Kinh số 144 – Giải Thích Kinh Giáo Giới Channa

(Channovādasuttavaṇṇanā)

Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Giáo Giới Channa

389. Evaṃ me sutanti Channovādasuttaṃ. Tattha channoti evaṃnāmako thero, na abhinikkhamanaṃ nikkhantatthero. Paṭisallānāti phalasamāpattito. Gilānapucchakāti gilānupaṭṭhānaṃ nāma buddhavaṇṇitaṃ, tasmā evamāha. Satthanti jīvitahārakasatthaṃ. Nāvakaṅkhāmīti icchāmi.

389. Kinh Giáo Giới Channa được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, Chanda: Trưởng lão có tên như vậy, không phải vị trưởng lão ra đi cùng với đức Phật lúc thực hiện cuộc ra đi xuất gia. Từ chỗ thiền tịnh: xuất khỏi sự thể nhập Thánh Quả. Hỏi thăm về bệnh trạng: việc săn sóc Tỳ khưu bệnh là một phận sự được đức Phật tán dương, là phận sự được đức Phật ca ngợi, vì thế ngài đã nói như vậy. Con dao: con dao để đoạt mạng sống. Không hy vọng: Không mong muốn.

390. Anupavajjanti anuppattikaṃ appaṭisandhikaṃ.

391. Etaṃ mamātiādīni taṇhāmānadiṭṭhigāhavasena vuttāni. nirodhaṃ disvāti khayavayaṃ ñatvā. Netaṃ mama nesohamasmi na meso attāti samanupassāmīti aniccaṃ dukkhaṃ anattāti samanupassāmi.

390. Không đi đến: Không sanh khởi, không có tái tục.

391. Đó là của tôi v.v,: Ngài nói do mãnh lực sự chấp thủ bởi tham ái, ngã mạn và tà kiến. Sau khi nhìn thấy sự diệt tận: Biết được sự cạn kiệt và sự biến hoại. Cái này không phải là của tôi, tôi không phải là cái này, cái này không phải bản ngã của tôi: Tôi quán xét thấy rằng: là vô thường, là khổ đau, là vô ngã.

393. Tasmāti yasmā māraṇantikavedanaṃ adhivāsetuṃ asakkonto satthaṃ āharāmīti vadati, tasmā. Puthujjano āyasmā, tena idampi manasi karohīti dīpeti. Niccakappanti niccakālaṃ. Nissitassāti taṇhādiṭṭhīhi nissitassa. Calitanti vipphanditaṃ hoti. Passaddhīti kāyacittapassaddhi, kilesapassaddhi nāma hotīti attho. Natīti taṇhānati[1]. Natiyā asatīti bhavatthāya ālayanikantipariyuṭṭhānesu asati. Āgatigati na hotīti paṭisandhivasena āgati nāma na hoti, cutivasena gamanaṃ nāma na hoti. Cutūpapātoti cavanavasena cuti, upapajjanavasena upapāto. Nevidha na huraṃ na ubhayamantarenāti nayidha loke, na paraloke, na ubhayattha hoti. Esevanto dukkhassāti vaṭṭadukkhakilesadukkhassa ayameva anto ayaṃ paricchedo parivaṭumabhāvo[2] hoti. Ayameva hi ettha attho. ye pana “na ubhayamantarenā”ti vacanaṃ gahetvā antarābhavaṃ icchanti, tesaṃ uttaraṃ heṭṭhā vuttameva.

