hai.
tattha poṭṭhapādasutte tāva “saññā kho, poṭṭhapāda, paṭhamaṃ uppajjati, pacchā ñāṇan”ti (dī. ni. 1.416) evaṃ saññagganti vuttā. susimasutte “pubbe kho, susima, dhammaṭṭhitiñāṇaṃ, pacchā nibbāne ñāṇan”ti (saṃ. ni. 2.70) evaṃ dhammaṭṭhitiñāṇanti vuttā. dasuttarasutte “paṭipadāñāṇadassanavisuddhi padhāniyaṅgan”ti (dī. ni. 3.359) evaṃ pārisuddhipadhāniyaṅganti vuttā. rathavinīte “kiṃ nu kho, āvuso, paṭipadāñāṇadassanavisuddhatthaṃ bhagavati brahmacariyaṃ vussatī”ti (ma. ni. 1.257) evaṃ paṭipadāñāṇadassanavisuddhīti vuttā. saḷāyatanavibhaṅge “atammayataṃ, bhikkhave, nissāya atammayataṃ āgamma yāyaṃ upekkhā nānattā nānattasitā, taṃ abhinivajjetvā yāyaṃ upekkhā ekattā ekattasitā, taṃ nissāya taṃ āgamma evametissā pahānaṃ hoti, evametissā samatikkamo hotī”ti (ma. ni. 3.310) evaṃ tammayatāpariyādānanti vuttā. paṭisambhidāmagge “yā ca muñcitukamyatā, yā ca paṭisaṅkhānupassanā, yā ca saṅkhārupekkhā, ime dhammā ekatthā byañjanameva nānan”ti (paṭi. ma. 1.54) evaṃ tīhi nāmehi vuttā. paṭṭhāne “anulomaṃ gotrabhussa anantarapaccayena paccayo, anulomaṃ vodānassa anantarapaccayena paccayo”ti (paṭṭhā. 1.1.417) evaṃ dvīhi nāmehi vuttā. imasmiṃ pana alagaddasutte nibbindatīti nibbidānāmena āgatā.
Ở đó, trong Kinh Poṭṭhapāda sự nhận thức đã được nói như vầy: “Này Potthapàda, nhận thức khởi trước trí mới khởi sau.” (dī. ni. 1.416). Trong Kinh Susima “Này Susima, trí về sự hiện diện của các Pháp có trước, trí trong Niết bàn mới có sau.” (saṃ. ni. 2.70) đã nói về trí về sự hiện diện của các Pháp như vậy. Trong Kinh Dasuttara “đạo lộ thực hành cho sự biết và thấy thanh tịnh về chi phần lực” (dī. ni. 3.359) chi phần nỗ lực thanh tịnh đã được nói như vậy. Trong Kinh Rathavinīta “này hiền giả, Ngài được sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của đức Thế Tôn là vì đạo lộ thực hành cho sự biết và thấy thanh tịnh phải chằng? (ma. ni. 1.257), đạo lộ thực hành cho sự biết và thấy thanh tịnh đã được nói như vậy. Trong Kinh saḷāyatanavibhaṅga “Này các Tỳ khưu, thọ xả nào có thể đem đi sự không tham dục, y cứ sự không tham dục, có đối tượng đồng nhất, y cứ chung một đối tượng, các ông hãy đoạn tận thọ xả đó, hãy vượt qua xả đó, như vậy là sự vượt qua (xả) này.” (ma. ni. 3.310) tammayatāpariyādānaṃ đã được nói đến như vậy. Trong Paṭisambhidāmagga “Sự mong muốn giải thoát, sự quán xét do phân biệt rõ, và trạng thái xả đối với các pháp hữu vi, các pháp này có cùng một ý nghĩa, khác biệt về văn tự.” (paṭi. ma. 1.54) như vậy ba tên gọi đã được nói đến. Trong bộ Paṭṭhāna “trí thuận dòng làm duyên cho trí chuyển tộc bằng vô gián duyên, trí thuận dòng làm duyên của tâm thanh tịnh (vodāna: tâm Đạo và tâm Quả) bằng vô gián duyên.” (paṭṭhā. 1.1.417) như vậy hai tên gọi đã được nói đến. Còn trong Kinh Alagadda này vuṭṭhānagāminīvipassanā đến với ý nghĩa ‘nhàm chán’ trong từ ‘trở nên chán nản’.
nibbidā virajjatīti ettha virāgoti maggo virāgā vimuccatīti ettha virāgena maggena vimuccatīti phalaṃ kathitaṃ. vimuttasmiṃ vimuttamiti ñāṇaṃ hotīti idha paccavekkhaṇā kathitā.
