Kinh số 140 – Giải Thích Kinh Giới Phân Biệt

(Dhātuvibhaṅgasuttavaṇṇanā)

Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Giới Phân Biệt

342. Evaṃ me sutanti dhātuvibhaṅgasuttaṃ. Tattha cārikanti turitagamanacārikaṃ. Sace te Bhaggava agarūti sace tuyhaṃ bhāriyaṃ aphāsukaṃ kiñci natthi. Sace so anujānātīti bhaggavassa kira etadahosi — “pabbajitā nāma nānāajjhāsayā, eko gaṇābhirato hoti, eko ekābhirato. sace so ekābhirato bhavissati, ‘āvuso, mā pāvisi, mayā sālā laddhā’ti vakkhati. Sace ayaṃ ekābhirato bhavissati, ‘āvuso, nikkhama, mayā sālā laddhā’ti vakkhati. Evaṃ sante ahaṃ ubhinnaṃ vivādakāretā nāma bhavissāmi, dinnaṃ nāma dinnameva vaṭṭati, kataṃ katamevā”ti. tasmā evamāha.

342. Kinh Giới Phân Biệt được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, đi du hành: du hành một cách nhanh chóng. Này Bhaggava, nếu không gì phiền phức cho ông: Nếu không phiền phức, tức là nếu không mang lại hạnh phúc gì đến gì cho ông. Nếu vị ấy cho phép: biết rằng thường các vị xuất gia có căn tánh khác biệt, một vị có đồ chúng là nơi vui thú, một vị hoan hỷ ở một mình. Nếu vị ấy hoan hỷ ở một mình sẽ nói rằng: ‘Này hiền giả, ngài chớ đi vào, tôi đã nhận được phước xá rồi’. Nếu vị này hoan hỷ ở một mình cũng sẽ nói rằng: ‘Này hiền giả, ngài hãy ra ngoài, tôi đã nhận được trú xá’. Nếu như vậy tôi sẽ trở thành nguyên nhân khiến cả hai vị ấy tranh cãi với nhau, thường những thứ đã cho coi như đã cho hoàn toàn, những thứ đã làm cũng coi như đã làm. Vì thế, mới nói như vậy.

Kulaputtoti jātikulaputtopi ācārakulaputtopi. Vāsūpagatoti vāsaṃ upagato. Kuto āgantvāti? Takkasīlanagarato.

Thiện nam tử: thiện nam tử do sanh chủng, thiện nam tử do hạnh kiểm. Đi vào nghỉ ngơi: đã đi đến ở rồi. Thiện nam tử ấy đến từ đâu? Đến từ thành phố Takkasīla.

Tatrāyaṃ anupubbikathā — Majjhimappadese kira Rājagahanagare Bimbisāre rajjaṃ kārente paccante Takkasīlanagare Pukkusāti rājā rajjaṃ kāresi. Atha Takkasīlato bhaṇḍaṃ gahetvā vāṇijā Rājagahaṃ āgatā paṇṇākāraṃ gahetvā rājānaṃ addasaṃsu. rājā te vanditvā ṭhite “katthavāsino tumhe”ti pucchi. Takkasīlavāsino devāti. Atha ne rājā janapadassa khemasubhikkhatādīni nagarassa ca pavattiṃ pucchitvā “ko nāma tumhākaṃ rājā”ti pucchi. Pukkusāti nāma devāti. Dhammikoti? Āma deva dhammiko. Catūhi saṅgahavatthūhi janaṃ saṅgaṇhāti, lokassa mātāpitiṭṭhāne ṭhito, aṅge nipannadārakaṃ viya janaṃ tosetīti. Katarasmiṃ vaye vattatīti? athassa vayaṃ ācikkhiṃsu. Vayesupi Bimbisārena samavayo jāto. Atha te rājā āha — “tātā tumhākaṃ rājā dhammiko, vayena ca me samāno, sakkuṇeyyātha tumhākaṃ rājānaṃ mama mittaṃ kātun”ti. Sakkoma devāti. Rājā tesaṃ suṅkaṃ vissajjetvā gehañca dāpetvā — “gacchatha bhaṇḍaṃ vikkiṇitvā gamanakāle maṃ disvā gaccheyyāthā”ti āha. Te tathā katvā gamanakāle rājānaṃ addasaṃsu. “Gacchatha tumhākaṃ rājānaṃ mama vacanena punappunaṃ ārogyaṃ pucchitvā ‘rājā tumhehi saddhiṃ mittabhāvaṃ icchatī’ti vadathā”ti āha.

Trong câu chuyện ấy được kể lại theo thứ tự như vầy – Tương truyền rằng vua Bimbisāra đang trị vì vương quốc trong thành phố Rājagaha ở miền Trung quốc độ, vua Pukkusāti đang trị vì vương quốc ở thành phố Takkasīla ở biên giới quốc độ. Khi ấy những người thương buôn ai cũng mang hàng hóa từ thành phố Takkasīla đến thành phố Rājagaha, mang quà biếu dâng lên đức vua. Đức vua hỏi những người thương buôn đang dâng lễ vật rằng: ‘Các khanh đến từ đâu’, tâu bệ hạ ‘chúng thần đến từ Takkasīla’. Khi ấy đức vua hỏi về sự thái bình và sự tìm kiếm lương thực có được dễ dàng v.v, của người dân bản địa và lai lịch của những người thương buôn đó rồi hỏi rằng: ‘Đức vua của các khanh tên là gì?’ – Tâu bệ hạ, đức vua của chúng thần tên là Pukkusāti. – Vị ấy có trị vì đúng Pháp không? – Có tâu bệ hạ, đức vua của chúng thần trị vì đúng Pháp, ngài nhiếp chúng bằng bốn nhiếp pháp [Saṅgahavatthu], vị ấy đứng ở vị trí (như) mẹ và cha của thế gian, thần dân hân hoan tựa như đứa bé nằm ở trong lòng mẹ. – Ngài bao nhiêu hạ-lạp? Sau đó, các thương nói đến độ tuổi của vua ấy. Có độ tuổi bằng vua Bimbisara. Sau đó, đức vua nói cùng các thương buôn – “này các thương buôn, đức vua của các khanh trị vì đúng Pháp và có độ tuổi bằng với ta, các khanh có thể làm cho vị ấy trở thành bạn với trẫm chăng?” – Tâu bệ hạ chúng thần có thể. – Đức vua miễn thuế cho những thương buôn ấy, đã ban cho một ngôi nhà rồi nói: “các khanh hãy đi, sau khi bán hết hàng hóa rồi quay trở lại, đến gặp trẫm rồi từ từ hẳn đi.” – Những người thương buôn đã làm như thế vào lúc trở về đã đến yết kiến đức vua. Đức vua nói rằng: “Các khanh hãy trở về, các khanh hãy đến hỏi về sức khỏe, lập lại lời nói của trẫm, rồi nói rằng: “Đức vua Bimbisāra mong muốn được kết giao tình bằng hữu cùng với ngài.”

Te sādhūti paṭissuṇitvā gantvā bhaṇḍaṃ paṭisāmetvā bhuttapātarāsā rājānaṃ upasaṅkamitvā vandiṃsu. Rājā “kahaṃ bhaṇe tumhe ettake ime divase na dissathā”ti pucchi. Te sabbaṃ pavattiṃ ārocesuṃ. Rājā — “sādhu, tātā, tumhe nissāya mayā majjhimappadese rājā mitto laddho”ti attamano ahosi. Aparabhāge Rājagahavāsinopi vāṇijā Takkasīlaṃ agamaṃsu. te paṇṇākāraṃ gahetvā āgate Pukkusāti rājā “kuto āgatatthā”ti pucchitvā “Rājagahato”ti sutvā “mayhaṃ sahāyassa nagarato āgatā tumhe”ti. Āma devāti. Ārogyaṃ me sahāyassāti ārogyaṃ pucchitvā “ajja paṭṭhāya ye mayhaṃ sahāyassa nagarato jaṅghasatthena vā sakaṭasatthena vā vāṇijā āgacchanti, sabbesaṃ mama visayaṃ paviṭṭhakālato paṭṭhāya vasanagehāni, rājakoṭṭhāgārato nivāpañca dentu, suṅkaṃ vissajjentu, kiñci upaddavaṃ mā karontū”ti bheriṃ carāpesi. Bimbisāropi attano nagare tatheva bheriṃ carāpesi.

