Kinh số 143 – Giải Thích Kinh Giáo Giới Anāthapiṇḍika

(Anāthapiṇḍikovādasuttavaṇṇanā)

Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Giáo Giới Anāthapiṇḍika

383. Evaṃ me sutanti Anāthapiṇḍikovādasuttaṃ. Tattha bāḷhagilānoti adhimattagilāno maraṇaseyyaṃ upagato. Āmantesīti gahapatissa kira yāva pādā vahiṃsu, tāva divase sakiṃ vā dvikkhattuṃ vā tikkhattuṃ vā buddhupaṭṭhānaṃ akhaṇḍaṃ akāsi. Yattakañcassa satthu upaṭṭhānaṃ ahosi, tattakaṃyeva mahātherānaṃ. So ajja gamanapādassa pacchinnattā anuṭṭhānaseyyaṃ upagato sāsanaṃ pesetukāmo aññataraṃ purisaṃ āmantesi. Tenupasaṅkamīti Shagavantaṃ āpucchitvā sūriyatthaṅgamanavelāya upasaṅkami.

383. Kinh Giáo Giới Anāthapiṇḍika được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, bị trọng bệnh: bệnh trầm trọng đến nổi phải nằm chờ chết. Mới gọi…đến bảo: được biết rằng khi nào chân của gia chủ vẫn còn bước đi được, khi ấy gia chủ cũng thực hiện việc phụng sự đức Phật mỗi ngày một hai lần hoặc ba lần không hề gián đoạn và ngài phụng sự bậc Đạo Sư như thế nào thì cũng phụng sự các vị đại trưởng lão như thế ấy. Vào ngày hôm ấy ông nằm ở trên giường đến nổi không thể ngồi dậy được bởi đôi chân đi không được nữa, mong muốn gửi thông báo mới gọi một người tớ nam đến gặp. Đã đi đến: sau khi nói lời từ biệt đức Thế Tôn đã đi đến gặp vào lúc mặt trời lặn.

384. Paṭikkamantīti osakkanti, tanukā bhavanti. Abhikkamantīti abhivaḍḍhanti ottharanti, balavatiyo honti.

Abhikkamosānaṃ paññāyati no paṭikkamoti yasmiñhi samaye māraṇantikā vedanā uppajjati, uparivāte jalitaggi viya hoti, yāva usmā na pariyādiyati, tāva mahatāpi upakkamena na sakkā vūpasametuṃ, usmāya pana pariyādinnāya vūpasammati.

384. Được giảm thiểu: trở nên thuyên giảm, nhẹ đi. Nặng hơn: phát triển thêm, trầm trọng, cảm thọ khốc liệt.

Sự gia tăng rõ rệt, không có giảm thiểu: cũng vào lúc khởi lên cảm thọ đau đớn cận kề cái chết, giống như thổi tắt ngọn đèn đang cháy, đến khi nào sức nóng vẫn chưa dập tắt, cho đến khi ấy dù có sử dụng sự nỗ lực to lớn thế nào đi chăng nữa cũng không thể làm cho cảm thọ lắng dịu được, nhưng khi được lắng dịu thì hơi nóng cũng đã diệt tắt.

385. Athāyasmā sāriputto cintesi — “Ayaṃ mahāseṭṭhissa vedanā māraṇantikā, na sakkā paṭibāhituṃ, avasesā kathā niratthakā, dhammakathamassa kathessāmī”ti. Atha naṃ taṃ kathento tasmātihātiādimāha. Tattha tasmāti yasmā cakkhuṃ tīhi gāhehi gaṇhanto uppannaṃ māraṇantikaṃ vedanaṃ paṭibāhituṃ samattho nāma natthi, tasmā. Na cakkhuṃ upādiyissāmīti cakkhuṃ tīhi gāhehi na gaṇhissāmi. Na ca me cakkhunissitaṃ viññāṇanti viññāṇañcāpi me cakkhunissitaṃ na bhavissati. Na rūpanti heṭṭhā āyatanarūpaṃ kathitaṃ, imasmiṃ ṭhāne sabbampi kāmabhavarūpaṃ kathento evamāha.