Đạo gọi là xa lìa ái luyến trong câu ‘do nhàm chán nên xa lìa ái luyến’ trong câu ‘do xa lìa ái luyến nên giải thoát’ này Ngài nói đến Quả được giải thoát do xa lìa ái luyến là Đạo. Ở đây, Ngài nói đến trí quán xét lại rằng ‘khi giải thoát trí tuệ biết rằng ta đã giải thoát.’
evaṃ vimuttacittaṃ mahākhīṇāsavaṃ dassetvā idāni tassa yathābhūtehi pañcahi kāraṇehi nāmaṃ gaṇhanto ayaṃ vuccati, bhikkhavetiādimāha. avijjāti vaṭṭamūlikā avijjā. ayañhi durukkhipanaṭṭhena palighoti vuccati. tenesa tassa ukkhittattā ukkhittapalighoti vutto. tālāvatthukatāti sīsacchinnatālo viya katā, samūlaṃ vā tālaṃ uddharitvā tālassa vatthu viya katā, yathā tasmiṃ vatthusmiṃ puna so tālo na paññāyati, evaṃ puna apaññattibhāvaṃ nītāti attho.
Như vậy sau khi đức Thế Tôn thuyết giảng về bậc đại lậu tận, vị đã có tâm giải thoát. Bây giờ, khi xác định tên gọi của bậc đại lậu tận ấy với năm lý do theo thực tính nên Ngài đã nói rằng ‘Này chư Tỳ khưu, vị Tỳ khưu này được gọi là…’ Vô minh bao gồm vô minh có luân hồi làm gốc. Thật vậy, vô minh này Ngài gọi là vật gây cản trở với ý nghĩa khó trèo lên. Bởi thế Tỳ khưu này Ngài gọi là vị đã treo lên vật gây cản trở do vô minh đó bị treo lên. Tālāvatthukatā: thực hiện giống như cây thốt nốt bị chặt đứt đầu, có nghĩa là hoặc sau khi đào cây thốt nốt cùng với rễ của nó làm giống như thân cây thốt nốt, đi đến trạng thái không còn tồn tại, giống như thân cây thốt nốt không còn xuất hiện ở nơi đó nữa.
ponobbhavikoti punabbhavadāyako. jātisaṃsārotiādīsu jāyanavasena ceva saṃsaraṇavasena ca evaṃ laddhanāmānaṃ punabbhavakhandhānaṃ paccayo kammābhisaṅkhāro. so hi punappunaṃ uppattikaraṇavasena parikkhipitvā ṭhitattā parikkhāti vuccati, tenesa tassā saṃkiṇṇattā vikiṇṇattā saṃkiṇṇaparikkhoti vutto. taṇhāti vaṭṭamūlikā taṇhā. ayañhi gambhīrānugataṭṭhena esikāti vuccati. tenesa tassā abbūḷhattā luñcitvā chaḍḍitattā abbūḷhesikoti vutto.
Khiến tái sanh trong kiếp sống mới: cho tái sanh vào kiếp sống mới. Luân chuyển của sự sanh: bao gồm sự tích lũy nghiệp làm duyên cho uẩn trong kiếp sống mới, được gọi tên như vậy với năng lực của sự sanh và với năng lực của sự luân chuyển trong các kiếp sống. Thật vậy, sự tích lũy nghiệp đó Ngài gọi là rào chắn bởi vì đã thiết lập bao vây bằng việc làm cho sự tái sanh lặp đi lặp lại, cho nên vị Tỳ khưu đó gọi là saṃkiṇṇaparikkho (người có rào chắn bị phá tan) do vô minh đó đã tiêu tan. Tham ái bao gồm tham ái có trong vòng luân hồi làm gốc. Thật vậy tham ái này Ngài gọi là cột kiên cố với ý nghĩa được chôn sâu. Vì thế, vị Tỳ khưu ấy Ngài gọi là abbūḷhesiko (người đã nhổ lên cột trụ) bởi tham ái đó vị ấy đã nhổ bỏ, đã liệng đi.
orambhāgiyānīti oraṃ bhajanakāni kāmabhave upapattipaccayāni. etāni hi kavāṭaṃ viya nagaradvāraṃ cittaṃ pidahitvā ṭhitattā aggaḷāti vuccanti. tenesa tesaṃ nirākatattā bhinnattā niraggaḷoti vutto. ariyoti nikkileso parisuddho. pannaddhajoti patitamānaddhajo. pannabhāroti khandhabhāra kilesabhārā bhisaṅkhārabhāra pañcakāmaguṇabhārā pannā orohitā assāti pannabhāro. apica idha mānabhārasseva oropitattā pannabhāroti adhippeto. visaṃyuttoti catūhi yogehi sabbakilesehi ca visaṃyutto. idha pana mānasaṃyogeneva visaṃyuttattā visaṃyuttoti adhippeto. asmimānoti rūpe asmīti māno, vedanāya… saññāya… saṅkhāresu… viññāṇe asmīti māno.