Những người thương buôn ấy đã tiếp nhận chỉ dụ của đức vua, đã đi thu gom hàng hóa, sau khi dùng điểm tâm sáng, đã đi đến yết kiến đức vua. Đức vua hỏi rằng: “Này các khanh, các khanh đã đi đâu nhiều ngày trẫm không thấy?” Họ đã thuật lại toàn bộ câu chuyển cho đức vua. Đức vua có tâm hoan hỷ: “Này các khanh, tốt lành thay, ta được đức vua ở Trung quốc độ ngỏ ý kết tình bằng hữu nhờ vào các khanh.” Thời gian sau, những thương buôn ở thành phố Rājagaha cũng đi đến thành phố Takkasīla. Đức vua Pukkusāti hỏi các thương buôn ấy đã mang quà biếu đến rằng: “Các khanh đến từ đâu?” Đức vua sau khi nghe (rằng) từ thành phố “Rājagaha” đã nói “các khanh đến từ thành phố của bạn hữu của ta. Thưa phải, tâu bệ hạ. Đức vua hỏi đến tình trạng sức khỏe: “Bằng hữu của trẫm tình trạng sức khỏe ra sao? rồi cho đánh trống thông báo ‘kể từ ngày hôm nay, những người thương buôn đi bộ hoặc những người thương buôn bằng những cỗ xe nào đến từ thành phố của vị bằng hữu của trẫm, kể từ khi tất cả những người thương buôn bước vào địa phận của trẫm” hãy cho nhà làm chỗ nghỉ ngơi và cung cấp lương thực từ ngân khố hoàng gia, hãy miễn thuế, chớ tạo bất kỳ nguy hiểm nào cho những người thương buôn ấy. Phía đức vua Bimbisāra cũng cho đáng trống tuyên bố tương tự như vậy trong thành phố của ngài.

Atha Bimbisāro Pukkusātissa paṇṇaṃ pahiṇi — “paccantadese nāma maṇimuttādīni ratanāni uppajjanti, yaṃ mayhaṃ sahāyassa rajje dassanīyaṃ vā savanīyaṃ vā ratanaṃ uppajjati, tattha me mā maccharāyatū”ti. Pukkusātipi — “majjhimadeso nāma mahājanapado, yaṃ tattha evarūpaṃ ratanaṃ uppajjati, tattha me sahāyo mā maccharāyatū”ti paṭipaṇṇaṃ pahiṇi. Evaṃ te gacchante gacchante kāle aññamaññaṃ adisvāpi daḷhamittā ahesuṃ.

Tiếp đó, đức vua Bimbisāra đã gửi quà biếu đến đức vua Pukkusāti – “các loại châu báu gồm ngọc ma-ni, ngọc trai v.v, phát sanh ở xứ biên thùy thuộc quốc độ, loại châu báu nào nên được thấy và nên được nghe đều phát sanh ở vương quốc của vị bằng hữu của trẫm, cầu mong cho bạn ta đừng keo kiệt đối với những loại châu báu ấy. Phía đức vua Pukkusāti cũng gửi quà biếu trả lời (rằng) “Thông thường ở vùng Trung thổ là xứ sở rộng lớn, châu báu có hình thức như vậy, cầu mong cho vị bằng hữu của trẫm hãy đừng keo kiệt đối với những loại châu báu ấy.” Khi thời gian trôi qua như vậy (hai) vị ấy mặc dầu không nhìn thấy nhau (tuy nhiên) họ cũng trở thành đôi bạn gắn bó thân thiết.

Evaṃ tesaṃ katikaṃ katvā vasantānaṃ paṭhamataraṃ Pukkusātissa paṇṇākāro uppajji. Rājā kira aṭṭha pañcavaṇṇe anagghakambale labhi. So — “atisundarā ime kambalā, ahaṃ sahāyassa pesissāmī”ti lākhāguḷamatte aṭṭha sārakaraṇḍake likhāpetvā tesu te kambale pakkhipitvā lākhāya vaṭṭāpetvā setavatthena veṭhetvā samugge pakkhipitvā vatthena veṭhetvā rājamuddikāya lañchetvā “mayhaṃ sahāyassa dethā”ti amacce pesesi. Sāsanañca adāsi — “ayaṃ paṇṇākāro nagaramajjhe amaccādiparivutena daṭṭhabbo”ti. Te gantvā Bimbisārassa adaṃsu.

Khi cả hai vị vua ấy thực hiện việc nói như vậy, các quà biếu đã phát sanh đến đức vua Pukkusāti trước. Được biết rằng đức vua đã nhận được tám tấm vải , vô giá, có 5 màu. Đức vua ấy suy nghĩ rằng: “Những tấm vải len này tuyệt đẹp, ta sẽ gửi đến cho vị bằng hữu của trẫm” cho truyền các đại thần cố vấn với kim khẩu rằng: các khanh hãy làm 8 cái hộp thật chắc chắn bằng khối nhựa cánh kiến đỏ, đặt những tấm vải len ấy trong những chiếc hộp đó bào bọc lại bằng nhựa cánh kiến đỏ, buộc chặt lại bằng vải trắng, đặt vào cái rương buộc lại với tấm vải, được đóng ấn triện rồi dâng lên vị bằng hữu của trẫm. Và được đức vua ban kim khẩu (như sau) “Cầu mong cho vị bằng hữu của trẫm được những đại thần cố vấn vây quanh có thể nhìn thấy quà biếu này ở giữa thành phố.” Họ đã đi đến dâng lên (quà biếu) cho vua Bimbisāra.

So sāsanaṃ sutvā amaccādayo sannipatantūti bheriṃ carāpetvā nagaramajjhe amaccādiparivuto setacchattena dhāriyamānena pallaṅkavare nisinno lañchanaṃ bhinditvā vatthaṃ apanetvā samuggaṃ vivaritvā anto bhaṇḍikaṃ muñcitvā lākhāguḷe disvā “mayhaṃ sahāyo Pukkusāti ‘jutavittako[1] me sahāyo’ti maññamāno maññe imaṃ paṇṇākāraṃ pahiṇī”ti ekaṃ guḷaṃ gahetvā hatthena vaṭṭetvā tulayantova anto dussabhaṇḍikaṃ atthīti aññāsi.

Đức vua Bimbisāra sau khi nghe được thông điệp của đức vua, ngài cho đánh trống tuyên bố rằng: “tất cả mọi người gồm đại thần cố vấn v.v, hãy tụ họp lại” các đại thận cố vấn v.v, vây quanh, có cây lọng trắng che chỗ ngồi trên bảo tọa quý báu ở giữa thành phố, mở ấn triện, mở tấm vải ra, mở rương, mở hộp, cởi lớp vải gói bên trong, nhìn thấy khối nhựa cánh kiến đỏ, có suy nghĩ rằng: “Đức vua Pukkusāti bạn quả nhân nghĩ (rằng) ‘Vị bằng hữu của trẫm có tâm chói sáng mới gửi những quà biếu này đến” nắm lấy một khối lên rồi đập với đôi tay, xem xét cũng không biết được rằng bên trong ‘có gói tấm vải’

Atha naṃ pallaṅkapāde paharitvā tāvadeva lākhā paripati, so nakhena karaṇḍakaṃ vivaritvā anto kambalaratanaṃ disvā itarepi vivarāpesi, sabbepi kambalā ahesuṃ. Atha ne pattharāpesi, te vaṇṇasampannā phassasampannā dīghato soḷasahatthā tiriyaṃ aṭṭhahatthā ahesuṃ. Mahājano disvā aṅguliyo poṭhesi, celukkhepaṃ akāsi, — “amhākaṃ rañño adiṭṭhasahāyo Pukkusāti adisvāva evarūpaṃ paṇṇākāraṃ pesesi, yuttaṃ evarūpaṃ mittaṃ kātun”ti attamano ahosi. rājā ekamekaṃ kambalaṃ agghāpesi, sabbe anagghā ahesuṃ. tesu cattāro sammāsambuddhassa pesesi, cattāro attano ghare akāsi. Tato cintesi — “pacchā pesentena paṭhamaṃ pesitapaṇṇākārato atirekaṃ pesetuṃ vaṭṭati, sahāyena ca me anaggho paṇṇākāro pesito, kiṃ nu kho pesemī”ti?

