Kinh số 145 – Giải Thích Kinh Giáo Giới Puṇṇa
(Puṇṇovādasuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Giáo Giới Puṇṇa
395. Evaṃ me sutanti Puṇṇovādasuttaṃ. Tattha paṭisallānāti ekībhāvā. Taṃ ceti taṃ cakkhuñceva rūpañca. Nandīsamudayā dukkhasamudayoti nandiyā taṇhāya samodhānena pañcakkhandhadukkhassa samodhānaṃ hoti. Iti chasu dvāresu dukkhaṃ samudayoti dvinnaṃ saccānaṃ vasena vaṭṭaṃ matthakaṃ pāpetvā dassesi. dutiyanaye nirodho maggoti dvinnaṃ saccānaṃ vasena vivaṭṭaṃ matthakaṃ pāpetvā dassesi. Iminā ca tvaṃ puṇṇāti pāṭiyekko anusandhi. Evaṃ tāva vaṭṭavivaṭṭavasena desanaṃ arahatte pakkhipitvā idāni puṇṇattheraṃ sattasu ṭhānesu sīhanādaṃ nadāpetuṃ iminā ca tvantiādimāha.
395. Kinh Giáo Giới Puṇṇa được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, từ chỗ thiện tịnh: trạng thái độc cư. Nếu vị ấy: mắt và sắc ấy. Do sự vui thích sanh khởi, (nên) khổ đau mới sanh khởi: Có sự liên kết với khổ trong năm uẩn, do sự liên kết nhờ sự vui mừng, là tham ái. Đức Thế Tôn thuyết giảng đến tận cùng của vòng luân hồi với mãnh lực của 2 Chân lý là Chân lý về khổ và Chân lý về nhân sanh khổ trong 6 Môn là như thế. Trong cách thức thứ 2 ngài thuyết đến tận cùng của vòng luân hồi với mãnh lực của 2 Chân lý là Chân lý về sự diệt tận khổ và Chân lý về con đường đưa đến sự diệt tận khổ. Này Puṇṇa, ông sẽ …này: là sự liên kết để tách từng phần ra. Khi kết hợp để thuyết giảng do mãnh lực vaṭṭa và vivaṭṭa đối với bậc Thánh A-ra-hán như vậy trước, bây giờ để cho ngài Puṇṇa rống tiếng rống con sư tử ở cả bảy trường hợp mới thuyết lời như sau: Này Puṇṇa…ta giáo giới với lời giáo giới vắn tắt v.v.
396. Caṇḍāti duṭṭhā kibbisā. Pharusāti kakkhaḷā. Akkosissantīti dasahi akkosavatthūhi akkosissanti. Paribhāsissantīti kiṃ samaṇo nāma tvaṃ, idañca idañca te karissāmāti tajjessanti. Evametthāti evaṃ mayhaṃ ettha bhavissati.
396. Hung bạo: xấu xa, hành vi sái quấy. Thô ác: thô bạo. Mắng nhiếc: mắng nhiếc với mười căn nguyên của sự chửi rủa – akkosavatthu. Sẽ chửi mắng: đe dọa và quát mắng rằng – Làm sao kẻ này có thể làm Sa-môn? tôi sẽ hăm dọa kẻ ấy như thế này như thế kia. Như vậy trong trường hợp này: ở đây con suy nghĩ như vậy.
Daṇḍenāti catuhatthena daṇḍena vā ghaṭikamuggarena vā. Satthenāti ekatodhārādinā. Satthahārakaṃ pariyesantīti jīvitahārakaṃ satthaṃ pariyesanti. Idaṃ thero tatiyapārājikavatthusmiṃ asubhakathaṃ sutvā attabhāvena jigucchantānaṃ bhikkhūnaṃ satthahārakapariyesanaṃ sandhāyāha. Damūpasamenāti ettha damoti indriyasaṃvarādīnaṃ etaṃ nāmaṃ. “Saccena danto damasā upeto, vedantagū vusitabrahmacariyo”ti[1] ettha hi indriyasaṃvaro damoti vutto. “Yadi saccā damā cāgā, khantyā bhiyyodha vijjatī”ti[2] ettha paññā damoti vutto. “Dānena damena saṃyamena saccavajjenā”ti[3] ettha uposathakammaṃ damoti vuttaṃ. imasmiṃ pana sutte khanti damoti veditabbā. upasamoti tasseva vevacanaṃ.
Với gậy gộc: với cây gậy dài 4 hắc tay, hoặc với cây trượng và với cây côn. Với con dao: với vũ khí chỉ có một bên sắc bén. Đi tìm con dao để tự sát: đi tìm con dao để tự sát. Điều này trưởng lão ám chỉ đến nhóm Tỳ khưu lắng nghe câu chuyện không tốt đẹp về sự việc [vatthu] pārājika thứ 3 khởi lên sự ghê tởm thân thể rồi tìm kiếm con dao để tự sát. Ở đây Sự nhiếp phục trong cụm từ Sự nhiếp phục và an tịnh: Sự chế ngự và sự đạt đến yên tĩnh, đây là gọi của sự thu thúc các quyền v.v. Bởi vậy ở đây “Được thuần phục với sự chân thật, đã đạt đến sự chế ngự các quyền, là người đã đi đến tận cùng của hiểu biết, đã sống đời Phạm hạnh” ngài nói là sự thu thúc các quyền gọi là sự nhiếp phục. “nếu có điều nào đó là tốt hơn sự chân thật, sự tự chế ngự, sự xả thí, và sự kham nhẫn” ở đây trí tuệ được gọi là sự nhiếp phục. “Với việc bố thí, với việc tự chế ngự, với việc tự rèn luyện, với lời nói chân thật” ở đây sự thực hành trai giới uposatha gọi là sự nhiếp phục. Sự an tĩnh là tự sử dụng để thay thế cho chính từ sự nhiếp phục.