Hạ phần kiết sử: cho tái sanh ở chỗ thấp, làm duyên cho tái sanh trong cõi dục. Thật vậy, các kiết sử này Ngài gọi là chốt cửa bởi thiết lập đóng chặt tâm giống như đóng chặt cánh cửa ở cổng thành. Vì thế vị Tỳ khưu đó Ngài gọi là niraggaḷo (vị đã mở tung các chốt cửa) bởi các kiết sử đó vị ấy đã làm cho phá hủy. Bậc Thánh Nhân gồm bậc không còn phiền não, đã thanh tịnh. Đã hạ xuống ngọn cờ (ngã mạn): ngã mạn là ngọn cờ đã được hạ xuống. Đã đặt gánh nặng xuống: được gọi là người đã đặt gánh nặng xuống do vị Tỳ khưu đó có gánh nặng của uẩn, gánh nặng của phiền não, gánh nặng của sự tích lũy nghiệp và gánh nặng của năm loại dục đã được đặt xuống. Và hơn nữa, ở đây Ngài có ý muốn nói đến vị có gánh nặng đã được đặt xuống, do đã đặt gánh nặng chính là đặt ngã mạng xuống. Không có ách phược: không còn gắn bó với các pháp kết buộc và các phiền não. Ở đây Ngài muốn nói đến vị không còn gắn bó do xa lìa chính sợi dây trói buộc là ngã mạn. Đã đoạn trừ ngã mạn: có ngã mạn tôi có trong Sắc…trong Thọ…trong Tưởng…trong Hành…có ngã mạn tôi có trong Thức.
ettāvatā bhagavatā maggena kilese khepetvā nirodhasayanavaragatassa nibbānārammaṇaṃ phalasamāpattiṃ appetvā viharato khīṇāsavassa kālo dassito. yathā hi dve nagarāni ekaṃ coranagaraṃ, ekaṃ khemanagaraṃ. atha ekassa mahāyodhassa evaṃ bhaveyya — “yāvimaṃ coranagaraṃ tiṭṭhati, tāva khemanagaraṃ bhayato na muccati, coranagaraṃ anagaraṃ karissāmī”ti sannāhaṃ katvā khaggaṃ gahetvā coranagaraṃ upasaṅkamitvā nagaradvāre ussāpite esikatthambhe khaggena chinditvā sadvārabāhakaṃ kavāṭaṃ chinditvā palighaṃ ukkhipitvā pākāraṃ bhindanto parikkhaṃ saṃkiritvā nagarasobhanatthāya ussite dhaje pātetvā nagaraṃ agginā jhāpetvā khemanagaraṃ pavisitvā pāsādaṃ abhiruyha ñātigaṇaparivuto surasabhojanaṃ bhuñjeyya, evaṃ coranagaraṃ viya sakkāyo, khemanagaraṃ viya nibbānaṃ, mahāyodho viya yogāvacaro.
Chỉ chừng ấy lời Đức Thế Tôn đã thuyết giảng thời gian của bậc lậu tận, vị đã làm cạn kiệt phiền não bằng Thánh Đạo, vị đã đạt đến Niết bàn tối thượng, bằng sự thể nhập Thánh Quả có Niết bàn làm đối tượng. Tương tự y như hai thành phố, một thành phố của những kẻ trộm, một thành phố yên bình, khi ấy một chiến binh vĩ đại có thể nghĩ rằng: “khi nào thành phố của những tên trộm này được thành lập, thì khi ấy thành phố yên bình sẽ không được an toàn. Ta sẽ dẹp tan thành phố của những tên trộm không thể trở thành thành phố nữa.” Vì thế (vị ấy) đã mặc áo giáp, cầm gươm tiến vào thành phố của những tên cướp, rút thanh gươm chặt đứt một cây trụ gần cổng thành, phá hủy cửa cùng với các khung cửa. và tháo gỡ chốt cửa lên để phá tường, dỡ bỏ lều trại, cờ đã được giương lên vì mỹ quan thành phố, lấy lửa đốt cháy thành phố (của những tên cướp), rồi tiến vào thành phố yên bình, tiến lên lâu đài, được vay quanh bởi những thân quyến, thọ dụng vật thực có vị ngon thế nào, thì câu này cũng như vậy sắc thân giống như thành phố của những tên trộm, Niết bàn giống như thành phố yên bình, hành giả giống như một chiến binh vĩ đại.
tassevaṃ hoti, “yāva sakkāyavaṭṭaṃ vattati, tāva dvattiṃsakammakāraṇāṭṭhanavutirogapañcavīsatimahābhayehi parimuccanaṃ natthī”ti. so mahāyodho viya sannāhaṃ sīlasannāhaṃ katvā, paññākhaggaṃ gahetvā khaggena esikatthambhe viya arahattamaggena taṇhesikaṃ luñcitvā, so yodho sadvārabāhakaṃ nagarakavāṭaṃ viya pañcorambhāgiyasaṃyojanaggaḷaṃ ugghāṭetvā, so yodho palighaṃ viya, avijjāpalighaṃ ukkhipitvā, so yodho pākāraṃ bhindanto parikkhaṃ viya kammābhisaṅkhāraṃ bhindanto jātisaṃsāraparikkhaṃ saṃkiritvā, so yodho nagarasobhanatthāya ussāpite dhaje viya mānaddhaje pātetvā sakkāyanagaraṃ jhāpetvā, so yodho khemanagare uparipāsāde surasabhojanaṃ viya kilesanibbānaṃ nagaraṃ pavisitvā amatanirodhārammaṇaṃ phalasamāpattisukhaṃ anubhavamāno kālaṃ vītināmeti.