385. Khi ấy trưởng lão Sārīputta nghĩ – “Cảm thọ của vị đại trưởng giả này là một loại cảm thọ đau đớn cận kề cái chết, không ai có thể ngăn chặn được, những lời nói còn lại cũng đều vô ích, ta sẽ thuyết giảng Pháp thoại cho đại trưởng giả.” Trong khi thuyết giảng Pháp thoại đó cho vị gia chủ ấy, ngài đã nói rằng: Này người gia chủ, chính vì thế v.v.” Ở đây, ‘vì thế’ do nắm lấy mắt với cả 3 sự chấp thủ[1] gọi là có thể ngăn ngừa cảm thọ đau đớn cận kề cái chết khởi lên là không có. Tôi sẽ không chấp thủ con mắt: sẽ không nắm giữ con mắt với cả 3 sự chấp thủ. Và thức y cứ vào con mắt không có cùng tôi: và thức nương vào con mắt của tôi cũng sẽ không có. Không chấp thủ vào sắc: Trưởng lão Sārīputta nói đến sắc xứ ở phần sau, ở trong trường hợp này ngài cũng nói đến sắc trong toàn bộ cõi Dục nên mới nói như vậy.

386. Na idhalokanti vasanaṭṭhānaṃ vā ghāsacchādanaṃ vā na upādiyissāmīti attho. Idañhi paccayesu aparitassanatthaṃ kathitaṃ. Na paralokanti ettha pana manussalokaṃ ṭhapetvā sesā paralokā nāma. Idaṃ — “Asukadevaloke nibbattitvā asukaṭṭhāne bhavissāmi, idaṃ nāma khādissāmi bhuñjissāmi nivāsessāmi pārupissāmī”ti evarūpāya paritassanāya pahānatthaṃ vuttaṃ. Tampi na upādiyissāmi, na ca me tannissitaṃ viññāṇaṃ bhavissatīti evaṃ tīhi gāhehi parimocetvā thero desanaṃ arahattanikūṭena niṭṭhapesi.

386. Sẽ không chấp thủ đời này: giải thích rằng – dù là chỗ ở hay các loại thức ăn, thức uống, và cả y phục thì tôi sẽ không chấp thủ vào những thứ đó. Lời này ngài nói nhằm mục đích không cho có sự hoảng sợ trong mọi điều kiện. Sẽ không chấp thủ đời sau: giải thích rằng – ngoại trừ thế giới loài người, những cõi còn lại gọi là đời sau. Lời này ngài nói nhằm mục đích cho từ bỏ sự hoảng sợ có hình thức như vầy – “Trong khi tôi hóa sanh vào thế giới chư Thiên kia, sẽ cư trú ở chỗ tên đó, tôi sẽ ăn, sẽ nhai, sẽ mặc những thứ tên này.” Vị trưởng lão đã giải thoát người gia chủ khỏi 3 sự chấp thủ như thế “tôi cũng sẽ không chấp thủ (đời sau), và thức y cứ vào (sự dính mắc) đó cũng sẽ không có nơi tôi” rồi mới kết thúc Pháp thoại với đỉnh cao A-ra-hán [dẫn đến chứng đắc thánh quả A-ra-hán].

387. Olīyasīti attano sampattiṃ disvā ārammaṇesu bajjhasi allīyasīti. Iti āyasmā Ānando — “Ayampi nāma gahapati evaṃ saddho pasanno maraṇabhayassa bhāyati, añño ko na bhāyissatī”ti maññamāno tassa gāḷhaṃ katvā ovādaṃ dento evamāha. Na ca me evarūpī dhammīkathā sutapubbāti ayaṃ upāsako — “satthu santikāpi me evarūpī dhammakathā na sutapubbā”ti vadati, kiṃ satthā evarūpi sukhumaṃ gambhīrakathaṃ na kathetīti? no na katheti. evaṃ pana cha ajjhattikāni āyatanāni cha bāhirāni cha viññāṇakāye cha phassakāye cha vedanākāye cha dhātuyo pañcakkhandhe cattāro arūpe idhalokañca paralokañca dassetvā diṭṭhasutamutaviññātavasena arahatte pakkhipitvā kathitakathā etena na sutapubbā, tasmā evaṃ vadati.

