Kinh số 02 – Giải Thích Kinh Tất Cả Lậu Hoặc

(Sabbāsavasuttavaṇṇanā)

Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Tất Cả Lậu Hoặc

  1. Evaṃme sutaṃ…pe… sāvatthiyanti sabbāsavasuttaṃ. Tatrāyaṃ apubbapadavaṇṇanā – sāvatthīti savatthassa isino nivāsaṭṭhānabhūtā nagarī, yathā kākandī mākandī kosambīti evaṃ tāva akkharacintakā. Aṭṭhakathācariyā pana bhaṇanti ‘‘yaṃkiñci manussānaṃ upabhogaparibhogaṃ sabbamettha atthīti sāvatthī. Satthasamāyoge ca kiṃ bhaṇḍamatthīti pucchite sabbamatthī’’ti vacanamupādāya sāvatthī.
    Bài Kinh Tất Cả Lậu Hoặc được bắt đầu như sau: tôi đã nghe như vầy -nt- thành Sāvatthī [evaṃ me sutaṃ … pe … sāvatthiyaṃ]. Ở đây, bài Kinh này được giải thích theo tuần tự như sau – Các nhà ngôn ngữ học đã phân tích rằng: ‘Sāvatthī’ là kinh thành nơi cư trú của Đạo sĩ Savattha, giống như ‘kākandī mākandī’[1]. Lại nữa, các chú giải sư nói rằng tất cả vật dụng [upabhoga] và vật thực [paribhoga] của con người mọi thứ đều có trong kinh thành này, do đó kinh thành này được gọi là Sāvatthī. Khi lấy từ ‘sattha’ để gộp lại mới gọi là Sāvatthī, do nương vào nhân, khi bị anh ta hỏi rằng có đồ vật gì không? đáp rằng có đủ mọi thứ.

‘‘Sabbadā sabbūpakaraṇaṃ, sāvatthiyaṃ samohitaṃ;

Tasmā sabbamupādāya, sāvatthīti pavuccati.

Kosalānaṃ puraṃ rammaṃ, dassaneyyaṃ manoramaṃ;

Dasahi saddehi avivittaṃ, annapānasamāyutaṃ.

Vuddhiṃ vepullataṃ pattaṃ, iddhaṃ phītaṃ manoramaṃ;

Aḷakamandāva devānaṃ, sāvatthipuramuttama’’nti.

Tất cả vật dụng và vật thực mọi thứ đều được tập trung ở thành Sāvatthī. Cho nên, Ngài muốn đề cập đến sự đầy đủ với mọi thứ vật dụng và vật thực mới gọi là Sāvatthī.

Đây là thành phố của người dân xứ Kosala thật xinh đẹp , đáng nhìn, làm thích ý, dồi dào thức ăn nước uống, nhộn nhịp với mười loại âm thanh.

Là thành phố đạt đến sự phát triển thịnh vượng, giàu sang phóng phú, xa hoa tráng lệ, rộng lớn làm thỏa mãn giống như Thiên nữ tên Aḷakamandā trong kinh thành Sāvatthī diễm lệ.

Tassaṃ sāvatthiyaṃ. Jetavaneti ettha attano paccatthikajanaṃ jinātīti jeto, raññā vā attano paccatthikajane jite jātoti jeto, maṅgalakamyatāya vā tassa evaṃnāmameva katanti jeto, jetassa vanaṃ jetavanaṃ. Tañhi jetena rājakumārena ropitaṃ saṃvaddhitaṃ paripālitaṃ, so ca tassa sāmī ahosi. Tasmā jetavananti vuccati, tasmiṃ jetavane. Anāthapiṇḍikassa ārāmeti ettha sudatto nāma so gahapati mātāpitūhi katanāmavasena. Sabbakāmasamiddhitāya pana vigatamalamaccheratāya karuṇādiguṇasamaṅgitāya ca niccakālaṃ anāthānaṃ piṇḍamadāsi, tena anāthapiṇḍikoti saṅkhaṃ gato. Āramanti ettha pāṇino visesena vā pabbajitāti ārāmo, tassa pupphaphalādisobhāya nātidūranaccāsannatādipañcavidhasenāsanaṅgasampattiyā ca tato tato āgamma ramanti abhiramanti anukkaṇṭhitā hutvā nivasantīti attho. Vuttappakārāya vā sampattiyā tattha tattha gatepi attano abbhantaraṃyeva ānetvā rametīti ārāmo. So hi anāthapiṇḍikena gahapatinā jetassa rājakumārassa hatthato aṭṭhārasahi hiraññakoṭīhi koṭisantharena kīṇitvā aṭṭhārasahi hiraññakoṭīhi senāsanāni kārāpetvā aṭṭhārasahi hiraññakoṭīhi vihāramahaṃ niṭṭhāpetvā evaṃ catupaññāsahiraññakoṭipariccāgena buddhappamukhassa saṅghassa niyyādito. Tasmā ‘‘anāthapiṇḍikassa ārāmo’’ti vuccati. Tasmiṃ anāthapiṇḍikassa ārāme.

Ở đây, Jetavane: Vương tử có tên là ‘Jeta’ bởi vì vị ấy chiến thắng được kẻ thù của chính mình, hoặc do vị ấy được hạ sanh trong lúc phụ pương chiến thắng kẻ địch. Hơn nữa gọi là ‘Jeta’ do tên gọi như vậy, hoặc mong muốn đem lại điềm lành hạnh phúc, khu vườn của vương tử Jeta gọi là Jetavana. Bởi vì khu vườn Jetavana này được vương tử Jeta trồng, chăm sóc làm cho khu vườn ấy phát triển tuyệt đẹp và ngài cũng là chủ nhân của khu vườn đó. Vì vậy, nó được gọi là Jetavana, ở trong Tịnh xá Jetavana. Ở đây, tại vườn ông Anāthapiṇḍika: vị gia chủ ấy tên là Sudatta theo tên được đặt bởi cha mẹ. Hơn nữa, ông thường xuyên cho đồ ăn đến những người nghèo khổ, do là người giàu có với tất cả mọi loại tài sản, do đã lìa bỏ sự ô nhiễm của bỏn xẻn, và hội đủ phẩm hạnh như lòng trắc ẩn v.v. vì lý do đó (vị ấy) đã đi đến danh xưng Anāthapiṇḍika. Tất cả chúng sanh, đặc biệt người xuất gia có sự thỏa thích ở tại khu vườn này, vì vậy nơi đây được gọi ‘ārāma’. Các chúng sanh có thức tánh đến từ chỗ này chỗ nọ hân hoan, thỏa thích và sống thoải mái bởi vì khu vườn ấy xinh đẹp với nhiều loại cây cối, và các kỳ hoa dị thảo v.v. đầy đủ với 5 yếu tố hợp với trú xứ không quá gần mà cũng không quá xa xóm làng. Hơn nữa, gọi là khu vườn bởi vì nó thu hút các loài vật đến nơi đó và giữ chúng lại bên trong địa phận của chính khu vườn, rồi thỏa thích với sự thành tựu như đã nói. Quả thật, trưởng giả Anāthapiṇḍika đã dâng cúng đến chúng tỳ khưu Tăng có Đức Phật làm người dẫn đầu, với sự dứt bỏ tài sản lên đến 54 koṭi[2] đồng tiền vàng để mua khu đất từ vương tử Jeta, với 18 koṭi đồng tiền vàng để phủ kín khu vực ấy, và với 18 koṭi đồng tiền vàng để thực hiện xây cất những trú xứ khác, và thêm 18 koṭi để thực hiện xây dựng Tịnh xá. Vì lý do đó nên mới gọi là khu vườn của ông Anāthapiṇḍika. Trong khu vườn của trưởng giả Anāthapiṇḍika đó.

Ettha ca ‘‘jetavane’’ti vacanaṃ purimasāmiparikittanaṃ. ‘‘Anāthapiṇḍikassa ārāme’’ti pacchimasāmiparikittanaṃ. Kimetesaṃ parikittane payojananti. Puññakāmānaṃ diṭṭhānugatiāpajjanaṃ. Tatra hi dvārakoṭṭhakapāsādamāpane bhūmivikkayaladdhā aṭṭhārasa hiraññakoṭiyo anekakoṭiagghanakā rukkhā ca jetassa pariccāgo, catupaññāsa koṭiyo anāthapiṇḍikassa. Iti tesaṃ parikittanena evaṃ puññakāmā puññāni karontīti dassento āyasmā ānando aññepi puññakāme tesaṃ diṭṭhānugatiāpajjane niyojeti.

Và ở đây ‘Jetavana’ trong cụm từ ‘tại Jetavana, nơi khu vườn của ông Anāthapiṇḍika’ là lời nói để xác định người chủ sở hữu trước. Còn ‘nơi khu vườn của ông Anāthapiṇḍika’ là lời nói để xác định người chủ sở hữu sau. Vậy thì có lợi ích gì trong việc xác định hai chủ sở hữu ấy. Có lợi ích là một tấm gương cho những người muốn tạo phước. Thật vậy, trong câu đó ngài Ānanda đã chỉ ra rằng: người muốn có phước báu thì phải tạo phước báu, vì danh tiếng của hai vị ấy – Vương tử Jeta đã cống hiến 18 koṭi tài sản mà ngài có được từ việc bán đất để xây dựng cổng vòm và lâu đài, và các cây cói có giá trị nhiều koṭi. Còn trưởng giả Anāthapiṇḍika đã cúng dường 54 koṭi, rồi khuyến khích những người khác muốn có phước (phải tạo phước báu) nên mới lấy hai vị đó làm ví dụ.

Sabbāsavasaṃvarapariyāyaṃ vo, bhikkhaveti kasmā idaṃ suttamabhāsi? Tesaṃ bhikkhūnaṃ upakkilesavisodhanaṃ ādiṃ katvā āsavakkhayāya paṭipattidassanatthaṃ. Tattha sabbāsavasaṃvarapariyāyanti sabbesaṃ āsavānaṃ saṃvarakāraṇaṃ saṃvarabhūtaṃ kāraṇaṃ, yena kāraṇena te saṃvaritā pidahitā hutvā anuppādanirodhasaṅkhātaṃ khayaṃ gacchanti pahīyanti nappavattanti, taṃ kāraṇanti attho. Tattha āsavantīti āsavā, cakkhutopi…pe… manatopi sandanti pavattantīti vuttaṃ hoti. Dhammato yāva gotrabhuṃ okāsato yāva bhavaggaṃ savantīti vā āsavā, ete dhamme etañca okāsaṃ anto karitvā pavattantīti attho. Antokaraṇattho hi ayaṃ ākāro. Cirapārivāsiyaṭṭhena madirādayo āsavā, āsavā viyātipi āsavā. Lokasmiñhi cirapārivāsikā madirādayo āsavāti vuccanti. Yadi ca cirapārivāsiyaṭṭhena āsavā, eteyeva bhavitumarahanti. Vuttañhetaṃ ‘‘purimā, bhikkhave, koṭi na paññāyati avijjāya, ito pubbe avijjā nāhosī’’tiādi (a. ni. 10.61). Āyataṃ vā saṃsāradukkhaṃ savanti pasavantītipi āsavā. Purimāni cettha nibbacanāni yattha kilesā āsavāti āgacchanti, tattha yujjanti, pacchimaṃ kammepi. Na kevalañca kammakilesāyeva āsavā, apica kho nānappakārakā uppaddavāpi. Suttesu hi ‘‘nāhaṃ, cunda, diṭṭhadhammikānaṃyeva āsavānaṃ saṃvarāya dhammaṃ desemī’’ti (dī. ni. 3.182) ettha vivādamūlabhūtā kilesā āsavāti āgatā.

Này các tỳ khưu, Ta sẽ chỉ bảo cho các ngươi pháp môn phòng hộ tất cả lậu hoặc” tại sao Đức Thế Tôn thuyết bài Kinh này? Bởi vì để chỉ phương pháp thực hành đưa đến sự chấm dứt tất cả lậu hoặc, bắt đầu từ việc gọt sạch tùy phiền não của các tỳ khưu. Trong câu đó ‘pháp môn phòng hộ tất cả lậu hoặc’ là làm nhân phòng hộ và làm nhân cho chế ngự trong tất cả lậu hoặc, là làm nhân khiến các lậu hoặc mà vị tỳ khưu đã khéo ngăn che để đưa đến sự diệt tận, tức là đoạn tận hoàn toàn khiến không sanh trở lại nữa, là vị tỳ khưu đã dứt trừ (phiền não) không còn vận hành. ‘Lậu hoặc’ đó được gọi là lậu hoặc với ý nghĩa chảy ra. Ngài giải thích rằng lậu hoặc ấy chảy ra qua lộ nhãn môn -nt- lộ tâm. Lại nữa, lậu hoặc đó nếu nói theo thực tính pháp sẽ chảy ra đến gotrabhū [chuyển tộc], nếu nói theo ākāsaloka[3] [hư không thế gian] sẽ chảy ra đến bhavaggabrahma[4] [phạm thiên hữu đảnh]. Vì vậy, được gọi là lậu hoặc. Các lậu hoặc đó làm cho các pháp ấy và ākāsaloka [hư không thế gian] đặt bên trong (mãnh lực) rồi vận hành theo. Thật vậy, tiền tố ‘ā’ này có ý nghĩa là đặt để vào bên trong. Gọi là āsava vì nó giống như thức ăn được lên men như rượu, v.v. Bởi ý nghĩa là đã lên men lâu ngày, sự thật trong thế gian rượu lên men lâu ngày cũng được gọi là āsava. Nếu rượu v.v được gọi là āsava bởi ý nghĩa đã được lên men trong một thời gian dài thì các phiền não này cũng tương tự y như vậy. Quả thật như đã nói rằng: “Này chư tỳ khưu, điểm khởi điểm của vô minh không hiện hữu trong thời quá khứ để có thể nói – ‘Từ đây trở về trước, vô minh không có, rồi sau nó mới có.”[5] Lại nữa, gọi là lậu hoặc với ý nghĩa tuôn ra các dòng chảy khổ đau của luân hồi [saṃsāradukkha], và ở đây giải thích từ đầu tiên, trong những phân tích này được sử dụng ở nơi mà phiền não bắt nguồn với tên gọi là lậu hoặc. Còn giải thích từ sau có thể dùng trong nghiệp [kamma] cũng được. Không phải chỉ có sự ô nhiễm của nghiệp [kammakilesa] mới có lậu hoặc [āsava], nhưng thật sự thì cả sự bất hành [upaddavā] dưới nhiều hình thức khác nhau cũng được gọi là lậu hoặc [tương tự như vậy]. Quả thật, trong các bài Kinh, các phiền não là nguyên nhân gốc tạo ra sự tranh luận cũng bắt nguồn với tên gọi là lậu hoặc như trong câu: “này Cunda, Ta không chỉ thuyết pháp vì ngăn ngừa các lậu hoặc trong hiện tại.[6]

‘‘Yena devūpapatyassa, gandhabbo vā vihaṅgamo;

Yakkhattaṃ yena gaccheyyaṃ, manussattañca abbaje;

Te mayhaṃ āsavā khīṇā, viddhastā vinaḷīkatā’’ti. (a. ni. 4.36); –

Ettha tebhūmakañca kammaṃ avasesā ca akusalā dhammā. ‘‘Diṭṭhadhammikānaṃ āsavānaṃ saṃvarāya samparāyikānaṃ āsavānaṃ paṭighātāyā’’ti (pārā. 39) ettha parūpavādavippaṭisāravadhabandhādayo ceva apāyadukkhabhūtā ca nānappakārā upaddavā. Te panete āsavā yattha yathā āgatā, tattha tathā veditabbā.

Với mãnh lực của nghiệp được vận hành trong 3 cõi và các pháp bất thiện còn lại cũng gọi là lậu hoặc trong câu sau: “Với lậu hoặc chưa đoạn tận của Ta (làm nhân) dẫn đến tái sanh làm Thiên nhân. hoặc (có thể) là Càn-thát-bà, (có thể) là loài chim, và làm nhân đưa Ta đến (tái sanh) làm Dạ-xoa, hay làm người nhân loại, hay sanh vào làm loài bàng sanh. Với Ta lậu hoặc đã diệt tận, bị nhổ bổ, bị phá hủy.’[7]

Việc vu khống người khác, sự đau khổ, sự giết hại và sự kiềm hãm bằng nhiều hình thức khác nhau làm cho chúng sanh lạnh chịu khổ đau trong địa ngục gọi là lậu hoặc: “Như Lai thuyết giảng pháp vì sự phòng hộ các lậu hoặc trong thời hiện tại, và để ngăn ngừa các lậu hoặc trong thời vị lai.[8]” Các lậu hoặc bắt nguồn từ chỗ nào bằng cách nào thì nên biết ở chỗ đó bằng cách đó.

Ete hi vinaye tāva ‘‘diṭṭhadhammikānaṃ āsavānaṃ saṃvarāya, samparāyikānaṃ āsavānaṃ paṭighātāyā’’ti dvedhā āgatā. Saḷāyatane ‘‘tayome āvuso āsavā, kāmāsavo bhavāsavo avijjāsavo’’ti (a. ni. 6.63) tidhā āgatā. Aññesu ca suttantesu abhidhamme ca teyeva diṭṭhāsavena saha catudhā āgatā. Nibbedhikapariyāye – ‘‘atthi, bhikkhave, āsavā nirayagāminiyā, atthi āsavā tiracchānayonigāminiyā, atthi āsavā pettivisayagāminiyā, atthi āsavā manussalokagāminiyā, atthi āsavā devalokagāminiyā’’ti (a. ni. 6.63) pañcadhā āgatā. Chakkanipāte – ‘‘atthi, bhikkhave, āsavā saṃvarā pahātabbā’’tiādinā nayena chadhā āgatā. Imasmiṃ pana sutte teyeva dassanāpahātabbehi saddhiṃ sattadhā āgatāti. Ayaṃ tāva āsavapade vacanattho ceva pabhedo ca.

Trong Tạng Luật các lậu hoặc đã xuất hiện hai loại, chẳng hạn như: “Như Lai thuyết giảng pháp vì sự phòng hộ các lậu hoặc trong thời hiện tại, và để ngăn ngừa các lậu hoặc trong thời vị lai.” Trong phẩm Sáu Xứ đã xuất hiện ba loại như sau: “này hiền giả, lậu có ba loại là dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu.[9]” Trong những bài Kinh khác và trong tạng Abhidhamma chỉ có 3 lậu mà thôi, gom tà kiến lậu nữa là bốn lậu [nói theo chi pháp], nói phân tích giảng giải các lậu hoặc thì có đến 5 loại là: “Này chư tỳ khưu, có lậu hoặc làm nhân dẫn dắt chúng sanh tái sanh vào địa ngục, có lậu hoặc làm nhân dẫn dắt chúng sanh tai sanh làm loài bàng sanh, có lậu hoặc làm nhân dẫn dắt chúng sanh tái sanh làm ngạ quỷ, có lậu hoặc làm nhân dẫn dắt chúng sanh tái sanh làm người nhân loại, có lậu hoặc làm nhân dẫn dắt chúng sanh tái sanh vào thế giới chư Thiên.[10]” Trong Tương Ưng, chương Sáu Pháp, lậu hoặc có 6 theo cách thức như sau: “Này các tỳ khưu, có lậu hoặc cần được đoạn trừ do phòng hộ v.v.” Còn trong bài Kinh này, sáu lậu hoặc đó cùng với lậu hoặc cần được đoạn trừ do tri kiến nữa có tổng cộng là bảy, ý nghĩa của từ và thể loại [của lậu hoặc] trong phần lậu hoặc chỉ có bấy nhiêu.

Saṃvarapade pana saṃvarayatīti saṃvaro, pidahati nivāreti pavattituṃ na detīti attho. Tathā hi ‘‘anujānāmi, bhikkhave, divā paṭisallīyantena dvāraṃ saṃvaritvā paṭisallīyitu’’nti (pārā. 77), ‘‘sotānaṃ saṃvaraṃbraūmi, paññāyete pidhīyare’’ti (su. ni. 1041) ca ādīsu pidhānaṭṭhena saṃvaramāha. Svāyaṃ saṃvaro pañcavidho hoti sīlasaṃvaro satiñāṇa khanti vīriyasaṃvaroti. Tattha ‘‘iminā pātimokkhasaṃvarena upeto’’ti (vibha. 511) ayaṃ sīlasaṃvaro. Pātimokkhasīlañhi ettha saṃvaroti vuttaṃ. ‘‘Cakkhundriye saṃvaramāpajjatī’’tiādīsu (dī. ni. 1.213) satisaṃvaro. Sati hettha saṃvaroti vuttā. ‘‘Sotānaṃ saṃvaraṃ brūmi, paññāyete pidhīyare’’ti ayaṃ ñāṇasaṃvaro. Ñāṇañhettha pidhīyareti iminā pidhānaṭṭhena saṃvaroti vuttaṃ. ‘‘Khamo hoti sītassa…pe…, uppannaṃ kāmavitakkaṃ nādhivāsetī’’tiādinā (ma. ni. 1.24-26) pana nayena idheva khantivīriyasaṃvarā āgatā. Tesañca ‘‘sabbāsavasaṃvarapariyāya’’nti iminā uddesena saṅgahitattā saṃvarabhāvo veditabbo.

Hơn nữa, sự phòng hộ được gọi là saṃvara với ý nghĩa là sự thu thúc, có nghĩa là đóng, là ngăn cấm, không cho diễn tiến. Quả thật, như lời đức Thế Tôn đã thuyết như sau: “Này các tỳ khưu, đối với vị nghỉ ngơi vào ban ngày, đức Như Lai cho phép nghỉ ngơi sau khi đã đóng cửa lớn lại.[11]” Vị giáo thọ đã nói saṃvāra với ý nghĩa ‘đóng’: “Như Lai Ta đã nói rằng niệm là phương tiện ngăn chặn dòng chảy, dòng chảy đó con người ngăn chặn lại được bằng tuệ.[12]saṃvāra đó có năm là sự thu thúc bằng giới, sự thu thúc bằng niệm, sự thu thúc bằng tuệ, sự thu thúc bằng sự kham nhẫn, sự thu thúc bằng sự tinh tấn. Trong trương hợp này “vị tỳ khưu đã đầy đủ với sự thu thúc giới bổn Pātimokkha” đây gọi là sự thu thúc trong giới. Trong giới bổn Pātimokkha đã được Ngài nói là sự thu thúc ở đây. Sự thu thúc bằng niệm: “Này chư tỳ khưu sự thu thúc trong nhãn quyền gọi là sự thu thúc bằng niệm.[13]” Vì vậy, niệm đã được Ngài nói là sự thu thúc ở đây. Sự thu thúc đã được Như Lai nói: “Tuệ là phương tiện ngăn chặn dòng chảy, dòng chảy đó con người ngăn chặn được bằng tuệ” đây được gọi là sự thu thúc bằng tuệ. Cũng trong trường hợp này đã được Ngài nói sự thu thúc bằng tuệ với ý nghĩa đóng lại (hay ngăn chặn) bằng từ pithīre (đóng lại). Sự thu thúc bằng sự kham nhẫn và sự tinh tấn đến từ bài Kinh này theo cách thức được bắt đầu như sau: “này chư tỳ khưu, vị kham nhẫn đối với cái lạnh… không để dục tầm khởi lên chế ngự.[14]” Nên biết rằng sự kham nhẫn và sự tinh tấn gọi là sự thu thúc, do Ngài gom lại với để diễn giải điều này “Pháp môn phòng hộ tất cả lậu hoặc”.

Apica pañcavidhopi ayaṃ saṃvaro idha āgatoyeva, tattha khantivīriyasaṃvarā tāva vuttāyeva. ‘‘So tañca anāsanaṃ tañca agocara’’nti (ma. ni. 1.25) ayaṃ panettha sīlasaṃvaro. ‘‘Paṭisaṅkhā yoniso cakkhundriyasaṃvarasaṃvuto’’ti (ma. ni. 1.22) ayaṃ satisaṃvaro. Sabbattha paṭisaṅkhā ñāṇasaṃvaro. Aggahitaggahaṇena pana dassanaṃ paṭisevanā bhāvanā ca ñāṇasaṃvaro. Pariyāyanti etena dhammāti pariyāyo, uppattiṃ nirodhaṃ vā gacchantīti vuttaṃ hoti. Ettāvatā ‘‘sabbāsavasaṃvarapariyāya’’nti ettha yaṃ vattabbaṃ, taṃ vuttaṃ hoti.

Hơn nữa cả năm sự thu thúc này đều có trong bài Kinh này tương tự y như vậy, trong số 5 sự thu thúc đó thì sự kham nhẫn và sự tinh tấn đã được nói trước. “Vị tỳ khưu khéo quán sát tránh né chỗ ngồi không xứng đáng ấy, trú xứ không nên lai vãng ấy.[15]” đây gọi là sự thu thúc bằng giới trong trường hợp này. “Vị tỳ khưu khéo quán sát thu thúc với sự thu thúc nhãn quyền.[16]” đây gọi là sự thu thúc bằng niệm. Sự thu thúc bằng tuệ trong tất cả các pháp gọi là sự thu thúc bằng tuệ. Còn tri kiến, việc thọ dụng, việc tu tiến cũng gọi là sự thu thúc bằng tuệ với từ ngữ mà không được lấy. Gọi là pháp môn vì đó là nhân (phương tiện) quyết định các Pháp, tức là các Pháp đạt đến sự sanh khởi hoặc hoại diệt. Lời nào cần nói trong câu “pháp môn phòng hộ tất cả lậu hoặc” lời đó đã được Ngài nói giải thích chỉ bấy nhiêu.