Tiếp đó, đập mạnh khối đó ở dưới bảo tọa, ngay lập tức khối đó vỡ ra, ngài đã mở cái hộp bằng móng tay nhìn thấy tấm vải lên được nhuộm đỏ ở bên trong, cho mở tất cả các hộp còn lại ra, toàn bộ đều là vải len. Sau đó, cho giở những tấm vải len ấy. Những tấm vải len ấy hoàn hảo với màu sắc, tuyệt hảo với sự xúc chạm, dài 16 hắc tay, rộng 8 hắc tay, sau khi đại chúng nhìn thấy đã vẫy ngón tay, đã dơ những mảnh vải nhỏ nhỏ lên cùng nhau vui mừng, – “Đức vua Pukkusāti, vị bằng hữu của vua chưa từng gặp gỡ vua của chúng ta, chưa từng nhìn thấy, vẫn gửi quà biếu bằng hình thức như thế đến, việc khiến đức vua coi đây như một người bạn thực sự là điều xứng đáng.” Đức vua cho định giá từng tấm vải, tất cả mọi tấm vải đều vô giá. Trong số tám tấm vai len ấy (ngài) đã cúng dường bốn tấm vải đến bậc Chánh đẳng Chánh giác, cất giữ bốn tấm vải ở hoàng cung của ngài. Sau đó đức vua suy nghĩ rằng – “quà biếu được trẫm gửi lần sau thật tốt đẹp hơn quà biếu lần trước, bởi vị bằng hữu của trẫm đã gửi những quà biếu vô giá đến trẫm, trẫm sẽ gửi gì đây?”

Kiṃ pana Rājagahe tato adhikaṃ ratanaṃ natthīti? no natthi, mahāpuñño rājā, apica kho panassa sotāpannakālato paṭṭhāya ṭhapetvā tīṇi ratanāni aññaṃ ratanaṃ somanassaṃ janetuṃ samatthaṃ nāma natthi. So ratanaṃ vicinituṃ āraddho — ratanaṃ nāma saviññāṇakaṃ aviññāṇakanti duvidhaṃ. Tattha aviññāṇakaṃ suvaṇṇarajatādi, saviññāṇakaṃ indriyabaddhaṃ. Aviññāṇakaṃ saviññāṇakasseva alaṅkārādivasena paribhogaṃ hoti, iti imesu dvīsu ratanesu saviññāṇakaṃ seṭṭhaṃ. Saviññāṇakampi duvidhaṃ tiracchānaratanaṃ manussaratananti. Tattha tiracchānaratanaṃ hatthiassaratanaṃ, tampi manussānaṃ upabhogatthameva nibbattati, iti imesupi dvīsu manussaratanaṃ seṭṭhaṃ. Manussaratanampi duvidhaṃ itthiratanaṃ purisaratananti. Tattha cakkavattino rañño uppannaṃ itthiratanampi purisasseva upabhogaṃ. Iti imesupi dvīsu purisaratanameva seṭṭhaṃ.

Hơn nữa, trong thành phố Rājagaha không có châu báu nào tuyệt hảo hơn sao? Không phải không có, đức vua vị có nhiều phước báu, và hơn nữa, kể từ thời điểm ngài trở thành bậc Thánh Tu-đà-hoàn thì ngoại trừ Tam bảo ra chẳng có thứ nào khác có khả năng để làm cho hỷ lạc khởi lên được. Ngài đã bắt đầu chọn châu báu – châu báu có dạng là hữu thức và vô thức. Trong hai loại ấy thì châu báu vô thức bao gồm vàng và bạc v.v, có thức bao gồm những thứ liên quan đến giác quan. Châu báu vô thức là những vật dụng sử dụng với công năng của những đồ trang hoàng trang trí v.v, của chính châu báu có thức. Trong hai loại châu báu này thì châu báu có thức là tối thượng. Thậm chí châu báu hữu thức cũng có hai loại là bàng sanh báu và nhân loại báu. Trong 2 loại châu báu ấy thì bàng sanh báu bao gồm voi báu và ngựa báu. Ngay cả bàng sanh báu ấy sanh lên để làm phương tiện sử dụng của tất cả mọi người. Trong hai loại châu báu ấy thì nhân loại báu tối thượng, là như thế. Cả nhân loại báu cũng có 2 loại là nữ nhân báu và nam nhân báu. Ở đấy, nữ nhân báu sanh lên cho vua Chuyển luân, là sự thưởng thức của nam nhân. Trong 2 loại báu ấy thì nam nhân báu tối thượng, là như thế.

Purisaratanampi duvidhaṃ agāriyaratanaṃ anagāriyaratanañca. Tattha agāriyaratanesupi cakkavattirājā[2] ajja pabbajitasāmaṇeraṃ pañcapatiṭṭhitena vandati, iti imesupi dvīsu anagāriyaratanameva seṭṭhaṃ. Anagāriyaratanampi duvidhaṃ sekkharatanañca asekkharatanañca. Tattha satasahassampi sekkhānaṃ asekkhassa padesaṃ na pāpuṇāti, iti imesupi dvīsu asekkharatanameva seṭṭhaṃ. Tampi duvidhaṃ buddharatanaṃ sāvakaratananti. Tattha satasahassampi sāvakaratanānaṃ buddharatanassa padesaṃ na pāpuṇāti, iti imesupi dvīsū buddharatanameva seṭṭhaṃ.

Nam nhân báu cũng có hai loại là gia chủ báu và xuất gia báu. Ở đấy, vua Chuyển luân đảnh lễ vị Sa-di xuất gia vào ngày hôm ấy bằng ngũ thể tạ địa[3] trong chính gia chủ báu ấy, Trong 2 loại châu báu ấy như thế thì chỉ có xuất gia báu là tối thượng. Thậm chí trong 2 hạng xuất gia ấy là hạng Hữu học báu và hạng Vô học báu. Ở đây, bậc Hữu học có đến hàng trăm ngàn cũng không bằng một phần của bậc Vô học, trong 2 loại báu ấy này thì chỉ bậc Vô học là tối thượng. Ngay cả bậc Vô hoc cũng có 2 là Phật báu và Thinh văn báu. Ở đây, thì bậc Thinh văn báu thậm chí có hàng trăm ngàn vị cũng không bằng một phần của Phật báu, trong 2 báu ấy thì Phật báu là tối thượng.

Buddharatanampi duvidhaṃ paccekabuddharatanaṃ sabbaññubuddharatananti. tattha satasahassampi paccekabuddhānaṃ sabbaññubuddhassa padesaṃ na pāpuṇāti, iti imesupi dvīsu sabbaññubuddharatanaṃyeva seṭṭhaṃ. Sadevakasmiñhi loke buddharatanasamaṃ ratanaṃ nāma natthi. Tasmā asadisameva ratanaṃ mayhaṃ sahāyassa Pesessāmīti cintetvā Takkasīlavāsino pucchi — “tātā tumhākaṃ janapade buddho dhammo saṅghoti imāni tīṇi ratanāni dissantī”ti[4]. Ghosopi so mahārāja tāva tattha natthi, dassanaṃ pana kutoti.

 Ngay cả Phật báu cũng có 2 là Phật-độc-giác báu và Phật toàn giác báu. Ở đây, Phật-độc-giác báu dầu có hàng trăm ngàn vị cũng không bằng một phần của Phật toàn giác báu, trong 2 báu ấy thì Phật toàn giác báu là tối thượng. Không có loại châu báu nào ngang bằng với Phật báu cả trong thế giới loài người lẫn thế giới chư thiên. Vì thế đức vua mới suy nghĩ rằng: “ta sẽ đưa châu báu không có gì sánh bằng ấy đến cho vị bằng hữu của trẫm” mới hỏi những người thương buôn Takkasīla – “Này các khanh, Tam bảo là Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo xuất hiện ở trong xứ sở của các khanh chưa?” Muôn tâu bệ hạ, ngay cả tiếng nói cũng không có thì làm sao có thể nhìn thấy được ở xứ sở ấy?