397. Atha kho āyasmā puṇṇoti ko panesa puṇṇo, kasmā panettha gantukāmo ahosīti. Sunāparantavāsiko eva eso, Sāvatthiyaṃ pana asappāyavihāraṃ sallakkhetvā tattha gantukāmo ahosi.
397. Khi ấy Tôn giả Puṇṇa: (hỏi) ngài Puṇṇa này là ai? và tại sao lại muốn đi đến nơi đó? Và tại sao ngài lại muốn đi đến xứ sở Sunāparanta. (đáp) Ngài là người dân ở thành Sāvatthī, ngài quan sát thấy rằng: Trong thành Sāvatthī sống không thoải mái nên mới muốn đi đến xứ sở Sunāparanta ấy.
Tatrāyaṃ anupubbikathā — sunāparantaraṭṭhe kira ekasmiṃ vāṇijakagāme ete dve bhātaro. Tesu kadāci jeṭṭho pañca sakaṭasatāni gahetvā janapadaṃ gantvā bhaṇḍaṃ āharati, kadāci kaniṭṭho. Imasmiṃ pana samaye kaniṭṭhaṃ ghare ṭhapetvā jeṭṭhabhātiko pañca sakaṭasatāni gahetvā janapadacārikaṃ caranto anupubbena Sāvatthiṃ patvā Jetavanassa nātidūre sakaṭasatthaṃ nivāsetvā bhuttapātarāso parijanaparivuto phāsukaṭṭhāne nisīdi.
Trong trường hợp này là anupubbikathā [lời nói theo tuần tự] – tương truyền rằng có hai anh em trong một gia đình thương buôn. Trong hai người anh em ấy thỉnh thoảng người anh đưa 500 cỗ xe đi về vùng nông thôn để chở hàng hóa về, thỉnh thoảng thì người em. Vào thời gian này, người anh để cho người em trông nhà rồi tự mình mang 500 cỗ xe đi du hành trong xứ sở đến thành Sāvatthī theo tuần tự, nghỉ ngơi trên cỗ xe ở gần Tinh xá Jetavana, dùng điểm tâm sáng có những người tùy tùng tháp tùng nghỉ ngơi một cách thoải mái.
Tena ca samayena sāvatthivāsino bhuttapātarāsā uposathaṅgāni adhiṭṭhāya suddhuttarāsaṅgā gandhapupphādihatthā yena buddho yena dhammo yena saṅgho, tanninnā tappoṇā tappābbhārā hutvā dakkhiṇadvārena nikkhamitvā Jetavanaṃ gacchanti. So te disvā “kahaṃ ime gacchanti”ti ekamanussaṃ pucchi. Kiṃ tvaṃ ayyo na jānāsi, loke buddhadhammasaṅgharatanāni nāma uppannāni, iccesa mahājano satthu santike dhammakathaṃ sotuṃ gacchatīti. Tassa buddhoti vacanaṃ chavicammādīni chinditvā aṭṭhimiñjaṃ āhacca aṭṭhāsi. Atha attano parijanaparivuto tāya parisāya saddhiṃ vihāraṃ gantvā satthu madhurassarena dhammaṃ desentassa parisapariyante ṭhito dhammaṃ sutvā pabbajjāya cittaṃ uppādesi. Atha Tathāgatena kālaṃ viditvā parisāya uyyojitāya Satthāraṃ upasaṅkamitvā vanditvā svātanāya nimantetvā dutiyadivase maṇḍapaṃ kāretvā āsanāni paññapetvā Buddhappamukhassa saṅghassa mahādānaṃ datvā bhuttapātarāso uposathaṅgāni adhiṭṭhāya bhaṇḍāgārikaṃ pakkosāpetvā, ettakaṃ bhaṇḍaṃ vissajjitaṃ, ettakaṃ na vissajjitanti sabbaṃ ācikkhitvā — “imaṃ sāpateyyaṃ mayhaṃ kaniṭṭhassa dehī”ti sabbaṃ niyyātetvā satthu santike pabbajitvā kammaṭṭhānaparāyaṇo ahosi.