  1. Idāni Jānato ahantiādīsu jānatoti jānantassa. Passatoti passantassa. Dvepi padāni ekatthāni, byañjanameva nānaṃ. Evaṃ santepi jānatoti ñāṇalakkhaṇaṃ upādāya puggalaṃ niddisati, jānanalakkhaṇañhi ñāṇaṃ. Passatoti ñāṇappabhāvaṃ upādāya, passanappabhāvañhi ñāṇaṃ. Ñāṇasamaṅgī puggalo cakkhumā viya cakkhunā rūpāni ñāṇena vivaṭe dhamme passati. Apica yonisomanasikāraṃ uppādetuṃ jānato, ayonisomanasikāro yathā na uppajjati, evaṃ passatoti ayamettha sāro. Keci panācariyā bahū papañce bhaṇanti, te imasmiṃ atthe na yujjanti.
    Bây giờ “Ta…cho người biết v.v.” như sau: cho người biết là người đang biết, cho người thấy là người đang thấy. Cả 2 từ có chung nội dung, chỉ khác nhau về hình thức. Như vậy khi Thế Tôn thuyết đến hạng người với mong muốn hướng đến trạng thái của trí với từ cho người biết. Quả thật, trí có sự hiểu biết là trạng thái. Thuyết đến hạng người với mong muốn hướng đến năng lực của trí với từ cho người biết. Thực tế trí có sức mạnh trong cái thấy. Hạng người đầy đủ với trí sẽ nhìn thấy được các pháp mà Đức Phật đã truyền đạt bằng trí tuệ giống như người có đôi mắt tốt sẽ nhìn thấy được sắc bằng đôi mắt ấy. Ngoài ra để tác ý đúng đường lối sanh khởi, tác ý không đúng đường lối không sanh khởi đối với người đang thấy, giống như không khởi lên nơi người đang biết, cốt yếu của hai từ này chỉ có vậy. Còn một số vị thấy giáo thọ thì nói quá dài dòng, nội dung không phù hợp với ý nghĩa này.

Āsavānaṃkhayanti āsavappahānaṃ āsavānaṃ accantakkhayasamuppādaṃ khīṇākāraṃ natthibhāvanti ayameva hi imasmiñca sutte, ‘‘āsavānaṃ khayā anāsavaṃ cetovimutti’’ntiādīsu (ma. ni. 1.438) ca āsavakkhayattho. Aññattha pana maggaphalanibbānānipi āsavakkhayoti vuccanti. Tathā hi –

‘‘Sekhassa sikkhamānassa, ujumaggānusārino;

Khayasmiṃ paṭhamaṃ ñāṇaṃ, tato aññā anantarā’’ti. (itivu. 62) –

Ādīsu maggo āsavakkhayoti vutto,

Sự cạn kiệt các lậu hoặc là sự cạn kiệt các lậu hoặc, là việc khởi lên sự kiệt cạn không còn dư sót gồm những các trạng thái là sự cạn kiệt, tức là thực tính không có các lậu hoặc, sự cạn kiệt có nghĩa là sự cạn kiệt các lậu hoặc trong bài Kinh này và cả câu v.v, “và do sự diệt tận các lậu hoặc, (vị ấy) … sự giải thoát của tâm.[17]” Còn trong bài Kinh khác ngay cả Đạo Quả và Niết Bàn ngài gọi là sự cạn kiệt các lậu hoặc. Quả thật vậy –

Đạo được Ngài gọi là sự cạn kiệt các lậu hoặc như trong câu sau:

“Việc đoạn tận lậu hoặc của vị Thánh hữu học, vị đang học tập, đang tiến theo con đường thẳng tắp [là Thánh đáo tám chi phần] trí [chánh trí] được sanh lên trước, từ đó A-ra-quả sẽ sanh khởi theo tuần tự như vậy.[18]

‘‘Āsavānaṃ khayā samaṇo hotī’’tiādīsu (ma. ni. 1.438) phalaṃ.

‘‘Paravajjānupassissa, niccaṃ ujjhānasaññino;

Āsavā tassa vaḍḍhanti, ārā so āsavakkhayā’’ti. (dha. pa. 253) –

Ādīsu nibbānaṃ ‘‘āsavakkhayo’’ti vuttaṃ.

Quả được gọi là sự cạn kiệt các lậu hoặc như trong câu:

Hạng người là Sa-môn đã diệt tận các lậu hoặc.[19]

Niết-bàn được gọi là sự cạn kiệt các lậu hoặc như trong câu:

Các lậu hoặc được tăng trưởng đối với những kẻ tìm lỗi của người khác, thường xuyên có ý phê phán, kẻ ấy cách xa sự diệt trừ của các lậu hoặc.[20]

No ajānato no apassatoti yo pana na jānāti na passati, tassa no vadāmīti attho. Etena ye ajānato apassatopi saṃvarādīhiyeva suddhiṃ vadanti, te paṭikkhittā honti. Purimena vā padadvayena upāyo vutto, iminā anupāyapaṭisedho. Saṅkhepena cettha ñāṇaṃ āsavasaṃvarapariyāyoti dassitaṃ hoti.

Người không biết, người không thấy: Hơn nữa, hạng người nào không biết, không thấy thì đức Như Lai không nói đến sự cạn kiệt các lậu hoặc của hạng người ấy. Hạng người nào nói đến sự thanh tịnh bằng sự thu thúc, v.v, cho hạng người không biết, không thấy, thì  những hạng người đó cũng bị ngài phản đối rằng “người không biết, người không thấy”. Ngoài ra với 2 câu đầu (người biết, người thấy) được nói theo đường lối, với 2 câu sau (người không biết, người không thấy) được bác bỏ theo đường lối. Và ở đây, trí là điều được đức Thế Tôn thuyết rằng: ‘Pháp môn phòng hộ các lậu hoặc’ theo cách tóm lược.

Idāni yaṃ jānato āsavānaṃ khayo hoti, taṃ dassetukāmo kiñca, bhikkhave, jānatoti pucchaṃ ārabhi, tattha jānanā bahuvidhā. Dabbajātiko eva hi koci bhikkhu chattaṃ kātuṃ jānāti, koci cīvarādīnaṃ aññataraṃ, tassa īdisāni kammāni vattasīse ṭhatvā karontassa sā jānanā maggaphalānaṃ padaṭṭhānaṃ na hotīti na vattabbā. Yo pana sāsane pabbajitvā vejjakammādīni kātuṃ jānāti, tassevaṃ jānato āsavā vaḍḍhantiyeva. Tasmā yaṃ jānato passato ca āsavānaṃ khayo hoti, tadeva dassento āha yoniso ca manasikāraṃ ayoniso ca manasikāranti.

Bây giờ, đức Thế Tôn mong muốn thuyết giảng điều đó trong khi vị tỳ khưu đang biết, có sự diệt tận các lậu hoặc nên mới bắt đầu hỏi rằng: “Và này các tỳ khưu, … (có đến) cho người biết cái gì?” trong câu đó sự hiểu biết có nhiều thể loại. Bởi vì một số vị có tri thức biệt tài biết cách thức làm cây lọng, một số vị biết cách thức may y phục, v.v, khi vị ấy sống trong hạnh nghiệp như vậy, sự hiểu biết đó không cần nói không phải là nhân cận của Đạo và Quả. Còn vị nào sau khi xuất gia trong Giáo pháp biết được phương pháp chữa bệnh, v.v, trong khi biết như vậy khiến các lậu hoặc càng thêm tăng trưởng. Vì thế, vị tỳ khưu thấy và biết pháp nào là sự cạn kiệt các lậu hoặc, khi thuyết chính pháp đó đức Thế Tôn mới nói rằng ‘sự cạn kiệt các lậu hoặc cho người biết, cho người thấy: tác ý đúng đường lối và tác ý không đúng đường lối.

Tattha yoniso manasikāro nāma upāyamanasikāro pathamanasikāro, aniccādīsu aniccanti ādinā eva nayena saccānulomikena vā cittassa āvaṭṭanā anvāvaṭṭanā ābhogo samannāhāro manasikāro, ayaṃ vuccati yoniso manasikāroti.

Tác ý đúng đường lối và tác ý không đúng đường lối cả 2 pháp này: tác ý đúng đường lối là sự tác ý đúng cách, sự tác ý đúng đường, suy nghĩ, ngẫm nghĩ, cột tâm, chú ý đến, thực hiện trong tâm mà tâm trong trạng thái vô thường v.v, theo phương thức v.v, không thường hằng, hoặc theo trí thuận theo chân lý, đây được gọi là tác ý đúng đường lối.

Ayoniso manasikāroti anupāyamanasikāro uppathamanasikāro. Anicce niccanti dukkhe sukhanti anattani attāti asubhe subhanti ayoniso manasikāro uppathamanasikāro. Saccappaṭikulena vā cittassa āvaṭṭanā anvāvaṭṭanā ābhogo samannāhāro manasikāro, ayaṃ vuccati ayoniso manasikāroti. Evaṃ yoniso manasikāraṃ uppādetuṃ jānato, ayoniso manasikāro ca yathā na uppajjati, evaṃ passato āsavānaṃ khayo hoti.

Tác ý không đúng đường lối là sự tác ý không đúng cách, là tác ý không đúng đường, là sự tác ý không khéo léo, tác ý sai đường trong những thứ không thường hằng cho rằng là thường, những thứ khổ đau cho là lạc, những thứ không phải của ta cho rằng là của ta, hoặc suy nghĩ, ngẫm nghĩ, buộc tâm, chú ý đến, việc tác ý mà tâm theo cách trái nghịch với sự thật, đây gọi là tác ý không đúng đường lối. Như vậy sự cạn kiệt các lậu hoặc có đến cho người biết khi tác ý đúng đường lối sanh khởi, và có đến cho người thấy, và không sanh khởi đối với người tác ý không đúng đường lối như đã giải thích.

Idāni imassevatthassa yuttiṃ dassento āha ayoniso, bhikkhave…pe… pahīyantīti. Tena kiṃ vuttaṃ hoti, yasmā ayoniso manasikaroto āsavā uppajjanti, yoniso manasikaroto pahīyanti, tasmā jānitabbaṃ yoniso manasikāraṃ uppādetuṃ jānato, ayoniso manasikāro ca yathā na uppajjati, evaṃ passato āsavānaṃ khayo hotīti, ayaṃ tāvettha saṅkhepavaṇṇanā.

Bây giờ khi thuyết sự phù hợp của nội dung này, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Này các tỳ khưu, đối với kẻ tác ý không đúng đường lối -nt- được dứt bỏ…” “này các tỳ khưu, do tác ý không đúng đường lối  -nt- được dứt bỏ…” này ngài nói điều gì? Ngài nói rằng do các lậu hoặc sanh khởi cùng vị tỳ khưu tác ý không đúng đường lối, vị nào tác ý đúng đường lối thì vị ấy dứt bỏ được các lậu hoặc, vì thế bậc trí nên hiểu rằng sự dứt trừ các lậu hoặc có được cho người biết khi tác ý đúng đường lối được sanh khởi và có đến cho người thấy, và không sanh khởi đối với người tác ý không đúng đường lối như đã giải thích, trong trường hợp này được giải thích tóm lược vậy thôi.

Ayaṃ pana vitthāro – tattha ‘‘yoniso ayoniso’’ti imehi tāva dvīhi padehi ābaddhaṃ hoti upari sakalasuttaṃ. Vaṭṭavivaṭṭavasena hi upari sakalasuttaṃ vuttaṃ. Ayoniso manasikāramūlakañca vaṭṭaṃ, yoniso manasikāramūlakañca vivaṭṭaṃ. Kathaṃ? Ayoniso manasikāro hi vaḍḍhamāno dve dhamme paripūreti avijjañca bhavataṇhañca. Avijjāya ca sati ‘‘avijjāpaccayā saṅkhārā…pe… dukkhakkhandhassa samudayo hoti. Taṇhāya sati taṇhāpaccayā upādānaṃ…pe… samudayo hotī’’ti. Evaṃ ayaṃ ayoniso manasikārabahulo puggalo vātavegābhighātena vippanaṭṭhanāvā viya gaṅgāvaṭṭe patitagokulaṃ viya cakkayante yuttabalibaddo viya ca punappunaṃ bhavayonigativiññāṇaṭṭhitisattāvāsesu āvaṭṭaparivaṭṭaṃ karoti, evaṃ tāva ayoniso manasikāramūlakaṃ vaṭṭaṃ.

Còn chi tiết như sau – toàn bộ các bài Kinh trước có liên quan với 2 từ này “tác ý đúng đường lối và không đúng đường lối”. Thực tế, toàn bộ các bài Kinh trước Ngài nói đến sức mạnh của vaṭṭa và vivaṭṭa [luân hồi và thoát khỏi luân hồi]. Tác ý không đúng đường lối là gốc rễ của luân hồi, tác ý đúng đường lối là gốc rễ của việc thoát khỏi luân hồi. Tại sao? Bởi vì, tác ý không đúng đường lối khi tăng trưởng làm cho 2 pháp là vô minh và hữu ái được tròn đủ. Khi có vô minh “do vô minh làm duyên các hành sanh khởi -nt- tập khởi của khổ uẩn sanh khởi. Khi có ái, ‘do ái làm duyên thủ sanh khởi -nt- tập khởi của khổ uẩn sanh khởi.” Do đó, hạng người có quá nhiều với tác ý không đúng đường lối như vậy, (sẽ) trôi lăn trong (bốn) nguồn gốc sanh ra, trong (năm) cảnh giới tái sanh, (bảy) nơi tồn tại của thức, và (chín) hữu tình cư giống như chiếc thuyền bị ngã xuống do sức gió, và tương tự như đàn bò bị rơi vào dòng nước xoáy, và y như con bò đực bị lòng vào cỗ xe kéo. Như vậy, sự luân hồi có sự tác ý không đúng đường lối làm gốc rễ như được đề cập trước.

Yoniso manasikāro pana vaḍḍhamāno – ‘‘yoniso manasikārasampannassetaṃ, bhikkhave, bhikkhuno pāṭikaṅkhaṃ, ariyaṃ aṭṭhaṅgikaṃ maggaṃ bhāvessati, ariyaṃ aṭṭhaṅgikaṃ maggaṃ bahulīkarissatī’’ti (saṃ. ni. 5.55) vacanato sammādiṭṭhipamukhaṃ aṭṭhaṅgikaṃ maggaṃ paripūreti. Yā ca sammādiṭṭhi, sā vijjāti tassa vijjuppādā avijjānirodho, ‘‘avijjānirodhā saṅkhāranirodho…pe… evaṃ etassa kevalassa dukkhakkhandhassa nirodho hotī’’ti (mahāva. 1) evaṃ yoniso manasikāramūlakaṃ vivaṭṭaṃ veditabbaṃ. Evaṃ imehi dvīhi padehi ābaddhaṃ hoti upari sakalasuttaṃ.

Còn tác ý đúng đường lối khi tăng trưởng làm cho 8 chi đạo có chánh kiến là chi đầu tiên được tròn đủ, trong Pālī như sau: “Này chư tỳ khưu vị tỳ khưu thành tựu trọn vẹn với việc khéo tác thì điều đáng được trông đợi là vị ấy sẽ phát triển thánh đạo 8 chi phần, làm cho tăng trưởng thánh đạo 8 chi phần.[21]yā ca sammādiṭṭhi, sā vijjā: bậc trí nên biết sự thoát khỏi luân hồi có sự tác ý đúng đường lối làm gốc rễ như vậy, vô minh diệt tận do minh sanh khởi, sự diệt tận của các hành mới khởi lên cùng vị tỳ khưu ấy -nt- sự diệt tận của toàn bộ khổ uẩn có được bằng cách như vậy.[22]” Như vậy, toàn bộ bài Kinh trước có  dung liên quan với 2 từ đã nói.

Evaṃ ābaddhe cettha yasmā pubbe āsavappahānaṃ dassetvā pacchā uppatti vuccamānā na yujjati. Na hi pahīnā puna uppajjanti. Uppannānaṃ pana pahānaṃ yujjati, tasmā uddesapaṭilomatopi ‘‘ayoniso, bhikkhave, manasikaroto’’tiādimāha.

Trong bài Kinh này được liên kết như vậy, vì đã trình bày sự dứt bỏ các lậu hoặc đặt ở trước, khi nói đến sự sanh khởi đằng sau thì không phù hợp, do các lậu hoặc đã được dứt bỏ sẽ không sanh lại nữa. Nói một cách đúng đắn nên nói việc dứt bỏ các lậu hoặc đã sanh khởi [tách biệt nhau] do đó, đã được Đức Thế Tôn nói rằng:  “Này các tỳ khưu, đối với kẻ tác ý không đúng đường lối, v.v,” theo cách diễn giải nghịch dòng.

Tattha ayoniso manasikarototi vuttappakāraṃ ayoniso manasikāraṃ uppādayato. Anuppannā ceva āsavā uppajjantīti ettha ye pubbe appaṭiladdhapubbaṃ cīvarādiṃ vā paccayaṃ upaṭṭhākasaddhivihārikaantevāsikānaṃ vā aññataraṃ manuññaṃ vatthuṃ paṭilabhitvā, taṃ subhaṃ sukhanti ayoniso manasikaroto, aññataraññataraṃ vā pana ananubhūtapubbaṃ ārammaṇaṃ yathā vā tathā vā ayoniso manasikaroto āsavā uppajjanti, te anuppannā uppajjantīti veditabbā, aññathā hi anamatagge saṃsāre anuppannā nāma āsavā na santi. Anubhūtapubbepi ca vatthumhi ārammaṇe vā yassa pakatisuddhiyā vā uddesaparipucchāpariyattinavakammayonisomanasikārānaṃ vā aññataravasena pubbe anuppajjitvā pacchā tādisena paccayena sahasā uppajjanti, imepi anuppannā uppajjantīti veditabbā. Tesuyeva pana vatthārammaṇesu punappunaṃ uppajjamānā uppannā pavaḍḍhantīti vuccanti. Ito aññathā hi paṭhamuppannānaṃ vaḍḍhi nāma natthi.

Ở đó,  tác ý không đúng đường lối: người tác ý không đúng đường lối theo cách đã được nói khiến cho sanh khởi. (Đối  với  kẻ  tác  ý  không  đúng  đường  lối) các lậu hoặc chưa sanh khởi (sẽ) sanh khởi: ở đây, khi vị tỳ khưu nhận được các món vật dụng như y phục, v.v, mà bản thân chưa từng nhận được trước đó, hoặc nhận được bất kỳ món đồ vật đẹp mắt nào của người hộ độ, các tỳ khưu hay sa-di đệ tử và những học trò, tác ý không đúng đường lối (cho rằng) vật dụng cần thiết và đồ vật đó là đẹp, là lạc. Hoặc khi tỳ khưu tác ý không đúng đường lối đến các đối tượng khác mà bản thân chưa từng thọ lãnh trước đó bằng bất kỳ cách nào những lậu hoặc nào sanh khởi, những lậu hoặc chưa sanh nên biết rằng ‘sẽ sanh’ [aññataraññataraṃ vā pana ananubhūtapubbaṃ ārammaṇaṃ yathā vā tathā vā ayoniso manasikaroto āsavā uppajjanti, te anuppannā uppajjantīti veditabbā]. Bởi vì, những lậu hoặc không gọi là không sanh khởi trong vòng luân hồi, theo cách khác mà có điểm khởi đầu vô cùng tận. Các lậu hoặc của vì nào ở thời quá khứ không sanh khởi trong sắc vật hoặc ở đối tượng mà bản thân chưa từng thọ lãnh trước bằng sự thanh tịnh thông thường, hoặc bất kỳ sức mạnh nào như việc diễn giải, đặt câu hỏi, pháp học, việc xây cất và khéo tác ý được sanh khởi ngay lập tức bằng duyên trợ như vậy, về sau các lậu hoặc của vị ấy nên biết rằng chưa từng sanh khởi sẽ sanh khởi. Còn những lậu hoặc đang sanh từ từ trong các sắc vật hoặc trong các đối tượng đó, ngài gọi là đã sanh khởi (sẽ) tăng trưởng. Như vậy, sự tăng trưởng của các lậu hoặc đã sanh khởi lần đầu tiên theo cách khác ngoài những cách được đề cập là không có.

Yonisoca kho, bhikkhaveti ettha pana yassa pakatisuddhiyā vā seyyathāpi āyasmato mahākassapassa bhaddāya ca kāpilāniyā, uddesaparipucchādīhi vā kāraṇehi āsavā nuppajjanti, so ca jānāti ‘‘na kho me āsavā maggena samugghātaṃ gatā, handa nesaṃ samugghātāya paṭipajjāmī’’ti. Tato maggabhāvanāya sabbe samugghāteti. Tassa te āsavā anuppannā na uppajjantīti vuccanti. Yassa pana kārakasseva sato satisammosena sahasā āsavā uppajjanti, tato saṃvegamāpajjitvā yoniso padahanto te āsave samucchindati, tassa uppannā pahīyantīti vuccanti maṇḍalārāmavāsīmahātissabhūtattherassa viya. So kira tasmiṃyeva vihāre uddesaṃ gaṇhāti, athassa gāme piṇḍāya carato visabhāgārammaṇe kileso uppajji, so taṃ vipassanāya vikkhambhetvā vihāraṃ agamāsi. Tassa supinantepi taṃ ārammaṇaṃ na upaṭṭhāsi. So ‘‘ayaṃ kileso vaḍḍhitvā apāyasaṃvattaniko hotī’’ti saṃvegaṃ janetvā ācariyaṃ āpucchitvā vihārā nikkhamma mahāsaṅgharakkhitattherassa santike rāgapaṭipakkhaṃ asubhakammaṭṭhānaṃ gahetvā gumbantaraṃ pavisitvā paṃsukūlacīvaraṃ santharitvā nisajja anāgāmimaggena pañcakāmaguṇikarāgaṃ chinditvā uṭṭhāya ācariyaṃ vanditvā punadivase uddesamaggaṃ pāpuṇi. Ye pana vattamānuppannā, tesaṃ paṭipattiyā pahānaṃ nāma natthi.

Ở đây, này các tỳ khưu, do tác ý đúng đường lối: hơn nữa, các lậu hoặc của vị nào không sanh khởi bằng sự thanh tịnh thông thường hoặc với lý do như việc tụng đọc và học hỏi v.v, cũng giống như không sanh cùng ngài trưởng lão Mahākassapa và nàng Bhaddakāpilānī, và vị ấy biết rằng “Phải chăng các lậu hoặc của ta vẫn chưa đi đến sự chặt đứt bằng đạo? Thế nên ta sẽ thực hành để chặt đứt các lậu hoặc đó.” Từ đó vị ấy nhổ bỏ các lậu hoặc bằng sự tu tập về đạo, các lậu hoặc của vị ấy được nói rằng: (các lậu hoặc) chưa sanh khởi sẽ không sanh khởi. Còn vị tỳ khưu nào có niệm ở xa, các lậu hoặc lập tức sanh khởi do sự thất niệm, từ đó vị ấy đã khởi lên sự lo âu, bắt đầu khéo léo nỗ lực và chặt đứt được các lậu hoặc đó, các lậu hoặc sanh khởi cùng vì ấy được gọi là đã sanh khởi (sẽ) được dứt bỏ, giống như trưởng lão Mahatissagutta cư ngụ ở Maṇḍalārāma. Nghe rằng trưởng lão Mahatissagutta học thuyết giáo ở chính tịnh xá đó, phiền não đã khởi lên do các đối tượng bất đồng khi ngài đang đi khất thực trong làng. Ngài đã chế ngự đối tượng đó bằng thiền tuệ rồi quay trở về trú xứ. Đối tượng ấy đã xuất hiện nơi ngài luôn cả trong giấc mơ. Ngài đã khởi lên sự lo lắng rằng “phiền não này đã phát triển là pháp vận hành đưa ta đến địa ngục,” rồi xin phép thầy rời khỏi trú xứ để đi học đề mục bất tịnh là pháp đối trị với luyến ái ở trú xứ của trưởng lão Mahāsaṅgharakkhita, vị ấy đã vào phía trong của một bụi cây, đã trải tấm vào y làm bằng vải dơ bị quăng bỏ ngồi thực hành thiền và đã cắt đứt ái luyến phối hợp với sự trói buộc năm dục bằng A-na-hàm Đạo, đứng dậy (từ chỗ ngồi) rồi đảnh lễ thầy, vào ngày hôm sau vị ấy đã chứng đắc uddesamagga. Hơn nữa, các lậu hoặc nào đang vận hành vẫn chưa sanh khởi thì không được gọi là sự từ bỏ các lậu hoặc với sự thực hành ấy.