Hành giả ấy có suy nghĩ như vầy: “cho đến khi nào sự luân chuyển của sắc thân được vận hành, cho đến khi ấy sự thoát khỏi ba mươi hai loại hình phạt (kammakāraṇa), chín mươi tám loại tật bệnh, hai mươi lăm đại nạn cũng không còn tồn tại.” Hành giả giống như một chiến binh vĩ đại mặc áo giáp là áo giáp của giới, cầm thanh gươm là Trí Tuệ nắm lấy A-ra-hán Đạo chặt đứt cây trụ là tham ái tựa như cầm lấy thanh gươm chặt đứt cột trụ. Hành giả ấy nhấc chốt cửa là năm Hạ Phần Kiết Sử tựa như chiến binh nâng cửa sổ cùng với các khung cửa, nâng lên chốt cửa là Vô Minh giống như nhấc chốt cửa, vị ấy phá hủy sự tích lũy nghiệp, phá vỡ lều trại là vòng luân hồi tái sanh giống như chiến binh phá hủy bức tường phá hủy lều trại, hành giả hạ cờ xướng là ngã mạn, thiêu đốt thành phố là sắc thân giống như chiến binh hạ cờ đã được giương lên vì mỹ quan thành phố, hành giả tiến vào thành phố yên bình là phiền não Niết bàn xinh đẹp an lạc khởi lên từ sự thế nhập Thánh Quả mà có Pháp bất tử Niết bàn làm đối tượng (vị ấy) vượt qua thời gian giống như người chiến binh thọ dụng vật thực có vị ngon ở tần trên của tòa lâu đài trong thành phố yên bình.
- idāni evaṃ vimuttacittassa khīṇāsavassa parehi anadhigamanīyaviññāṇataṃ dassento evaṃ vimuttacittaṃ khotiādimāha. tattha anvesanti anvesantā gavesantā. idaṃ nissitanti idaṃ nāma nissitaṃ. tathāgatassāti ettha sattopi tathāgatoti adhippeto, uttamapuggalo khīṇāsavopi. ananuvijjoti asaṃvijjamāno vā avindeyyo vā. tathāgatoti hi satte gahite asaṃvijjamānoti attho vaṭṭati, khīṇāsave gahite avindeyyoti attho vaṭṭati.
[246] bây giờ đức Thế Tôn trong khi thuyết giảng tính chất mà bậc lậu tận, vị có tâm đã giải thoát như vầy, là người có thức tánh mà người khác không thể tìm kiếm được nên Ngài đã nói rằng: “Các Tỳ khưu, Tỷ kheo đã giải thoát như vậy…”. Ở đó, tìm kiếm bao gồm nỗ lực tìm kiếm. idaṃ nissitaṃ: y cứ điều này. Thậm chí Ngài cũng có ý muốn đề cập rằng Như Lai trong từ tathāgatassa (đệ tử của Như Lai) này. Ngay cả bậc lậu tận cũng là người tối thượng. Ananuvijjo: người không có hoặc người mà người khác không thể tìm ra. Thật vậy, khi chấp rằng chúng sanh là Như Lai nên nói rằng có ý nghĩa “không tồn tại”. Khi chấp rằng bậc lậu tận, phải nói rằng “không ai có thể tìm thấy”.
tattha purimanaye ayamadhippāyo — bhikkhave, ahaṃ diṭṭheva dhamme dharamānakaṃyeva khīṇāsavaṃ tathāgato satto puggaloti na paññapemi. appaṭisandhikaṃ pana parinibbutaṃ khīṇāsavaṃ sattoti vā puggaloti vā kiṃ paññapessāmi? ananuvijjo tathāgato. na hi paramatthato satto nāma koci atthi, tassa avijjamānassa idaṃ nissitaṃ viññāṇanti anvesantāpi kiṃ adhigacchissanti? kathaṃ paṭilabhissantīti attho. dutiyanaye ayamadhippāyo — bhikkhave, ahaṃ diṭṭheva dhamme dharamānakaṃyeva khīṇāsavaṃ viññāṇavasena indādīhi avindiyaṃ vadāmi. na hi saindā devā sabrahmakā sapajāpatikā anvesantāpi khīṇāsavassa vipassanācittaṃ vā maggacittaṃ vā phalacittaṃ vā, idaṃ nāma ārammaṇaṃ nissāya vattatīti jānituṃ sakkonti. te appaṭisandhikassa parinibbutassa kiṃ jānissantīti?