Và lúc bấy giờ, sau khi người dân thành Sāvatthī dùng điểm tâm sáng đã phát nguyện thọ trì bát quan trai giới uposatha, mặc y phục sạch sẽ, cầm lấy hương thơm và tràng hoa v.v, cúi mình hướng đến đức Phật, Giáo Pháp, và chư Tăng rồi cùng nhau đi ra khỏi cổng thành hướng Nam thẳng đến Tinh xá Jetavana. Khi họ nhìn thấy những người ấy (nhóm thương buôn) mới hỏi một thanh niên rằng: “Nhóm này đi đâu”. “Này anh bạn! Anh không biết gì hay sao? Châu báu là đức Phật, Giáo Pháp và chư Tăng đã xuất hiện trên thế gian này.” Vì thế, đại chúng này mới cùng nhau đi đến để lắng nghe Pháp thoại ở trú xứ của bậc Đạo Sư. Từ ‘đức Phật’ của người đàn ông ấy đã thấm vào da thịt v.v, đi vào tận xương tủy. Sau đó, vị ấy cùng nhóm tùy tùng tháp tùng đã đi đến Tinh xá cùng với đại chúng ấy, đứng ở cuối đại chúng lắng nghe Giáo Pháp của bậc Đạo Sư đang thuyết giảng Pháp thoại với âm giọng êm dịu rồi khởi lên ý muốn được xuất gia. Lúc đó, khi hội chúng chỗ đức Như Lai biết đến thời đã giải tán, vị ấy sau khi đến gặp bậc Đạo Sư đã đảnh lễ rồi xin thỉnh mời thọ thực vào ngày hôm sau, đã cho dựng lều có mái che vào ngày thứ hai, sắp đoạn chỗ ngồi, đã cúng dường cuộc đại bố thí đến chư Tăng có đức Phật là vị đứng đầu, vào cuối bữa ăn, đức Thế Tôn đã ban lời tuỳ hỷ rồi quay trở về, thọ nhận bữa ăn sáng rồi phát nguyện tám chi phần của ngày Uposatha[4], gọi các tùy tùng trông coi hàng hóa đến thuật lại mọi việc rằng “tài sản được ta đã sử dụng hết chừng này” (số còn lại) “hãy giao tài sản này đến em trai của ta” sau khi bàn giao lại toàn bộ mọi thứ vị ấy đã xuất gia ở trú xứ của bậc Đạo Sư rồi miệt mài thực hành đề mục nghiệp xứ.
Athassa kammaṭṭhānaṃ manasikarontassa kammaṭṭhānaṃ na upaṭṭhāti. Tato cintesi — “ayaṃ janapado mayhaṃ asappāyo, yaṃnūnāhaṃ satthu santike kammaṭṭhānaṃ gahetvā sakaṭṭhānameva gaccheyyan”ti. Atha pubbaṇhasamaye piṇḍāya caritvā sāyanhasamaye paṭisallānā vuṭṭhahitvā bhagavantaṃ upasaṅkamitvā kammaṭṭhānaṃ kathāpetvā satta sīhanāde naditvā pakkāmi. Tena vuttaṃ — “Atha kho āyasmā Puṇṇo … pe … viharatī”ti.
Khi ấy, trong khi ngài tác ý thực hành đề mục nghiệp xứ, (tuy nhiên) nghiệp xứ cũng không xuất hiện. Sau đó ngài mới nghĩ rằng: – “Ở xứ sở này không phù hợp đối với ta, có lẽ ta nên tiếp nhận đề mục nghiệp xứ ở trú xứ của bậc Đạo Sư rồi trở về chỗ cũ của ta”. Sau khi đi khất thực vào buổi sáng, ra khỏi từ chỗ thiền tịnh buổi chiều đã đến gặp đức Thế Tôn xin nói về đề mục nghiệp xứ, rống tiếng rống con sư tử bảy lần rồi rời đi. Vì thế, ngài mới nói rằng: “Khi ấy, Tôn giả Puṇṇa rời khỏi chỗ thiền tịnh v.v.”
Kattha panāyaṃ vihāsīti? catūsu ṭhānesu vihāsi, Sunāparanta-raṭṭhaṃ tāva pavisitvā ajjuhatthapabbate[5] nāma pavisitvā vāṇijagāmaṃ piṇḍāya pāvisi. Atha naṃ kaniṭṭhabhātā sañjānitvā bhikkhaṃ datvā, “bhante, aññattha agantvā idheva vasathā”ti paṭiññaṃ kāretvā tattheva vasāpesi.
Ngài Puṇṇa sống ở đâu? Ngài sống ở 4 chỗ. Đầu tiên ngài đi đến kinh thành Sunāparanta rồi đi đến núi Ajjuhattha, đi vào làng của những người thương buôn đi khất thực. Khi ấy người em trai nhận ra ngài đã cúng dường vật thực rồi gọi ngài rằng: “Bạch ngài, ngài không cần đi nơi khác, xin mời ngài hãy ở lại đây” khi ngài đã nhận lời đã mời cư ngụ lại chính nơi ấy
Tato Samuddagirivihāraṃ nāma agamāsi. Tattha ayakantapāsāṇehi paricchinditvā katacaṅkamo atthi, taṃ koci caṅkamituṃ samattho nāma natthi. Tattha samuddavīciyo āgantvā ayakantapāsāṇesu paharitvā mahāsaddaṃ karonti. Theronaṃ — “kammaṭṭhānaṃ manasikarontānaṃ phāsuvihāro hotū”ti samuddaṃ nissaddaṃ katvā adhiṭṭhāsi.
Kể từ đó ngài đi đến Tinh xá Samuddagiri. Ở nơi đó, có chỗ dành cho việc đi kinh hành mà vị ấy cắt lấy từ những tảng đá được xiên sắt giữ lấy ở phần đầu, không có ai bước chạm tảng đá ấy được. Ở nơi ấy những cơn sóng biển hiện rõ va chạm vào tảng đá được xiên sắt giữ lấy ở phần đầu tạo ra âm thanh rất lớn. Trưởng lão nghĩ rằng: “Hãy trở thành nơi cư trú thoải mái dành cho ta, người tác ý thực hành nghiệp xứ” rồi phát nguyện làm cho những cơn sóng biển được yên ả.