  1. Idāni ‘‘uppannā ca āsavā pahīyantī’’ti idameva padaṃ gahetvā ye te āsavā pahīyanti, tesaṃ nānappakārato aññampi pahānakāraṇaṃ āvikātuṃ desanaṃ vitthārento atthi, bhikkhave, āsavā dassanā pahātabbātiādimāha yathā taṃ desanāpabhedakusalo dhammarājā. Tattha dassanā pahātabbāti dassanena pahātabbā. Esa nayo sabbattha.
    Bây giờ, đức Thế Tôn đã lấy câu này “các lậu hoặc đã sanh khởi (sẽ) được dứt bỏ” như vậy rồi mở rộng bài thuyết giảng để giải thích chi tiết về các nguyên nhân của sự từ bỏ các lậu hoặc đã trừ diệt, luôn cả những cách khác bằng nhiều phương thức khác nhau, nên mới nói rằng: “Này các tỳ khưu, có những lậu hoặc cần được dứt bỏ do thấy, v.v,” như vậy xứng danh là bậc Pháp Vương, vị thiện xảo trong việc phân loại thuyết giảng. Ở đó, cần được dứt bỏ do thấy: cần được dứt bỏ do thấy. Các câu đều áp dụng theo cách này.

Giải thích các lậu hoặc cần được dứt bỏ do thấy

  1. Idāni tāni padāni anupubbato byākātukāmo ‘‘katame ca, bhikkhave, āsavā dassanā pahātabbā’’ti pucchaṃ katvā mūlapariyāyavaṇṇanāyaṃ vuttanayeneva ‘‘idha, bhikkhave, assutavā puthujjano’’ti puggalādhiṭṭhānaṃ desanaṃ ārabhi. Tattha manasikaraṇīye dhamme nappajānātīti āvajjitabbe samannāharitabbe dhamme na pajānāti. Amanasikaraṇīyeti tabbiparīte. Esa nayo sesapadesupi. Yasmā pana ime dhammā manasikaraṇīyā, ime amanasikaraṇīyāti dhammato niyamo natthi, ākārato pana atthi.

Yenā ākārena manasikariyamānā akusaluppattipadaṭṭhānā honti, tenākārena na manasikātabbā. Yena kusaluppattipadaṭṭhānā honti, tenākārena manasikātabbā. Tasmā ‘‘ya’ssa, bhikkhave, dhamme manasikaroto anuppanno vā kāmāsavo’’tiādimāha.

[17] Bây giờ, đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ câu đó theo tuần tự mới đặt câu hỏi rằng: “Này các tỳ khưu, và thế nào là các lậu hoặc cần được dứt bỏ do thấy?” Sau đó ngài bắt đầu thuyết giảng dùng con người làm nền tảng rằng: “Ở đây, này các tỳ khưu, phàm nhân chưa từng được nghe” theo cách thức đã trình bày trong Chú giải Kinh Pháp Môn Căn Bản. Trong câu đó không biết rõ các pháp cần được tác ý: không tuệ tri các pháp cần được tác ý. Không cần được tác ý: không biết được các pháp đối nghịch. Các từ còn lại tương tự. Không có hạn định về pháp này cần được tác ý, pháp này không cần được tác ý, mà chỉ có các biểu hiện. Các pháp mà các tỳ khưu tác ý do biểu hiện nào? Là nhân cận sanh khởi các bất thiện pháp, tỳ khưu không cần tác ý pháp đó bằng biểu hiện đó; các pháp mà tỳ khưu tác ý bằng biểu hiện nào? Là nhân cận sanh khởi thiện pháp, pháp này tỳ khưu cần phải tác ý theo biểu hiện đó. Vì vậy, đức Thế Tôn mới thuyết rằng: “Này các tỳ khưu, trong khi kẻ ấy đang tác ý các pháp nào mà dục lậu chưa sanh…

Tattha ya’ssāti ye assa assutavato puthujjanassa. Manasikarototi āvajjayato samannāharantassa. Anuppanno vā kāmāsavoti ettha samuccayattho vāsaddo, na vikappattho. Tasmā yathā ‘‘yāvatā, bhikkhave, sattā apadā vā dvipadā vā…pe… tathāgato tesaṃ aggamakkhāyatī’’ti (itivu. 90) vutte apadā ca dvipadā cāti attho, yathā ca ‘‘bhūtānaṃ vā sattānaṃ ṭhitiyā sambhavesīnaṃ vā anuggahāyā’’ti (ma. ni. 1.402) vutte bhūtānañca sambhavesīnañcāti attho, yathā ca ‘‘aggito vā udakato vā mithubhedato vā’’ti (udā. 76) vutte aggito ca udakato ca mithubhedato cāti attho, evamidhāpi anuppanno ca kāmāsavo uppajjati, uppanno ca kāmāsavo pavaḍḍhatīti attho daṭṭhabbo. Evaṃ sesesu.

Trong các từ đó từ ‘yassa’ nghĩa là lậu hoặc nào của phàm nhân? Là người không được lắng nghe Pháp và Luật. ‘Đối  với  người  tác  ý’ là người suy tư, đem đến quán xét. Từ ‘’ trong câu ‘anuppanno vā kāmāsavo (dục lậu chưa sanh)’ có sự tích trữ làm ý nghĩa, không phải ý nghĩa sự cân nhắc. Do vậy, dục lậu chưa sanh sẽ sanh khởi, dục lậu đã sanh sẽ tăng trưởng, giống như khi đức Thế Tôn thuyết rằng: “Này chư tỳ khưu, tất cả chúng sanh dầu là loài không chân, hay 2 chân, hay nhiều chân, v.v, -nt- Như Lai nói rằng dâu chân voi đứng đầu trong các loài vật.[23]” Như vậy trong lời nói ấy có nghĩa là loài vật không chân và 2 chân; giống như đức Thế Tôn thuyết rằng: “Khiến các loài hữu tình đã sanh được an trú, để hỗ trợ các loài hữu tình đang tìm nơi thọ sanh.[24]” có nghĩa là sinh vật và chúng sanh đang tầm cầu sự thành hình. và giống như khi đức Thế Tôn thuyết rằng: “do lửa, hoặc do nước, hoặc do sự chia rẽ tình bằng hữu.[25]” có nghĩa là do lửa, do nước và do sự chia rẽ tình bằng hữu. Này các tỳ khưu, trong khi kẻ ấy đang tác ý các pháp nào mà dục lậu chưa sanh cũng cần thấy ý nghĩa như vầy dục lâu chưa sanh sẽ sanh khởi và dục lậu đã sanh sẽ tăng trưởng. Từ còn lại tương tự.

Ettha ca kāmāsavoti pañcakāmaguṇiko rāgo. Bhavāsavoti rupārūpabhave chandarāgo, jhānanikanti ca sassatucchedadiṭṭhisahagatā. Evaṃ diṭṭhāsavopi bhavāsave eva samodhānaṃ gacchati. Avijjāsavoti catūsu saccesu aññāṇaṃ. Tattha kāmaguṇe assādato manasikaroto anuppanno ca kāmāsavo uppajjati, uppanno ca pavaḍḍhati. Mahaggatadhamme assādato manasikaroto anuppanno ca bhavāsavo uppajjati, uppanno ca pavaḍḍhati. Tīsu bhūmīsu dhamme catuvipallāsa-padaṭṭhānabhāvena manasikaroto anuppanno ca avijjāsavo uppajjati, uppanno ca pavaḍḍhatīti veditabbo. Vuttanayapaccanīkato sukkapakkho vitthāretabbo.

Và ở đây, ái luyến phối hợp với năm loại dục gọi là dục lậu. Dục ái do mãnh lực sự thỏa mãn trong sắc hữu, và sự thỏa mãn trong vô sắc hữu phối hợp với thường kiến và đoạn kiến gọi là hữu lậu. Ngay cả tà kiến lậu cũng được gộp chung lại trong hữu lậu giống với biểu hiện như vậy. Sự không biết trong bốn chân lý gọi là vô minh lậu. Ở đó, trong khi kẻ ấy đang tác ý có sự thỏa thích ở (năm) loại dục mà dục lậu  chưa sanh khởi sẽ sanh khởi, hoặc dục lậu đã sanh khởi sẽ tăng trưởng. Trong khi kẻ ấy đang tác ý có sự thỏa thích ở pháp đáo đại mà hữu lậu chưa sanh được sanh khởi và đã sanh được tăng trưởng cho kẻ thỏa thích là tác ý trong pháp đáo đại. Trong khi kẻ ấy đang tác ý các pháp vận hành trong 3 cõi với tính chất làm chỗ tựa của bốn sự lầm lạc mà vô minh lậu chưa sanh được sanh khởi và đã sanh được tăng trưởng, nên hiểu ý nghĩa như đã trình bày. Pháp trắng cần được giảng giải theo ý nghĩa đối nghịch với pháp đã đề cập.

Kasmā pana tayo eva āsavā idha vuttāti. Vimokkhapaṭipakkhato. Appaṇihitavimokkhapaṭipakkho hi kāmāsavo,. Animittasuññatavimokkhapaṭipakkhā itare. Tasmā ime tayo āsave uppādentā tiṇṇaṃ vimokkhānaṃ abhāgino honti, anuppādentā bhāginoti etamatthaṃ dassentena tayo eva vuttāti veditabbā. Diṭṭhāsavopi vā ettha vutto yevāti vaṇṇitametaṃ.

Hơn nữa, tại sao trong bài Kinh này đức Thế Tôn chỉ nói đến 3 lậu? Bởi vì đối nghịch với sự giải thoát. Bởi vì, dục lậu là kẻ thù nghịch của vô nguyện giải thoát[26]. Ngoài ra hữu lậu và vô minh lậu là kẻ thù nghịch của vô tướng giải thoát[27]không tánh giải thoát[28]. Do đó, nên hiểu rằng đức Thế Tôn thuyết giảng nội dung này, những hạng người làm cho 3 lậu hoặc này sanh khởi, sẽ là người không có dự phần của 3 giải thoát; hạng người không cho 3 lậu hoặc này sanh khởi, sẽ là người có dự phần của 3 giải thoát, như vậy ngài chỉ thuyết 3 giải thoát. Vả lại tà kiến lậu cũng được ngài thuyết trong Āsavakathā này tương tự y như vậy, là điều đã được giải thích.

Tassa amanasikaraṇīyānaṃ dhammānaṃ manasikārāti manasikārahetu, yasmā te dhamme manasi karoti, tasmāti vuttaṃ hoti. Esa nayo dutiyapadepi. ‘‘Anuppannā ceva āsavā uppajjanti, uppannā ca āsavā pavaḍḍhantī’’ti heṭṭhā vuttaāsavānaṃyeva abhedato nigamanametaṃ.

Đối với vị ấy, do không tác ý các pháp không cần được tác ý: do nhân của sự tác ý, tức là do nhân của sự tác ý các pháp đó. Cả 2 câu đều có cách thức này. Các lậu chưa sanh được sanh khởi và các lậu đã sanh được tăng trưởng. Như vậy đây là lời nói được lập lại không có sự khác biệt của các lậu hoặc đã được nói trước đó.

  1. Ettāvatā yo ayaṃ puggalādhiṭṭhānāya desanāya dassanā pahātabbe āsave niddisituṃ assutavā puthujjano vutto, so yasmā ‘‘ayoniso, bhikkhave, manasikaroto anuppannā ceva āsavā uppajjantī’’ti evaṃ sāmaññato vuttānaṃ ayoniso manasikārapaccayānaṃ kāmāsavādīnampi adhiṭṭhānaṃ, tasmā tepi āsave teneva puggalena dassetvā idāni dassanā pahātabbe āsave dassento so evaṃ ayoniso manasi karoti, ahosiṃ nu kho ahantiādimāha. Vicikicchāsīsena cettha diṭṭhāsavampi dassetuṃ imaṃ desanaṃ ārabhi.

[18] Phàm nhân nào không được lắng nghe Giáo Pháp mà đức Thế Tôn đã chỉ bảo để làm sáng tỏ các lậu hoặc cần được dứt bỏ do thấy với sự thuyết giảng lấy con người làm nền tảng bởi vì phàm nhân là chỗ thiết lập của các lậu hoặc như dục lậu, v.v, có tác ý không đúng đường lối làm duyên được nói với tính chất tương tự như vầy: “Này các tỳ khưu, trong khi tác ý không đúng đường lối, các lậu hoặc chưa sanh được sanh khởi.” Khi thuyết về các lậu ấy với chính hạng người ấy chỉ với bấy nhiêu lời mà thôi. Bây giờ, khi thuyết về lậu hoặc cần phải dứt bỏ do thấy mới nói rằng: Kẻ ấy tác ý không đúng đường lối như vầy: ‘Phải chăng ta đã có mặt…? Và ở đây, khi trình bày về tà kiến lậu với sự hoài nghi làm chủ đạo, ngài đã bắt đầu thuyết pháp này.

Tassattho, yassa te iminā vuttanayena āsavā uppajjanti, so puthujjano, yo cāyaṃ ‘‘assutavā’’tiādinā nayena vutto, so puthujjano evaṃ ayoniso anupāyena uppathena manasi karoti. Kathaṃ? Ahosiṃ nu kho…pe…so kuhiṃ gāmī bhavissatīti. Kiṃ vuttaṃ hoti, so evaṃ ayoniso manasi karoti, yathāssa ‘‘ahaṃ ahosiṃ nu kho’’tiādinā nayena vuttā soḷasavidhāpi vicikicchā uppajjatīti.

Ý nghĩa của câu đó, lậu hoặc theo cách đã nói sẽ sanh khởi cùng người nào, người ấy gọi là phàm nhân, nói theo phương cách này “không có sự học hỏi như vậy thì kẻ ấy không khéo tác ý, tức là tác ý không đúng cách, không đúng đường lối. Tác ý thế nào? – Ta có mặt chăng -nt- chúng sanh sẽ đi đâu? – Ngài giải thích thế nào? – Hạng người đó tác ý không đúng đường lối như vậy, luôn cả mười sáu sự hoài nghi được sanh khởi như đức Thế Tôn thuyết theo phương thức được bắt đầu rằng: “Phải chăng ta đã có mặt trong…

Tattha ahosiṃ nu kho nanu khoti sassatākārañca adhiccasamuppattiākārañca nissāya atīte attano vijjamānataṃ avijjamānatañca kaṅkhati. Kiṃ kāraṇanti na vattabbaṃ. Ummattako viya hi bālaputhujjano yathā vā tathā vā pavattati. Apica ayoniso manasikāroyevettha kāraṇaṃ. Evaṃ ayoniso manasikārassa pana kiṃ kāraṇanti. Sveva puthujjanabhāvo ariyānaṃ adassanādīni vā. Nanu ca puthujjanopi yoniso manasi karotīti. Ko vā evamāha na manasi karotīti. Na pana tattha puthujjanabhāvo kāraṇaṃ, saddhammassavanakalyāṇamittādīni tattha kāraṇāni. Na hi macchamaṃsādīni attano attano pakatiyā sugandhāni, abhisaṅkhārapaccayā pana sugandhānipi honti.

Hoài nghi rằng ta đã có mặt hay ta đã không có mặt nghĩa là phàm nhân nghi ngờ sự có mặt hoặc không có mặt của bản ngã trong thời quá khứ do dựa vào tính chất thường kiến và tính chất sanh khởi ngẫu nhiên. Nguyên nhân do đâu? Không cần thiết để nói bởi vì hạng phàm nhân ngu si có hành nghiệp thế này hoặc thế kia [tốt xấu lẫn lộn] giống như kẻ điên, hơn nữa chính sự tác ý không đúng đường lối làm nhân trong vấn đề này. – Như vậy điều gì làm nhân của sự tác ý không đúng đường lối này? – Chính bản chất của những phàm nhân hoặc không có tầm nhìn của bậc thánh; – Phàm nhân có sự tác ý đúng đường lối không phải sao? – Hoặc ai nói như vầy phàm nhân tác ý không đúng đường lối? – Hơn nữa, bản chất phàm nhân không phải lý do chính trong trường hợp này, hành động việc lắng nghe pháp và (thân cận) thiện bạn hữu v.v, (riêng biệt) là nguyên nhân chính ở đây. Thực tế theo tính chất tự nhiên của chính nó cá và thịt v.v, không có mùi thơm, nhưng có thể trở nên thơm tho nhờ các yếu tố phụ gia làm duyên trợ.

Kiṃnu kho ahosinti jātiliṅgūpapattiyo nissāya khattiyo nu kho ahosiṃ, brāhmaṇavessasuddagahaṭṭhapabbajitadevamanussānaṃ aññataroti kaṅkhati.

Ta đã là (loại chúng sinh) gì nghĩa là phàm nhân nương vào giống, giới tính và sự sanh mới nghi ngờ rằng: ta đã từng trở thành vua chưa? hay ta đã trở thành một trong những Bà-la-môn, thương nhân, nô lệ, gia chủ, tu sĩ xuất gia, chư thiên và con người chưa?

Kathaṃ nu khoti saṇṭhānākāraṃ nissāya dīgho nu kho ahosiṃ, rassaodātakaṇhappamāṇikaappamāṇikādīnaṃ aññataroti kaṅkhati. Keci pana issaranimmānādiṃ nissāya kena nu kho kāraṇena ahosinti hetuto kaṅkhatīti vadanti.

Ta đã hiện hữu … như thế nào? nghĩa là phàm nhân dựa vào hình hài vóc dáng mới nghi ngờ rằng ta đã từng là người cao to chưa? hay từng là người thấp? hay người da trắng? hay người không mập không ốm, hay người ốm yếu chăng? Một vài vị thầy nói rằng phàm nhân dựa vào sự tạo hóa v.v, rồi nghi ngờ với lý do rằng: ta có mặt như thế nào?

Kiṃ hutvā kiṃ ahosinti jātiādīni nissāya khattiyo hutvā nu kho brāhmaṇo ahosiṃ…pe… devo hutvā manussoti attano paramparaṃ kaṅkhati. Sabbattheva pana addhānanti kālādhivacanametaṃ.

Ta đã là (loại chúng sinh) gì rồi đã trở thành (loại chúng sinh) gì: nghĩa là phàm nhân dựa vào giống v.v, hoài nghi sự tiếp nối của chính mình rằng ta đã từng làm vua (có thể) trở thành vị Bà-la-môn chăng -nt- là chư thiên rồi có thể trở thành người chăng? Thời gian trong các câu là từ quy định về thời gian.

Bhavissāminu kho nanu khoti sassatākārañca ucchedākārañca nissāya anāgate attano vijjamānataṃ avijjamānatañca kaṅkhati. Sesamettha vuttanayameva.

Phải chăng ta sẽ hiện hữu…? Phải chăng ta sẽ không hiện hữu? nghĩa là nghi ngờ rằng ta sẽ có mặt hoặc sẽ không có mặt trong thời vị lai do y cứ vào tính chất của  thường kiến và đoạn kiến. Từ còn lại trong bài Kinh này như đã được đề cập tương tự như vậy.

Etarahi vā paccuppannamaddhānanti idāni vā paṭisandhiṃ ādiṃ katvā cutipariyantaṃ sabbampi vattamānakālaṃ gahetvā. Ajjhattaṃ kathaṃkathī hotīti attano khandhesu vicikiccho hoti. Ahaṃ nu khosmīti attano atthibhāvaṃ kaṅkhati. Yuttaṃ panetanti? Yuttaṃ ayuttanti kā ettha cintā. Apicettha idaṃ vatthumpi udāharanti. Cūḷamātāya kira putto muṇḍo, mahāmātāya putto amuṇḍo, taṃ puttaṃ muṇḍesuṃ. So uṭṭhāya ahaṃ nu kho cūḷamātāya puttoti cintesi. Evaṃ ahaṃ nu khosmīti kaṅkhā hoti.

Hoặc giờ đây … đến thời hiện tại  nghĩa là hoặc chấp thủ vào thời hiện tại, thậm chí tất cả có tục sanh là điểm khởi đầu, tử là điểm cuối cùng trong hiện tại. Có sự nghi hoặc liên quan đến: nghĩa là phàm nhân là người có sự hoài nghi trong tất cả các uẩn của chính mình. Hoài nghi thế nào? Hoài nghi sự có mặt rằng ta có tồn tại hay không? – Câu này đúng rồi chăng? – Đúng hay không đúng sẽ có suy nghĩ (nghi ngờ) làm gì, trong vấn đề này có ví dụ minh họa sau: kể rằng con của mẹ nhỏ được cạo tóc, con của mẹ lớn không được cạo tóc, khi đứa con ấy (của mẹ lớn) được cạo tóc. Khi tỉnh dậy nghĩ rằng ta là con của mẹ nhỏ chăng. Sự nghi ngờ rằng ta có mặt hay chăng, cũng như vậy thôi.

No nu khosmīti attano natthibhāvaṃ kaṅkhati. Tatrāpi idaṃ vatthu – eko kira macche gaṇhanto udake ciraṭṭhānena sītibhūtaṃ attano ūruṃ macchoti cintetvā pahari. Aparo susānapasse khettaṃ rakkhanto bhīto saṅkuṭito sayi. So paṭibujjhitvā attano jaṇṇukāni dve yakkhāti cintetvā pahari. Evaṃ no nu khosmīti kaṅkhati.

Phải chăng ta không hiện hữu? phàm nhân hoài nghi bản thể không có của ta. Trong vấn đề này có ví dụ minh họa sau: được biết rằng một người đánh bắt cá nghĩ rằng chân của ta bị lạnh do ngâm dưới nước quá lâu thành trở thành cá nên đã đánh (vào chân mình); một người đàn ông khác đang đứng nhìn ruộng lúa gần nghĩa trang, sợ hãi nằm co ro. Khi anh ta tỉnh dậy đã nghĩ rằng đầu gối của mình là hai dạ xoa đã đánh vào (chính mình). Họ có hoài nghi rằng, hoặc là ta không có (không phải thân ta).

Kiṃ nu khosmīti khattiyova samāno attano khattiyabhāvaṃ kaṅkhati. Esa nayo sesesu. Devo pana samāno devabhāvaṃ ajānanto nāma natthi. Sopi pana ‘‘ahaṃ rūpī nu kho arūpī nu kho’’tiādinā nayena kaṅkhati. Khattiyādayo kasmā na jānantīti ce. Apaccakkhā tesaṃ tattha tattha kule uppatti. Gahaṭṭhāpi ca potthalikādayo pabbajitasaññino. Pabbajitāpi ‘‘kuppaṃ nu kho me kamma’’ntiādinā nayena gahaṭṭhasaññino. Manussāpi ca rājāno viya attani devasaññino honti.

Ta đã là (loại chúng sinh) gì…? Vị ấy thuộc dòng dõi vua chúa nhưng lại nghi ngờ bản thể của dòng dõi vua chúa của chính mình. Câu còn lại cũng theo cách này. Còn những người sanh làm chư Thiên không gọi là không biết về bản thể chư Thiên. Tuy nhiên chư Thiên có sự nghi ngờ bản thể chư Thiên bằng cách này: “Ta có sắc hoặc không có sắc phải chăng?” Nếu như hỏi rằng vị vua Sát-đế-lỵ v.v, không biết về bản thể của vị vua Sát-đế-lỵ do nguyên nhân gì? Nên trả lời rằng: Sự sanh ra trong dòng dõi đó đó của vua Sát-đế-lỵ không rõ ràng. Thậm chí những người gia chủ có Bà-la-môn Potthalikā v.v, cũng cho rằng chính mình làm người xuất gia, cả người xuất gia cũng có  cho rằng chính mình làm người tại gia bằng cách thế này: “nghiệp của ta trở nên tồi tệ hơn chăng?” Hơn nữa, tất cả người nhân loại cho rằng chính mình là giả định chư Thiên giống như nhà vua.

Kathaṃ nu khosmīti vuttanayameva. Kevalañcettha abbhantare jīvo nāma atthīti gahetvā tassa saṇṭhānākāraṃ nissāya dīgho nu khosmi, rassacaturaṃsachaḷaṃsaaṭṭhaṃsasoḷasaṃsādīnaṃ aññatarappakāroti kaṅkhanto kathaṃ nu khosmīti kaṅkhatīti veditabbo. Sarīrasaṇṭhānaṃ pana paccuppannaṃ ajānanto nāma natthi.

Kathaṃ nu khosmi [Ta có mặt hình vóc như thế nào] này có cách thức như đã được đề cập. Kathaṃ nu khosmi được giải thích rằng phàm nhân khi chấp thủ rằng bên trong ta chỉ có mạng sống trọn vẹn, rồi căn cứ vào những biểu hiện của hình tướng sự sống đó, nghi ngờ rằng: ta là người cao phải không, hoặc tôi thấp, 4 phần, 6 phần, 8 phần, 16 phần, v.v., một trong bất cứ những điều sau đây: nên biết sự nghi ngờ rằng tôi như thế nào, được gọi là hạng người không phải không biết vóc dáng hiện tại.

Kutoāgato, so kuhiṃ gāmī bhavissatīti attabhāvassa āgatigatiṭṭhānaṃ kaṅkhati.

Chúng sanh này từ đâu đến? và sẽ đi về đâu? gồm nghi ngờ chỗ đến và chỗ đi của bản ngã.