“Sundaraṃ tātā”ti rājā tuṭṭho cintesi — “sakkā bhaveyya janasaṅgahatthāya mayhaṃ sahāyassa vasanaṭṭhānaṃ sammāsambuddhaṃ pesetuṃ, buddhā pana paccantimesu janapadesu na aruṇaṃ uṭṭhapenti. Tasmā satthārā gantuṃ na sakkā. Sāriputtamoggallānādayo mahāsāvake pesetuṃ sakkā bhaveyya[5]. Mayā pana ‘therā paccante vasantī’ti sutvāpi manusse pesetvā te attano samīpaṃ āṇāpetvā upaṭṭhātumeva yuttaṃ. Tasmā na therehipi sakkā gantuṃ. Yena panākārena sāsane pesite satthā ca mahāsāvakā ca gatā viya honti, tenākārena sāsanaṃ pahiṇissāmī”ti. Cintetvā caturatanāyāmaṃ vidatthimattaputhulaṃ nātitanuṃ nātibahalaṃ suvaṇṇapaṭṭaṃ kārāpetvā “tattha ajja akkharāni likhissāmī”ti. pātova sīsaṃ nhāyitvā uposathaṅgāni adhiṭṭhāya bhuttapātarāso apanītagandhamālābharaṇo suvaṇṇasarakena jātihiṅgulikaṃ ādāya heṭṭhato paṭṭhāya dvārāni pidahanto pāsādamāruyha pubbadisāmukhaṃ sīhapañjaraṃ vivaritvā ākāsatale nisīditvā suvaṇṇapaṭṭe akkharāni likhanto — “idha tathāgato loke uppanno arahaṃ sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno sugato lokavidū anuttaro purisadammasārathi satthā devamanussānaṃ buddho bhagavā”ti. buddhaguṇe tāva ekadesena likhi.

Đức vua cảm thấy vui mừng khởi lên suy nghĩ rằng: “Ta sẽ đưa bậc Chánh đẳng Chánh giác đến chỗ cư ngụ của bạn trẫm, vì lợi ích cho việc nhiếp phục dân chúng, tuy nhiên chư Phật sẽ không nghĩ qua đêm ở xứ sở biên địa. Vì thế, bậc Đạo Sư sẽ không thể đi. Có lẽ nên đưa vị đại Thinh văn đệ tử gồm trưởng lão Sāriputta và trưởng lão Moggallāna v.v. đi thì có thể cư ngụ được không? Nếu ta đưa đi thì mọi người biết rằng “Các vị trưởng lão sống ở vùng biên địa thích hợp, cũng có thể gửi mọi người đi để đưa các vị trưởng lão ấy đến cư ngụ gần mình, rồi phục vụ nữa, vì thế các trưởng lão cũng không thể cư ngụ được, trẫm (sẽ) gửi chiếu thư cùng với quà biếu ấy, khi gởi chiếu thư đi với quà biếu nào thì bậc Đạo Sư và chư đại Thánh thinh văn tựa như (tự mình) đã đi rồi. Đức vua suy nghĩ thêm (rằng) trẫm cho làm một tấm bảng vàng dài 4 hắc tay, rộng khoảng một gang tay, độ dày vừa đủ, không quá mỏng cũng không quá nặng ‘hôm nay trẫm sẽ viết lên tấm bảng vàng ấy’. Ngài tắm rửa long thân từ sáng sớm, phát nguyện thọ trì ngày trai giới, thọ dụng điểm tâm sáng, cởi bỏ vật thơm, vòng hoa, và các đồ trang sức ra, lấy màu đỏ chu sa cùng với cái bát vàng, đóng hết các cửa lớn từ dưới, ngài bước lên hoàng cung đóng các của sở ở hướng Đông, ngồi ở trên bên mặt trống để viết những ký tự (vào chiếu thư) trên tấm bảng vàng, viết ân đức Phật theo ekadesa [từng phần] trước (như sau) “đức Như Lai, vị đã xa lìa phiền não, tự mình giác ngộ một cách chân chánh, thành tựu đầy đủ bởi minh và hạnh, đi một cách tốt đẹp, biết rõ thế gian, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, là thầy của chư Thiên và nhân loại, đã tỉnh thức, phân tích Giáo Pháp vị ấy đã xuất hiện trên gian này,”

Tato “evaṃ dasa pāramiyo pūretvā Tusitabhavanato cavitvā mātukucchimhi paṭisandhiṃ gaṇhi, evaṃ lokavivaraṇaṃ ahosi, mātukucchiyaṃ vasamāne idaṃ nāma ahosi, agāramajjhe vasamāne idaṃ nāma ahosi, evaṃ mahābhinikkhamanaṃ nikkhanto evaṃ mahāpadhānaṃ padahi, evaṃ dukkarakārikaṃ katvā mahābodhimaṇḍaṃ āruyha aparājitapallaṅke nisinno sabbaññutaññāṇaṃ paṭivijjhi, sabbaññutaññāṇaṃ paṭivijjhantassa evaṃ lokavivaraṇaṃ ahosi. Sadevake loke aññaṃ evarūpaṃ ratanaṃ    natthīti.

Yaṃkiñci vittaṃ idha vā huraṃ vā,

Saggesu vā yaṃ ratanaṃ paṇītaṃ.

Na no samaṃ atthi tathāgatena,

Idampi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ.

Etena saccena suvatthi hotū”ti.[6]

Từ đó, viết rằng: “Đức Phật thực hành 10 pháp ba-la-mật như vầy, tử ở cõi Tusita, tục sanh nhập vào bụng của người mẹ, việc khai mở vũ trụ đã có như vậy trong khi ở trong bụng mẹ tên này đã có, trong khi sống đời sống tại gia tên này đã có, trong khi thực hiện cuộc ra đi vĩ đại (ra đi theo hạnh xuất ly) như vậy, bắt đầu phát nguyện sự tinh tấn vĩ đại như vậy, thực hành khổ hạnh (thực hiện hành động khó thực hành được) như vậy, bước lên khuôn viên Đại thọ Bồ Đề an tọa trên Bồ Đoàn bất khả chiến bại, thấy triệt Trí toàn giác, khi thấu triệt được Trí toàn giác có việc khai mở vũ trụ như vậy. Không có châu báu nào khác có hình thức như vầy trên thế gian và cả thế giới chư Thiên.” (đức vua) đã viết toàn bộ ân đức Phật theo ekadesa [từng phần] như sau –

Bất cứ của cải nào ở đời này hoặc đời sau,

hoặc loại châu báu hảo hạng nào ở các cõi Trời,

thật vậy, không có gì sánh bằng đức Như Lai.

Châu báu hảo hạng này cũng có ở đức Phật;

do sự chân thật này mong rằng hãy có sự hưng thịnh. —

Evaṃ ekadesena Buddhaguṇepi likhitvā dutiyaṃ dhammaratanaṃ thomento — “svākkhāto bhagavatā dhammo … pe … paccattaṃ veditabbo viññūhī”ti. “cattāro satipaṭṭhānā … pe … ariyo aṭṭhaṅgiko maggo”ti. “Satthārā desitadhammo nāma evarūpo ca evarūpo cā”ti sattatiṃsa bodhipakkhiye ekadesena likhitvā —

“yaṃ buddhaseṭṭho parivaṇṇayī suciṃ,

samādhimānantarikaññamāhu.

samādhinā tena samo na vijjati,

idampi dhamme ratanaṃ paṇītaṃ.

etena saccena suvatthi hotū”ti.[7]

Trong khi tán dương Pháp bảo thứ hai (rằng) “Giáo Pháp mà đức Thế Tôn đã khéo thuyết giảng …nt… mà chư bậc thiện trí tự mình biết rõ” đã viết 37 pháp trợ giác ngộ theo ekadesa [từng phần] như sau: “Bốn sự thiết lập niệm …nt… con đường có tám chi phần tối thượng”. “Gọi là Pháp được bậc Đạo Sư thuyết giảng có hình thức như thế và có hình thức như thế”, rồi viết toàn bộ ân đức Pháp theo từng phần rằng –

Điều mà đức Phật tối thắng đã ca ngợi là trong sạch,

Ngài đã nói điều ấy là định cho quả không bị gián đoạn,

pháp sánh bằng định ấy không được biết đến.