Tato Mātulagiriṃ nāma agamāsi. Tattha sakuṇasaṅgho ussanno, rattiñca divā ca saddo ekābaddhova hoti, thero imaṃ ṭhānaṃ aphāsukanti tato Makulakārāmavihāraṃ nāma gato. so vāṇijagāmassa nātidūro naccāsanno gamanāgamanasampanno vivitto appasaddo. Thero imaṃ ṭhānaṃ phāsukanti tattha rattiṭṭhānadivāṭṭhānacaṅkamanādīni kāretvā vassaṃ upagacchi. Evaṃ catūsu ṭhānesu vihāsi.
Sau đó ngài đi đến Mātulagiri. Ở nơi đó có rất nhiều bầy chim, âm thanh ầm ĩ cả ngày lẫn đêm. Trưởng lão nghĩ rằng: Ở đây không thoải mái, từ đó đã đi đến Tịnh xá Makulakārāma. Tinh xá ấy không quá xa cũng không quá gần ngôi làng của những người thương buôn, tới lui thuận tiện, không có tiếng ồn. Trưởng lão nghĩ rằng ở đây thoải mái mới cho xây dựng chỗ nghỉ ban đêm và ban ngày cũng với chỗ đi kinh hành v.v, rồi an cư mùa mưa ở nơi ấy. Ngài đã cư trú ở bốn nơi như vậy.
Athekadivasaṃ tasmiṃyeva antovasse pañca vāṇijasatāni parasamuddaṃ gacchāmāti nāvāya bhaṇḍaṃ pakkhipiṃsu. nāvārohanadivase therassa kaniṭṭhabhātā theraṃ bhojetvā therassa santike sikkhāpadāni gahetvā vanditvā gacchanto, — “bhante, mahāsamuddo nāma appameyyo anekantarāyo, amhe āvajjeyyāthā”ti vatvā nāvaṃ āruhi. Nāvā uttamajavena gacchamānā aññataraṃ dīpakaṃ pāpuṇi. Manussā pātarāsaṃ karissāmāti dīpake otiṇṇā. Tasmiṃ dīpe aññaṃ kiñci natthi, candanavanameva ahosi.
Sau đó vào một ngày một trong chính mùa mưa an cư có 500 người thương buôn định bụng rằng: “Chúng tôi sẽ đi đến vùng biển khác, nên mới lấy hàng hóa chất lên thuyền, vào ngày xuống thuyền, em trai của trưởng lão đã dâng thức ăn đến trưởng lão rồi thọ trì các điều giới ở trú xứ của trưởng lão, đảnh lễ, khi đi đã nói với ngài rằng: “Bạch ngài, được gọi là đại dương có rất nhiều nguy hiểm không thể ước lường được, xin ngài hãy giúp đỡ quan tâm theo dõi chúng tôi” rồi bước xuống thuyền. Con thuyền đi với tốc lực cao đến một hòn đảo. Mọi người nghĩ rằng: “Chúng ta sẽ dùng điểm tâm sáng”, rồi cùng nhau bước lên hòn đảo. Trên hoàn đảo ấy chẳng có thứ gì khác ngoài rừng gỗ đàn hương.
Atheko vāsiyā rukkhaṃ ākoṭetvā lohitacandanabhāvaṃ ñatvā āha — “bho mayaṃ lābhatthāya parasamuddaṃ gacchāma, ito ca uttari lābho nāma natthi, caturaṅgulamattā ghaṭikā satasahassaṃ agghati, hāretabbakayuttaṃ bhaṇḍaṃ hāretvā candanassa pūremā”ti. Te tathā kariṃsu. Candanavane adhivatthā amanussā kujjhitvā — “Imehi amhākaṃ candanavanaṃ nāsitaṃ, ghātessāma ne”ti cintetvā — “Idheva ghātitesu sabbaṃ vanaṃ ekaṃ kuṇapaṃ bhavissati, samuddamajjhe nesaṃ nāvaṃ osīdessāmā”ti āhaṃsu. Atha tesaṃ nāvaṃ āruyha muhuttaṃ gatakāle yeva uppādikaṃ[6] uṭṭhapetvā sayampi te amanussā bhayānakāni rūpāni dassayiṃsu. bhītā manussā attano attano devatā namassanti. Therassa kaniṭṭho Cūḷapuṇṇakuṭumbiko — “mayhaṃ bhātā avassayo hotū”ti therassa namassamāno aṭṭhāsi.