  1. Evaṃ soḷasappabhedaṃ vicikicchaṃ dassetvā idāni yaṃ iminā vicikicchāsīsena diṭṭhāsavaṃ dassetuṃ ayaṃ desanā āraddhā. Taṃ dassento tassa evaṃ ayoniso manasikaroto channaṃ diṭṭhīnantiādimāha. Tattha tassa puggalassa yathā ayaṃ vicikicchā uppajjati, evaṃ ayoniso manasikaroto tasseva savicikicchassa ayoniso manasikārassa thāmagatattā channaṃ diṭṭhīnaṃ aññatarā diṭṭhi uppajjatīti vuttaṃ hoti. Tattha sabbapadesu vāsaddo vikappattho, evaṃ vā evaṃ vā diṭṭhi uppajjatīti vuttaṃ hoti. Atthi me attāti cettha sassatadiṭṭhi sabbakālesu attano atthitaṃ gaṇhāti. Saccato thetatoti bhūtato ca thirato ca, ‘‘idaṃ sacca’’nti bhūtato suṭṭhu daḷhabhāvenāti vuttaṃ hoti. Natthi me attāti ayaṃ pana ucchedadiṭṭhi, sato sattassa tattha tattha vibhavaggahaṇato. Atha vā purimāpi tīsu kālesu atthīti gahaṇato sassatadiṭṭhi, paccuppannameva atthīti gaṇhanto ucchedadiṭṭhi. Pacchimāpi atītānāgatesu natthīti gahaṇato bhasmantāhutiyoti gahitadiṭṭhikānaṃ viya, ucchedadiṭṭhi. Atīte eva natthīti gaṇhanto adhiccasamuppattikasseva sassatadiṭṭhi.
    Sau khi đức Thế Tôn thuyết về mười sáu sự hoài nghi như đã được trình bày. Bây giờ khi thuyết về tà kiến nào đó bằng chủ đề hoài nghi này, Ngài bắt đầu thuyết điều này, khi thuyết về tà kiến ấy nên mới nói rằng: “Trong khi kẻ ấy tác ý không đúng đường lối như vậy…”. Giải thích rằng hoài nghi sanh khởi cùng hạng người đó bằng cách nào, trong số bất kỳ 6 tà kiến cũng khởi lên cùng chính hạng người đó, người không khéo tác ý có sự nghi ngờ bằng cách ấy, do không khéo tác ý đạt đến sự dõng mãnh. Từ ‘vā’ trong tất cả các câu có nghĩa là vikappa (thay đổi, luân phiên), tức là tà kiến sanh khởi như vầy hoặc như vầy.Và ở đây, thường kiến trong câu ‘có ngã ở tôi’, bởi nắm lấy bản ngã của ta có tồn tại ở mọi thời. Thật là chắc chắn nghĩa là theo sự thật và có thật. Là đề cập với tính chất chấp thủ thật kiên định rằng ‘chỉ đây là chân lý.’ Không có ngã ở tôi: còn đây là đoạn kiến, bởi nắm lấy sự biến mất của chúng sanh đang hiện hữu ở cõi này cõi kia; Hoặc hơn nữa, tà kiến đầu tiên gọi là thường kiến vì nắm lấy hiện hữu ở ba thời, đoạn kiến nắm lấy hiện hữu ở ngay hiện tại. Thêm nữa, tà kiến sau gọi là đoạn kiến vì nắm lấy trong quá khứ và vị lai cho rằng ‘không có’ giống như của hạng người nắm lấy tà kiến rằng tất cả việc thờ cúng như tro cốt là cuối cùng, do đó tà kiến chỉ chấp thủ vào quá khứ cho rằng ‘không có’ gọi là thường kiến, tương tự như tà kiến của chúng sanh sanh khởi ngẫu nhiên.

Attanāva attānaṃ sañjānāmīti saññākkhandhasīsena khandhe attāti gahetvā saññāya avasesakkhandhe sañjānato iminā attanā imaṃ attānaṃ sañjānāmīti hoti. Attanāva anattānanti saññākkhandhaṃyeva attāti gahetvā, itare cattāropi anattāti gahetvā saññāya tesaṃ jānato evaṃ hoti. Anattanāva attānanti saññākkhandhaṃ anattāti. Itare cattāro attāti gahetvā saññāya tesaṃ jānato evaṃ hoti, sabbāpi sassatucchedadiṭṭhiyova.

Tôi tưởng tri tự ngã nhờ vào tự ngã: Khi phàm nhân đã nắm lấy các uẩn do tưởng uẩn làm trưởng cho là ‘tự ngã’, tưởng tri các uẩn còn lại bằng tưởng, có quan niệm rằng: ‘ta tưởng tri tự ngã này nhờ vào tự ngã này.’ Tôi tưởng tri vô ngã nhờ vào tự ngã: Khi phàm nhân đã nắm lấy tưởng uẩn cho là ‘tự ngã’ và đã nắm lấy bốn uẩn còn lại này cho là ‘vô ngã’ rồi tưởng tri bốn uẩn đó bằng tưởng, có quan niệm như vậy (ta tưởng tri vô ngã nhờ vào tự ngã). Tôi tưởng tri tự ngã nhờ vào vô ngã: Khi phàm nhân nắm lấy tưởng uẩn cho là ‘vô ngã’ và nắm lấy bốn uẩn còn lại cho là ‘tự ngã’, rồi tưởng tri bốn uẩn đó bằng tưởng, có quan niệm như vậy (ta tưởng tri tự ngã nhờ vào vô ngã). Tất cả tà kiến đã trình bày đều được xếp vào thường kiến và đoạn kiến.

Vado vedeyyotiādayo pana sassatadiṭṭhiyā eva abhinivesākārā. Tattha vadatīti vado, vacīkammassa kārakoti vuttaṃ hoti. Vedayatīti vedeyyo, jānāti anubhavati cāti vuttaṃ hoti. Kiṃ vedetīti, tatra tatra kalyāṇapāpakānaṃ kammānaṃ vipākaṃ paṭisaṃvedeti. Tatra tatrāti tesu tesu yonigatiṭṭhitinivāsanikāyesu ārammaṇesu vā. Niccoti uppādavayarahito. Dhuvoti thiro sārabhūto. Sassatoti sabbakāliko. Avipariṇāmadhammoti attano pakatibhāvaṃ avijahanadhammo, kakaṇṭako viya nānappakārataṃ nāpajjati. Sassatisamanti candasūriyasamuddamahāpathavīpabbatā lokavohārena sassatiyoti vuccanti. Sassatīhi samaṃ sassatisamaṃ. Yāva sassatiyo tiṭṭhanti, tāva tatheva ṭhassatīti gaṇhato evaṃdiṭṭhi hoti.

Các biểu hiện được bắt đầu làm công việc nói năng, hiểu biết là biểu hiện của sự thiên chấp bằng chính thường kiến. Trong câu đó, nói năng là nói, là đề cập đến người tạo ra khẩu hành. Hiểu biết: là biết, là đề cập đến biết và gánh chịu, gánh chịu cái gì? – Gánh chịu kết quả của nghiệp thiện và nghiệp bất thiện ở kiếp sống đó. Ở nơi này, nơi khác: (bốn) nguồn gốc sanh ra, (năm) cảnh giới tái sanh, (bảy) nơi tồn tại của thức, (chín) hữu tình cư, và sự tập hợp (uẩn) hoặc ở các đối tượng ở chỗ này, chỗ kia. Thường còn là loại bỏ sự sanh và sự biến hoại. Bền vững là chắc chắn, là bản thể cốt lõi. trường tồn là có ở tất cả mọi thời. Có bản chất không biến đổi: Có bản chất không từ bỏ tính chất nguyên thủy của chính nó, là không biến đổi thành những dạng  khác nhau giống như một con tắc kè hoa. Như thế một cách vĩnh cửu: mặt trời, mặt trăng, đại dương, địa đại và đồi núi được ngài gọi là những thứ trường tồn theo chế định của thế gian. Giống với tất cả những thứ trường tồn gọi là tồn tại vĩnh viễn. Tà kiến như vậy có cùng hạng người nắm lấy những thứ thường hằng an trụ lúc nào, tự ngã này cũng sẽ an trụ như thế vào lúc đó.

Idaṃ vuccati, bhikkhave, diṭṭhigatantiādīsu idanti idāni vattabbassa paccakkhanidassanaṃ. Diṭṭhigatasambandhena ca idanti vuttaṃ, na diṭṭhisambandhena. Ettha ca diṭṭhiyeva diṭṭhigataṃ, gūthagataṃ viya. Diṭṭhīsu vā gatamidaṃ dassanaṃ dvāsaṭṭhidiṭṭhiantogadhattātipi diṭṭhigataṃ. Diṭṭhiyā vā gataṃ diṭṭhigataṃ. Idañhi atthi me attātiādi diṭṭhiyā gamanamattameva, natthettha attā vā nicco vā kocīti vuttaṃ hoti. Sā cāyaṃ diṭṭhi dunniggamanaṭṭhena gahanaṃ. Duratikkamaṭṭhena sappaṭibhayaṭṭhena ca kantāro, dubbhikkhakantāravāḷakantārādayo viya. Sammādiṭṭhiyā vinivijjhanaṭṭhena vilomanaṭṭhena vā visūkaṃ. Kadāci sassatassa, kadāci ucchedassa gahaṇato virūpaṃ phanditanti vipphanditaṃ. Bandhanaṭṭhena saṃyojanaṃ. Tenāha ‘‘diṭṭhigahanaṃ…pe… diṭṭhisaṃyojana’’nti. Idānissa tameva bandhanatthaṃ dassento diṭṭhisaṃyojanasaṃyuttotiādimāha. Tassāyaṃ saṅkhepattho. Iminā diṭṭhisaṃyojanena saṃyutto puthujjano etehi jātiādīhi na parimuccatīti. Kiṃ vā bahunā, sakalavaṭṭadukkhatopi na muccatīti.

Điều này trong câu ‘này các tỳ khưu, điều này được gọi là sự đi đến tà kiếnlà từ để giải thích rõ ràng những từ sẽ được nói bây giờ. Và ‘điều này’ được ngài nói bởi sự ràng buộc đi đến tà kiến, (và) bởi sự không ràng buộc. Và ở đây, chính tà kiến gọi là sự đi đến tà kiến, giống như đi dưới đống phân. Hoặc, sự đi đến trong tà kiến gọi là sự đi đến tà kiến, sự thấy này do sự thâm nhập từ bên trong của 62 tà kiến, do đó được gọi là sự đi đến tà kiến. Hoặc, sự đi đến của tà kiến cũng gọi là sự đi đến tà kiến. Bởi vì, ‘có tự ngã ở tôi v.v, này chỉ là sự đi đến của tà kiến, ở đây là đề cập đến bản ngã hoặc bất kỳ ai mà thường hằng là ‘không có’. Tà kiến này đây gọi là dày đặc theo ý nghĩa khó đi ra khỏi. Rừng rú hoang vu theo ý nghĩa khó vượt qua và theo ý nghĩa có sự nguy hiểm ở phía trước, giống như sự khó khăn về vật thực và hiểm nạn do thú dữ, v.v. Có sự bóp méo theo ý nghĩa là vật gây tổn thương hoặc với ý nghĩa đâm thủng chánh kiến. Có sự xáo động bởi ý nghĩa tranh đấu không có hình tướng cụ thể bởi thỉnh thoảng có sự nắm lấy của thường kiến, đôi khi chấp thủ đoạn kiến. có sự trói buộc theo ý nghĩa ràng buộc. Vì thế ngài mới nói rằng “có sự nắm giữ của tà kiến –nt– có sự trói buộc của tà kiến.” Bây giờ, để chỉ rõ ý nghĩa sự trói buộc ấy của các sự trói buộc nên đức Thế Tôn đã rằng: “bị trói buộc bởi sự trói buộc của tà kiến” v.v, câu đó có ý nghĩa vắn tắt như vầy: “Phàm nhân bị trói buộc bởi sự trói buộc của tà kiến không thể thoát khỏi các kiếp sống v.v.” không cần phải nói quá nhiều, (kẻ ấy) sẽ không thể thoát khỏi hoàn toàn khổ tử sanh luân hồi.

  1. Evaṃ chappabhedaṃ diṭṭhāsavaṃ dassetvā yasmā sīlabbataparāmāso kāmāsavādivacaneneva dassito hoti. Kāmasukhatthañhi bhavasukha-bhavavisuddhiatthañca avijjāya abhibhūtā ito bahiddhā samaṇabrāhmaṇā sīlabbatāni parāmasanti, tasmā taṃ adassetvā diṭṭhiggahaṇena vā tassa gahitattāpi taṃ adassetvāva idāni yo puggalo dassanā pahātabbe āsave pajahati, taṃ dassetvā tesaṃ āsavānaṃ pahānaṃ dassetuṃ pubbe vā ayoniso manasikaroto puthujjanassa tesaṃ uppattiṃ dassetvā idāni tabbiparītassa pahānaṃ dassetuṃ sutavā ca kho, bhikkhavetiādimāha.
    Sau khi đức Thế Tôn thuyết về tà kiến lậu có 6 loại như được giải thích, bởi sự bám chấp vào giới và phận sự được ngài chỉ rõ với chính lời nói về dục lậu v.v. Bởi vì, các Sa-môn và các Bà-la-môn ngoài Phật Giáo này bị vô minh chế ngự đã bám chấp vào giới và phận sự để đạt được sự an lạc trong các dục và đạt đến sự an lạc trong các cõi, và sự thanh tịnh trong các cõi. Vì thế, không thuyết sự bám chấp vào giới và phận sự nữa hoặc không thuyết lặp lại sự bám chấp vào giới và phận sự đó vì sự bám chấp vào giới và phận sự đó đức Thế Tôn đã nắm lấy bằng thuật từ ‘tà kiến’. Bây giờ để thuyết về hạng người dứt trừ các lậu hoặc cần được dứt bỏ do thấy, đã thuyết phương pháp dứt trừ các các lậu hoặc; hay thuyết về sự sanh khởi các lậu hoặc của hạng phàm nhân có sự tác ý không đúng đường lối, đã thuyết đến phương pháp dứt trừ các lậu của hạng phàm nhân trái nghịch đó. Lúc bấy giờ ngài mới thuyết rằng “Và này các tỳ khưu, vị Thánh đệ tử có sự học hỏi…

Tassattho, yāva ‘‘so idaṃ dukkha’’nti āgacchati, tāva heṭṭhā vuttanayena ca vuttapaccanīkato ca veditabbo. Paccanīkato ca sabbākārena ariyadhammassa akovidāvinītapaccanīkato ayaṃ ‘‘sutavā ariyasāvako ariyadhammassa kovido ariyadhamme suvinīto’’ti veditabbo. Apica kho sikhāpattavipassanato pabhuti yāva gotrabhu, tāva tadanurūpena atthena ayaṃ ariyasāvakoti veditabbo.

Ý nghĩa của từ đó nên hiểu theo cách thức đã trình bày ở phần sau cho đến Pālī vị ấy … đây là khổ và dựa vào hạng người đối nghịch với hạng người đã đề cập. Và hạng người này nên biết rằng: “vị Thánh đệ tử có sự học hỏi, rành rẽ Pháp của các bậc Thánh và được huấn luyện về pháp của các bậc Thánh” với cách thức đối nghịch tức là với tính chất đối lập từ hạng người không rành rẽ và không được huấn luyện về Pháp của bậc Thánh với mọi biểu hiện. Vả lại, nên biết rằng hạng người này là vị Thánh đệ tử theo ý nghĩa phù hợp đó bắt từ minh sát đã đạt đến tột đỉnh cho đến tuệ chuyển tộc.

  1. ‘‘So idaṃ dukkhanti yoniso manasi karotī’’tiādīsu pana ayaṃ atthavibhāvanā, so catusaccakammaṭṭhāniko ariyasāvako taṇhāvajjā tebhūmakā khandhā dukkhaṃ, taṇhā dukkhasamudayo, ubhinnaṃ appavatti nirodho, nirodhasampāpako maggoti evaṃ pubbeva ācariyasantike uggahitacatusaccakammaṭṭhāno aparena samayena vipassanāmaggaṃ samāruḷho samāno te tebhūmake khandhe idaṃ dukkhanti yoniso manasi karoti, upāyena pathena samannāharati ceva vipassati ca.

Ettha hi yāva sotāpattimaggo, tāva manasikārasīseneva vipassanā vuttā. Yā panāyaṃ tasseva dukkhassa samuṭṭhāpikā pabhāvikā taṇhā, ayaṃ samudayoti yoniso manasi karoti. Yasmā pana dukkhañca samudayo ca idaṃ ṭhānaṃ patvā nirujjhanti nappavattanti, tasmā yadidaṃ nibbānaṃ nāma, ayaṃ dukkhanirodhoti yoniso manasi karoti. Nirodhasampāpakaṃ aṭṭhaṅgikaṃ maggaṃ ayaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadāti yoniso manasi karoti, upāyena pathena samannāharati ceva vipassati ca.

  1. Vị ấy tác ý đúng đường lối (rằng): đây là khổ,” v.v, được giải thích rõ ràng như sau: vị Thánh đệ tử vị tu tiến nghiệp xứ trong 4 Chân Lý ở giai đoạn đầu, cần phải học đề mục thiền định phối hợp với 4 Chân Lý nơi trú xứ của thầy như vầy uẩn được vận hành trong 3 cõi gọi là khổ do lỗi lầm là tham ái; tham ái là nhân sanh khổ, sự không vận hành của khổ và nhân sanh khổ thì cả 2 gọi là sự diệt tận kh, đạo lộ đưa đến sự diệt tận là con đường. Đến giai đoạn tiếp theo (vị ấy) tiến vào đạo lộ của minh sát, các uẩn được vận hành trong 3 cõi đó vị ấy tác ý đúng đường lối đến (rằng) ‘đây là khổ’, là sự tập trung (thiền định) và minh sát để thấy rõ đúng phương cách, đúng đường lối. Cũng trong trường hợp này đức Thế Tôn nói về minh sát bằng cách lấy tác ý làm trọng tâm cho đến Tu-đà-hoàn đạo. Hơn nữa, tham ái là nguồn sanh khởi, là nhân sanh khởi của chính khổ ấy, (vị ấy) tác ý đúng đường lối (rằng): ‘Đây là nhân sanh khổ.’ Hơn nữa, bởi vì khổ và nhân sanh khổ khi đã đạt đến vị trí này (sẽ) diệt, không vận hành, do đó, vị trí này gọi là Niết Bàn, (vị ấy) tác ý đúng đường lối (rằng): Đây là sự diệt tận khổ. Đạo lộ có tám chi phần là nhân đưa đến sự diệt tận (vị ấy) tác ý đúng đường lối (rằng): Đây là lối thực hành đưa đến sự diệt tận Khổ, quán xét và thấy rõ rệt đúng phương cách, đúng đường lối.

Tatrāyaṃ upāyo, abhiniveso nāma vaṭṭe hoti, vivaṭṭe natthi. Tasmā ‘‘ayaṃ atthi imasmiṃ kāye pathavīdhātu, āpodhātū’’tiādinā nayena sakasantatiyaṃ cattāri bhūtāni tadanusārena upādārūpāni ca pariggahetvā ayaṃ rūpakkhandhoti vavatthapeti. Taṃ vavatthāpayato uppanne tadārammaṇe cittacetasike dhamme ime cattāro arūpakkhandhāti vavatthapeti. Tato ime pañcakkhandhā dukkhanti vavatthapeti. Te pana saṅkhepato nāmañca rūpañcāti dve bhāgāyeva honti. Idañca nāmarūpaṃ sahetu sappaccayaṃ uppajjati. Tassa ayaṃ hetu ayaṃ paccayoti avijjābhavataṇhākammāhārādike hetupaccaye vavatthapeti. Tato tesaṃ paccayānañca paccayuppannadhammānañca yāthāvasarasalakkhaṇaṃ vavatthapetvā ime dhammā ahutvā hontīti aniccalakkhaṇaṃ āropeti, udayabbayapīḷitattā dukkhāti dukkhalakkhaṇaṃ āropeti. Avasavattanato anattāti anattalakkhaṇaṃ āropeti. Evaṃ tīṇi lakkhaṇāni āropetvā paṭipāṭiyā vipassanaṃ pavattento sotāpattimaggaṃ pāpuṇāti.

Trong câu đó có cách thức như vầy: gọi là sư thiên chấp có trong vaṭṭa, không có trong vivaṭṭa. Do đó, “hành giả xác định 4 sắc đại hiển trong sắc liên tục theo cách sau: địa giới, thủy giới này có trong sắc thân như vậy và xác định sắc y đại sinh theo cách của sắc đại hiển [bhūtarūpa] đây là sắc uẩn như vậy khi xác định sắc uẩn đó cũng xác định pháp là tâm và tâm sở có sắc uẩn làm đối tượng sanh khởi, 4 pháp này là vô sắc uẩn sau đó xác định 4 uẩn. Ngũ uẩn này là khổ, 5 uẩn đó nói ngắn gọn chỉ có 2 phần là danh và sắc, và danh sắc này có nhân có duyên sanh khởi. Hành giả xác định nhân và duyên của danh sắc đó có vô minh, hữu, ái, nghiệp và vật thực v.v, đây là duyên. Sau đó hành giả  xác định phận sự và trạng thái của chính mình theo pháp thực tính của duyên và pháp nương vào duyên sanh khởi đó rồi đưa trạng thái vô thường lên (quán xét) pháp này không hiện hữu là có [ime dhammā ahutvā hontīti aniccalakkhaṇaṃ āropeti]; nâng trạng thái khổ lên (quán xét) pháp này là khổ do sự sanh khởi và hoại diệt đè nặng; nâng trạng thái vô ngã lên (quán xét) pháp này là vô ngã do không vận hành trong mãnh lực [avasavattanato, ngoài tầm kiểm soát]. Như vậy, hành giả khi nâng pháp này lên (quán xét) tam tướng rồi cho thiền tuệ được vận hành theo tuần tự chứng đắc Tu-đà-hoàn đạo được.

Tasmiṃ khaṇe cattāri saccāni ekapaṭivedheneva paṭivijjhati, ekābhisamayena abhisameti. Dukkhaṃ pariññāpaṭivedhena paṭivijjhati, samudayaṃ pahānapaṭivedhena, nirodhaṃ sacchikiriyāpaṭivedhena, maggaṃ bhāvanāpaṭivedhena. Dukkhañca pariññābhisamayena abhisameti…pe… maggaṃ bhāvanābhisamayena abhisameti, no ca kho aññamaññena ñāṇena. Ekañāṇeneva hi esa nirodhaṃ ārammaṇato, sesāni kiccato paṭivijjhati ceva abhisameti ca. Na hissa tasmiṃ samaye evaṃ hoti – ‘‘ahaṃ dukkhaṃ parijānāmī’’ti vā…pe… ‘‘maggaṃ bhāvemī’’ti vā. Apica khvassa ārammaṇaṃ katvā paṭivedhavasena nirodhaṃ sacchikaroto evaṃ taṃ ñāṇaṃ dukkhapariññākiccampi samudayapahānakiccampi maggabhāvanākiccampi karotiyeva. Tassevaṃ upāyena yoniso manasikaroto tīṇi saṃyojanāni pahīyanti, vīsativatthukā sakkāyadiṭṭhi, aṭṭhavatthukā vicikicchā, ‘‘sīlena suddhi vatena suddhī’’ti sīlabbatānaṃ parāmasanato sīlabbataparāmāsoti. Tattha catūsu āsavesu sakkāyadiṭṭhisīlabbataparāmāsā diṭṭhāsavena saṅgahitattā āsavā ceva saṃyojanā ca. Vicikicchā saṃyojanameva, na āsavo . ‘‘Dassanā pahātabbā āsavā’’ti ettha pariyāpannattā pana āsavāti.

Vào lúc đó (tâm Đạo Tu-đà-hoàn), vị ấy thấu triệt 4 Chân Lý với sự thấu triệt bằng một tâm Đạo duy nhất, lãnh hội với trạng thái giác ngộ bằng một tâm Đạo duy nhất. Thấu triệt khổ nhờ vào sự thấu triệt có sự biết toàn diện; thấu triệt nhân sanh khổ nhờ vào sự thấu triệt về sự dứt bỏ; thấu triệt sự diệt tận khổ nhờ vào về sự chứng ngộ; thấu triệt đạo nhờ vào sự thấu triệt do sự tu tập. Vị ấy lãnh hội khổ nhờ vào sự lãnh hội về sự biết toàn diện –nt– lãnh hội đạo nhờ vào sự lãnh hội về sự tu tập đối với Đạo, không phải lãnh hội Bốn Chân Lý với trí này lẫn với trí kia. Thực tế, hành giả thấu triệt và lãnh hội Diệt đế với tính chất làm đối tượng và các Chân Lý còn lại với tính chất làm phận sự bằng chính một tâm Đạo duy nhất. Cũng trong lúc đó vị ấy không có sự suy nghĩ rằng “ta biết toàn diện đối với khổ” hoặc -nt- hoặc “ta đang tu tập Đạo”. Hơn nữa, khi vị ấy làm sáng tỏ Diệt Đế với mãnh lực pháp thành sau khi làm thành đối tượng đó, trí đó gọi là làm phận sự biết toàn diện về khổ, làm phận sự dứt trừ nhân sanh khổ và làm phận sự tu tập đạo. Khi tác ý đúng đường lối như vậy vị ấy đã dứt trừ được 3 sự trói buộc là thân kiến có 20 loại (tà kiến chấp ngã trong ngũ uẩn), hoài nghi có 8 loại (hoài nghi Phật v.v,) sự bám chấp vào giới và phận sự do sự hiểu sai về thói quen hay tập tục và sự thực hành cho rằng “sự thanh tịnh có được do thói quen hay tập tục, sự thanh tịnh có được do thực thực hành [nên hiểu sự thực hành ở chỗ này là thực hành theo kiểu con bò v.v,]” Trong số 4 lậu hoặc đó thì thân kiến, bám chấp vào giới và phận sự thì ngài nhiếp hợp với tà kiến lậu là cả lậu và cả sự trói buộc; hoài nghi chỉ là sự trói buộc, không là lậu hoặc. Tuy nhiên, gọi là lậu hoặc do trong Pālī trình bày: “các lậu  cần được dứt bỏ do thấy, do vậy pháp này gọi là pháp cần được dứt bỏ đã được thuyết.