Trong hai cách đó, cách thứ nhất được giải thích như sau: Này các Tỳ khưu, dầu bậc lậu tận vẫn duy trì mạng sống ngay trong hiện tại Ta cũng không tuyên bố rằng Như Lai, chúng sanh, hạng người (mà) ta sẽ tuyên bố bậc lậu tận vị đã tịch diệt Niết bàn không còn tái sanh, chúng sanh hay con người đạt được như thế nào. Tức là Như Lai không tồn tại, thật vậy nói theo Chân Nghĩa Pháp thì không có ai gọi là chúng sanh, khi chúng sanh không có chư Thiên nỗ lực tìm kiếm thức nương vào cái gì? sẽ cảm nghiệm như thế nào (tức là) sẽ gặp được như thế nào? Trong cách thứ hai giải thích như vậy “này chư Tỳ khưu, Ta nói rằng bậc lậu tận vị vẫn duy trì mạng sống chỉ trong kiếp hiện tại, mà chư Thiên có Vua Trời Đế Thích v.v, tìm không được bằng tâm thức. Bởi vậy chư Thiên cùng với Vua Trời Đế Thích, Sanh Chủ dù nỗ lực tìm kiếm cũng không thể nhận biết tâm Minh Sát, tâm Đạo hoặc Tâm Quả của bậc lậu tận rằng nương đối tượng này được vận hành, chư Thiên đó sẽ nhận biết điều gì của bậc lậu tận vị đã tịch diệt Niết bàn không còn tục sanh.
asatāti asantena. tucchāti tucchakena. musāti musāvādena. abhūtenāti yaṃ natthi, tena. abbhācikkhantīti abhiācikkhanti, abhibhavitvā vadanti. venayikoti vinayati vināsetīti vinayo, so eva venayiko, sattavināsakoti adhippāyo. yathā cāhaṃ na, bhikkhaveti, bhikkhave, yena vākārena ahaṃ na sattavināsako. yathā cāhaṃ na vadāmīti yena vā kāraṇena ahaṃ sattavināsaṃ na paññapemi. idaṃ vuttaṃ hoti — yathāhaṃ na sattavināsako, yathā ca na sattavināsaṃ paññapemi, tathā maṃ te bhonto samaṇabrāhmaṇā “venayiko samaṇo gotamo”ti vadantā sattavināsako samaṇo gotamoti ca, “sato sattassa ucchedaṃ vināsaṃ vibhavaṃ paññapetī”ti vadantā sattavināsaṃ paññapetīti ca asatā tucchā musā abhūtena abbhācikkhantīti.
Asata: không tồn tại.Tucchā: trống không. musā: vơi lời nói dối, không thật. abhūtena: với chuyện không có. Abbhācikkhanti: hư vọng, nói sai sự thật. Người làm cho chúng sanh hủy diệt: gọi là vinaya do diệt tận, khiến cho tan rã, vinaya ấy gọi là venayaka dịch là người làm cho chúng sanh hủy diệt. Ta không làm cho chúng sanh hủy diệt như thế: các Tỳ khưu Ta không phải làm chúng sanh khiện họ hủy diệt như thế. Dầu cho Ta không làm chúng sanh hủy diệt: hoặc Ta không tuyên bố chúng sanh bị hủy diệt như thế. Ngài giải thích rằng Ta không làm chúng sanh hủy diệt bằng cách nào và không tuyên bố việc làm cho chúng sanh hủy diệt bằng cách nào? Sa-môn Bà-la-môn buộc tội ta rằng Sa-môn Gotama làm cho chúng sanh hủy diệt, rằng Ta tuyên bố sự trống rỗng, sự hủy diệt, sự tiêu diệt các hữu tình, và cả nói sai sự thật bằng những chuyện không có, rỗng tuếch, nói dối và không đúng sự thật, Như Lai tuyên bố sự hủy diệt của chúng sanh.
pubbe cāti pubbe mahābodhimaṇḍamhiyeva ca. etarahi cāti etarahi dhammadesanāyañca. dukkhañceva paññapemi, dukkhassa ca nirodhanti dhammacakkaṃ appavattetvā bodhimaṇḍe viharantopi dhammacakkappavattanato paṭṭhāya dhammaṃ desentopi catusaccameva paññapemīti attho. ettha hi dukkhaggahaṇena tassa mūlabhūto samudayo, nirodhaggahaṇena taṃsampāpako maggo gahitova hotīti veditabbo. tatra ceti tasmiṃ catusaccappakāsane. pareti saccāni ājānituṃ paṭivijjhituṃ asamatthapuggalā. akkosantīti dasahi akkosavatthūhi akkosanti. paribhāsantīti vācāya paribhāsanti. rosenti vihesentīti rosessāma vihesessāmāti adhippāyena ghaṭṭenti dukkhāpenti. tatrāti tesu akkosādīsu, tesu vā parapuggalesu. āghātoti kopo. appaccayoti domanassaṃ. anabhiraddhīti atuṭṭhi.