Châu báu hảo hạng này cũng có ở Giáo Pháp;

do sự chân thật này mong rằng hãy có sự hưng thịnh. —

Evaṃ ekadesena dhammaguṇe likhitvā tatiyaṃ saṅgharatanaṃ thomento — “suppaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho … pe … puññakkhettaṃ lokassā”ti. “kulaputtā nāma satthu dhammakathaṃ sutvā evaṃ nikkhamitvā pabbajanti, keci setacchattaṃ pahāya pabbajanti, keci uparajjaṃ, keci senāpatiṭṭhānādīni pahāya pabbajanti. pabbajitvā ca pana imañca paṭipattiṃ pūrentī”ti cūḷasīlamajjhimasīlamahāsīlādīni ekadesena likhitvā chadvārasaṃvaraṃ satisampajaññaṃ catupaccayasantosaṃ navavidhaṃ senāsanaṃ, nīvaraṇappahānaṃ parikammaṃ jhānābhiññā aṭṭhatiṃsa kammaṭṭhānāni yāva āsavakkhayā ekadesena likhi, soḷasavidhaṃ ānāpānassatikammaṭṭhānaṃ vitthāreneva likhitvā “satthu sāvakasaṅgho nāma evarūpehi ca guṇehi samannāgato.

ye puggalā aṭṭhasataṃ pasaṭṭhā,

cattāri etāni yugāni honti.

te dakkhiṇeyyā sugatassa sāvakā,

etesu dinnāni mahapphalāni.

idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ,

etena saccena suvatthi hotū”ti.[8]

Từ đó, khi tán dương Tăng bảo thứ ba rằng: “Chư Thánh Thinh văn đệ tử của đức Thế Tôn là những bậc đã hành nghiêm chỉnh đúng theo lời giáo huấn của Đức Phật …nt… là ruộng phước của thế gian.” (ngài) viết tiểu giới, trung giới theo từng phần: “Thông thường tất cả thiện nam tử sau khi lắng nghe Giáo Pháp của bậc Đạo Sư đều xuất gia như vậy, một số đã tư bỏ cây lộng trắng xuất gia, một số đã từ bỏ chức phó vương xuất gia, một số từ bỏ mọi chức vụ như vị trí tướng quân v.v, đế xuất gia. Và hơn nữa khi xuất gia làm tròn đủ đạo lộ thực hành” (ngài) đã viết việc phòng hộ sáu môn, niệm và sự nhận biết rõ, sự hoan hỷ trong việc phát triển lối sống biết hài lòng với bốn món vật dụng, việc từ bỏ pháp ngăn che, chuẩn bị tướng – parikamma, thiền và thần thông, 38 đề mục thiền định, cho đến sự đoạn tận của các lậu theo từng phần, viết 16 đề mục niệm hơi thở vào và niệm hơi thở ra hoàn toàn chi tiết, viết toàn bộ ân đức Tăng bảo theo từng phần “được gọi chư Thánh Thinh văn đệ tử của bậc Đạo Sư thành tựu đầy đủ với mọi ân đức có hình thức như thế và có hình thức như thế.

Tám hạng người nào đã được các bậc thiện nhân ca tụng,

các vị này là bốn đôi (gồm có bốn Đạo và bốn Quả);

họ là các đệ tử của đấng Thiện Thệ, xứng đáng cúng dường,

các sự bố thí ở các vị này có quả báu lớn lao.

Châu báu hảo hạng này cũng có ở Tăng Chúng;

do sự chân thật này mong rằng hãy có sự hưng thịnh. –

Evaṃ ekadesena saṅghaguṇe likhitvā — “Bhagavato sāsanaṃ svākkhātaṃ niyyānikaṃ, sace mayhaṃ sahāyo sakkoti, nikkhamitvā pabbajatū”ti likhitvā suvaṇṇapaṭṭaṃ saṃharitvā sukhumakambalena veṭhetvā sārasamugge pakkhipitvā taṃ samuggaṃ suvaṇṇamaye, suvaṇṇamayaṃ, rajatamaye rajatamayaṃ maṇimaye, maṇimayaṃ pavāḷamaye, pavāḷamayaṃ lohitaṅkamaye, lohitaṅkamayaṃ masāragallamaye, masāragallamayaṃ phalikamaye, phalikamayaṃ dantamaye, dantamayaṃ sabbaratanamaye, sabbaratanamayaṃ kilañjamaye, kilañjamayaṃ samuggaṃ sārakaraṇḍake ṭhapesi.

(Vị ấy) đã biết rằng – “Giáo Pháp của đức Thế Tôn đã được khéo thuyết giảng dẫn dắt chúng sanh thoát khỏi khỏi đau, nếu như vị bằng hữu của trẫm có thể, cầu mong ngài hãy xuất gia” rồi cuộn tấm bảng vàng lại buộc với tấm vải len mềm mịn, đặt vào một cái rương chắn chắc, đặt cái rương đó vào cái rương vàng, đặt cái rương vàng vào cái rương bạc, đặt cái rương bạc vào rương ngọc ma-ni, đặt cái rương ngọc ma-ni vào cái rương ngọc san hô, đặt cái rương ngọc san hô vào cái rương hồng ngọc, đặt cái rương hồng ngọc vào cái rương ngọc cẩm thạch, đặt cái rương ngọc cẩm thạch vào cái rương ngọc pha lê, đặt cái rương ngọc pha lê vào trong rương ngà voi, đặt cái rương ngà voi vào cái rương đủ loại châu báu, đặt cái rương đủ loại châu báu vào cái rương được làm bằng tấm thảm tre, đặt  cái rương được làm bằng tấm thảm tre vào trong hộp thật chắc chắn.

Puna sārakaraṇḍakaṃ suvaṇṇakaraṇḍaketi purimanayeneva haritvā sabbaratanamayaṃ karaṇḍakaṃ kilañjamaye karaṇḍake ṭhapesi. Tato kilañjamayaṃ karaṇḍakaṃ sāramayapeḷāyāti puna vuttanayeneva haritvā sabbaratanamayaṃ peḷaṃ kilañjamayapeḷāya ṭhapetvā bahi vatthena veṭhetvā rājamuddikāya lañchetvā amacce āṇāpesi — “mama āṇāpavattiṭṭhāne maggaṃ alaṅkārāpetha maggo aṭṭhusabhavitthato hotu, catūsabhaṭṭhānaṃ sodhitamattakameva hotu, majjhe catūsabhaṃ rājānubhāvena paṭiyādethā”ti. Tato maṅgalahatthiṃ alaṅkārāpetvā tassa upari pallaṅkaṃ paññapetvā setacchattaṃ ussāpetvā nagaravīthiyo sittasammaṭṭhā[9] samussitaddhajapaṭākā kadalipuṇṇaghaṭagandhadhūmapupphādīhi suppaṭimaṇḍitā kāretvā “attano attano visayappadese evarūpaṃ pūjaṃ kārentū”ti antarabhogikānaṃ javanadūte pesetvā sayaṃ sabbālaṅkārena alaṅkaritvā — “sabbatāḷāvacarasammissabalakāyaparivuto paṇṇākāraṃ pesemī”ti attano visayapariyantaṃ gantvā amaccassa mukhasāsanaṃ adāsi — “Tāta mayhaṃ sahāyo Pukkusāti imaṃ paṇṇākāraṃ paṭicchanto orodhamajjhe apaṭicchitvā pāsādaṃ āruyha paṭicchatū”ti. Evaṃ sāsanaṃ datvā paccantadesaṃ satthā gacchatīti pañcapatiṭṭhitena vanditvā nivatti. Antarabhogikā teneva niyāmena maggaṃ paṭiyādetvā paṇṇākāraṃ nayiṃsu.