‘‘Ime vuccanti…pe… pahātabbā’’ti ime sakkāyadiṭṭhiādayo dassanā pahātabbā nāma āsavāti dassento āha. Atha vā yā ayaṃ channaṃ diṭṭhīnaṃ aññatarā diṭṭhi uppajjatīti evaṃ sarūpeneva sakkāyadiṭṭhi vibhattā. Taṃ sandhāyāha ‘‘ime vuccanti, bhikkhave’’ti. Sā ca yasmā sahajātapahānekaṭṭhehi saddhiṃ pahīyati. Diṭṭhāsave hi pahīyamāne taṃsahajāto catūsu diṭṭhisampayuttacittesu kāmāsavopi avijjāsavopi pahīyati. Pahānekaṭṭho pana catūsu diṭṭhivippayuttesu nāgasupaṇṇādisamiddhipatthanāvasena uppajjamāno bhavāsavo. Teneva sampayutto avijjāsavopi, dvīsu domanassacittesu pāṇātipātādinibbattako avijjāsavopi, tathā vicikicchācittasampayutto avijjāsavopīti evaṃ sabbathāpi avasesā tayopi āsavā pahīyanti. Tasmā bahuvacananiddeso katoti evamettha attho veditabbo. Esa porāṇānaṃ adhippāyo.

Lại nữa, thân kiến nào đã được ngài phân tích chính bằng hình thức như vậy trong số 6 loại tà kiến, bất kỳ tà kiến nào sanh khởi, đức Thế Tôn muốn đề cập đến thân kiến đó mới thuyết rằng: “các pháp ấy được gọi -nt- cần được dứt bỏ.” Do thân kiến đó hành giả diệt tận cùng với hoài nghi và sự bám chấp vào giới và phận sự đồng sanh và có cùng ý nghĩa với sự diệt trừ. Thực tế, khi hành giả đã đoạn trừ được tà kiến lậu, hay dục lậu, hay vô minh lậu trong 4 tâm tương ưng tà kiến đồng sanh với tà kiến lậu đó, hành giả cũng đoạn trừ tương tự. Còn hữu lậu sanh khởi được với khả năng của sự hoàn thành mong muốn của loài rồng và chim thần v.v, trong 4 tâm tương ưng tà kiến gọi là pháp có ý nghĩa tương tự với việc đoạn trừ. 3 lậu hoặc còn lại là vô minh tương ưng với hữu lậu này, hay vô minh làm nhân sanh khởi bất thiện nghiệp có sát sanh v.v, trong 2 tâm sân, hay vô minh lậu tương ưng với tâm hoài nghi tương tự, hành giả đoạn trừ bằng mọi cách. Bởi thế Ngài mới diễn giải theo số nhiều, ở đây ý nghĩa nên hiểu theo như được đề cập. Lời giải thích của các bậc trưởng thượng cũng tương tự như vậy.

Dassanā pahātabbāti dassanaṃ nāma sotāpattimaggo, tena pahātabbāti attho. Kasmā sotāpattimaggo dassanaṃ? Paṭhamaṃ nibbānadassanato. Nanu gotrabhu paṭhamataraṃ passatīti? No na passati. Disvā kattabbakiccaṃ pana na karoti saṃyojanānaṃ appahānato. Tasmā passatīti na vattabbo. Yattha katthaci rājānaṃ disvāpi paṇṇākāraṃ datvā kiccanipphattiyā adiṭṭhattā ‘‘ajjāpi rājānaṃ na passāmī’’ti vadanto gāmavāsī puriso cettha nidassanaṃ.

Cần được dứt bỏ do thấy: việc thấy gọi là Đạo Nhập Lưu, nghĩa là cần được đoạn trừ do Đạo Nhập Lưu. Vì sao việc thấy là Đạo Nhập Lưu? Bởi vì nhìn thấy Niết Bàn lần đầu tiên. Trí chuyển tộc nhìn thấy trước không phải sao? Trí chuyển tộc không thấy cũng không phải, nhưng trí chuyển tộc đó khi đã thấy sẽ không thể thực hiện phận sự cần làm, vì không thể đoạn trừ sử ràng buộc. Cho nên không nên nói rằng nhìn thấy như vậy. Giống như một người sau khi nhìn thấy đức vua ở một vài nơi rồi dâng lên một số cống phẩm nói rằng: “trong ngày hôm nay ta cũng không được diện kiến đức vua” do hoàn thành phận sự của mình không nhìn thấy là một ví dụ.

Giải thích các lậu hoặc cần được đoạn trừ do thấy được kết thúc

 

Giải thích các lậu hoặc cần được đoạn trừ do phòng hộ

  1. Evaṃ dassanena pahātabbe āsave dassetvā idāni tadanantaruddiṭṭhe saṃvarā pahātabbe dassetuṃ, katame ca, bhikkhave, āsavā saṃvarā pahātabbāti āha. Evaṃ sabbattha sambandho veditabbo. Ito parañhi atthamattameva vaṇṇayissāma.

[22] Như vậy, sau khi Thế Tôn thuyết các lậu cần đoạn trừ được do tri kiến, bây giờ khi để thuyết giảng các lậu mà hành giả cần đoạn trừ được do phòng hộ được trình bày theo tuần tự như sau mới thuyết rằng: “này các tỳ khưu, các lậu hoặc cần được dứt bỏ do phòng hộ”. Trong cả câu nên biết rằng sự liên kết như vậy, từ đây tôi chỉ sẽ giải thích nội dung mà thôi.

Nanu ca dassanena bhāvanāyāti imehi dvīhi appahātabbo āsavo nāma natthi, atha kasmā visuṃ saṃvarādīhi pahātabbe dassetīti. Saṃvarādīhi pubbabhāge vikkhambhitā āsavā catūhi maggehi samugghātaṃ gacchanti, tasmā tesaṃ maggānaṃ pubbabhāge imehi pañcahākārehi vikkhambhanappahānaṃ dassento evamāha. Tasmā yo cāyaṃ vutto paṭhamo dassanamaggoyeva, idāni bhāvanānāmena vuccissanti tayo maggā, tesaṃ sabbesampi ayaṃ pubbabhāgapaṭipadāti veditabbā.

Được gọi là lậu hoặc mà hành giả cần đoạn trừ không được bằng 2 phận sự là do thấy và do tu tập không có không phải sao? Mà tại sao Đức Thế Tôn thuyết lậu hoặc mà hành giả cần đoạn trừ do phòng hộ, v.v, để thành một phần. – Do các lậu hoặc hành giả chế ngự ở giai đoạn trước đây do phòng hộ v.v, đi đến chặt tận gốc bằng 4 Đạo, đức Thế Tôn khi thuyết sự diệt tận các lậu này ở giai đoạn trước đây của Đạo bằng việc chế ngự nhờ vào 5 biểu hiện đã được ngài nói như vậy. Do đó, chính Đạo Nhập Lưu đầu tiên đã được ngài thuyết, 3 Đạo ngài sẽ nói với tên gọi sự tu tập ngay bây giờ, lậu hoặc cần được đoạn trừ do phòng hộ v.v, bậc trí nên biết rằng: lối thực hành ở giai đoạn trước đây của vị Nhập Lưu Đạo và của cả 3 Đạo cao.

Tattha idhāti imasmiṃ sāsane. Paṭisaṅkhāti paṭisaṅkhāya. Tatthāyaṃ saṅkhāsaddo ñāṇakoṭṭhāsapaññattigaṇanāsu dissati. ‘‘Saṅkhāyekaṃ paṭisevatī’’tiādīsu (ma. ni. 2.168) hi ñāṇe dissati. ‘‘Papañcasaññāsaṅkhā samudācarantī’’tiādīsu (ma. ni. 1.201) koṭṭhāse. ‘‘Tesaṃ tesaṃ dhammānaṃ saṅkhā samaññā’’tiādīsu (dha. sa. 1313) paññattiyaṃ. ‘‘Na sukaraṃ saṅkhātu’’ntiādīsu (saṃ. ni. 2.128) gaṇanāyaṃ. Idha pana ñāṇe daṭṭhabbo.

Idha đó: Trong Tôn giáo này. Suy xét: quán tưởng. Saṅkhā trong từ suy xét được sử dụng trong trí tuệ, phần, chế định và tính toán. Saṅkhā được sử dụng trong trí như trong câu: “quán tưởng rồi mới thọ dụng một pháp.[29]” Sử dụng trong phần như trong câu: “phần của pháp trễ nải có vọng tưởng làm nhân được xảy đến.[30]” Trong chế định: “việc chế định là tên gọi của các Pháp đó đó.[31]” Trong tính toán: “việc tính toán không phải dễ dàng để thực hiện.[32]” Hơn nữa, ở đây cần biết với ý nghĩa là trí.

Paṭisaṅkhā yonisoti hi upāyena pathena paṭisaṅkhāya ñatvā paccavekkhitvāti attho. Ettha ca asaṃvare ādīnavapaṭisaṅkhā yoniso paṭisaṅkhāti veditabbā. Sā cāyaṃ ‘‘varaṃ, bhikkhave, tattāya ayosalākāya ādittāya sampajjalitāya sajotibhūtāya cakkhundriyaṃ sampalimaṭṭhaṃ, na tveva cakkhuviññeyyesu rūpesu anubyañjanaso nimittaggāho’’tiādinā (saṃ. ni. 4.235) ādittapariyāyanayena veditabbā. Cakkhundriyasaṃvarasaṃvuto viharatīti ettha cakkhumeva indriyaṃ cakkhundriyaṃ, saṃvaraṇato saṃvaro, pidahanato thakanatoti vuttaṃ hoti. Satiyā etaṃ adhivacanaṃ. Cakkhundriye saṃvaro cakkhundriyasaṃvaro. Titthakāko āvāṭakacchapo vanamahiṃsotiādayo viya.

Quả thật suy xét đúng đường lối: bởi sau khi biết nhờ suy xét đúng cách thức, đứng đường lối, tức là đã suy xét. Và ở đây, suy xét lỗi làm trong việc không phòng hộ, nên biết rằng việc suy xét đúng đường lối. Việc suy xét lỗi lầm trong việc không thu thúc nên biết theo phương thức ở bài kinh Kinh Giải Về Lửa như sau: “Thật tốt hơn, này các tỳ khưu, nếu nhãn quyền bị đâm thủng với một cây kim bằng sắt nung đỏ, hừng cháy, rực cháy, cháy lửa ngọn. Như vậy, không có nắm giữ hình tướng thuộc về chi tiết đối với các sắc cần nhận biết bằng nhãn thức.[33]Sống phòng hộ với sự phòng hộ trong nhãn quyền nghĩa là quyền chính là nhãn được gọi là nhãn quyền, được gọi là sự phòng hộ do thu thúc, do đóng lại là phòng hộ được. Sự phòng hộ là tên gọi của niệm. Việc thu thúc trong nhãn quyền tựa như câu sau: Con quạ ở bến nước, con rùa ở trong hồ, con trâu rừng ở trong rừng.

Tattha kiñcāpi cakkhundriye saṃvaro vā asaṃvaro vā natthi. Na hi cakkhupasādaṃ nissāya sati vā muṭṭhasaccaṃ vā uppajjati. Apica yadā rūpārammaṇaṃ cakkhussa āpāthaṃ āgacchati, tadā bhavaṅge dvikkhattuṃ uppajjitvā niruddhe kiriyamanodhātu āvajjanakiccaṃ sādhayamānā uppajjitvā nirujjhati, tato cakkhuviññāṇaṃ dassanakiccaṃ, tato vipākamanodhātu sampaṭicchanakiccaṃ, tato vipākāhetukamanoviññāṇadhātu santīraṇakiccaṃ, tato kiriyāhetukamanoviññāṇadhātu voṭṭhabbanakiccaṃ sādhayamānā uppajjitvā nirujjhati. Tadanantaraṃ javanaṃ javati.

Cakkhundriyasaṃvarasaṃvuto viharati [sống phòng hộ với sự phòng hộ trong nhãn quyền] đó mặc dầu việc phòng hộ hoặc không phòng hộ trong nhãn quyền sẽ không có, tuy nhiên niệm hoặc thất niệm sẽ không sanh khởi do nương vào thần kinh nhãn. Lại nữa, lúc nào đối tượng sắc tiếp xúc con mắt, lúc đó tâm hộ kiếp sanh khởi 2 lần rồi diệt, tâm tố ý giới sanh khởi làm phận sự của tâm khai môn hoàn thành rồi diệt. Sau đó, nhãn thức sanh khởi làm phận sự thấy thành tựu rồi diệt. Tiếp theo tâm quả ý giới sanh khởi làm phận sự tiếp thâu thành tựu rồi diệt, kế đến ý thức giới là tâm quả vô nhân sanh khởi làm phận tâm quan sát thành tựu rồi diệt. Khi đó ý thức giới là tâm tố vô nhân sanh khởi làm phận sự đoán định thành tựu rồi diệt, theo tuần tự đó tâm đổng lực sẽ đến nhanh.

Tatthapi neva bhavaṅgasamaye, na āvajjanādīnaṃ aññatarasamaye saṃvaro vā asaṃvaro vā atthi. Javanakkhaṇe pana sace dussīlyaṃ vā muṭṭhasaccaṃ vā aññāṇaṃ vā akkhanti vā kosajjaṃ vā uppajjati, ayaṃ asaṃvaro hoti. Evaṃ hontopi so cakkhundriye asaṃvaroti vuccati. Kasmā? Tasmiñhi sati dvārampi aguttaṃ hoti, bhavaṅgampi āvajjanādīni vīthicittānipi. Yathā kiṃ , yathā nagare catūsu dvāresu asaṃvutesu kiñcāpi anto gharakoṭṭhakagabbhādayo susaṃvutā, tathāpi antonagare sabbaṃ bhaṇḍaṃ arakkhitaṃ agopitameva hoti. Nagaradvārena hi pavisitvā corā yadicchanti, taṃ kareyyuṃ, evameva javane dussīlyādīsu uppannesu, tasmiṃ asaṃvare sati dvārampi aguttaṃ hoti, bhavaṅgampi āvajjanādīni vīthicittānipīti.

Cakkhundriyasaṃvarasaṃvuto viharati [sống phòng hộ với sự phòng hộ trong nhãn quyền] đó việc phòng hộ hoặc không phòng hộ trong nhãn quyền sẽ không có trong sát-na tâm hộ kiếp và cả ở sát-na tâm khai môn v.v, trong bất cứ thời nào việc phòng hộ hoặc không phòng hộ cũng sẽ không có tương tự như vậy. Nhưng ở sát-na tâm đổng lực nếu giới tồi, thiểu trí, thiếu kham nhẫn hoặc sự lười biếng sanh khởi đây là việc không phòng hộ. Sự không phòng hộ như vậy Ngài gọi là sự không phòng hộ trong nhãn quyền. Tại sao? Bởi vì khi không  thu thúc trong nhãn quyền, môn, hay tâm hộ kiếp, hay lộ trình tâm có tâm khai môn v.v, sẽ là điều mà hành giả không hộ trì. Giống thế nào? Như thể bốn cổng trong thành phố không được ai bảo vệ, bên trong ngôi nhà mái vòm và căn phòng được bảo vệ cẩn mật. Tuy nhiên, mọi thứ trong thành phố không được canh gác hoặc bảo vệ, vì như kẻ trộm vào cổng thành, chúng có thể ăn cắp những gì chúng muốn như thế nào; khi tội lỗi do tà giới khởi lên trong tâm đổng lực, khi có sự không phòng hộ trong tâm đổng lực đó, hay môn, hay tâm hộ kiếp, hay lộ trình tâm có tâm khai môn v.v. là cách vị tỳ khưu sống không phòng hộ thế đó.

Tasmiṃ pana sīlādīsu uppannesu dvārampi guttaṃ hoti, bhavaṅgampi āvajjanādīni vīthicittānipi. Yathā kiṃ? Yathā nagaradvāresu susaṃvutesu kiñcāpi anto gharādayo asaṃvutā, tathāpi antonagare sabbaṃ bhaṇḍaṃ surakkhitaṃ sugopitameva hoti. Nagaradvāresu hi pihitesu corānaṃ paveso natthi, evameva javane sīlādīsu uppannesu dvārampi suguttaṃ hoti, bhavaṅgampi āvajjanādīni vīthicittānipi. Tasmā javanakkhaṇe uppajjamānopi cakkhundriye saṃvaroti vutto. Idha cāyaṃ satisaṃvaro adhippetoti veditabbo. Cakkhundriyasaṃvarena saṃvuto cakkhundriyasaṃvarasaṃvuto, upetoti vuttaṃ hoti. Tathā hi, pātimokkhasaṃvarasaṃvutoti imassa vibhaṅge ‘‘iminā pātimokkhasaṃvarena upeto hoti…pe… samannāgato’’ti (vibha. 511) vuttaṃ. Taṃ ekajjhaṃ katvā cakkhundriyasaṃvarena saṃvutoti evamattho veditabbo.

Nhưng khi giới v.v, khởi lên trong tâm đổng lực, hay môn, hay tâm hộ kiếp, lộ trình tâm có tâm khai môn v.v, sẽ là điều mà vị tỳ khưu phòng hộ. Giống thế nào? Như thể bốn cổng trong thành phố được người bảo vệ, bên trong ngôi nhà dù không được bảo vệ cẩn mật. Tuy nhiên, mọi thứ trong thành phố được người canh gác bảo vệ cẩn trọng, vì các cổng thành được đóng kính, những tên trộm không thể đi vào bên trong được như thế nào; vị tỳ khưu sống khéo phòng hộ tương tự thế đó, khi giới khởi lên trong tâm đổng lực, hay môn [dvāra], hay tâm hộ kiếp, hay lộ trình tâm có tâm khai môn v.v. Bởi thế sự phòng hộ dầu sanh khởi ở sát-na của tâm đổng lực Ngài gọi là sự phòng hộ trong nhãn quyền. Trong trường hợp này thu thúc niệm nên biết rằng là điều mà Ngài mong muốn. Hạng người sống phòng hộ với sự thu thúc nhãn quyền gọi là người đạt đến sự phòng hộ bằng sự phòng hộ nhãn quyền [cakkhundriyasaṃvarasaṃvuto]. Lời nào mà Ngài đã nói trong bộ phân tích rằng pātimokkhasaṃvarasaṃvuto [sống phòng hộ với sự phòng hộ bằng giới bổn pātimokkha] “vị tỳ khưu đạt đến -nt- sự thành tựu giới bổn pātimokkha”, lời đó bậc trí nên hiểu tương tự, rồi biết với ý nghĩa như vầy ‘vị tỳ khưu phòng hộ với sự phòng hộ của nhãn quyền’.

Atha vā saṃvarīti saṃvuto, thakesi pidahīti vuttaṃ hoti. Cakkhundriye saṃvarasaṃvuto cakkhundriyasaṃvarasaṃvuto, cakkhundriyasaṃvarasaññitaṃ satikavāṭaṃ cakkhudvāre, gharadvāre kavāṭaṃ viya saṃvari thakesi pidahīti vuttaṃ hoti. Ayameva cettha attho sundarataro. Tathā hi ‘‘cakkhundriyasaṃvaraṃ asaṃvutassa viharato saṃvutassa viharato’’ti etesu padesu ayameva attho dissati.

Lại nữa, gọi là người đã được thu thúc theo ý nghĩa phòng hộ, thu thúc, tức là ngăn chặn, đóng lại. Vị tỳ khưu phòng hộ bằng sự phòng hộ trong nhãn quyền, là người có nhãn quyền đã được bảo vệ phòng hộ. Ngăn chặn là đóng lại cánh cửa là niệm mà biết được rằng việc phòng hộ bằng nhãn quyền trong nhãn môn giống như người đóng cánh của ở cánh của ngôi nhà. Cũng trong câu này thì chính ý nghĩa này tốt hơn. Quả thật ý nghĩa này xuất hiện trong 2 câu đó “người sống không thu thúc phòng hộ nhãn quyền và người sống thu thúc phòng hộ nhãn quyền.

Viharatīti evaṃ cakkhundriyasaṃvarasaṃvuto yena kenaci iriyāpathavihārena viharati. Yañhissātiādimhi yaṃ cakkhundriyasaṃvaraṃ assa bhikkhuno asaṃvutassa athaketvā apidahitvā viharantassāti evamattho veditabbo. Atha vā, ye-kārassa yanti ādeso. Hikāro ca padapūraṇo, ye assāti attho.

Viharati [sống an trú] nghĩa là người sống an trú với bất kỳ oai nghi nào do sư thu thúc phòng hộ nhãn quyền như vậy. Yañhissa v.v, nên biết ý nghĩa này như sau khi vị tỳ khưu sống không thu thúc phòng hộ nhãn quyền nào là sống không ngăn chặn, không đóng kín việc chú ý đến lộ nhãn quyền. Lại nữa sự thay đổi trong ngữ pháp yaṃ từ ye cũng được, còn hi là một liên từ, có nghĩa là ye assa.

Uppajjeyyunti nibbatteyyuṃ. Āsavā vighātapariḷāhāti cattāro āsavā ca aññe ca vighātakarā kilesapariḷāhā vipākapariḷāhā ca. Cakkhudvāre hi iṭṭhārammaṇaṃ āpāthagataṃ kāmassādavasena assādayato abhinandato kāmāsavo uppajjati, īdisaṃ aññasmimpi sugatibhave labhissāmīti bhavapatthanāya assādayato bhavāsavo uppajjati, sattoti vā sattassāti vā gaṇhantassa diṭṭhāsavo uppajjati, sabbeheva sahajātaṃ aññāṇaṃ avijjāsavoti cattāro āsavā uppajjanti. Tehi sampayuttā apare kilesā vighātapariḷāhā, āyatiṃ vā tesaṃ vipākā. Tepi hi asaṃvutasseva viharato uppajjeyyunti vuccanti.

Uppajjeyya nghĩa là có thể sanh khởi. āsavā vighātapariḷāhā [các lậu hoặc phiền toái và nhiệt não] gồm 4 lậu hoặc và sự nóng đốt do phiền não hoặc nóng đốt do quả dị thục [vipāka] làm cho khó chịu khác. Bởi vì dục lậu khởi lên cùng vị tỳ khưu ưa thích thỏa mãn trong đối tượng tốt [iṭṭhārammaṇa] đến hiện hữu nơi nhãn môn với sức mạnh sự ưa thích trong dục. Hữu lậu sanh khởi cùng vị tỳ khưu hoan hỷ với sự ước muốn trong các hữu như sau ta sẽ đạt được tài sản như vầy trong nhàn cảnh [sugatibhava] cả cảnh giới khác. Tà kiến lậu sanh khởi cùng vị tỳ khưu chấp thủ rằng đây là chúng sanh hoặc của chúng sanh. Sự không hiểu biết đồng sanh với tất cả các lậu hoặc đó gọi là vô minh lậu. Tất cả 4 lậu hoặc khởi lên như thế. Thậm chí các phiền não khác tương ưng với lậu hoặc đó sự nóng đốt tạo ra sự khó chịu hoặc dị thục quả trong kiếp sống kế tiếp của phiền não nào, thực ra những phiền não đó Ngài nói rằng có thể sanh khởi cùng vị tỳ khưu sống không thu thúc tương tự.

Evaṃsa teti evaṃ assa te. Evaṃ etena upāyena na honti, no aññathāti vuttaṃ hoti. Esa nayo paṭisaṅkhā yoniso sotindriyasaṃvarasaṃvutotiādīsu.

Evaṃsa te nghĩa là với phương pháp này, như vậy các lậu đó đó, không sanh cùng vị tỳ khưu sống thu thúc phòng hộ, không phải có bằng cách khác. Paṭisaṅkhā yoniso sotindriyasaṃvarasaṃvuto [suy xét đúng đường lối, sống thu thúc với sự thu thúc về nhĩ quyền] cũng theo cách thức tương tự như thế này.