387. Quyến luyến: trưởng lão Ānanda hỏi rằng: “ông đã nhìn thấy sự thành tựu của bản thân, đã buộc chặt, chấp thủ vào các đối tượng đó sao?” Khi trưởng lão Ānanda  nói vậy cũng suy nghĩ rằng: “Cỡ như gia chủ này có đức tin trong sạch như vậy vẫn còn sợ chết thì liệu người khác ai mà không sợ” để xác chứng điều ấy đã ban huấn từ đến vị gia chủ nên mới nói như vậy. Chưa từng được nghe một thời thuyết pháp như vậy: vị nam cư sĩ đã nói điều này – “một thời Pháp thoại như vậy, ngay cả ở trú xứ của bậc Đạo Sư con chưa từng được lắng nghe”, bậc Đạo Sư không thuyết giảng Pháp thoại chi tiết sâu sắc kiểu như vậy sao? Không phải không thuyết. Tuy nhiên lời nói nói đến 6 Nội xứ, 6 Ngoại xứ, 6 Thức, 6 Xúc, 6 Thọ, 6 Giới-dhātu, 5 Uẩn, 4 Vô sắc, đời này và đời sau, rồi thuyết giảng gom lại đặt vào bản thể A-ra-hán về phương diện sắc được nhìn thấy bởi mắt, âm thanh được nghe bởi tai, mùi, vị và xúc được mũi, lưỡi và thân nhận biết và cảnh pháp được nhận biết bởi tâm thì vị gia chủ chưa từng được lắng nghe. Vì lý do đó mới nói như vậy.

Apicāyaṃ upāsako dānādhimutto dānābhirato buddhānaṃ santikaṃ gacchanto tucchahattho na gatapubbo. Purebhattaṃ gacchanto yāgukhajjakādīni gāhāpetvā gacchati, pacchābhattaṃ sappimadhuphāṇitādīni. tasmiṃ asati vālikaṃ gāhāpetvā gandhakuṭipariveṇe okirāpeti, dānaṃ datvā sīlaṃ rakkhitvā gehaṃ gato. Bodhisattagatiko kiresa upāsako, tasmā Bhagavā catuvīsati saṃvaccharāni upāsakassa yebhuyyena dānakathameva kathesi — “Upāsaka, idaṃ dānaṃ nāma bodhisattānaṃ gatamaggo, mayhampi gatamaggo, mayā satasahassakappādhikāni cattāri asaṅkhyeyyāni dānaṃ dinnaṃ, tvaṃ mayā gatamaggameva anugacchasī”ti. Dhammasenāpatiādayo mahāsāvakāpi attano attano santikaṃ āgatakāle dānakathamevassa kathenti. Tenevāha na kho gahapati gihīnaṃ odātavasanānaṃ evarūpī dhammīkathā paṭibhātīti. Idaṃ vuttaṃ hoti — gahapati gihīnaṃ nāma khettavatthuhiraññasuvaṇṇadāsīdāsaputtabhariyādīsu tibbo ālayo tibbaṃ nikantipariyuṭṭhānaṃ, tesaṃ — “ettha ālayo na kātabbo, nikanti na kātabbā”ti kathā na paṭibhāti na ruccatīti.

Và hơn nữa, cận sự nam này vô cùng hoan hỷ trong việc bố thí khi đi đến trú xứ của đức Phật chưa từng đi đến với tay không, khi đi trước bữa ăn cũng cho người mang theo cháo và bánh v.v, rồi mới đi, còn khi đi sau bữa ăn vị ấy cũng cho mang theo bơ lỏng, mật ong, và mật mía v.v, rồi mới đi, khi không có những thứ ấy (vị ấy) cũng mang theo những bảo cát để trải xuống xung quanh Hương Thất, khi bố thí, thọ trì giới xong mới quay trở về tư gia. Kể rằng cận sự nam này có sanh thú-gati kiểu Bồ-tát, cho nên suốt 24 năm phần lớn đức Thế Tôn chỉ giảng giải bài thuyết về bố thí cho cận sự nam như sau: “Này cận sự nam, bố thí này là con đường đi của chư Bồ-tát, và cũng là con đường đi của ta, ta đã thực hành bố thí trong suốt khoảng thời gian 4 a-tăng-kỳ với một một trăm ngàn kiếp, ông cũng được gọi là đang đi theo con đường mà ta đã đi qua”. Thậm chí đến vị đại đệ tử Thinh văn có vị Tướng quân Chánh pháp v.v, vào lúc mà vị cận sự nam đến trú xứ của mình thì ngài cũng chỉ giảng giải bài thuyết về bố thí cho vị ấy tương tự. Chính vì lý do đó, ngài mới nói rằng: “Này gia chủ pháp thoại có hình thức như vậy không hiển lộ đến cho các hàng cư sĩ mặc áo trắng.” Vì thế trưởng lão Ānanda mới nói rằng: “Này người gia chủ, bài thuyết về bố thí có hình thức như vậy không được rõ ràng cho các hàng cư sĩ mặc áo trắng”. Có lời giải thích như vầy: “Này gia chủ, đối với hàng tại gia có sự vướng chặt vào ruộng vườn, tiền bạc, tớ gái, tớ trai, vợ con v.v, chỉ ưa thích sự hân hoan và xúm lại dữ dội, lời này ‘ở đây không nên bận tâm, không nên hân hoan đối với những thứ này’” không được rõ ràng, không ưa thích đối với hàng tại gia.