Khi ấy một người cầm lấy con dao chặt cây biết được rằng: đây là gỗ đàn hương đỏ đã nói rằng – “Này các ông, chúng ta đi đến vùng biển khác nhằm mục đích để đạt được sự lợi đắc, không có lợi đắc nào cao hơn nữa, nhành cây này dài 4 lóng tay cũng có giá trị hàng trăm ngàn, ta chỉ lấy những thứ cần thiết để mang đi, rồi lấy gỗ đàn hương chất đầy (trên thuyền)”. Họ đã làm theo như vậy. Chúng phi nhân cư ngụ trong khu rừng gỗ đàn hường nổi giận, cùng nhau nghĩ rằng: – “Những người này, bọn họ đã làm cho khu rừng gỗ đàn hương của chúng ta bị tàn phá, chúng ta sẽ giết bọn chúng” rồi nói với nhau rằng: “Nếu bọn chúng bị sát hại ở đây thì toàn bộ khu rừng này sẽ trở thành một khu rừng chỉ toàn xác chết, chúng ta sẽ làm cho thuyền của bọn chúng chìm đắm vào biển cả.” Sau đó, khi những người thương buôn bước lên thuyền đi không bao lâu thì (phi nhân) đã tạo nên trận cuồng phong, rồi chính những bọn phi nhân ấy đã hiện ra nhiều hình hài kinh hãi đáng sợ. Mọi người hoảng hốt ai cũng chắp tay cúi lạy vị thiên nhân hộ trì cho chính mình. Còn Cūḷapuṇṇakuṭumbī em trai của trưởng lão nghĩ rằng: “Cầu mong anh trai của ta hãy làm chỗ nương tựa cho ta,” rồi đứng tưởng nhớ đến trưởng lão.
Theropi kira tasmiṃyeva khaṇe āvajjitvā tesaṃ byasanuppattiṃ ñatvā vehāsaṃ uppatitvā sammukhe aṭṭhāsi. Amanussā theraṃ disvā “ayyo puṇṇatthero etī”ti pakkamiṃsu, uppādikaṃ sannisīdi. Thero mā bhāyathāti te assāsetvā “kahaṃ gantukāmatthā”ti pucchi. Bhante, amhākaṃ sakaṭṭhānameva gacchāmāti. Thero nāvaṃ phale[7] akkamitvā “etesaṃ icchitaṭṭhānaṃ gacchatū”ti adhiṭṭhāsi. Vāṇijā sakaṭṭhānaṃ gantvā taṃ pavattiṃ puttadārassa ārocetvā “etha theraṃ saraṇaṃ gacchāmā”ti pañcasatā attano pañcamātugāmasatehi saddhiṃ tīsu saraṇesu patiṭṭhāya upāsakattaṃ paṭivedesuṃ. tato nāvāya bhaṇḍaṃ otāretvā therassa ekaṃ koṭṭhāsaṃ katvā — “ayaṃ, bhante, tumhākaṃ koṭṭhāso”ti āhaṃsu. Thero — “mayhaṃ visuṃ koṭṭhāsakiccaṃ natthi, satthā pana tumhehi diṭṭhapubbo”ti. Na diṭṭhapubbo, bhanteti. Tena hi iminā Satthu maṇḍalamāḷaṃ karotha, evaṃ satthāraṃ passissathāti. Te sādhu, bhanteti tena ca koṭṭhāsena attano ca koṭṭhāsehi maṇḍalamāḷaṃ kātuṃ ārabhiṃsu.
Được biết rằng vào chính lúc ấy trưởng lão xem xét biết được nhóm thương buôn đang rơi vào sự hiểm nguy, mới bay lên không trung đến hiện ra ở trước mặt (họ). Nhóm phi nhân sau khi nhìn thấy trưởng lão đã nói rằng: “ngài trưởng lão Puṇṇa đến” nên cùng nhau bỏ trốn. Trận cuồng phong ngay lập tức lắng dịu. Trưởng lão đã trấn an mọi người rằng: “Các ông không cần phải sợ hãi”, rồi hỏi rằng “các ông muốn đi đâu?” Thưa ngài, chúng tôi muốn quay trở về chính chỗ cũ của mình. Ngài trưởng lão đã bước lên đầu thuyền phát nguyện rằng: ‘Hãy đi về hướng mà nhóm người này mong muốn’. Sau khi nhóm người thương buôn đi đến nơi ở của mình đã thuật lại câu chuyện ấy cho vợ và các con nghe rồi rủ nhau “Đến đây chúng ta hãy đến nương nhờ nơi trưởng lão” cả 500 người cùng với những người vợ của mình thêm 500 người nữa được an trú vào 3 sự nương nhờ đã tuyên bố tư cách cư sĩ. sau đó cho khuân vác hàng hóa từ thuyền xuống chia ra cúng dường một phần đến trưởng lão, – Thưa với ngài rằng: “Bạch ngài, đây là phần của ngài”. – Trưởng lão: “Không cần thiết phải chia cho bần Tăng phần đặc biệt đâu, tuy nhiên các ông đã từng nhìn thấy bậc Đạo Sư chưa?” – “Thưa ngài, chưa từng nhìn thấy.” Nếu vậy, mong các ông lấy phần này để kiến tạo một ngôi nhà mái tròn để cúng dường bậc Đạo Sư, rồi các ông sẽ được nhìn thấy bậc Đạo Sư với biểu hiện như vậy.” – Họ đáp rằng: “Lành thay, thưa ngài” rồi bắt đầu xây dựng ngôi nhà mái tròn ấy và thêm phần của chính mình nữa.
Satthāpi kira āraddhakālato paṭṭhāya paribhogaṃ akāsi. Ārakkhamanussā rattiṃ obhāsaṃ disvā “mahesakkhā devatā atthī”ti saññaṃ kariṃsu. Upāsakā maṇḍalamāḷañca bhikkhusaṅghassa ca senāsanāni niṭṭhapetvā dānasambhāraṃ sajjetvā — “Kataṃ, bhante, amhehi attano kiccaṃ, satthāraṃ pakkosathā”ti therassa ārocesuṃ. Thero sāyanhasamaye iddhiyā sāvatthiṃ patvā, “bhante, vāṇijagāmavāsino tumhe daṭṭhukāmā, tesaṃ anukampaṃ karothā”ti bhagavantaṃ yāci. Bhagavā adhivāsesi. Thero Bhagavato adhivāsanaṃ viditvā sakaṭṭhānameva paccāgato.