Ime vuccanti, bhikkhave, āsavā saṃvarā pahātabbāti ime chasu dvāresu cattāro cattāro katvā catuvīsati āsavā saṃvarena pahātabbāti vuccanti. Sabbattheva cettha satisaṃvaro eva saṃvaroti veditabbo.

Này các tỳ khưu, đây được gọi là các lậu hoặc cần được dứt bỏ do thu thúc nghĩa là các lậu hoặc đó được chia thành 6 môn, mỗi môn có 4 lậu hoặc chi tất cả 24 lậu hoặc Ta nói rằng hành giả cần phải đoạn tận bằng sự thu thúc. Ở đây thu thúc bằng niệm nên biết rằng thu thúc chính trong tất cả các câu.

Giải thích các lậu hoặc do phòng hộ được đoạn trừ kết thúc

 

Giải thích các lậu hoặc cần được đoạn trừ do sử dụng

  1. Paṭisaṅkhā yoniso cīvarantiādīsu yaṃ vattabbaṃ, taṃ sabbaṃ visuddhimagge sīlakathāyaṃ vuttameva. Yañhissāti yaṃ cīvarapiṇḍapātādīsu vā aññataraṃ assa. Appaṭisevatoti evaṃ yoniso appaṭisevantassa. Sesaṃ vuttanayameva. Kevalaṃ panidha aladdhaṃ cīvarādiṃ patthayato laddhaṃ vā assādayato kāmāsavassa uppatti veditabbā. Īdisaṃ aññasmimpi sampattibhave sugatibhave labhissāmīti bhavapatthanāya assādayato bhavāsavassa, ahaṃ labhāmi na labhāmīti vā mayhaṃ vā idanti attasaññaṃ adhiṭṭhahato diṭṭhāsavassa uppatti veditabbā. Sabbeheva pana sahajāto avijjāsavoti evaṃ catunnaṃ āsavānaṃ uppatti vipākapariḷāhā ca navavedanuppādanatopi veditabbā.

[23] Lời nên biết được nói đến trong câu rằng paṭisaṅkhā yoniso cīvaraṃ [suy xét đúng đường lối trong việc sử dụng y phục] đã được Ngài nói trong Sīlakathā trong bộ Thanh Tịnh Đạo. Yañhissa nghĩa là lậu hoặc và sự nóng đốt đo gây ra sự khó chịu [có khả năng sanh khởi] cùng vị tỳ khưu [vị không suy xét trước khi sử dụng], các món vật dụng hoặc bất cứ điều gì trong số y phục, vật thực đi khất thực v.v. appaṭisevato [người không suy xét] nghĩa là người không quán tưởng đúng đường lối trước khi sử dụng như vậy. Các từ còn lại có cách thức như đã được trình bày. Nên biết sự sanh khởi của dục lậu của vị tỳ khưu mong muốn y phục v.v, mà bản thân không đạt được hoặc người ưa thích y phục v.v, mà bản thân đã tự mình có được. Nên biết sự sanh khởi của hữu lậu của vị tỳ khưu, vị hoan hỷ với sự ước muốn trong các hữu “ta sẽ được tài sản như thế này trong thế giới an vui là lạc cảnh khác. Nên biết sự sanh khởi của tà kiến lậu của vị tỳ khưu đặt tầm quan trọng trong tự thân rằng ta sẽ đạt được hoặc những thứ này sẽ là của ta. Vô minh lậu đồng sanh với tất cả lậu, nên biết rằng việc sanh khởi của tất cả 4 lậu như đã trình bày. Còn sự nóng đốt do dị thục quả nên biết cả sự sanh khởi của cảm thọ mới.

Imevuccanti, bhikkhave, āsavā paṭisevanā pahātabbāti ime ekamekasmiṃ paccaye cattāro cattāro katvā soḷasa āsavā iminā ñāṇasaṃvarasaṅkhātena paccavekkhaṇapaṭisevanena pahātabbāti vuccanti.

ime vuccanti, bhikkhave, āsavā paṭisevanā pahātabbā [này các tỳ khưu, đây được gọi là các lậu hoặc cần được đoạn trừ do được sử dụng] nghĩa là các lậu hoặc này có 16 loại, bởi vì chia các lậu làm trong vật dụng [paccaya], mỗi paccaya [có y phục v.v,] mỗi paccaya có 4 lậu. Các lậu này Ta nói rằng hành giả cần phải đoạn trừ với việc quán tưởng trước khi sử dụng, chính là sự thu thúc với trí.

          Giải thích các lậu hoặc cần được đoạn trừ do sử dụng được kết thúc

 

Giải thích các lậu hoặc cần được đoạn trừ do kham nhẫn

  1. Paṭisaṅkhā yoniso khamo hoti sītassāti upāyena pathena paccavekkhitvā khamo hoti sītassa sītaṃ khamati sahati, na avīrapuriso viya appamattakenapi sītena calati kampati kammaṭṭhānaṃ vijahati. Apica kho lomasanāgatthero viya anappakenāpi sītena phuṭṭho na calati na kampati, kammaṭṭhānameva manasi karoti. Thero kira cetiyapabbate piyaṅguguhāyaṃ padhānaghare viharanto antaraṭṭhake himapātasamaye lokantarikaniraye paccavekkhitvā kammaṭṭhānaṃ avijahantova abbhokāse vītināmesi. Evaṃ uṇhādīsupi atthayojanā veditabbā.
  2. Paṭisaṅkhā yoniso khamo hoti sītassa [suy xét đúng đường lối, kham nhẫn đối với sự lạnh] nghĩa là vị tỳ khưu quán tưởng đúng đường lối, sẽ thành người kham nhẫn từ cái lạnh là kham nhẫn sự lạnh, sẽ run rẩy do cái lạnh dù chỉ chút ít, giống như người đàn ông không thể không có sự can đảm, ngài không từ bỏ đề mục thiền định. Lại nữa, ngài không run rẩy khi tiếp xúc cái lạnh buốt, cũng chỉ tác ý đến nghiệp xứ giống như trưởng lão Lomasanāga. Được biết rằng trưởng lão cư trú ở Padhānaghara thực hành sự tinh tấn tại hang động Piyaṅguguhā trong bảo tháp Cetiyapabba quán tưởng (khắc phục cái lạnh) địa ngục không gian được đặt ở khoảng giữa [cõi Diêm Phù] vào thời điểm tuyết rơi, vị ấy cũng không từ bỏ đề mục thiền định, (thực hành) để thời gian trôi qua ở ngoài trời, thậm chí trong mùa nóng v.v, nên biết việc giải thích nội dung như vậy.

Kevalañhi yo bhikkhu adhimattampi uṇhaṃ sahati sveva thero viya, ayaṃ ‘‘khamo uṇhassā’’ti veditabbo. Thero kira gimhasamaye pacchābhattaṃ bahicaṅkame nisīdi. Kammaṭṭhānaṃ manasikaronto sedāpissa kacchehi muccanti. Atha naṃ antevāsiko āha ‘‘idha, bhante, nisīdatha, sītalo okāso’’ti. Thero ‘‘uṇhabhayenevamhi āvuso idha nisinno’’ti avīcimahānirayaṃ paccavekkhitvā nisīdiyeva. Uṇhanti cettha aggisantāpova veditabbo. Sūriyasantāpavasena panetaṃ vatthu vuttaṃ.

Quả thât, vị tỳ khưu nào kham nhẫn cái nóng khắc nghiệt nhất, vị tỳ khưu đó bậc trí nên biết rằng là người vị kham nhẫn chịu được cái nóng giống như vị ấy [trưởng lão Lomasanāga]. Được biết rằng sau khi thọ dụng vật thực vào mùa nóng, trưởng lão ngồi bên ngoài chỗ đi kinh hành. Khi Ngài tác ý đến nghiệp xứ mồ hôi tuôn chảy từ hai bên nách. Khi ấy các đệ tử nói với ngài rằng: bạch ngài xin mời ngài ngồi ở chỗ này, khí hậu ở đây mát mẻ dễ chịu. – Trưởng lão đáp rằng: Ta sẽ không ngồi ở đó vì sợ cái nóng này sao các hiền giả, như thế ngài ngồi quán tưởng đại địa ngục Avīci. Cũng ở nơi đây sự nóng đốt do lửa nên biết là ‘sự nóng’. Thêm nữa, ở đây câu chuyện kể lại với sức mạnh của sự nóng bức sanh lên từ mặt trời.

Yo ca dve tayo vāre bhattaṃ vā pānīyaṃ vā alabhamānopi anamatagge saṃsāre attano pettivisayūpapattiṃ paccavekkhitvā avedhento kammaṭṭhānaṃ na vijahatiyeva. Adhimattehi ḍaṃsamakasavātātapasamphassehi phuṭṭho cāpi tiracchānūpapattiṃ paccavekkhitvā avedhento kammaṭṭhānaṃ na vijahatiyeva. Sarīsapasamphassena phuṭṭho cāpi anamatagge saṃsāre sīhabyagghādimukhesu anekavāraṃ parivattitapubbabhāvaṃ paccavekkhitvā avedhento kammaṭṭhānaṃ na vijahatiyeva padhāniyatthero viya. Ayaṃ ‘‘khamo jighacchāya…pe… sarīsapasamphassāna’’nti veditabbo.

Vị tỳ khưu nào ngay cả khi không được vật thực hoặc nước uống chỉ 2-3 bữa rồi quán tưởng sự sanh khởi về sự đói khát của ngạ quỷ nơi tự thân trong vòng luân hồi vô thỉ [không có điểm bắt đầu và cũng không có điểm kết thúc], không dao động, không từ bỏ đề mục thiền định; và khi tiếp xúc muỗi mòng và ánh nắng mặt trời quá mức cũng quán tưởng đến sự tái sanh của loài bàng sanh cũng không bị lay động, không từ bỏ đề mục thiền định; và dầu cho tiếp xúc với các loại bò sát cũng quán tưởng đến tự ngã trong thời quá khứ, đã nhiều lần đầm mình lăn lộn, bò trường nhiều lúc ở trước miệng sư tử, và cọp vằn, v.v. trong luân hồi vô thỉ, không lung lay, không từ bỏ nghiệp xứ giống như trưởng lão Padhāniya, vị tỳ khưu đó nên biết rằng là vị kham nhẫn với cơn đói, khát v.v., và sự đụng chạm của các loài bò sát.

Theraṃ kira khaṇḍacelavihāre kaṇikārapadhāniyaghare ariyavaṃsaṃ suṇantaṃ ghoraviso sappo ḍaṃsi. Thero jānitvāpi pasannacitto nisinno dhammaṃyeva suṇāti. Visavego thaddho ahosi. Thero upasampadamaṇḍalaṃ ādiṃ katvā sīlaṃ paccavekkhitvā parisuddhasīlohamasmīti pītiṃ uppādesi. Saha pītuppādā visaṃ nivattitvā pathaviṃ pāvisi. Thero tattheva cittekaggataṃ labhitvā vipassanaṃ vaḍḍhetvā arahattaṃ pāpuṇi.

Nghe rằng một con rắn độc đã cắn trưởng lão, vị đang nghe Kinh Ariyavaṃsa trong Padhāniyaghara đang thực hành sự tinh tấn ở Kaṇikāra tại Đại tự Khaṇḍacela. Trưởng lão mặc dù đã biết điều đó, nhưng với tâm tịnh tín vẫn ngồi nghe Pháp. Chất độc đã bắt đầu phát tác. Trưởng lão đã suy xét về giới hạnh kể từ khi tu lên bậc trên ở Maṇḍala rồi khởi lên phỉ lạc, ta có giới thanh tịnh. Cùng với sự sanh khởi của phỉ lạc, chất độc trong cơ thể chảy ngược ra ngoài thấm vào mặt đất. Sau khi trưởng lão đạt được trạng thái chuyên nhất của tâm ở ngay tại nơi đó, ngài đã phát triển minh sát rồi chứng đắc quả vị A-ra-hán.

Yo pana akkosavasena durutte duruttattāyeva ca durāgate api antimavatthusaññite vacanapathe sutvā khantiguṇaṃyeva paccavekkhitvā na vedhati dīghabhāṇakaabhayatthero viya. Ayaṃ ‘‘khamo duruttānaṃ durāgatānaṃ vacanapathāna’’nti veditabbo.

Vị tỳ khưu nào nghe lời nói thô thiển và lời nói cay nghiệt với vị phạm tội cực nặng đến từ đằng xa vì là những lời thô lỗ, (vị ấy) suy xét đến đức hạnh kham nhẫn và không bị lay động bởi sức mạnh của những lời lăng mạ như trưởng lão Dīghabhāṇakābhaya. Vị ấy bậc trí nên biết rằng là vị có thể chịu đựng những lời cay nghiệt đến từ xa.

Thero kira paccayasantosabhāvanārāmatāya mahāariyavaṃsappaṭipadaṃ kathesi, sabbo mahāgāmo āgacchati. Therassa mahāsakkāro uppajjati. Taṃ aññataro mahāthero adhivāsetuṃ asakkonto dīghabhāṇako ariyavaṃsaṃ kathemīti sabbarattiṃ kolāhalaṃ karosītiādīhi akkosi. Ubhopi ca attano attano vihāraṃ gacchantā gāvutamattaṃ ekapathena agamaṃsu. Sakalagāvutampi so taṃ akkosiyeva. Tato yattha dvinnaṃ vihārānaṃ maggo bhijjati, tattha ṭhatvā dīghabhāṇakatthero taṃ vanditvā ‘‘esa, bhante, tumhākaṃ maggo’’ti āha. So asuṇanto viya agamāsi. Theropi vihāraṃ gantvā pāde pakkhāletvā nisīdi. Tamenaṃ antevāsiko ‘‘kiṃ, bhante, sakalagāvutaṃ paribhāsantaṃ na kiñci avocutthā’’ti āha. Thero ‘‘khantiyeva, āvuso, mayhaṃ bhāro, na akkhanti. Ekapaduddhārepi kammaṭṭhānaviyogaṃ na passāmī’’ti āha. Ettha ca vacanameva vacanapathoti veditabbo.

Nghe rằng trưởng lão nói đến Mahā-ariyavaṃsa-paṭipadā vì sự hoan hỷ trong sự tu tiến và biết đủ làm duyên. Tất cả dân làng đều đến (để nghe thuyết pháp). Sự tôn vinh trọng thể được khởi lên cho trưởng lão. Một số vị Đại trưởng lão (sanh lòng đố kỵ) do ít được cung kính nên đã buông lời xúc phạm rằng: “Trưởng lão Dīghabhāṇaka đã gây hỗn loạn cả đêm và nói: ‘Tôi sẽ nói về truyền thống bậc Thánh.’” Cả hai vị trưởng lão (trong lúc du hành) trở về trú xứ của mình và đã đi cùng nhau trên cùng một con đường, cùng khoảng cách khoảng một gāvuta. Vị trưởng lão ấy đã xúc phạm trưởng lão Dīghabhāṇaka thậm chí trong từng gāvuta, lúc đó trưởng lão đứng ở nơi ngăn cách lối đi của hai ngôi tịnh xá, đảnh lễ trưởng lão ấy và nói: “Bạch ngài, đây là con đường của ngài, trưởng lão bỏ đi vờ như không nghe thấy.” Còn trưởng lão Dīghabhāṇaka sau khi trở về tịnh xá đã rửa chân và ngồi xuống, các vị đệ tử mới nói với  rằng: “Có chuyện gì vậy, thưa ngài? Tại sao ngài không nói gì cùng vị trưởng lão đó vị đã buông lời xúc phạm ngài trong từng gāvuta.” – Trưởng lão đáp: “Này hiền giả, chính sự kham nhẫn là phận sự của ta,  sự thiếu kham nhẫn phải là phận sự của ta của ta chăng? Chính ta không nhìn thấy sự tách biệt từ đối tượng thiền định của ta, ngay cả khi nhấc một bên chân lên.” Ở đây, chính lời nói ấy nên hiểu rằng là lời nói đúng đường lối theo Pháp.

Yo pana uppannā sārīrikā vedanā dukkhamanaṭṭhena dukkhā, bahalaṭṭhena tibbā, pharusaṭṭhena kharā, tikhiṇaṭṭhena kaṭukā, assādavirahato asātā, manaṃ avaḍḍhanato amanāpā, pāṇaharaṇasamatthatāya pāṇaharā adhivāsetiyeva, na vedhati. Evaṃ sabhāvo hoti cittalapabbate padhāniyatthero viya. Ayaṃ ‘‘uppannānaṃ…pe… adhivāsanajātiko’’ti veditabbo.

Đối với cảm thọ thuộc thuộc về thân xác gọi là khổ đau theo ý nghĩa làm nhân đưa đến khổ đâu, dày đặc theo ý nghĩa là dày đặc; khốc liệt bởi ý nghĩa là thô lỗ; nhức nhối theo ý nghĩa là sắc bén; không thích thú bởi không có sự ưa thích; không vừa ý theo ý nghĩa là nơi không tăng trưởng tâm; Nguy hiểm đến mạng sống: vị tỳ khưu nào chịu đựng được các cảm thọ đó là không bị lung lay, sống an trú bình thường, giống như trưởng lão Padhāniya, vị sống ở Cittalapabbata, vị này nên biết rằng là vị kham nhẫn với bất cứ điều gì đang xảy ra, v.v.

Therassa kira rattiṃ padhānena vītināmetvā ṭhitassa udaravāto uppajji. So taṃ adhivāsetuṃ asakkonto āvattati parivattati. Tamenaṃ caṅkamapasse ṭhito piṇḍapātiyatthero āha ‘‘āvuso, pabbajito nāma adhivāsanasīlo hotī’’ti. So ‘‘sādhu, bhante’’ti adhivāsetvā niccalo sayi. Vāto nābhito yāva hadayaṃ phāleti. Thero vedanaṃ vikkhambhetvā vipassanto muhuttena anāgāmī hutvā parinibbāyīti.

Nghe biết rằng khi vị trưởng lão đứng để thực hành hạnh tinh tấn suốt đêm, luồng gió trong bụng đã khởi lên. Ngài không thể chịu đựng dược đã xoay qua xoay lại. Trưởng lão Piṇḍapātiya đứng cạnh (lối đi) kinh hành đã nói cùng ngài rằng: “Này hiền giả, vị xuất gia thường có sự kham nhẫn như vậy.” – Trưởng lão đáp: “lành thay, thưa ngài” rồi nằm xuống (bất tỉnh) không động đậy. Luồng gió (dường như) xuyên thấu tâm cang đến rốn. – Trưởng lão sau khi chế ngự được cảm thọ đã phát triển minh sát trong chốc lát đã chứng đắc quả vị A-na-hàm rồi viên tịch.

Yañhissāti sītādīsu yaṃkiñci ekadhammampi assa. Anadhivāsayatoti anadhivāsentassa akkhamantassa. Sesaṃ vuttanayameva. Āsavuppatti panettha evaṃ veditabbā. Sītena phuṭṭhassa uṇhaṃ patthayantassa kāmāsavo uppajjati, evaṃ sabbattha. Natthi no sampattibhave sugatibhave sītaṃ vā uṇhaṃ vāti bhavaṃ patthayantassa bhavāsavo. Mayhaṃ sītaṃ uṇhanti gāho diṭṭhāsavo. Sabbeheva sampayutto avijjāsavoti.

Yañhissā nghĩa là (các lậu hoặc sanh khởi) cùng vị tỳ khưu, vị không kham nhẫn được bất kỳ sự lạnh nào. Vị không thể chịu đựng: vị không chịu đựng được, không thể kham nhẫn được. Những từ còn lại có cách thức như đã trình bày. Trong vấn đề này nên biết sự sanh khởi của lậu hoặc như vậy. Dục lậu sanh khởi cùng vị tỳ khưu, vị bị sự lạnh xúc chạm mong muốn giữ ấm cơ thể khỏi sự lạnh. Các câu còn lại cũng áp dụng theo cách này. Hữu lậu có cùng vị tỳ khưu ước muốn các hữu rằng sự lạnh giá và sự ấm áp của ta trong thế giới an vui [sampattibhava] không xuất hiện. Sự chấp thủ rằng sự lạnh lẽo, sự ấm áp có cùng ta như vậy gọi là tà kiến lậu. Lậu hoặc tương tưng với các lậu hoặc đó gọi là vô minh lậu.

‘‘Ime vuccanti…pe… adhivāsanā pahātabbā’’ti ime sītādīsu ekamekassa vasena cattāro cattāro katvā aneke āsavā imāya khantisaṃvarasaṅkhātāya adhivāsanāya pahātabbāti vuccantīti attho. Ettha ca yasmā ayaṃ khanti sītādidhamme adhivāseti, attano upari āropetvā vāsetiyeva. Na asahamānā hutvā nirassati, tasmā ‘‘adhivāsanā’’ti vuccatīti veditabbā.

Này các tỳ khưu, đây được gọi là các lậu hoặc cần được dứt bỏ do kham nhẫn nghĩa là các lậu hoặc này có nhiều do mỗi pháp được chia thành 4 với khả năng của pháp có cái lạnh v.v, được Đức Thế Tôn nói rằng cần phải đoạn trừ bằng sự kham nhẫn gọi là phòng hộ bằng sự kham nhẫn [khantisaṃvara], ở đây do kham nhẫn này (sẽ) chịu đựng trong pháp có cái lanh v.v, rồi đã nâng đặt lên trên chính nó, không phải là chịu đựng không được rồi từ bỏ, cho nên kham nhẫn nên biết là adhivāsanā (sự chịu đựng, kham nhẫn)

Giải thích các lậu hoặc cần được dứt bỏ do kham nhẫn được kết thúc

 

Giải thích các lậu hoặc cần được đoạn trừ do kiêng tránh

  1. 25. Paṭisaṅkhāyoniso caṇḍaṃ hatthiṃ parivajjetīti ahaṃ samaṇoti caṇḍassa hatthissa āsanne na ṭhātabbaṃ. Tatonidānañhi maraṇampi siyā maraṇamattampi dukkhanti evaṃ upāyena pathena paccayena paccavekkhitvā caṇḍaṃ hatthiṃ parivajjeti paṭikkamati. Esa nayo sabbattha. Caṇḍanti ca duṭṭhaṃ, vāḷanti vuttaṃ hoti. Khāṇunti khadirakhāṇuādiṃ. Kaṇṭakaṭṭhānanti kaṇṭakānaṃ ṭhānaṃ, yattha kaṇṭakā vijjanti, taṃ okāsanti vuttaṃ hoti. Sobbhanti sabbato paricchinnataṭaṃ. Papātanti ekato chinnataṭaṃ. Candanikanti ucchiṭṭhodakagabbhamalādīnaṃ chaḍḍanaṭṭhānaṃ. Oḷigallanti tesaṃyeva sakaddamādīnaṃ sandanokāsaṃ. Taṃ jaṇṇumattampi asucibharitaṃ hoti, dvepi cetāni ṭhānāni amanussaduṭṭhāni honti. Tasmā tāni vajjetabbāni. Anāsaneti ettha pana ayuttaṃ āsanaṃ anāsanaṃ, taṃ atthato aniyatavatthukaṃ rahopaṭicchannāsananti veditabbaṃ. Agocareti etthapi ca ayutto gocaro agocaro, so vesiyādibhedato pañcavidho. Pāpake mitteti lāmake dussīle mittapatirūpake, amitte vā. Bhajantanti sevamānaṃ. Viññū sabrahmacārīti paṇḍitā buddhisampannā sabrahmacārayo, bhikkhūnametaṃ adhivacanaṃ. Te hi ekakammaṃ ekuddeso samasikkhatāti imaṃ brahmaṃ samānaṃ caranti, tasmā sabrahmacārīti vuccanti. Pāpakesu ṭhānesūti lāmakesu ṭhānesu. Okappeyyunti saddaheyyuṃ, adhimucceyyuṃ ‘‘addhā ayamāyasmā akāsi vā karissati vā’’ti.
  2. (Vị tỳ khưu) suy xét đúng đường lối, và tránh xa voi dữ, ngựa dữ: nghĩa là vị tỳ khưu không nên đứng gần những nơi có voi dữ với suy nghĩ rằng ta là Sa-môn, bởi vì cái chết và đau khổ gần như chết chính những con voi đó là nguyên nhân có thể xảy ra. Vị tỳ khưu suy xét khéo léo, đúng cách, đúng đường lối rồi tránh xa các con voi hung dữ ấy. Các từ còn lại có cách thức tương tự. Hung dữ: dữ tợn, tức là hung tợn, tàn bạo; Gốc cây gồm dưới những gốc cây to lớn; Nơi có chông gai: nghĩa là tại những nơi có gai góc, tức là những bãi đất trống có nhiều gai; Ao hồ gồm những nơi có ao hồ; Vách núi nơi chỉ có sườn dốc (vực thẳm, vách núi); Hồ nước động: những nơi quăng bỏ những thứ dơ bẩn có nước tụ đọng lại; Bãi lầy những bãi đất đầy bùn lầy v.v, nơi đó là nơi phân tán rải rác những thứ dơ bẩn đến tận đầu gối. Thậm chỉ cả hai chỗ đó đều là chỗ xấu xa có phi nhân, những nơi như vậy nên tránh xa; lại nữa ở đây chỗ ngồi không phù hợp là ở chỗ không nên ngồi. Ở chỗ không nên ngồi này với ý nghĩa ngồi ở chỗ ngồi không thích hợp nên biết rằng bao gồm những chỗ ngồi khuất lấp ở nơi riêng tư có tài sản của cải không chắc chắn. Nơi lui tới không nên đến gọi là không phải là hành xứ cả trong câu hành xứ không nên lui tới này. Có 5 chỗ không nên lui tới đó được phân loại là kỹ nữ v.v, thân cận với các bạn bè xấu xa: thân cận với các bạn bè xấu xa, người thấp hèn, kẻ ác giới, hoặc kẻ địch. Bhajantaṃ: thân cận với, giao thiệp với. Các vị đồng Phạm hạnh có sự hiểu biết nghĩa là các bạn đồng phạm hạnh là bậc trí giả, là người hội đủ với sự hiểu biết. Lời này là tên gọi của chư tỳ khưu bởi vì những vị ấy thường xuyên thực hành Phạm hạnh, với suy nghĩ rằng ta là người có nghiệp đồng nhất và đồng nhất học thuyết, và đồng đẳng về giới hạnh, do đó những vị tỳ khưu ấy gọi là có phạm hạnh. (Có dính líu) đến các trường hợp xấu xa: nghĩa là ở những nơi ô nhiễm. Có thể tin chắc: có thể tin chắc, là có thể hướng tâm tin tưởng rằng: “Vị đại đức này đã thực hành hoặc chắc chắn sẽ thực hành.”