Yena bhagavā tenupasaṅkamīti kasmā upasaṅkami? Tusitabhavane kirassa nibbattamattasseva tigāvutappamāṇaṃ suvaṇṇakkhandhaṃ viya vijjotamānaṃ attabhāvaṃ uyyānavimānādisampattiñca disvā — “mahatī ayaṃ mayhaṃ sampatti, kiṃ nu kho me manussapathe kammaṃ katan”ti olokento tīsu ratanesu adhikāraṃ disvā cintesi “pamādaṭṭhānamidaṃ devattaṃ nāma, imāya hi me sampattiyā modamānassa satisammosopi siyā, handāhaṃ gantvā mama Jetavanassa ceva bhikkhusaṅghassa ca tathāgatassa ca ariyamaggassa ca sāriputtattherassa ca vaṇṇaṃ kathetvā tato āgantvā sampattiṃ anubhavissāmī”ti. so tathā akāsi. taṃ dassetuṃ atha kho Anāthapiṇḍikotiādi vuttaṃ.

Đi đến yết kiến đức Thế Tôn ở chỗ ngự: Chư thiên đến yết kiến để làm gì? Được biết rằng: khi vị gia chủ ấy vừa mới sanh vào cõi Tusita cũng nhìn thấy được sắc thân có kích thước 3 gāvuta chiếu sáng tựa như một khối vàng và sự thành tựu có vườn thượng uyển và thiên cung v.v, mới quan sát rằng – “sự thành tựu của ta thật to lớn, ta đã tạo điều gì ở cõi nhân loại” đã thấy được việc làm to lớn đối với Tam bảo mới suy nghĩ rằng “Bản thể chư Thiên là chỗ thiết lập của sự xao lãng, bởi vì khi ta say mê hưởng thụ sự thành tựu này cũng sẽ lầm lẫn về sự ghi nhớ, như vậy ta sẽ đi nói lời tán dương Tinh xá Jetavana của ta, chư Tỳ khưu, đức Như Lai, Thánh đạo và trưởng lão Sāriputta, từ đó sẽ từ từ thọ hưởng sự thành tựu.” Vị thiên tử ấy mới làm như vậy. Để trình bày ý nghĩa ấy, ngài mới nói rằng: “Sau đó, canh thứ nhất trôi qua, Thiên tử Anāthapiṇḍika…

Tattha Isisaṅghanisevitanti bhikkhusaṅghanisevitaṃ. Evaṃ paṭhamagāthāya jetavanassa vaṇṇaṃ kathetvā idāni ariyamaggassa vaṇṇaṃ kathento kammaṃ vijjā cātiādimāha. Tattha kammanti maggacetanā. Vijjāti maggapaññā. Dhammoti samādhipakkhiko dhammo. Sīlaṃ jīvitamuttamanti sīle patiṭṭhitassa jīvitaṃ uttamanti dasseti. Atha vā vijjāti diṭṭhisaṅkappo[2]. Dhammoti vāyāmasatisamādhayo. Sīlanti vācākammantājīvā. Jīvitamuttamanti etasmiṃ sīle patiṭṭhitassa jīvitaṃ nāma uttamaṃ. Etena maccā sujjhantīti etena aṭṭhaṅgikena maggena sattā visujjhanti.