Cả trong thời quá khứ (pubbe ca): thời gian trước khi Ngài giác ngộ dưới cội Đại thọ Bồ-đề. Cả thời nay (etarahi ca): ngay lúc này, là trong lúc thuyết giảng Giáo Pháp. Ta tuyên bố (giảng dạy) Khổ và sự Diệt Khổ (dukkhañceva paññapemi, dukkhassa ca nirodhaṃ): Như Lai an trú ở cội Bồ-đề vẫn không tuyên thuyết chuyển vận bánh xe Pháp, hay thuyết giảng pháp kể từ lúc tuyên thuyết chuyển vận bánh xe Pháp, hay chỉ tuyên thuyết Tứ Thánh Đế. Thật vậy, trong Tứ Thánh Đế đó Tập khởi là bản thể gốc của Khổ đó, nên hiểu rằng việc nắm lấy với từ Khổ; còn Đạo để đạt đến Diệt đó, nên biết rằng nắm lấy với từ Diệt. Tatra ce: trong việc tuyên thuyết Tứ Thánh Đế đó. Những người khác bao gồm những hạng người không thể thấu triệt các Chân Lý. Akkosanti bao gồm mắng nhiếc bằng mười cách mạ lỵ (akkosavatthu). Paribhāsanti: phỉ báng bằng lời. Làm cho phẫn nộ, gây phiền nhiễu bao gồm mong rằng ta sẽ giận dữ, sẽ phiền nhiễu. Va chạm: cho cảm nghiệm khổ đau. Tatra: trong việc mắng nhiếc đó v.v, hoặc ở những người khác ấy. Không có sự hiềm khích: sự sân hận. Không buồn rầu: gồm sự đau lòng. Không có sự bất mãn: sự không hoan hỷ.
tatra ceti catusaccappakāsaneyeva. pareti catusaccappakāsanaṃ ājānituṃ paṭivijjhituṃ samatthapuggalā. ānandoti ānandapīti. uppilāvitattanti uppilāpanapīti. tatra ceti catusaccappakāsanamhiyeva. tatrāti sakkārādīsu. yaṃ kho idaṃ pubbe pariññātanti idaṃ khandhapañcakaṃ pubbe bodhimaṇḍe tīhi pariññāhi pariññātaṃ. tatthameti tasmiṃ khandhapañcake ime. kiṃ vuttaṃ hoti? tatrāpi tathāgatassa ime sakkārā mayi karīyantīti vā ahaṃ ete anubhavāmīti vā na hoti. pubbe pariññātakkhandhapañcakaṃyeva ete sakkāre anubhotīti ettakameva hotīti. tasmāti yasmā saccāni paṭivijjhituṃ asamatthā tathāgatampi akkosanti, tasmā. sesaṃ vuttanayeneva veditabbaṃ.
tatra ce: gồm việc tuyên thuyết Tứ Thánh Đế đó. Những người đó bao gồm những người biết rõ thấu triệt việc tuyên thuyết Tứ Thánh Đế. Sự hoan hỷ: say xưa với sự hoan hỷ. Uppilāvitattaṃ: say mê nhờ vào năng lực sự thỏa thích. tatra ce lời tuyên bố về Tứ Thánh Đế. Tatrā: trong sự cung kính v.v. Ta đã từng biết rõ điều này trước kia: ngũ uẩn nào đức Thế Tôn đã biết rõ toàn diện với ba sự rõ biết tại cội Bồ-đề đạo trong quá khứ. Tatthame đồng nghĩa tasmiṃ khandhapañcake ime [sự cung kính này mà họ đã làm (đối với tôi) trong năm uẩn đó]. Ngài giải thích thế nào? Ngài giải thích rằng: “Nghĩ rằng sự cung kính này sẽ có trong Ta hoặc Ta sẽ thọ nhận sự cung kính này, không có đối với Như Lai trong ngũ uẩn đó và có sự tư duy chỉ có chừng ấy rằng: Như Lai thọ nhận sự cung kính của ngũ uẩn đã từng biết rõ điều này từ trước, và ngũ uẩn được thọ nhận sự cung kính này. Tasmā: bởi vì Sa-môn Bà-la-môn khác, người không có khả năng thấu triệt các Chân Lý mới mắng nhiếc Như Lai như thế. Các từ còn lại nên biết theo cách thức đã nói trước đó.
- tasmā tiha, bhikkhave, yaṃ na tumhākanti yasmā attaniyepi chandarāgappahānaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya saṃvattati, tasmā yaṃ na tumhākaṃ, taṃ pajahathāti attho. yathāpaccayaṃ vā kareyyāti yathā yathā iccheyya tathā tathā kareyya. na hi no etaṃ, bhante, attā vāti, bhante, etaṃ tiṇakaṭṭhasākhāpalāsaṃ amhākaṃ neva attā na amhākaṃ rūpaṃ na viññāṇanti vadanti. attaniyaṃ vāti amhākaṃ cīvarādiparikkhāropi na hotīti attho. evameva kho, bhikkhave, yaṃ na tumhākaṃ taṃ pajahathāti bhagavā, khandhapañcakaṃyeva na tumhākanti dassetvā pajahāpeti, tañca kho na uppāṭetvā, luñcitvā vā. chandarāgavinayena panetaṃ pajahāpeti.