Yañhissāti hatthiādīsu yaṃkiñci ekampi assa. Sesaṃ vuttanayameva. Āsavuppatti panettha evaṃ veditabbā. Hatthiādinidānena dukkhena phuṭṭhassa sukhaṃ patthayato kāmāsavo uppajjati. Natthi no sampattibhave sugatibhave īdisaṃ dukkhanti bhavaṃ patthentassa bhavāsavo. Maṃ hatthī maddati, maṃ assoti gāho diṭṭhāsavo. Sabbeheva sampayutto avijjāsavoti.

Yañhissa nghĩa là khi vị tỳ khưu đó không tránh né một trong những nơi nguy hiểm đó như chỗ có voi dữ v.v, từ còn lại có phương thức như đã được trình bày. Trong trường hợp này nên biết việc sanh khởi của lậu như vậy. Dục lậu sẽ khởi lên nơi vị tỳ khưu, người lãnh chịu sư khổ đau do voi dữ v.v, làm nhân rồi mong muốn sự an lạc. Hữu lậu sẽ khởi lên nơi vị tỳ khưu, người mong muốn các hữu rằng đau khổ như này của ta sẽ không có ở thế giới an vui, ở lạc cảnh. Việc chấp thủ rằng voi dữ sẽ giẫm đạp ta, ngựa dữ sẽ giẫm đạp ta như thế gọi là tà kiến lậu. Lậu hoặc tương ưng với các pháp bất thiện gọi là vô minh lậu.

Ime vuccanti…pe… parivajjanā pahātabbāti ime hatthiādīsu ekekassa vasena cattāro cattāro katvā aneke āsavā iminā sīlasaṃvarasaṅkhātena parivajjanena pahātabbāti vuccantīti veditabbā.

Này các tỳ khưu, đây được gọi là các lậu hoặc cần được dứt bỏ do tránh né nghĩa là các lậu hoặc này có nhiều do mỗi pháp được chia thành 4 với mãnh lực của sự nguy hiểm như voi v.v, nên biết rằng đức Thế Tôn nói rằng hành giả cần phải diệt bỏ bằng sự tránh né, được xem là sự thu thúc bằng giới.

Giải thích các lậu hoặc cần được đoạn trừ do tránh né được kết thúc

 

Giải thích các lậu hoặc cần được dứt bỏ do sự dứt bỏ

  1. Paṭisaṅkhāyoniso uppannaṃ kāmavitakkaṃ nādhivāsetīti ‘‘iti pāyaṃ vitakko akusalo, itipi sāvajjo, itipi dukkhavipāko, so ca kho attabyābādhāya saṃvattatī’’tiādinā nayena yoniso kāmavitakke ādīnavaṃ paccavekkhitvā tasmiṃ tasmiṃ ārammaṇe uppannaṃ jātamabhinibbattaṃ kāmavitakkaṃ nādhivāseti, cittaṃ āropetvā na vāseti, abbhantare vā na vāsetītipi attho.
    (Vị tỳ khưu) suy xét đúng đường lối không chấp nhận dục tầm đã được sanh khởi nghĩa là hành giả quán tưởng để nhìn thấy lỗi lầm trong dục tầm một cách khéo léo theo phương thức sau: “suy tầm này là bất thiện, suy tầm này có tội lỗi, suy tầm này cho quả khổ, và suy tầm này vận hành đưa đến sự tổn hại tự thân v.v,” không chấp nhận để dục tầm sanh khởi, suy tầm đã sanh khởi trong cảnh đó đó, tức là đã nâng tâm lên khiến dục tầm dừng lại không được hoặc không cho dục tầm dừng lại bên trong được.

Anadhivāsento kiṃ karotīti? Pajahati chaḍḍeti.

Vị tỳ khưu khi không chấp nhận sẽ làm gì? Dứt bỏ là dứt bỏ suy tầm đó.

Kiṃ kacavaraṃ viya piṭakenāti? Na hi, apica kho naṃ vinodeti tudati vijjhati nīharati.

Vị tỳ khưu dứt bỏ suy tầm giống như người lấy cái thúng hốt rác đem bỏ chăng? Không phải, và hơn nữa, tỳ khưu phải lấy đi là nhổ bỏ, đâm thủng, tức là xua đi dục tầm đó.

Kiṃ balibaddaṃ viya patodenāti? Na hi, atha kho naṃ byantīkaroti vigatantaṃ karoti. Yathāssa antopi nāvasissati antamaso bhaṅgamattampi, tathā naṃ karoti.

Đâm thủng giống với người cầm lấy cây lao đâm con bò đực không? – Không phải như thế, khi ấy làm cho dục tầm đó tiêu tan, làm cho dục tầm biến mất, làm cho dục tầm đó không còn dư sót ở bên trong nội tâm của vị tỳ khưu ấy, ở tận cùng trong tâm hộ kiếp [cũng không có].

Kathaṃ pana naṃ tathā karotīti? Anabhāvaṃ gametīti anu anu abhāvaṃ gameti, vikkhambhanappahānena yathā suvikkhambhito hoti, tathā karotīti vuttaṃ hoti. Esa nayo byāpādavihiṃsāvitakkesu.

Vị tỳ khưu làm cho suy tầm đó tiêu tan như thế nào? – Làm cho dục tầm đó đi đến không còn hiện hữu, đi đến không còn dư sót dù chút ít. Tức là suy tầm mà vị ấy đã khéo loại trừ bằng sự từ bỏ do chế ngự. Với sân tầmnão hại tầm cũng theo cách thức này tương tự.

Ettha ca kāmavitakkoti ‘‘yo kāmapaṭisaṃyutto takko vitakko micchāsaṅkappo’’ti vibhaṅge (vibha. 910) vutto. Esa nayo itaresu. Uppannuppanneti uppanne uppanne, uppannamatteyevāti vuttaṃ hoti. Sakiṃ vā uppanne vinodetvā dutiyavāre ajjhupekkhitā na hoti, satakkhattumpi uppanne uppanne vinodetiyeva. Pāpake akusaleti lāmakaṭṭhena pāpake, akosallatāya akusale. Dhammeti teyeva kāmavitakkādayo sabbepi vā nava mahāvitakke. Tattha tayo vuttā eva. Avasesā ‘‘ñātivitakko janapadavitakko amaravitakko parānuddayatāpaṭisaṃyutto vitakko lābhasakkārasilokapaṭisaṃyutto vitakko anavaññattipaṭisaṃyutto vitakko’’ti (mahāni. 207) ime cha.

Và ở đây, dục tầm đã được Ngài nói trong bộ Phân Tích như sau: “suy tầm có liên hệ đến dục là tư duy sái quấy gọi là dục tầm.[34]” Ở chỗ khác cũng theo cách này. Đã được sanh khởi nghĩa là sanh rồi, đã xuất hiện. tức là chỉ trong chốc lát đã sanh khởi rồi. Hơn nữa vị tỳ khưu dứt bỏ các bất thiện tầm đã sanh cùng lúc trong vāra [chót] thứ 2 dù vị ấy không có trạng thái xả, vị ấy cũng dứt bỏ các bất thiện tầm đã sanh cả 7 lần cùng lúc. Các ác bất thiện pháp nghĩa là gọi là ác bởi ý nghĩa là tội lỗi thấp hèn, gọi là bất thiện với ý nghĩa hành động đã tạo do sự thiếu trí. Dhamme: chính là những suy tầm về bất thiện v.v, mà thôi, gồm tất cả 9 đại suy tầm [mahāvitakka]. Trong 9 đại suy tầm đó thì 3 suy tầm đã được trình bày. Sáu suy tầm còn lại gồm suy tầm về thân quyến, suy tầm về xứ sở, suy tầm về chư Thiên, suy tầm liên quan đến sự trắc ẩn đối với người khác, suy tầm liên quan đến lợi lộc sự trọng vọng sự nổi tiếng, và suy tầm liên quan đến việc không bị khi dễ.[35]

Yañhissāti etesu vitakkesu yaṃkiñci assa, sesaṃ vuttanayameva. Kāmavitakko panettha kāmāsavo eva. Tabbiseso bhavāsavo. Taṃsampayutto diṭṭhāsavo. Sabbavitakkesu avijjāsavoti evaṃ āsavuppattipi veditabbā.

Yañhissa nghĩa là lậu hoặc và sự nóng đốt do sự phẫn uất bực bội có thể sanh khởi cùng vị tỳ khưu loại trừ không được một trong bất cứ suy tầm nào trong số tất cả suy tầm đó. Từ còn lại có cách thức như đã đề cập. Dục lậu chính là dục tầm, lậu hoặc mà xa la đi ra từ dục tầm đó gọi là hữu lậu. Lậu hoặc tương ưng với hữu lậu đó gọi là tà kiến lậu. Không biết trong tất cả suy tầm gọi là vô minh lậu. Nên biết sự sanh khởi của các lậu hoặc này với cách thức đã được giảng giải.

Ime vuccanti…pe… vinodanā pahātabbāti ime kāmavitakkādivasena vuttappakārā āsavā iminā tasmiṃ tasmiṃ vitakke ādīnavapaccavekkhaṇasahitena vīriyasaṃvarasaṅkhātena vinodanena pahātabbāti vuccantīti veditabbā.

Này các tỳ khưu, đây được gọi là các lậu hoặc do dứt bỏ được đoạn trừ nghĩa là các lậu hoặc như đã trình bày với mãnh lực dục tầm v.v, này nên biết rằng Đức Thế Tôn thuyết rằng vị tỳ khưu diệt trừ bằng sự dứt bỏ, được xem là sự thu thúc do tinh tấn và đi cùng với sự quán xét tội lỗi trong suy tầm đó.

Giải thích các lậu hoặc cần được dứt bỏ do dứt bỏ kết thúc

 

Giải thích các lậu hoặc cần được dứt bỏ do tu tập

  1. Paṭisaṅkhā yoniso satisambojjhaṅgaṃ bhāvetīti abhāvanāya ādīnavaṃ, bhāvanāya ca ānisaṃsaṃ upāyena pathena paccavekkhitvā satisambojjhaṅgaṃ bhāveti, esa nayo sabbattha. Ettha ca kiñcāpi ime uparimaggattayasamayasambhūtā lokuttarabojjhaṅgā eva adhippetā, tathāpi ādikammikānaṃ bojjhaṅgesu asammohatthaṃ lokiyalokuttaramissakena nesaṃ nayena atthavaṇṇanaṃ karissāmi. Idha pana lokiyanayaṃ pahāya lokuttaranayo eva gahetabbo.

Tattha satisambojjhaṅgantiādinā nayena vuttānaṃ sattannaṃ ādipadānaṃyeva tāva –

Atthato lakkhaṇādīhi, kamato ca vinicchayo;

Anūnādhikato ceva, viññātabbo vibhāvinā.

  1. (Vị tỳ khưu) suy xét đúng đường lối, tu tập niệm giác chi nghĩa là vị tỳ khưu quán xét thấy lỗi lầm của việc không trau dồi và lợi ích của việc trau dồi đúng cách, đúng đường lối rồi phát triển niệm giác chi. Cách thức này áp dụng cho các đoạn kế tiếp. Tầm quan trọng của giác chi này, chỉ có giác chi siêu thế sanh khởi do chứng đắc 3 Đạo cao, đức Thế Tôn thật sự muốn lấy [ý nghĩa] ở đây, mặc dù vậy vì không lầm lẫn trong tất cả các giác chi của các tỳ khưu, vị thực hành sự tinh tấn lần đầu tiên, tôi sẽ giải thích theo cách của giác chi đó không lẫn lộn giữa phần Hiệp Thế và Siêu Thế. Hơn nữa, ở đây tôi đã loại bỏ cách thức thuộc Hiệp Thế, chỉ giữ lấy cách thức thuộc Siêu Thế. Trong các chi phần đưa đến giác ngộ thì cả bảy (chi phần đưa đến giác ngộ) đã được trình bày theo phương cách sau: niệm giác chi, v.v, trước –

Vị có sự rành rẽ (về bảy giác chi) nên hiểu biết dựa vào ý nghĩa, trạng thái, v.v, theo thứ tự và không hơn cũng không kém (bảy giác chi).

Tattha satisambojjhaṅge tāva saraṇaṭṭhena sati. Sā panesā upaṭṭhānalakkhaṇā, apilāpanalakkhaṇā vā. Vuttampi hetaṃ ‘‘yathā, mahārāja, rañño bhaṇḍāgāriko rañño sāpateyyaṃ apilāpeti, ettakaṃ, mahārāja, hiraññaṃ, ettakaṃ suvaṇṇaṃ, ettakaṃ sāpateyyanti, evameva kho, mahārāja , sati uppajjamānā kusalākusalasāvajjānavajjahīnapaṇītakaṇhasukkasappaṭibhāge dhamme apilāpeti. Ime cattāro satipaṭṭhānā’’ti (mi. pa. 2.1.13) vitthāro. Apilāpanarasā. Kiccavaseneva hissa etaṃ lakkhaṇaṃ therena vuttaṃ. Asammosarasā vā. Gocarābhimukhabhāvapaccupaṭṭhānā. Sati eva sambojjhaṅgo satisambojjhaṅgo. Tattha bodhiyā bodhissa vā aṅgoti bojjhaṅgo.

Trong 7 chi phần đưa đến giác ngộ đó cần lý giải niệm giác chi trước, gọi là niệm theo ý nghĩa là nhớ lại. Hơn nữa, niệm có sự ghi nhớ là trạng thái hoặc có sự không lơ đễnh là trạng thái. Quả thật như lời Ngài đã nói: “Tâu đại vương, giống như viên quan giữ kho của đức vua nhắc nhở cho đức vua về tài sản của đức vua rằng: ‘Tâu bệ hạ, bệ hạ có chừng này vàng khối, chừng này vàng ròng, chừng này tài sản như thế nào, tâu đại vương, niệm cũng tương tự y như thế, niệm trong khi được sanh lên thì không lẫn lộn trong các pháp là thiện, bất thiện, có tội, không có tội, hạ liệt, cao quý, đen, trắng và có phần đối nghịch. Có sự giảng rộng ‘Đây là bốn sự thiết lập niệm.’”[36] Không nổi lên là phận sự. Trạng thái của niệm đã được trưởng lão nói bằng chính sức mạnh của phận sự. hoặc không nhầm lẫn là phận sự. Có tính chất hướng đến đối tượng là biểu hiện. Các chi phần đưa đến giác ngộ chính là niệm được gọi là niệm giác chi. Trong câu đó, giác chi là chi phần đến đến giác ngộ hoặc pháp giác ngộ.

Kiṃ vuttaṃ hoti? Yā hi ayaṃ dhammasāmaggī, yāya lokiyalokuttaramaggakkhaṇe uppajjamānāya līnuddhaccapatiṭṭhānāyūhana- kāmasukhattakilamathānuyoga- ucchedasassatābhinivesādīnaṃ anekesaṃ upaddavānaṃ paṭipakkhabhūtāya satidhammavicayavīriyapītipassaddhisamādhiupekkhāsaṅkhātāya dhammasāmaggiyā ariyasāvako bujjhatīti katvā ‘‘bodhī’’ti vuccati. Bujjhatīti kilesasantānaniddāya uṭṭhahati, cattāri vā ariyasaccāni paṭivijjhati, nibbānameva vā sacchikarotīti vuttaṃ hoti. Yathāha ‘‘satta bojjhaṅge bhāvetvā anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’’ti. Tassā dhammasāmaggisaṅkhātāya bodhiyā aṅgotipi bojjhaṅgo, jhānaṅgamaggaṅgādayo viya.

Ngài đã nói thế nào? Sự hợp nhất của pháp là niệm (giác chi), trạch pháp (giác chi) tinh tấn (giác chi), hỷ (giác chi), khinh an (giác chi), định (giác chi), và xả (giác chi) là pháp đối nghịch với rất nhiều sự nguy khốn như sự lui sụt, phóng dật, sự dừng lại, sự tích trữ, sự gắn bó với việc say đắm về dục lạc, sự gắn bó với việc hành hạ bản thân, chấp vào sự đoạn diệt và sự thường hằng để sanh khởi trong sát-na đạo cả hiệp thế lẫn siêu thế làm nhân (đưa đến) giác ngộ của chư Thánh đệ tử được ngài gọi là ‘sự giác ngộ’ vì đã được thực hiện như đã nói trên. Làm thức tỉnh: nghĩa là được tỉnh thức khỏi giấc ngủ do tác động của phiền não ngủ ngầm, tức là thấu triệt Bốn Chân Lý của bậc Thánh, hoặc tự mình chứng ngộ Niết Bàn. Như ngài đã nói: “Đã hoàn toàn giác ngộ vô thượng Chánh đẳng Chánh giác sau khi phát triển thất giác chi”. Chi phần đưa đến giác ngộ vì là yếu tố của sự giác ngộ được xem là sự hợp nhất của pháp tương tự như chi thiền và chi đạo v.v.

Yopesa yathāvuttappakārāya etāya dhammasāmaggiyā bujjhatīti katvā ariyasāvako ‘‘bodhī’’ti vuccati, tassa bodhissa aṅgotipi bojjhaṅgo, senaṅgarathaṅgādayo viya. Tenāhu aṭṭhakathācariyā ‘‘bujjhanakassa puggalassa aṅgāti vā bojjhaṅgā’’ti. Apica ‘‘bojjhaṅgāti kenaṭṭhena bojjhaṅgā? Bodhāya saṃvattantīti bojjhaṅgā, bujjhantīti bojjhaṅgā, anubujjhantīti bojjhaṅgā, paṭibujjhantīti bojjhaṅgā, sambujjhantīti bojjhaṅgā’’tiādinā (paṭi. ma. 3.17) paṭisambhidānayenāpi attho veditabbo. Pasattho sundaro vā bojjhaṅgoti sambojjhaṅgo. Evaṃ sati eva sambojjhaṅgo satisambojjhaṅgo. Taṃ satisambojjhaṅgaṃ. Evaṃ tāva ekassa ādipadassa atthato lakkhaṇādīhi ca vinicchayo viññātabbo.

Vị Thánh đệ tử nào giác ngộ nhờ vào sự hợp nhất của pháp này theo cách thức đã được trình bày, vì giải thích như thế nên vị Thánh đệ tử được gọi là  “vị giác ngộ”, chi phần đưa đến giác ngộ vì là yếu tố hợp thành của sự giác ngộ của vị ấy, tương tự như các yếu tố hợp thành của quân lính và các yếu tố cấu thành của một cỗ xe. Bởi vậy, các nhà chú giải đã nói rằng: “gọi là chi phần đưa đến giác ngộ bởi yếu tố hợp thành của vị giác ngộ”, và một ý nghĩa khác có thể được hiểu theo cách thức ở Bộ Phân Tích Đạo v.v, “Chi phấn đưa đến giác ngộ này được gọi là các giác chi với ý nghĩa thế nào? “gọi là các giác chi bởi ý nghĩa vận hành đưa đến sự giác ngộ. các giác chi theo ý nghĩa được giác ngộ [Sơ Đạo]. Các giác chi bởi ý nghĩa được giác ngộ theo [Nhị Đạo]. Các giác chi bởi ý nghĩa được giác ngộ đặc biệt [Tam Đạo]. các giác chi bởi ý nghĩa biết trọn vẹn [Tứ Đạo].[37]” Như vậy, nên biết phân biệt theo ý nghĩa và với trạng thái v.v, của giác chi đầu tiên, giác chi tối thượng là chân chính được gọi là giác chi, do vậy giác chi của niệm gọi niệm giác chi.

Dutiyādīsu pana catusaccadhamme vicinātīti dhammavicayo. So pana vicayalakkhaṇo, obhāsanaraso, asammohapaccupaṭṭhāno. Vīrabhāvato vidhinā īrayitabbato ca vīriyaṃ. Taṃ paggahalakkhaṇaṃ, upatthambhanarasaṃ, anosīdanapaccupaṭṭhānaṃ. Pīṇayatīti pīti. Sā pharaṇalakkhaṇā, tuṭṭhilakkhaṇā vā, kāyacittānaṃ pīṇanarasā, tesaṃyeva odagyapaccupaṭṭhānā. Kāyacittadarathapassambhanato passaddhi. Sā upasamalakkhaṇā, kāyacittadarathanimmaddanarasā, āyacittānaṃ aparipphandanabhūtasītibhāvapaccupaṭṭhānā. Samādhānato samādhi. So avikkhepalakkhaṇo, avisāralakkhaṇo vā, cittacetasikānaṃ sampiṇḍanaraso, cittaṭṭhitipaccupaṭṭhāno. Ajjhupekkhanato upekkhā. Sā paṭisaṅkhānalakkhaṇā, samavāhitalakkhaṇā vā, ūnādhikatānivāraṇarasā, pakkhapātupacchedarasā vā, majjhattabhāvapaccupaṭṭhānā. Sesaṃ vuttanayameva. Evaṃ sesapadānampi atthato lakkhaṇādīhi ca vinicchayo viññātabbo.

Nên biết phân biệt giác chi thứ 2 v.v, như sau: trạch pháp với ý nghĩa cân nhắc cả Bốn Pháp Chân Lý. Trạch pháp đó có sự cân nhắc là trạng thái, có sự chói sáng là phận sự, có sự không lẫn lộn là hiện bày. Tinh tấn có tính chất dõng mãnh và để cho pháp diễn tiến đúng lộ trình. Tinh tấn đó có sự cố gắng nỗ lực là trạng thái, có sự trợ giúp là phận sự, có sự không nản lòng là hiện bày. Hỷ bởi vì làm vui mừng, làm sung sướng. hỷ đó có sự trải khắp ra là trạng thái, hoặc có sự hân hoan là trạng thái. Có sự sự vui mừng no nê của thân và tâm là phận sự; có sự phấn khởi, háo hức là hiện bày. Khinh an bởi vắng lặng mọi lo âu lộ thân và lộ tâm. khinh an đó có sự trở lại sự yên tĩnh vì lo âu là trạng thái. áp chế sự lo âu lộ thân và lộ tâm là phận sự. có sự mát mẻ khởi lên từ sự không tranh đấu của thân và tâm là hiện bày. Định bởi an trú vững chắc [trên một đối tượng]. Định đó có sự không phóng dật là trạng thái, hoặc không tán loạn nơi đối tượng là trạng thái. Có sự kết hợp tâm và tâm sở là phận sự. có sự an trú vững chắc của tâm là hiện bày. Xả bởi sự buông xả. xả đó có sự quán tưởng là trạng thái, hoặc đưa đến sự quân bình là trạng thái. Có sự kiềm chế sự thái quá hoặc buông thả của tâm, hoặc có một sự cắt đứt sự thiện vị hay nghiêng về một bên là phận sự. đặt mình trung lập là hiện bày. Từ còn lại theo cách thức đã được trình bày. Nên biết phân biệt cả những câu còn lại với ý nghĩa và với trạng thái v.v, như vậy.

Kamatoti ettha ca ‘‘satiñca khvāhaṃ, bhikkhave, sabbatthikaṃ vadāmī’’ti (saṃ. ni. 5.234) vacanato sabbesaṃ sesabojjhaṅgānaṃ upakārakattā satisambojjhaṅgova paṭhamaṃ vutto. Tato paraṃ ‘‘so tathā sato viharanto taṃ dhammaṃ paññāya pavicinatī’’tiādinā (vibha. 469) nayena sesabojjhaṅgānaṃ pubbāpariyavacane payojanaṃ sutteyeva vuttaṃ. Evamettha kamatopi vinicchayo viññātabbo.