Đặt cái hộp ấy vào trong một hộp vàng nữa, đem đi theo cách thức trước, đặt cái hộp được làm với tất cả châu báu vào trong cái hộp được được làm bằng tấm thảm tre. Từ đó, đặt cái hộp được làm bằng tấm thảm tre vào trong cái rương được làm bằng lõi cây, được đem lại theo chính cách thức đã được đề cập, đặt cái rương được làm bằng các loại châu báu trong cái rương được làm bằng tấm thảm tre, bên ngoài buộc lại bằng tấm vải đã được đóng ấn triện. Cho truyền các đại thần cố vấn (lệnh rằng) “này các khanh hãy trang hoàng những con đường trong hoàng thành dưới quyền cai quản của trẫm làm cho rộng ra 8 usabha, khu vực 4 usabha cần phải đẹp đồng đều, khu vực 4 usabha ở trung tâm trang hoàng với oai lực của một bậc đế vương.” Từ đó, đưa sứ thần lập tức cho các trưởng bộ tộc hãy chuẩn bị vương tượng Maṅgala, sửa soạn bảo tọa ở trên lưng vương tượng ấy, nâng cây lọng trắng lên, quét dọn đường xá sạch sẽ, trang hoàng trang trí tốt đẹp bằng việc vươn cờ vải lên, dựng lên cây chuối, đổ đầy bình nước, vật thơm, nhang và tràng hoa v.v, “hãy thực hiện việc lễ bái bằng hình thức như vậy ở khu vực được sở hữu của mỗi cá nhân.” Còn chính ngài được trang hoàng với tất cả loại trang sức, nhóm đạo quân với nhiều loại dụng cụ âm nhạc vây quanh đã suy nghĩ rằng: “Ta sẽ gửi quà biếu như vậy” đi đến tận vùng lãnh thổ của ngài, truyền ban khẩu vụ quan trọng cho đại thần cố vấn rồi nói rằng: “Này khanh, đức vua Pukkusāti, vị bằng hữu của trẫm, trong khi nhận quà biếu này, đừng nhận ở giữa hậu cung hãy để ngài bước lên cung điện rồi hãy tiếp nhận. Khi đức vua ban khẩu vụ này ngài nghĩ rằng: “Bậc Đạo Sư đến xứ biên địa” (vị ấy) đã đảnh lễ bằng ngũ thể tạ địa rồi trở về. Còn các vị trưởng bộ tộc cho trang trí con đường hoàn toàn với chính cách ấy (rồi) mang quà biếu đi.

Pukkusātipi attano rajjasīmato paṭṭhāya teneva niyāmena maggaṃ paṭiyādetvā nagaraṃ alaṅkārāpetvā paṇṇākārassa paccuggamanaṃ akāsi. Paṇṇākāro Takkasīlaṃ pāpuṇanto uposathadivase pāpuṇi, paṇṇākāraṃ gahetvā gatāmaccopi rañño vuttasāsanaṃ ārocesi. Rājā taṃ sutvā paṇṇākārena saddhiṃ āgatānaṃ kattabbakiccaṃ vicāretvā paṇṇākāraṃ ādāya pāsādaṃ āruyha “mā idha koci pavisatū”ti dvāre ārakkhaṃ kāretvā sīhapañjaraṃ vivaritvā paṇṇākāraṃ uccāsane ṭhapetvā sayaṃ nīcāsane nisinno lañchanaṃ bhinditvā nivāsanaṃ apanetvā kilañjapeḷato paṭṭhāya anupubbena vivaranto sāramayaṃ samuggaṃ disvā cintesi — “mahāparihāro nāyaṃ[10] aññassa ratanassa bhavissati, addhā majjhimadese sotabbayuttakaṃ ratanaṃ uppannan”ti. Atha taṃ samuggaṃ vivaritvā rājalañchanaṃ bhinditvā sukhumakambalaṃ ubhato viyūhitvā suvaṇṇapaṭṭaṃ addasa.

Còn đức vua Pukkusāti cho sửa sang con đường theo cách tương tự từ ranh giới hoàng thành của ngài cho trang hoàng thành phố để thực hiện việc tiếp rước quà biếu hoàng gia, cống phẩm khi đến Takkasīla vào ngày trai giới uposatha. Phía đại thần cố vấn nhận quà biếu đã đi truyền lại kim khẩu được nói đến nhà vua. Đức vua sau khi nghe được kim khẩu ấy, suy xét điều nên làm cùng các đại thận cố vấn đến cùng với cống phẩm ấy, cầm lấy quà biếu ngài bước lên trên cung điện rồi nói rằng “bất cứ ai cũng đừng bước vào khu vực này” (và) truyền cho (quân lính) canh giữ các cửa lớn, mở cửa sổ, đặt quà biếu lên trên chỗ ngồi cao, còn ngài ngồi dưới chỗ ngồi thấp, lâu sạch dấu ấn triện, gỡ bỏ vật dụng bao trùm, trong khi mở theo tuần tự thứ lớp bắt đầu từ rương từ tấm thảm tre, nhìn thấy cái được làm từ lõi trầm hương, (ngài) khởi lên suy nghĩ rằng: “được xem là vô cùng thận trọng này sẽ không có đối với những loại châu báu khác, châu báu này nên được lắng nghe chắc chắn đã xuất hiện ở vùng Trung thổ.” Tiếp đến, sau khi mở cái rương ấy rồi lau sạch ấn triện, mở tấm vải len mềm mịn ở hai bên, nhìn thấy tấm bản vàng.

So taṃ pasāretvā[11] — “manāpāni vata[12] akkharāni samasīsāni samapantīni caturassānī”tiādito paṭṭhāya vācetuṃ ārabhi. Tassa — “Idha Tathāgato loke uppanno”ti buddhaguṇe vācentassa balavasomanassaṃ uppajji, navanavutilomakūpasahassāni uddhaggalomāni ahesuṃ. Attano ṭhitabhāvaṃ vā nisinnabhāvaṃ vā na jānāti. Athassa — “Kappakoṭisatasahassehipi etaṃ dullabhasāsanaṃ sahāyaṃ nissāya sotuṃ labhāmī”ti[13] bhiyyo balavapīti udapādi. So hi upari vācetuṃ asakkonto yāva pītivegapassaddhiyā nisīditvā parato[14] — “Svākkhāto bhagavatā dhammo”ti dhammaguṇe ārabhi. Tatrāpissa tatheva ahosi. So puna yāva pītivegapassaddhiyā nisīditvā parato “suppaṭipanno”ti saṅghaguṇe ārabhi. Tatrāpissa tatheva ahosi. Atha sabbapariyante ānāpānassatikammaṭṭhānaṃ vācetvā catukkapañcakajjhānāni nibbattesi, so jhānasukheneva vītināmesi. Añño koci daṭṭhuṃ na labhati, ekova cūḷupaṭṭhāko pavisati. Evaṃ addhamāsamattaṃ vītināmesi.

Ngài đã mở tấm bản vàng ấy ra, suy nghĩ rằng – “Tất cả mọi ký tự quả thật đáng hài lòng, có phần đầu đồng đẳng, có trật tự, ngăn nắp, có bốn góc vuông vức” bắt đầu để đọc từ đầu. Trong khi đọc về các ân đức Phật thì một cảm giác hỷ lạc mạnh mẽ sanh khởi đi sanh khởi lại nơi ngài như sau: “đức Như Lai đã xuất hiện trên thế gian này, chín mươi chín ngàn lỗ chân lông có phần đầu lông dựng ngược lên, ngài không còn biết đến bản thân của ngài đang đứng hay là đang ngồi. Sau đó, phỉ lạc mạnh mẽ đã phát sanh nơi ngài (rằng) “Trẫm đã được lắng nghe lời dạy khó tìm kiếm dầu trải qua trăm ngàn koṭi kiếp, do nương nhờ bạn.” Ngài trong khi không thể đọc tiếp, đã ngồi xuống cho đến khi năng lực hỷ được lắng dịu, rồi bắt đầu đọc tiếp các ân đức Pháp: “Giáo Pháp đã được đức Thế Tôn khéo thuyết”. Ngài cũng có phỉ lạc như thế ngay cả trong ân đức Pháp ấy. Ngài lại ngồi xuống cho đến khi phỉ lạc được lắng dịu, rồi đọc tiếp các ân đức Tăng như sau: “Chư Thánh Thinh văn đệ tử là những bậc đã thực hành đúng đắn”. Thậm chí trong ân đức Tăng đó ngài cũng có phỉ lạc tương tự như thế. Sau đó, ngài đọc đề mục niệm hơi thở vào và hơi thở ra, ở giai đoạn cuối cùng (ngài) làm cho thiền nhóm thứ tư và nhóm thứ năm sanh khởi. Ngài đã làm cho thời gian trôi qua với sự an lạc trong chính thiền ấy. Người khác đã không được nhìn thấy, chỉ có một người thị vệ được bước vào. Thời gian khoảng nửa tháng trôi qua như vậy.