Ở đây, nơi được hội chúng các ẩn sĩ lui tới: Nơi hội chúng Tỳ khưu cư trú. Khi nói lời ca ngợi Tinh xá Jetavana bằng kệ ngôn đầu như vậy, sau đó vị Thiên tử nói lời ca ngợi Thánh Đạo mới nói lời rằng: hành động và sự hiểu biết v.v. Ở đây, hành động ám chỉ cho tâm sở Tư trong Thánh Đạo. Sự hiểu biết ám chỉ tuệ trong thánh Thánh Đạo. Pháp ám chỉ Pháp thuộc về một phần Định. Giới và mạng sống tối thượng: vị Thiên tử thuyết rằng “Mạng sống của người được vững trú trong giới là mạng sống tối thượng”. Và thêm nữa, cái thấy và sự tư duy gọi là sự hiểu biết. Sự cố gắng, sự ghi nhớ và sự chú tâm vững chắc gọi là Pháp. Khẩu nghiệp và sự nuôi mạng gọi là Giới. Mạng sống tối thượng: Mạng sống của người được vững trú trong giới là tối thượng. Nhờ vào…này nhiều người được trong sạch: chúng sanh được thanh tịnh nhờ vào Thánh đạo tám chi phần này.

Tasmāti yasmā maggena sujjhanti, na gottadhanehi, tasmā. Yoniso vicine dhammanti upāyena samādhipakkhiyaṃ dhammaṃ vicineyya. Evaṃ tattha visujjhatīti evaṃ tasmiṃ ariyamagge visujjhati. Atha vā yoniso vicine dhammanti upāyena pañcakkhandhadhammaṃ vicineyya. Evaṃ tattha visujjhatīti evaṃ tesu catūsu saccesu visujjhati.

Vì thế: bởi vì được trong sạch nhờ vào Thánh Đạo, không phải do dòng họ hoặc do tài sản. Nên suy xét Giáo Pháp đúng theo đường lối: Nên suy xét Giáo Pháp thuộc về một phần Định một cách đúng đắn. Như vậy được thanh tịnh trong Pháp ấy: với trạng thái như vậy mới thanh tịnh trong Thánh Đạo ấy. Và hơn nữa, ‘nên suy xét Giáo Pháp đúng theo đường lối’ nên suy xét Giáo Pháp là năm uẩn một cách khéo léo. Như vậy được thanh tịnh trong Pháp ấy: Như vậy sẽ được thanh tịnh trong cả bốn Chân Lý.

Idāni sāriputtattherassa vaṇṇaṃ kathento Sāriputto vātiādimāha. Tattha Sāriputto vāti avadhāraṇavacanaṃ. Etehi paññādīhi sāriputtova seyyoti vadati. Upasamenāti kilesaupasamena. Pāraṅgatoti nibbānaṃ gato. Yo koci nibbānaṃ patto bhikkhu, so etāvaparamo siyā, na therena uttaritaro nāma atthīti vadati. sesaṃ sabbattha uttānamevāti.

Bây giờ, Thiên tử Anāthapiṇḍika khi nói tán dương về trưởng lão Sārīputta mới nói rằng: “Tựa như vị Sārīputta v.v.” Ở đây, tựa như vị Sārīputta là lời ​​nói nhằm ngăn chặn ý nghĩa khác, Thiên tử Anāthapiṇḍika nói rằng: “Chỉ trưởng lão Sārīputta là vị tối thượng về trí tuệ [vị trí hàng đầu]”. Với sự an tịnh: với sự an tịnh mọi ô nhiễm. Đã đi đến bờ kia: đã đạt đến Nibbāna. Thiên tử Anāthapiṇḍika nói rằng: “Một vị Tỳ khưu nào đã chứng đắc Nibbāna, vị Tỳ khưu ấy tối đa có chừng này, không có ai vượt trội hơn trưởng lão” Từ còn lại ở các câu đều đơn giản.

Giải Thích Kinh Giáo Giới Anāthapiṇḍika Kết Thúc.

 

 



[1] là tham ái, ngã mãn và tà kiến

[2] Sī. Syā. Diṭṭhisaṅkappa