Kamato này nên biết phân biệt như sau: niệm giác chi đã được Đức Thế Tôn thuyết trước trợ giúp cho các giác chỉ còn lại bởi Pālī trình bày rằng: “này chư tỳ khưu Như Lai nói rằng niệm đem lại nhiều lợi ích cho tất cả các Pháp.[38]”  Trước đó lợi ích trong việc nói các giác chỉ còn lại đặt trước đặt sau đã được trình bày trong chính bài Kinh theo phương thức v.v, như sau: “ông có niệm như vậy, cân nhắc pháp bằng tuệ.[39]” Ở đây nên biết phân biệt theo thứ tự như đã nói ở trên.

Anūnādhikatoti kasmā pana bhagavatā satteva bojjhaṅgā vuttā anūnā anadhikāti. Līnuddhaccapaṭipakkhato sabbatthikato ca. Ettha hi tayo bojjhaṅgā līnassa paṭipakkhā. Yathāha – ‘‘yasmiñca kho, bhikkhave, samaye līnaṃ cittaṃ hoti, kālo tasmiṃ samaye dhammavicayasambojjhaṅgassa bhāvanāya, kālo vīriyasambojjhaṅgassa bhāvanāya, kālo pītisambojjhaṅgassa bhāvanāyā’’ti (saṃ. ni. 5.234). Tayo uddhaccassa paṭipakkhā. Yathāha – ‘‘yasmiñca kho, bhikkhave, samaye uddhataṃ cittaṃ hoti, kālo tasmiṃ samaye passaddhisambojjhaṅgassa bhāvanāya, kālo samādhisambojjhaṅgassa bhāvanāya, kālo upekkhāsambojjhaṅgassa bhāvanāyā’’ti (saṃ. ni. 5.234). Eko panettha sabbatthiko. Yathāha – ‘‘satiñca khvāhaṃ, bhikkhave, sabbatthikaṃ vadāmī’’ti. ‘‘Sabbatthaka’’ntipi pāṭho, dvinnampi sabbattha icchitabbanti attho. Evaṃ līnuddhaccapaṭipakkhato sabbatthikato ca satteva bojjhaṅgā vuttā anūnā anadhikāti, evamettha anūnādhikatopi vinicchayo viññātabbo.

Anūnādhikato [không hơn không kém 7 giác chi] tại sao Đức Thế Tôn thuyết chỉ có 7 giác chi không hơn không kém? Vì là pháp đối nghịch lại sự lui sụt, sự phóng dật và vì lợi ích của các giác chi. bởi vì ở đây 3 giác chi là pháp đối nghịch với sự lui sụt, giống như Thế Tôn đã nói: “Này chư tỳ khưu lúc nào tâm lui sụt [thụ động, līna], lúc đó là thời gian thích hợp để phát triển trạch pháp giác chi, thích hợp để phát triển tinh tấn giác chi, thích hợp để phát triển hỉ giác chi.[40]” Ba giác chi là pháp đối nghịch với sự phóng dật như Thế Tôn đã nói: “lúc nào tâm phóng dật, lúc đó là thời điểm phù hợp để phát triển khinh an giác chi, phù hợp để phát triển định giác chi, phù hợp để phát triển xả giác chi.[41]” Trong số các giác chi này niệm giác chi đứng đầu làm cho thành tựu lợi ích cùng tất cả giác chi, giống như Đức Thế Tôn đã nói: “này chư tỳ khưu, Ta nói đem lại lợi ích cùng tất cả các giác chi.” Pālī nói ràng ‘sabbatthakaṃ (tất cả)’ cũng có. Cả 2 từ đó có ý nghĩa (giống nhau) cần được mong muốn trong tất cả các giác chi. Nên biết phân biệt trong giác chi này không ít hơn hay nhiều hơn như thế Đức Thế Tôn chỉ thuyết bảy giác chi mà thôi không hơn không kém bởi vì 3 pháp đối nghịch với sự lui sụt, 3 pháp đối nghịch với phóng dật, và vì niệm mang lại lợi ích cùng tất cả giác chi.”

Evaṃ tāva ‘‘satisambojjhaṅga’’ntiādinā nayena vuttānaṃ sattannaṃ ādipadānaṃyeva atthavaṇṇanaṃ ñatvā idāni bhāveti vivekanissitantiādīsu evaṃ ñātabbā. Bhāvetīti vaḍḍheti, attano cittasantāne punappunaṃ janeti abhinibbattetīti attho. Vivekanissitanti viveke nissitaṃ. Vivekoti vivittatā. Svāyaṃ tadaṅgaviveko vikkhambhanasamucchedapaṭippassaddhi nissaraṇavivekoti pañcavidho. Tassa nānattaṃ ‘‘ariyadhamme avinīto’’ti ettha vuttanayeneva veditabbaṃ. Ayameva hi tattha vinayoti vutto. Evaṃ etasmiṃ pañcavidhe viveke.

Bậc trí khi biết ý nghĩa giải thích của tất cả 7 giác chi đã được nói theo cách sau: “niệm giác chi.” Bây giờ nên biết ý nghĩa giải thích như vầy trong câu sau: “tu tập … được nương tựa vào sự tách ly”. Tu tập nghĩa là được phát triển, tức là làm phát sanh, làm sanh ra thường xuyên trong tâm tánh của chính mình. Từ được nương tựa vào sự tách ly nghĩa là nương vào sự viễn ly. Sự yên tĩnh gọi là sự tách ly. Có 5 sự tách ly là sự tách ly do thay thế, sự tách ly chế ngự, sự tách ly do đoạn trừ, sự tách ly do tĩnh lặng , và sự tách ly do xuất ly. Sự khác biệt của các sự tách ly đó nên biết theo cách thức mà ngài đã nói trong câu “không được huấn luyện về pháp của bậc Thánh”. Thật vậy, chính điều này được nói là “vinayo” trong câu “không được huấn luyện về pháp của bậc Thánh” đó. Trong 5 sự tách ly như đã trình bày nên biết như vầy rằng –

Vivekanissitanti tadaṅgavivekanissitaṃ samucchedavivekanissitaṃ nissaraṇavivekanissitañca satisambojjhaṅgaṃ bhāvetīti ayamattho veditabbo. Tathā hi ayaṃ bojjhaṅgabhāvanānuyutto yogī vipassanākkhaṇe kiccato tadaṅgavivekanissitaṃ, ajjhāsayato nissaraṇavivekanissitaṃ, maggakāle pana kiccato samucchedavivekanissitaṃ, ārammaṇato nissaraṇavivekanissitaṃ satisambojjhaṅgaṃ bhāveti. Pañcavidhavivekanissitantipi eke, te hi na kevalaṃ balavavipassanāmaggaphalakkhaṇesu eva bojjhaṅge uddharanti, vipassanāpādakakasiṇajjhānaānāpānāsubhabrahmavihārajjhānesupi uddharanti. Na ca paṭisiddhā aṭṭhakathācariyehi. Tasmā tesaṃ matena etesaṃ jhānānaṃ pavattikkhaṇe kiccato eva vikkhambhanavivekanissitaṃ. Yathā ca ‘‘vipassanākkhaṇe ajjhāsayato nissaraṇavivekanissita’’nti vuttaṃ, evaṃ paṭippassaddhivivekanissitampi bhāvetīti vattuṃ vaṭṭati. Esa nayo virāganissitādīsu. Vivekaṭṭhā eva hi virāgādayo.

Được nương vào sự tách ly nghĩa là phát triển niệm giác chi được nương vào sự tách ly do thay thế, nương vào sự tách ly do đoạn trừ và nương vào sự tách ly do xuất ly. Bởi vì hành giả theo sự phối hợp phát triển giác chi này ở sát-na của thiền tuệ được phát triển niệm giác chi để nương vào sự tách ly do thay thế bằng phận sự, nương vào sự tách ly do xuất ly theo khuynh hướng, nhưng trong thời Đạo được phát triển niệm giác chi được nương vào sự tách ly do đoạn trừ bằng phận sự và nương vào sự tách ly do xuất ly theo đối tượng. Một số vị thầy nói rằng nương vào cả 5 sự tách ly, bởi vì các vị đó không nâng giác chi lên riêng biệt ở sát-na của thiền tuệ có sức mạnh và chỉ duy nhất ở sát na của Đạo và Quả mà thôi, nhưng trong kasiṇajhāna (thiền tu theo đề mục hoàn tịnh, thiền sắc giới), anāpāna-sati (quán niệm hơi thở) và brahmavihārajjhāna (thiền phạm trú) là trọng yếu của minh sát cũng nâng lên, và các nhà chú giải cũng không phản đối. Cho nên theo quan điểm của các vị thầy cần phải nói rằng hành giả được phát triển niệm giác chi được nương vào duy nhất sự tách ly do chế ngự bằng phận sự ở sát-na vận hạnh của thiền đó. và Ngài nói rằng ở sát-na của minh sát hành giả tu tập niệm giác chi được nương vào sự tách ly do xuất ly theo khuynh hướng thế nào, hành giả tu tập niệm giác chi được nương vào sự viễn ly do tĩnh lặng cũng như thế. Trong niệm giác chi được nương vào sự ly ái v.v, cũng cách này. Thực vậy pháp có ly ái v.v, tất cả đều có sự tách ly là ý nghĩa.

Kevalañhettha vossaggo duvidho pariccāgavossaggo ca pakkhandanavossaggo cāti. Tattha pariccāgavossaggoti vipassanākkhaṇe ca tadaṅgavasena, maggakkhaṇe ca samucchedavasena kilesappahānaṃ. Pakkhandanavossaggoti vipassanākkhaṇe tanninnabhāvena, maggakkhaṇe pana ārammaṇakaraṇena nibbānapakkhandanaṃ. Tadubhayampi imasmiṃ lokiyalokuttaramissake atthavaṇṇanānaye vaṭṭati. Tathā hi ayaṃ satisambojjhaṅgo yathāvuttena pakārena kilese pariccajati, nibbānañca pakkhandati. Vossaggapariṇāminti iminā pana sakalena vacanena vossaggattaṃ pariṇamantaṃ pariṇatañca paripaccantaṃ paripakkañcāti. Idaṃ vuttaṃ hoti ‘‘ayañhi bojjhaṅgabhāvanānuyutto bhikkhu yathā satisambojjhaṅgo kilesapariccāgavossaggattaṃ nibbānapakkhandanavossaggattañca paripaccati, yathā ca paripakko hoti, tathā naṃ bhāvetī’’ti. Esa nayo sesabojjhaṅgesu.

Ở đây, chỉ riêng sự xả ly có hai: sự xả ly do buông bỏ và sự xả ly do tiến vào. Cả 2 sự xả ly ấy, sự xả ly do buông bỏ là sự dứt bỏ phiền não do tác động của sự từ bỏ do thay thế ở sát-na minh sát và với sự từ bỏ nhờ đoạn trừ ở sát-na của Đạo. Sự xả ly do tiến vào là việc tiến vào Niết-bàn với việc nghiêng về phía Niết-bàn ở sát-na minh sát, thêm nữa, biến Niết Bàn trở thành đối tượng ở sát-na của Đạo. Thậm chí cả hai sự xả ly ấy phù hợp với cách thức của chú giải hợp với cả Hiệp Thế và Siêu Thế. Thật vậy niệm giấc chi này dứt bỏ được phiền não và tiến vào Niết-bàn theo cách đã nói. Hơn nữa, có sự thiên hẳn về buông bỏ này Ngài đã giải thích như sau đang hướng đến và đã hướng đến, đang chín mùi và đã chín mùi để dứt bỏ. Tỳ khưu thường liên hệ để tu tập giác chi, trong khi tu tập niệm giác chi đó theo niệm giác chi đang chín mùi hoặc đã chín mùi, để dứt bỏ bằng cách dứt bỏ phiền não và để dứt bỏ bằng cách tiến vào. Các giác chi còn lại có cách thức tương tự.

Idha pana nibbānaṃyeva sabbasaṅkhatehi vivittattā viveko, sabbesaṃ virāgabhāvato virāgo, nirodhabhāvato nirodhoti vuttaṃ. Maggo eva ca vossaggapariṇāmī, tasmā satisambojjhaṅgaṃ bhāveti vivekaṃ ārammaṇaṃ katvā pavattiyā vivekanissitaṃ. Tathā virāganissitaṃ nirodhanissitaṃ. Tañca kho ariyamaggakkhaṇuppattiyā kilesānaṃ samucchedato pariccāgabhāvena ca nibbānapakkhandanabhāvena ca pariṇataṃ paripakkanti ayameva attho daṭṭhabbo. Esa nayo sesabojjhaṅgesu.

Ở đây, chính Niết Bàn đã được ngài nói rằng: sự tách ly do vắng lặng từ các pháp hữu vi, ly ái do tính chất sự xa lìa luyến ái, và sự diệt tận do tính chất sự diệt tắt của các pháp hữu vi. Đạo đó có sự thiên hẳn về buông bỏ, do đó hành giả tu tập niệm giác chi được nương vào sự tách ly do thực hành sự tách ly tạo thành cảnh rồi vận hành. Hành giả tu tập niệm giác chi nương vào sự diệt tận cũng như thế. Hành giả tu tập niệm giác chi đã chín mùi là hoàn toàn chín mùi theo tính chất sự dứt bỏ và tính chất tiến vào Niết-bàn bằng việc nhổ bỏ hoàn toàn phiền não do sanh khởi ở sát-na của Thánh Đạo đó. Cần phải thấy ý nghĩa như đã trình bày. Các giác chi còn lại đều áp dụng theo cách này.

Yañhissāti etesu bojjhaṅgesu yaṃkiñci assa. Sesaṃ vuttanayameva. Āsavuppattiyaṃ panettha imesaṃ uparimaggattayasampayuttānaṃ bojjhaṅgānaṃ abhāvitattā ye uppajjeyyuṃ kāmāsavo bhavāsavo avijjāsavoti tayo āsavā, bhāvayato evaṃsa te āsavā na hontīti ayaṃ nayo veditabbo.

Yañhissa nghĩa là các lậu hoặc và sự nóng đốt tạo ra các sự bất mãn, có cùng vị tỳ khưu không phát triển một trong bất kỳ giác chi nào cả. Từ còn lại có cách như đã nói. Trong việc khởi sanh của các lậu hoặc nên biết cách này, cả 3 lậu hoặc là dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu nào sanh khởi bởi vì vị tỳ khưu không được rèn luyện giác chi tương ưng với Đạo cao, các lậu hoặc đó, các lậu hoặc đó không có cùng vị tỳ khưu phát triển giác chi đó.

Ime vuccanti…pe… bhāvanā pahātabbāti ime tayo āsavā imāya maggattayasampayuttāya bojjhaṅgabhāvanāya pahātabbāti vuccantīti veditabbā.

Này các tỳ khưu, đây được gọi là các lậu hoặc cần được dứt bỏ do tu tập nghĩa là ba lậu hoặc này nên biết rằng Thế Tôn thuyết rằng vị tỳ khưu cần phải từ bỏ bằng việc phát triển giác chi tương ưng với 3 Đạo này.

  1. 28. Idāni imehi sattahākārehi pahīnāsavaṃ bhikkhuṃ thomento āsavappahāne cassa ānisaṃsaṃ dassento eteheva ca kāraṇehi āsavappahāne sattānaṃ ussukkaṃ janento yato kho, bhikkhave…pe… antamakāsi dukkhassāti āha. Tattha yato khoti sāmivacane tokāro, yassa khoti vuttaṃ hoti. Porāṇā pana yasmiṃ kāleti vaṇṇayanti. Ye āsavā dassanā pahātabbāti ye āsavā dassanena pahātabbā, te dassaneneva pahīnā honti, na appahīnesuyeva pahīnasaññī hoti. Evaṃ sabbattha vitthāro.

[28] Bây giờ, đức Thế Tôn thuyết để tán dương vị tỳ khưu đã dứt bỏ được các lậu với 7 giác chi này và khi thuyết giảng lợi ích sự dứt bỏ các lậu hoặc của các vị ấy, và làm sanh khởi sự tinh tấn đối với chúng sanh bằng sự dứt bỏ các lậu hoặc với chính nguyên nhân ấy nên ngài đã nói rằng “này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu nào -nt- đã thực hiện việc chấm dứt khổ”. Ở câu đó từ ‘to’ trong ‘yato kho’ sử dụng theo sở thuộc cách ý nghĩa bằng yassa kho (của thời nào). Còn các vị trưởng thượng giải thích rằng ngang bằng với yamhi kāle (trong thời nào). Các lậu hoặc cần được dứt bỏ do thấy  nghĩa là những lậu hoặc nào mà vị tỳ khưu cần được dứt bỏ do thấy, các lậu hoặc đó đã được vị tỳ khưu đó dứt bỏ bằng chính sự thấy (Đạo Nhập Lưu), và vị ấy nhận thức được rằng: các lậu hoặc chưa được dứt bỏ đã được dứt bỏ. Tất cả các câu đều giải thích như vậy.

Sabbāsavasaṃvarasaṃvutoti sabbehi āsavapidhānehi pihito, sabbesaṃ vā āsavānaṃ pidhānehi pihito. Acchecchitaṇhanti sabbampi taṇhaṃ chindi, saṃchindi samucchindi. Vivattayi saṃyojananti dasavidhampi saṃyojanaṃ parivattayi nimmalamakāsi. Sammāti hetunā kāraṇena. Mānābhisamayāti mānassa dassanābhisamayā pahānābhisamayā ca. Arahattamaggo hi kiccavasena mānaṃ passati, ayamassa dassanābhisamayo. Tena diṭṭho pana so tāvadeva pahīyati diṭṭhavisena diṭṭhasattānaṃ jīvitaṃ viya. Ayamassa pahānābhisamayo.

Vị tỳ-khưu sống, đã được thu thúc với sự thu thúc tất cả lậu hoặc nghĩa là vị đã đóng lại với việc đóng kín tất cả lậu hoặc, hoặc vị đã đóng lại bằng vật che đậy tất cả lậu hoặc. Đã cắt đứt tham ái nghĩa là đã cắt đứt hoặc đã nhổ tận gốc mọi tham ái. Đã cởi bỏ sự trói buộc nghĩa là xoay tròn cả 10 sự trói buộc, là tẩy trừ sạch mọi nhiễm ô. Đúng đắn: bởi nhân, bởi lý do. Nhờ vào sự lãnh hội nghĩa là đã chứng đắc do thấy và chứng đắc do sự dứt bỏ ngã mạn. Quả thật A-ra-hán đạo thấy rõ ngã mạn về phương diện phận sự. Đây là việc chứng đắc với sở kiến của vị tỳ khưu đó. Cũng A-ra-hán đạo mà vị tỳ khưu nhìn thấy do thấy, khi vị ấy đã dứt bỏ ở chính sát-na ấy, tương tự như cứu mạng một người bị rắn độc cắn, đây là việc chứng đắc bằng sự dứt bỏ của vị tỳ khưu đó.

Antamakāsi dukkhassāti evaṃ arahattamaggena sammā mānassa diṭṭhattā pahīnattā ca ye ime ‘‘kāyabandhanassa anto jīrati (cūḷava. 278). Haritantaṃ vā’’ti (ma. ni. 1.304) evaṃ vuttaantimamariyādanto ca, ‘‘antamidaṃ, bhikkhave, jīvikāna’’nti (itivu. 91; saṃ. ni. 3.80) evaṃ vuttalāmakanto ca, ‘‘sakkāyo eko anto’’ti (a. ni. 6.61) evaṃ vuttakoṭṭhāsanto ca, ‘‘esevanto dukkhassa sabbapaccayasaṅkhayā’’ti (saṃ. ni. 2.51) evaṃ vuttakoṭanto cāti evaṃ cattāro antā, tesu sabbasseva vaṭṭadukkhassa antaṃ catutthakoṭisaṅkhātaṃ antimakoṭisaṅkhātaṃ antamakāsi paricchedaṃ parivaṭumaṃ akāsi. Antimasamussayamattāvasesaṃ dukkhaṃ akāsīti vuttaṃ hoti.

Đã thực hiện việc chấm dứt khổ nghĩa là 4 thái cực, là điểm kết thúc, là ranh giới cuối cùng mà đức Thế Tôn thuyết rằng “các mép dây thắt lưng đã cũ.[42]”, hoặc “đầu ngọn cỏ đã héo.[43]” và tận cùng sự thấp hèn mà Đức Thế Tôn thuyết rằng: “này các tỳ khưu, đây là nghề tận cùng trong các nghề nuôi mạng.[44]” và tận cùng mà Đức Thế Tôn thuyết như vầy: “thân kiến cũng là một thái cực.[45]” và tận cùng của việc đếm mà Đức Thế Tôn thuyết như vầy: “tận cùng của khổ do tính toán ở mọi phương tiện.[46]” Trong số 4 thái cực đó vị tỳ khưu nào thực hành thái cực thứ 4 trong vòng luân hồi khổ vì tính chất của sự ngã mạn mà tự mình thấy và đoạn trừ được bằng A-ra-hán đạo như vậy.

Attamanā te bhikkhūti sakamanā tuṭṭhamanā, pītisomanassehi vā sampayuttamanā hutvā. Bhagavato bhāsitaṃ abhinandunti idaṃ dukkhassa antakiriyāpariyosānaṃ bhagavato bhāsitaṃ sukathitaṃ sulapitaṃ, evametaṃ bhagavā evametaṃ sugatāti matthakena sampaṭicchantā abbhanumodiṃsūti.

Được hoan hỷ, các vị tỳ khưu ấy nghĩa là các tỳ khưu đó có tâm phấn chấn, hoan hỷ hoặc là người có tâm tương ưng với hỷ và sự an vui. Đã tán thành lời dạy của đức Thế Tôn nghĩa là chư tỳ khưu cung kính tín thọ, tán dương lời dạy của Thế Tôn là đức Thế Tôn khéo thuyết là những điều đã khéo tuyên thuyết, thực hành đến tận cùng chấm dứt mọi khổ đau đức Thế Tôn nói lời này như thế này, Thiện Thệ đã nói điều như thế.

Sesamettha yaṃ na vuttaṃ, taṃ pubbe vuttattā ca suviññeyyattā ca na vuttaṃ. Tasmā sabbaṃ vuttānusārena anupadaso paccavekkhitabbaṃ.

Những từ còn lại nào mà tôi không nói ở đây, tôi không nói lặp lại lời ấy bởi vì đã nói trước đó rồi và vì chúng dễ hiểu, cho nên học giả cần suy xét các từ đó theo thứ tự các câu theo cách thức tương tự đã trình bày.

Giải thích các lậu hoặc cần được dứt bỏ do tu tập được kết thúc

Bộ Papañjasūdanī, Chú Giải của Trung Bộ,

Giải thích kinh tất cả lậu hoặc được kết thúc.

[1] Các bản chú giải giải thích về Kākanda như một nhà hiền triết thời xưa và đề cập đến ông cùng với Đạo sĩ Savattha và Kusumba. Nơi cư trú của ông sau này được gọi là Kākandī. Sn-A.i.300; cp. kha. 110; uda. 55.

[2] Koṭi = 10 triệu

[3] Ākāsaloka: chỉ cho những khoảng trống, đồng thời chỉ cho “cảnh giới tái sinh”.

[4] Bhavaggabrahma còn được gọi là nevasannanasannayatanabhumi [phi tưởng phi phi tưởng xứ]

[5] a. ni. 10.61

[6] dī. ni. 3.182

[7] a. ni. 4.36

[8] pārā. 39

[9] a. ni. 6.63

[10] a. ni. 6.63

[11] pārā. 77

[12] su. ni. 1041

[13] dī. ni. 1.213

[14] ma. ni. 1.24-26

[15] ma. ni. 1.25

[16] ma. ni. 1.22

[17] ma. ni. 1.438

[18] itivu. 62

[19] ma. ni. 1.438

[20] dha. pa. 253

[21] saṃ. ni. 5.55

[22] mahāva. 1

[23] itivu. 90

[24] ma. ni. 1.402

[25] udā. 76

[26] Vô nguyện giải thoát (Appaṇihitavimokkha) là sự giải thoát do nương đề mục quán về khổ não bởi thấy danh sắc phiền lụy bức xúc nên đoạn trừ khát ái, chứng ngộ Niết Bàn.

[27] Vô tướng giải thoát (Animittavimokkha) là sự giải thoát do nương đề mục quán về vô thường bởi thấy danh sắc biến diệt nên đoạn trừ điên đảo thường kiến, chứng ngộ Niết-bàn.

[28] Không tánh giải thoát (Suññatavimokkha) là sự giải thoát do nương đề mục quán về vô ngã bởi thấy danh sắc qua hiện trạng vô ngã mà đoạn trừ ngã chấp thủ, chứng ngộ Niết-bàn.

[29] ma. ni. 2.168

[30] ma. ni. 1.20

[31] dha. sa. 1313

[32] saṃ. ni. 2.128

[33] saṃ. ni. 4.235

[34] vibha. 910

[35] mahāni. 207

[36] mi. pa. 2.1.13

[37] paṭi. ma. 3.17

[38] saṃ. ni. 5.234

[39] vibha. 469

[40] saṃ. ni. 5.234

[41] saṃ. ni. 5.234

[42] cūḷava. 278

[43] ma. ni. 1.304

[44] itivu. 91; saṃ. ni. 3.80

[45] a. ni. 6.61

[46] saṃ. ni. 2.51