Tương truyền chính bậc Đạo Sư cũng đã được thực hiện cũng như sự thụ hưởng kể từ khi bắt đầu thực hiện công việc. Nhóm người canh gác đã nhìn thấy ánh sáng vào ban đêm nghĩ rằng “có các vị Trời có oai lực lớn”. Những người cận sự nam hỗ trợ nhau xây dựng ngôi nhà mái tròn và sàng tọa dành cho chư Tỳ khưu đến khi hoàn thành, chuẩn bị vật thí, thưa với trưởng lão, “Bạch ngài, chúng con đã hoàn thành xong nhiệm vụ, cầu mong ngài hãy thông báo cho bậc Đạo Sư.” Vào buổi chiều trưởng lão đi đến thành Sāvatthī bằng thần thông rồi khẩn cầu đức Thế Tôn rằng: “Bạch Thế Tôn, dân làng thương buôn ước muốn được gặp đức Thế Tôn, cầu mong ngài hãy vì lòng bi mẫn chấp nhận”. Đức Thế Tôn đồng ý nhận lời. Trưởng lão biết được đức Thế Tôn đã nhận lời ngài đã quay trở về trú xứ của mình.
Bhagavāpi Ānandatheraṃ āmantesi, — “Ānanda, sve Sunāparante Vāṇijagāme piṇḍāya carissāma, tvaṃ ekūnapañcasatānaṃ bhikkhūnaṃ salākaṃ dehī”ti. Thero sādhu, bhanteti bhikkhusaṅghassa tamatthaṃ ārocetvā nabhacārikā[8] bhikkhū salākaṃ gaṇhantūti āha. Taṃdivasaṃ Kuṇḍadhānatthero paṭhamaṃ salākaṃ aggahesi. Vāṇijagāmavāsinopi “sve kira satthā āgamissatī”ti gāmamajjhe maṇḍapaṃ katvā dānaggaṃ sajjayiṃsu. Bhagavā pātova sarīrapaṭijagganaṃ katvā gandhakuṭiṃ pavisitvā phalasamāpattiṃ appetvā nisīdi. Sakkassa paṇḍukambalasilāsanaṃ uṇhaṃ ahosi. So kiṃ idanti āvajjetvā Satthu Sunāparantagamanaṃ disvā vissakammaṃ[9] āmantesi — “Tāta ajja bhagavā timattāni[10] yojanasatāni piṇḍācāraṃ karissati, pañca kūṭāgārasatāni māpetvā Jetavanadvārakoṭṭhamatthake gamanasajjāni katvā ṭhapehī”ti. So tathā akāsi. Bhagavato kūṭāgāraṃ catumukhaṃ ahosi, dvinnaṃ aggasāvakānaṃ dvimukhāni, sesāni ekamukhāni. Satthā gandhakuṭito nikkhamma paṭipāṭiyā ṭhapitakūṭāgāresu dhurakūṭāgāraṃ pāvisi. Dve aggasāvake ādiṃ katvā ekūnapañcabhikkhusatānipi kūṭāgāraṃ gantvā nisinnā ahesuṃ. Ekaṃ tucchakūṭāgāraṃ ahosi, pañcapi kūṭāgārasatāni ākāse uppatiṃsu.
Đức Thế Tôn cho gọi trưởng lão Ānanda đến nói rằng – “Ānanda, ngày mai chúng ta sẽ đi khất thực ở ngôi làng những người thương buôn ở xứ Sunāparanta, ông hãy phát phiếu đến 499 vị Tỳ khưu. Trưởng lão vâng đáp đức Phật ‘thật tốt đẹp, bạch đức Thế Tôn,’ thuật lại chuyện ấy đến chư Tỳ khưu rồi nói rằng ‘mong chư Tỳ khưu đi khất thực chớ đừng bắt thăm’. Vào ngày hôm ấy trưởng lão Kuṇḍadhāna đã bắt thăm đầu tiên. Còn phía dân làng thương buôn biết rằng: ‘biết được ngày mai bậc Đạo Sư sẽ đến, cho dựng lên mái che ở giữa làng, chuẩn bị lễ phẩm cúng dường hảo hạng. Đức Thế Tôn đã vệ sinh thân thể từ sáng sớm, ngài bước vào Hương Thất, ngồi xuống thể nhập thiền diệt Thánh Quả. Ngai vàng Paṇḍukambala của vua trời Sakka đã nóng lên. Vua trời quan sát chuyện gì đang diễn ra mới thấy rằng: bậc Đạo Sư đang đi đến xứ Sunāparanta mới triệu tập vị Vissakamma lực ra lệnh rằng – “Này khanh, ngày hôm nay đức Thế Tôn đi khất thực một quãng đường dài khoảng 300 do-tuần, khanh hãy khéo biến hóa ra 500 căn nhà mái nhọn, chuẩn bị quãng đường đi đến cuối mái hiên cửa lớn của Tinh xá Jetavana, kiến tạo cho đầy đủ ”. Vị Vissakamma đã thực hiện theo như thế. Căn nhà mái nhọn dành cho đức Thế Tôn có 4 mặt, của hai vị đệ nhất Thinh văn có 2 mặt, còn lại chỉ có 1 mặt. Bậc Đạo Sư rời khỏi Hương Thất đi đến căn nhà mái nhọn xinh đẹp trong khu nhà mái nhọn được kiến tạo theo thứ tự. Còn 499 vị Tỳ khưu bắt đầu từ hai vị đệ nhất Thinh văn ai cũng đi đến 499 căn nhà mái nhọn. Có một căn nhà mái nhọn trống, cả 500 ngôi nhà mái nhọn đều lơ lửng trên không trung.