[247] Vì thế, này các Tỳ khưu cái nào không phải của các ông? Sự dứt bỏ mong muốn và ái luyến, cả những thứ không liên quan với bản thân, được vận hành vì lợi ích, vì sự an lạc lâu dài, bởi thế các ông hãy dứt bỏ những cái đó. Hãy thực hành theo sự ước muốn: họ muốn làm như thế nào thì hãy làm theo như thế đó. Thưa Ngài bởi vì cái đó không phải là tự ngã (na hi no etaṃ, bhante, attā vā): các Tỳ khưu đáp rằng, thưa Ngài (bởi vì) cái đó là cỏ, cây, cành cây, và lá cây không phải là của ta, không phải Sắc của ta, không phải Thức của ta. Hoặc những thứ liên quan đến tự ngã (attaniyaṃ vā): Cả những vật dụng phụ từng như y phục v.v, cũng không phải của ta. Như vậy, này các Tỳ khưu, những cái nào không phải của các ông, các ông hãy dứt bỏ những thứ đó (evameva kho, bhikkhave, yaṃ na tumhākaṃ taṃ pajahathā): Đức Thế Tôn đã thuyết giảng ngũ uẩn đó không phải của các ông, hãy dứt bỏ chúng, những không phải bứng gốc hay chặt đứt ngũ uẩn, mà từ bỏ nó bằng sự loại bỏ mong muốn và ái luyến.
Pháp mà Ta đã khéo thuyết như vậy: ở đây mặc dầu mang lại đầy đủ Tam Luân tính từ lúc chỉ có sự yêu mến nơi đức Phật đi đến tái sanh trong cõi trời đã được trù định trước rồi quay trở lại vị trí này (trở thành vị A-ra-hán). Đã khéo thuyết:
- evaṃ svākkhātoti ettha tiparivaṭṭato paṭṭhāya yāva imaṃ ṭhānaṃ āharitumpi vaṭṭati, paṭilomena pemamattakena saggaparāyaṇato paṭṭhāya yāva imaṃ ṭhānaṃ āharitumpi vaṭṭati. svākkhātoti sukathito. sukathitattā eva uttāno vivaṭo pakāsito. chinnapilotikoti pilotikā vuccati chinnaṃ bhinnaṃ tattha tattha sibbitaṃ gaṇṭhikataṃ jiṇṇaṃ vatthaṃ, taṃ yassa natthi, aṭṭhahatthaṃ vā navahatthaṃ vā ahatasāṭakaṃ nivattho, so chinnapilotiko nāma. ayampi dhammo tādiso, na hettha kohaññādivasena chinnabhinnasibbitagaṇṭhikatabhāvo atthi. apica kacavaro pilotikoti vuccati. imasmiñca sāsane samaṇakacavaraṃ nāma patiṭṭhātuṃ na labhati. tenevāha —
[248] Pháp mà Ta đã khéo thuyết như vậy: ở đây mặc dầu mang lại đầy đủ Tam Luân tính từ lúc chỉ có sự yêu mến nơi đức Phật đi đến tái sanh trong cõi trời đã được trù định trước rồi quay trở lại vị trí này (trở thành vị A-ra-hán). Đã khéo thuyết: đã thuyết khéo léo, làm cho tỏ lộ, làm cho khai thông, làm cho khai thị bởi vì là Pháp đã được khéo thuyết. Tấm vải sứt chỉ, tấm vải rách đã được vị ấy khâu lại làm nút thắt đặt ở nơi đó đó, tấm vải sờn màu Ngài gọi đó là tấm vải cũ trong câu đã cắt những tấm vải rách vải cũ. Vị nào không có vải cũ đó, vị đó mặc với vải mới tám hắt tay, hay chín hắt tay, gọi là người thiếu vải cũ. Ngay cả pháp này cũng như vậy, trong từ này không có tính chất (bhāva), như vải rách, bị sứt chỉ đã được khâu lại thắt nút bằng việc đánh lừa. Hơn nữa, đồ bỏ đi cũng gọi là đồ cũ. Sa-môn cặn bã (giả mạo) không thể sống trong Tôn Giáo này. Vì thế Ngài đã nói:
“kāraṇḍavaṃ niddhamatha, kasambuñcāpakassatha.
tato palāpe vāhetha, assamaṇe samaṇamānine.
niddhamitvāna pāpicche, pāpā acāragocare.
suddhā suddhehi saṃvāsaṃ, kappayavho patissatā.
tato samaggā nipakā, dukkhassantaṃ karissathā”ti. (su. ni. 283-285).
Các ông hãy tống đi (Sa-môn) cặn bã, và hãy lùa bỏ (Sa-môn) rác rưởi. Sau đó, các ngươi hãy loại bỏ các (Sa-môn) cặn bã, những kẻ không phải Sa-môn nhưng lại nghĩ bản thân là Sa-môn mất danh tiếng của Tôn Giáo đó,
Sau khi tống đi những kẻ có ước muốn ác xấu, có hành vi và nơi lai vãng xấu xa. Hãy là những người trong sạch sống cộng trú với những vị trong sạch, có niệm ghi nhớ tu tập trước mặt. Từ đó, có sự hợp nhất, có trí tuệ hộ trì bản thân, các ngươi sẽ thực hiện việc chấm dứt khổ đau.
iti samaṇakacavarassa chinnattāpi ayaṃ dhammo chinnapilotiko nāma hoti. vaṭṭaṃ tesaṃ natthi paññāpanāyāti tesaṃ vaṭṭaṃ apaññattibhāvaṃ gataṃ nippaññattikaṃ jātaṃ. evarūpo mahākhīṇāsavo evaṃ svākkhāte sāsaneyeva uppajjati. yathā ca khīṇāsavo, evaṃ anāgāmiādayopi.