393. Vì thế: Bởi vì trưởng lão Channa khi không thể chế ngự được cảm thọ có sự chết là cuối cùng, mới cầm lấy con dao mới nói rằng: ‘tôi tìm con dao để tự sát’. Trưởng lão là phàm nhân, bởi thế mới giải thích rằng: “ngài hãy tác ý lời giáo huấn này”. Một cách thường xuyên: Thường xuyên liên tục. Đối với người nương tựa: nương tựa vào tham ái và nương tựa vào tà kiến. Sự dao động: là không rung chuyển. Sự an tịnh: Thân an tịnh và tâm an tịnh, có nghĩa là đạt đến sự vắng lặng mọi ô nhiễm. Tham ái: sự tham đắm. Khi không có tham ái: Khi không có sự quyến luyến và sự xúm lại do sự thỏa mãn vì lợi ích cho Hữu-bhava. Không có đến và đi: gọi là việc đến do mãnh lực tục sanh là không có, gọi là việc đi do mãnh lực tử cũng không có. Tử và sanh: gọi là tử do mãnh lực sự di chuyển (đời này sang đời khác), gọi là sanh do mãnh lực sanh lên. Không là ở đây (ở đời này), không là ở kia (ở đời sau), không ở khoảng giữa của cả hai (cả hai đời): Ở đời này không có, ở đời sau cũng không có, và ở hai đời cũng không có. Chính điều này là sự chấm dứt của khổ: Chính điều này là tận cùng của vòng sanh tử khổ và phiền não khổ, đây là sự cắt đứt hoàn toàn, là bản thể tuyệt đối. Trong trường hợp này ý nghĩa chỉ có bấy nhiêu. Còn vị nào chấp rằng ‘không có khoảng giữa hai thế giới’ trích dẫn mong muốn đề cập đến khoảng giữa Hữu-bhava, lời được thêm vào của những vị ấy cũng đã từng được nói đến rồi.

394. Satthaṃ āharesīti jīvitahārakaṃ satthaṃ āhari, kaṇṭhanāḷiṃ chindi. athassa tasmiṃ khaṇe maraṇabhayaṃ okkami, gatinimittaṃ upaṭṭhāsi. so attano puthujjanabhāvaṃ ñatvā saṃviggo vipassanaṃ paṭṭhapetvā saṅkhāre pariggaṇhanto arahattaṃ patvā samasīsī hutvā parinibbāyi. Sammukhāyeva anupavajjatā byākatāti kiñcāpi idaṃ therassa puthujjanakāle byākaraṇaṃ hoti, etena pana byākaraṇena anantarāyamassa parinibbānaṃ ahosi. Tasmā bhagavā tameva byākaraṇaṃ gahetvā kathesi. Upavajjakulānīti upasaṅkamitabbakulāni. Iminā thero, — “bhante, evaṃ upaṭṭhākesu ca upaṭṭhāyikāsu ca vijjamānāsu so bhikkhu tumhākaṃ sāsane parinibbāyissatī”ti pucchati. Athassa Bhagavā kulesu saṃsaggābhāvaṃ dīpento honti hete Sāriputtātiādimāha. Imasmiṃ kira ṭhāne therassa kulesu asaṃsaṭṭhabhāvo pākaṭo ahosi. sesaṃ sabbattha uttānamevāti.

394. Tìm kiếm con dao để tự sát: đã mang lại con dao để tự sát, cắt đứt cổ họng. Cũng vào lúc ấy sự sợ chết của ngài cũng giảm xuống, thì thú tướng – gatinimitta xuất hiện. Ngài biết rằng bản thân vẫn còn phàm, khởi lên sự kinh cảm, đã thiết lập Minh sát rồi quan sát các Hành, đã chứng đắc trở thành một bậc A-ra-hán đắc đạo tột mạng rồi viên tịch Nibbāna. Này Sariputta, có phải trước mặt ông Tỳ khưu Channa đã tuyên bố là người không đáng khiển trách rồi sao?: mặc dầu lời tuyên bố này có trong lúc trưởng lão vẫn còn phàm, tuy nhiên việc viên tịch Nibbāna không có gì cản trở, cũng có được theo lời tuyên bố này. Vì thế, đức Thế Tôn mới giữ lấy lời tuyên bô ấy để thuyết. Gia đình đáng khiển trách: gồm gia đình đã đi đến. ‘Gia đình đáng khiển trách’ này trưởng lão hỏi rằng: “Bạch ngài, khi vẫn có nhóm nam phục vụ và nhóm nữ phục vụ như vậy, vị Tỳ khưu ấy (được xem là) sẽ viên tịch Nibbāna ở trong Giáo Pháp của ngài hay không?” Khi ấy, bậc đức Thế Tôn thuyết rằng: “vị Tỳ khưu ấy không có sự ưu thích đồ chúng trong các gia đình mới nói như sau – Này Sārīputta, Tỳ khưu Chanda có những gia đình ấy là những gia đình thân hữu…” Kể rằng trong trường hợp này đã làm hiển lộ rằng: Trưởng lão không có quan hệ với bất kỳ gia đình nào. Từ còn lại ở các câu đều đơn giản.

Giải Thích Kinh Giáo Giới Channa Kết Thúc.

 



[1] Sī. Syā. Taṇhā

[2] Syā. Pārimavaṭumabhāvo