Satthā Saccabandhapabbataṃ nāma patvā kūṭāgāraṃ ākāse ṭhapesi[11]. Tasmiṃ pabbate Saccabandho nāma micchādiṭṭhikatāpaso mahājanaṃ micchādiṭṭhiṃ uggaṇhāpento lābhaggayasaggappatto hutvā vasati. Abbhantare cassa antocāṭiyaṃ padīpo viya arahattassa upanissayo jalati. Taṃ disvā dhammamassa kathessāmīti gantvā dhammaṃ desesi. Tāpaso desanāpariyosāne arahattaṃ pāpuṇi, maggenevāssa abhiññā āgatā. ehibhikkhu hutvā iddhimayapattacīvaradharo hutvā kūṭāgāraṃ pāvisi.
Bậc Đạo Sư đi đến ngọn núi tên là Saccabandha rồi dừng ngôi nhà mái nhọn lại đặt nó ở trong không trung ở trên ngọn núi ấy. Có vị đạo sĩ tà kiến tên là Saccabandha làm cho đại chúng tin vào quan kiến sai lệch, là người đạt đến đỉnh cao của lợi lộc, đỉnh cao của danh vọng. Từ sâu bên trong của vị đạo sĩ ấy có đủ điều kiện của bậc A-ra-hán sáng chói tựa như ngọn đèn ở trong cái lu. Sau khi nhìn thấy vị đạo sĩ ấy ngài suy nghĩ rằng: “Ta sẽ thuyết Pháp cho vị ấy nên ngài đã đi thuyết giảng Giáo Pháp. Khi kết thúc thời Pháp vị đạo sĩ cũng thành tựu quả vị A-ra-hán, các thắng trí cũng đến cùng với Đạo. Ngài đã trở thành vị thiện lai Tỳ khưu [ehi-bhikkhu] có đầy đủ bình bát và y phục nhờ vào thần thông rồi đi vào ngôi nhà mái nhọn.”
Bhagavā kūṭāgāragatehi pañcahi bhikkhusatehi saddhiṃ vāṇijagāmaṃ gantvā kūṭāgārāni adissamānāni katvā vāṇijagāmaṃ pāvisi. vāṇijā Buddhappamukhassa bhikkhusaṅghassa mahādānaṃ datvā Satthāraṃ Makulakārāmaṃ nayiṃsu. Satthā maṇḍalamāḷaṃ pāvisi. mahājano yāva satthā bhattadarathaṃ paṭipassambheti, tāva pātarāsaṃ katvā uposathaṅgāni samādāya bahuṃ gandhañca pupphañca ādāya dhammassavanatthāya ārāmaṃ paccāgamāsi. satthā dhammaṃ desesi. Mahājanassa bandhanamokkho jāto, mahantaṃ buddhakolāhalaṃ ahosi.
Đức Thế Tôn đã đi đến ngôi làng của những người thương buôn cùng với 500 vị Tỳ khưu trong ngồi nhà mái nhọn, làm cho mọi người không thể nhìn thấy ngôi nhà mái nhọn rồi đi đến ngôi làng của những người thương buôn. Những người thương buôn đã thực hiện cuộc đại thí đến Tăng chúng có đức Phật là vị đứng đầu, rồi thỉnh cầu bậc Đạo Sư đi đến Makulakārāma. Bậc Đạo Sư bước vào lều mái tròn. Đại chúng chờ đợi cho đến khi bậc Đạo Sư xua tan sự mệt nhọc sau bữa ăn, ai cũng thọ dụng bữa sáng xong rồi thọ trì tám chi phần của ngày Uposatha, cầm lấy hương thơm và tràng hoa phần đông đi đến Tinh xá nhằm mục đích lắng nghe Giáo Pháp. Bậc Đạo Sư thuyết giảng Giáo Pháp, việc thoát khỏi sự trói buộc tái sanh của đại chúng, sự ồn ào liên quan đến đức Phật quy mô lớn.