Pháp này được gọi là cắt dứt vải rách vải cũ, do đã tống đi những Sa-môn cặn bã ra khỏi (Giáo Pháp này) bằng cách này. Vòng luân chuyển tái sanh của những vị này không thể chỉ bày: Vòng luân chuyển của các vị Tỳ khưu đó đạt đến bản thể không có paññatti, tìm kiếm paññatti không được. Bậc đại lậu tận thấy bằng hình thức như vậy phát sanh chính trong Tôn Giáo mà đã được đức Thế Tôn khéo thuyết như vậy, bậc lậu tận trở thành thế nào thì bậc Thánh Nhân như vị Thánh Bất Lai v.v, cũng trở thành như thế đó.
tattha dhammānusārino saddhānusārinoti ime dve sotāpattimaggaṭṭhā honti. yathāha — “katamo ca puggalo dhammānusārī? yassa puggalassa sotāpattiphalasacchikiriyāya paṭipannassa paññindriyaṃ adhimattaṃ hoti, paññāvāhiṃ paññāpubbaṅgamaṃ ariyamaggaṃ bhāveti. ayaṃ vuccati puggalo dhammānusārī. sotāpattiphalasacchikiriyāya paṭipanno puggalo dhammānusārī, phale ṭhito diṭṭhippatto.
Trong số các bậc Thánh Nhân đó thì hai bậc Thánh Nhân là bậc tùy pháp hành (dhammānusārī) và bậc tùy tín hành (saddhānusārī) là vị đã được vững trú trong Nhập Lưu Thánh Đạo. Tương tự như Ngài đã nói rằng: Bậc tùy pháp hành như thế nào? Tuệ quyền của hạng người nào vị thực hành nhằm mục dịch làm tỏ ngộ Nhập Lưu Thánh Quả vượt trội vị ấy tu tập Thánh Đạo có trí tuệ làm phương tiện dẫn dắt, có trí tuệ làm trưởng, ngài gọi là bậc tùy pháp hành. Hạng người thực hành nhằm mục đích tỏ ngộ Nhập Lưu Thánh Quả là bậc tùy pháp hành, vị đã vững trú trong Thánh Quả gọi là bậc kiến đắc (diṭṭhippatta).
katamo ca puggalo saddhānusārī? yassa puggalassa sotāpattiphalasacchikiriyāya paṭipannassa saddhindriyaṃ adhimattaṃ hoti, saddhāvāhiṃ saddhāpubbaṅgamaṃ ariyamaggaṃ bhāveti. ayaṃ vuccati puggalo saddhānusārī. sotāpattiphalasacchikiriyāya paṭipanno puggalo saddhānusārī, phale ṭhito saddhāvimutto”ti (pu. pa. 30). yesaṃ mayi saddhāmattaṃ pemamattanti iminā yesaṃ añño ariyadhammo natthi, tathāgate pana saddhāmattaṃ pemamattameva hoti. te vipassakapuggalā adhippetā. vipassakabhikkhūnañhi evaṃ vipassanaṃ paṭṭhapetvā nisinnānaṃ dasabale ekā saddhā ekaṃ pemaṃ uppajjati. tāya saddhāya tena pemena hatthe gahetvā sagge ṭhapitā viya honti, niyatagatikā kira ete. porāṇakattherā pana evarūpaṃ bhikkhuṃ cūḷasotāpannoti vadanti. sesaṃ sabbattha uttānatthamevāti.
Bậc tùy tín hành như thế nào? Tín quyền của hạng người nào vị thực hành nhằm mục đích tỏ ngộ Nhập Lưu Thánh Quả vượt trội, vị ấy tu tập Thánh Đạo có tín là pháp dẫn dắt, có tín làm trưởng, hạng người này Ngài gọi là bậc tùy tín hành. Hạng người thực hành nhằm mục đích làm tỏ ngộ Nhập Lưu Thánh Quả là bậc tùy tín hành, vị vững trú trong trong Thánh Quả, vị hướng đến với đức tin. (pu. pa. 30). Hạng người nào chỉ đủ lòng tin nơi Ta, chỉ đủ lòng thương mến đối với Ta (yesaṃ mayi saddhāmattaṃ pemamattaṃ): Ngài có ý muốn đề cập hạng người tu tập Minh Sát mà không có Thánh Pháp mà chỉ có đức tin, chỉ có lòng thương mến đối với Như Lai. Thật vậy, chư Tỳ khưu ngồi đã bắt đầu ngồi (thực hành) Minh Sát phát sanh một loại đức tin, một loại lòng thương yêu đối với đấng Thập Lực, các ông cũng giống tương tự lòng tin đó, lòng thương yêu đó, nắm lấy tay đặt ở cõi trời. Bằng hình thức như vậy các Tỳ khưu đó chắc chắn có cảnh giới tái sanh an vui. Các vị tỳ khưu trưởng lão gọi các Tỳ khưu đó là vị Thánh Tiểu Nhập Lưu. Các từ còn lại đều đơn giản.
Giải Thích Kinh Ví Dụ Con Rắn Kết Thúc.