Nāgarā rājaṅgaṇe sannipatitvā ukkuṭṭhiṃ akaṃsu “paṇṇākāraṃ paṭicchitadivasato paṭṭhāya baladassanaṃ vā nāṭakadassanaṃ vā natthi, vinicchayadānaṃ natthi, rājā sahāyena pahitaṃ paṇṇākāraṃ yassicchati[15], tassa dassetu[16], rājāno nāma ekaccassa paṇṇākāravasenapi vañcetvā rajjaṃ attano kātuṃ vāyamanti. Kiṃ nāma amhākaṃ rājā karotī”ti? Rājā ukkuṭṭhisaddaṃ sutvā — “rajjaṃ nu kho dhāremi, udāhu satthāran”ti cintesi. Athassa etadahosi — “rajjakāritāttabhāvo nāma neva gaṇakena, na gaṇakamahāmattena gaṇetuṃ sakko. Satthusāsanaṃ dhāressāmī”ti Sayane ṭhapitaṃ asiṃ gahetvā kese chinditvā sīhapañjaraṃ vivaritvā — “etaṃ gahetvā rajjaṃ kārethā”ti saddhiṃ cūḷāmaṇinā kesakalāpaṃ parisamajjhe pātesi, mahājano taṃ ukkhipitvā — “sahāyakasantikā laddhapaṇṇākārā nāma rājāno tumhādisā honti devā”ti ekappahāreneva viravi. Raññopi dvaṅgulamattaṃ kesamassu ahosi. Bodhisattassa pabbajjāsadisameva kira jātaṃ.

Dân chúng trong thành tụ họp lại ở sân chầu đã hò hét réo gọi: “kể từ ngày đức vua nhận được cống phẩm, không còn để tâm đến kinh thành, hoặc không còn để ý đến các vũ công, không ban quyết định (triều chính), đức vua hãy ban cho lễ vật được vị bằng hữu của ngài đã gửi đến, thường các vị vua sẽ ra sức lừa dối ngay cả các quà biếu, giữ lấy tài sản của một số vị cho riêng mình, đức vua của chúng ta có làm như vậy không?” Sau khi đức vua nghe tiếng la hét thì suy nghĩ rằng: “Trẫm bảo vệ lấy vương quyền hay lời dạy của bậc Đạo Sư?” Khi ấy ngài suy nghĩ rằng: “Kế toán không thể nào tính đếm được trạng thái trẫm thọ hưởng thiền chứng, cả tướng thủ kho cũng không thế tính đếm được trạng thái trẫm thọ hưởng thiền chứng, trẫm sẽ bảo vệ lời dạy của bậc Đạo Sư”, (ngài) đã cầm lấy thanh gươm đặt ở trên chỗ nằm cắt đứt búi tóc, mở cửa sổ ra, làm cho búi tóc cùng với vương miện rơi xuống giữa quần chúng, các khanh hãy cầm lấy búi tóc này (rồi) trị vì đất nước.” Quần chúng đưa búi tóc ấy lên, cùng khóc lóc thành tiếng – “Muôn tâu bệ hạ, các vị vua được gọi là nhận được quà biếu từ vị bằng hữu đều trở thành giống như ngài”. Đức vua có tóc và râu (còn lại) khoảng chừng hai lóng tay. Được biết tóc và râu mọc ra y như việc xuất gia của Bồ-tát.

Tato cūḷupaṭṭhākaṃ pesetvā antarāpaṇā dve kāsāyavatthāni mattikāpattañca āharāpetvā — “ye loke arahanto, te uddissa mayhaṃ pabbajjā”ti satthāraṃ uddissa ekaṃ kāsāvaṃ nivāsetvā ekaṃ pārupitvā pattaṃ vāmāṃsakūṭe katvā kattaradaṇḍaṃ gahetvā — “sobhati nu kho me pabbajjā no vā”ti mahātale katipayavāre aparāparaṃ caṅkamitvā — “sobhati me pabbajjā”ti dvāraṃ vivaritvā pāsādā otari. Otarantaṃ pana naṃ tīsu dvāresu[17] ṭhitanāṭakādīni disvāpi na sañjāniṃsu. “eko paccekabuddho amhākaṃ rañño dhammakathaṃ kathetuṃ āgato”ti kira cintayiṃsu. uparipāsādaṃ pana āruyha rañño ṭhitanisinnaṭṭhānāni disvā rājā gatoti ñatvā samuddamajjhe osīdamānāya nāvāya jano viya ekappahāreneva viraviṃsu. kulaputtaṃ bhūmitalaṃ otiṇṇamattaṃ aṭṭhārasaseniyo sabbe nāgarā balakāyā ca parivāretvā mahāviravaṃ viraviṃsu. Amaccāpi taṃ etadavocuṃ — “deva majjhimadesarājāno nāma bahumāyā, sāsanaṃ pesetvā buddharatanaṃ nāma loke uppannaṃ vā no vāti ñatvā gamissatha, nivattatha devā”ti. saddahāmahaṃ mayhaṃ sahāyakassa, tassa mayā saddhiṃ dvejjhavacanaṃ nāma natthi, tiṭṭhatha tumheti. Te anugacchantiyeva.

Sau đó, ngài sai người cận vệ mang lại tấm y ca-sa 2 mảnh và bình bát đất từ chợ – kinh dâng đến bậc Đạo Sư “các bậc A-ra-hán ở đời này, ta xuất gia kính dâng lên các vị bậc A-ra-hán đó” rồi quấn lên một tấm y ca-sa, mặc một tấm y ca-sa, mang bình bát, cầm lấy cây trượng, đi kinh hành tới lui 2-3 lần trên bề mặt đất rộng lớn với suy nghĩ rằng: “Việc xuất gia của ta tốt đẹp hay không, (ngài) biết được rằng: “Việc xuất gia của ta tốt đẹp” sau đó đóng các cửa lớn rồi bước xuống cung điện. Hơn nữa, dân chúng nhìn thấy các vũ công đứng ở cả ba cửa lớn v.v, nhưng không thể nhớ được đức vua (khi) ngài bước xuống. Được biết rằng mọi người nghĩ rằng: “Một vị Phật-độc-giác đến để thuyết giảng Giáo Pháp cho đức vua của chúng ta”, nhưng khi bước lên cung điện thì chỉ nhìn thấy được chỗ đứng và chỗ ngồi v.v, còn đức vua thì đã đi mất, cùng nhau than khóc, như thể người trên thuyền đang bị chìm tàu ở giữa đại dương. 18 toán quân, toàn bộ dân chúng trong thành, và tất cả binh lính cùng nhau vay quanh thiện nam tử vừa mới đặt chân đến mặt đất đã gào khóc dữ dội. Còn các đại thần cố vấn đã nói cùng thiện nam tử ấy: “Tâu bệ hạ, thường các vị vua ở vùng Trung thổ có rất nhiều, mong ngài hãy truyền lệnh gửi chiếu thư đi: Phật bảo được xem là đã xuất hiện trên thế gian rồi phải không? Sau khi biết được sẽ đi, tâu bệ hạ, xin ngài hãy quay trở lại.” Trẫm tin tưởng vị bằng hữu của trẫm, trẫm với vị bằng hữu ấy không có sự khác biệt, các khanh hãy dừng lại ngay, các đại thần cố vấn cũng tháp tùng theo ngài không ngừng.