Satthā mahājanassa saṅgahatthaṃ katipāhaṃ tattheva vasi, aruṇaṃ pana mahāgandhakuṭiyaṃyeva uṭṭhapesi. Tattha katipāhaṃ vasitvā vāṇijagāme piṇḍāya caritvā “tvaṃ idheva vasāhī”ti puṇṇattheraṃ nivattetvā antare Nammadānadī[12] nāma atthi, tassā tīraṃ agamāsi. Nammadānāgarājā Satthu paccuggamanaṃ katvā nāgabhavanaṃ pavesetvā tiṇṇaṃ ratanānaṃ sakkāraṃ akāsi. Satthā tassa dhammaṃ kathetvā nāgabhavanā nikkhami. So — “mayhaṃ, bhante, paricaritabbaṃ dethā”ti yāci, bhagavā nammadānadītīre padacetiyaṃ dassesi. taṃ vīcīsu āgatāsu pidhīyati, gatāsu vivarīyati[13], mahāsakkārappattaṃ ahosi. Satthā tato nikkhamma Saccabandhapabbataṃ gantvā Saccabandhaṃ āha — “tayā mahājano apāyamagge otārito, tvaṃ idheva vasitvā etesaṃ laddhiṃ vissajjāpetvā nibbānamagge patiṭṭhāpehī”ti. Sopi paricaritabbaṃ yāci. Satthā ghanapiṭṭhipāsāṇe allamattikapiṇḍamhi lañchanaṃ viya padacetiyaṃ dassesi, tato Jetavanameva gato. Etamatthaṃ sandhāya tenevantaravassenātiādi vuttaṃ.
Khi nhiếp phục đại chúng bậc Đạo Sư cư trú 2-3 ngày ở tại nơi ấy. Hơn nữa, làm cho ánh bình minh đứng vững trong chính đại Hương Thất ấy. Sau khi cư trú ở đó 2-3 ngày ngài lại đi khất thực trong làng của những người thương buôn, lệnh cho trưởng lão Puṇṇa trở lại “ông hãy ở lại chính nơi đây” ở giữa đường có dòng sông tên là Nammadā, ngài đã đi đến bờ của dòng sông ấy. Long vương Nammadā đã tiếp rước bậc Đạo Sư, thỉnh mời ngài đến Long cung, đã thực hiện sự cung kính đối với Tam Bảo. Bậc Đạo Sư đã thuyết Pháp cho Long vương ấy rồi rời khỏi Long cung. Long vương khẩn cầu – “Kính bạch Thế Tôn, hãy ban cho tôi một thứ có thể lễ bái”. Đức Thế Tôn thuyết giảng về Bảo điện là dấu chân để lại ở bờ sông Nammadā. Dấu chân ấy khi cơn sóng lớn ập tới thì (dấu chân) bị đóng lại (bị nước ngập) khi con sóng lướt qua thì (dấu chân) bị mở ra, vì thế trở thành biểu tượng được cung kính một cách trọng thể. Sau khi bậc Đạo Sư rời khỏi nơi ấy ngài đã đi đến ngọn núi Saccabandha nói cùng Saccabandha rằng: Đại chúng bị ông làm cho thụt lún vào con đường khổ cảnh, ông phải ở lại nơi đây, sửa chữa lại học thuyết của nhóm người này, rồi cho họ duy trì trong con đường đi đến Nibbāna.” Ngay cả Saccabandha cũng cầu xin một thứ để lễ bái. Bậc Đạo Sư cũng thuyết về dấu chân để lại trên bề mặt phiến đá tựa như con dấu được đóng dấu lên cục đất sét mềm, từ đó ngài đã đi thẳng về Tinh xá Jetavana. Ngài muốn ám chỉ ý nghĩa này mới thuyết lời rằng: “Khi ấy Tôn giả Puṇṇa đã nhiếp phục được khoảng năm trăm nam cư sĩ…cũng trong mùa an cư mùa mưa ấy”.
Parinibbāyīti anupādisesāya nibbānadhātuyā parinibbāyi. mahājano therassa satta divasāni sarīrapūjaṃ katvā bahūni gandhakaṭṭhāni samodhānetvā sarīraṃ jhāpetvā dhātuyo ādāya cetiyaṃ akāsi. Sambahulā bhikkhūti therassa āḷāhane ṭhitabhikkhū. sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
Đã viên tịch Nibbāna: đã viên tịch Nibbāna trong cảnh giới Nibbāna không còn dư sót. Đại chúng đã thực hiện việc lễ bái sắc thân của trưởng lão suốt bảy ngày, dùng nhiều loại gỗ thơm để hỏa táng thân thể (của ngài) cất giữ Xá-lợi rồi xây dựng Bảo điện để đặt (Xá-lợi). Một số đông Tỳ khưu: nhóm Tỳ khưu ở tại lễ hỏa táng của trưởng lão. Từ còn lại ở các câu đều đơn giản.
Giải Thích Kinh Giáo Giới Puṇṇa Kết Thúc
[1] saṃ. ni. 1.195; su. ni. 467
[2] saṃ. ni. 1.246; su. ni. 191
[3] dī. ni. 1.166; ma. ni. 2.226
[4] bát quan trai giới
[5] Sī. Syā. ambahaṭṭhapabbate, abbuhatthapabbataṃ (saṃ-ṭṭha 3 Saḷāyatanavaggavaṇṇanāyaṃ)
[6] Uppātikaṃ (saṃ-ṭṭha 3 Saḷāyatanavaggavaṇṇanāyaṃ)
[7] Sī. Nāvaṃ paṇe, Syā. nāvā phale; nāvaṅgaṇe (saṃ-ṭṭha 3 Saḷāyatanavaggavaṇṇanāyaṃ)
[8] Syā. Ka. na piṇḍacārikā
[9] Syā. visukammaṃ, Ka. vissukammaṃ
[10] Ka. tiṃsamattāni
[11] Sī.,Ka. ṭhapetvā
[12] Syā. antare nammadānadī
[13] Ka. dissata