Kulaputto kattaradaṇḍena lekhaṃ katvā — “idaṃ rajjaṃ kassā”ti āha? Tumhākaṃ devāti. yo imaṃ lekhaṃ antaraṃ karoti, rājāṇāya kāretabboti. Mahājanakajātake bodhisattena katalekhaṃ Sīvalidevī antaraṃ kātuṃ avisahantī vivattamānā agamāsi. Tassā gatamaggena mahājano agamāsi. Taṃ pana lekhaṃ mahājano antaraṃ kātuṃ na visahi, lekhaṃ ussīsakaṃ katvā vivattamānā viraviṃsu. kulaputto “ayaṃ me gataṭṭhāne dantakaṭṭhaṃ vā mukhodakaṃ vā dassatī”ti antamaso ekaceṭakampi aggahetvā pakkāmi. Evaṃ kirassa ahosi “mama satthā ca mahābhinikkhamanaṃ nikkhamitvā ekakova pabbajito”ti ekakova agamāsi. “Satthu lajjāmī”ti ca — “satthā kira me pabbajitvā yānaṃ nāruḷho”ti ca antamaso ekapaṭalikampi upāhanaṃ nāruhi, paṇṇacchattakampi na dhāresi. Mahājano rukkhapākāraṭṭālakādīni āruyha esa amhākaṃ rājā gacchatīti olokesi. Kulaputto — “dūraṃ gantabbaṃ, na sakkā ekena maggo nittharitun”ti ekaṃ satthavāhaṃ anubandhi. sukhumālassa kulaputtassa kaṭhinatattāya pathaviyā gachantassa pādatalesu phoṭā uṭṭhahitvā bhijjanti, dukkhā vedanā uppajjanti. Satthavāhe khandhāvāraṃ bandhitvā nisinne kulaputto maggā okkamma ekasmiṃ rukkhamūle nisīdati. Nisinnaṭṭhāne pādaparikammaṃ vā piṭṭhiparikammaṃ vā kattā nāma natthi, kulaputto ānāpānacatutthajjhānaṃ samāpajjitvā maggadarathakilamathapariḷāhaṃ vikkhambhetvā jhānaratiyā vītināmeti.

Thiện nam tử đã tạo ra nét kẻ gạch, nói rằng: “tài sản này là của ai?”. Của ngài, thưa bệ hạ. Người nào (có thể) xóa bỏ được nét kẻ gạch này ở khoảng giữa thì người ấy có thể nắm giữ vương quyền. Trong Bổn sanh Mahājanaka thì hoàng hậu Sīvalī khi không thể xóa bỏ nét kẻ gạch đã được tạo ra bởi Bồ-tát ở khoảng giữa rồi bà cũng bỏ đi. Đại chúng cũng tháp tùng trên con đường mà hoàng hậu đi. Đại chúng cũng không thể xóa bỏ nét kẻ gạch ấy ở khoảng giữa mới nằm lăn lộn, khóc lóc, lấy cái đầu dí vào gần đến nét kẻ gạch. Thiện nam tử đã rời đi không mang theo bất kỳ người phục dịch nào dù chỉ một với suy nghĩ rằng: “người đàn ông này sẽ bố thí cây chà răng hoặc nước súc miệng tại địa điểm mà ta đi qua.” Được biết rằng thiện nam tử ấy có sự suy nghĩ như vầy: “Bậc Đạo Sư của ta đã thực hiện cuộc ra đi vĩ đại cũng một mình xuất gia” cũng một mình ra đi. “ta cảm thấy hổ thẹn đối với bậc Đạo Sư” và – “Được biết bậc Đạo Sư của ta sau khi đã xuất gia không bước lên cỗ xe” (và) đến nỗi không mang đôi hài có một lớp da để lót, không che dù làm bằng lá cây. . Đại chúng leo lên cây, bức tường và pháo đài v.v, quan sát xem rằng: “Đó đức vua của ta đang đi như vậy.” Thiện nam tử nghĩ rằng: “Ta cần phải đi xa không thể đi con đường (này) một mình được” mới theo chân một nhóm thương buôn. Trong khi thiện nam tử dịu dàng và tế nhị đi trên bề mặt quả đất đang rất nóng, (lớp da dưới) cả hai bàn chân mưng mủ vỡ ra thành từng mảnh, cảm giác đau đớn khởi sanh. Khi những người thương buôn dựng lều nghỉ ngơi, thiện nam tử bước xuống đường, ngồi dưới một gốc cây, không có ai xoa bóp chân hoặc xoa bóp lưng ở khu vực chỗ ngồi. Thiện nam tử nhập vào đề mục niệm hơi thở tứ thiền để chế ngự sự khó nhọc, sự mệt mỏi và nóng bức trong việc đi đường, thời gian trôi qua với sự hoan hỷ trong thiền.

Punadivase uṭṭhite aruṇe sarīrapaṭijagganaṃ katvā puna satthavāhaṃ anubandhati. Pātarāsakāle kulaputtassa pattaṃ gahetvā khādanīyaṃ bhojanīyaṃ patte pakkhipitvā denti. Taṃ uttaṇḍulampi hoti kilinnampi samasakkharampi aloṇātiloṇampi, kulaputto pavisanaṭṭhānaṃ paccavekkhitvā amataṃ viya paribhuñjitvā etena niyāmena aṭṭhahi ūnakāni dve yojanasatāni gato. Jetavanadvārakoṭṭhakassa pana samīpena gacchantopi — “Kahaṃ satthā vasatī”ti nāpucchi. Kasmā? Satthugāravena ceva rañño pesitasāsanavasena ca. Rañño hi — “idha Tathāgato loke uppajjatī”ti Satthāraṃ Rājagahe uppannaṃ viya katvā sāsanaṃ pesitaṃ, tasmā naṃ apucchitvāva pañcacattālīsayojanamattaṃ maggaṃ atikkanto. So sūriyatthaṅgamanavelāya Rājagahaṃ patvā satthā kahaṃ vasatīti pucchi. Kuto nu, bhante, āgatoti? Ito Uttaratoti. Satthā tuyhaṃ āgatamagge ito pañcacattālīsayojanamatte Sāvatthi nāma atthi, tattha vasatīti. Kulaputto cintesi — “idāni akālo na sakkā gantuṃ, ajja idheva vasitvā sve satthu santikaṃ gamissāmī”ti. Tato — “vikāle sampattapabbajitā kahaṃ vasantī”ti pucchi. Imāya kumbhakārasālāya, bhanteti. Atha so taṃ kumbhakāraṃ yācitvā tattha vāsatthāya pavisitvā nisīdi.

Vào ngày kế tiếp khi mặt trời mọc sau khi làm vệ sinh cơ thể ngài lại tiếp tục theo chân nhóm thương buôn. Vào bữa ăn sáng, nhóm thương buôn tiếp nhận bình bát của thiện nam tử rồi đặt vật thực loại cứng và vật thực loại mềm vào bình bát để cúng dường. Vật thực loại cứng và vật thực loại mềm ấy quá đặc, quá nhão, cứng tựa như đá cuội, quá nhạt và quá mặn, thiện nam tử đã quán chiếu ở chỗ nghỉ ngơi rồi thọ dụng vật thực loại cứng và vật thực loại mềm ấy như thể (đang thọ dụng) cao lương mỹ vị, đi hết 200 do-tuần thiếu 8 do-tuần (192 do-tuần) theo cách đó, thậm chí đi đến gần cổng vòm ở Jetavana cũng không hỏi rằng: “Bậc Đạo Sư đang cư trú ở chỗ nào?” Tại sao? Bởi (ngài) tôn kính bậc Đạo Sư và do mãnh lực của chiếu thư mà đức vua gởi đến. Do chiếu thư gửi đến nói rằng: “Đức Như Lai xuất hiện trên thế gian này” đây đức vua viết y như rằng: bậc Đạo Sư đã xuất hiện ở trong thành Rājagaha. Do đó, đã không hỏi, đi hết 45 do-tuần. Khi mặt trời lặng, thiện nam tử ấy đi đến thành Rājagaha mới hỏi bậc Đạo Sư trú ngụ ở đâu? – Ngài đến từ đâu, thưa ngài? (Ta) đến từ phương Nam của thành phố Rājagaha này.” – Có thành phố tên là Sāvatthi trên con đường mà ngài đi qua cách xa từ thành phố Rājagaha này 45 do-tuần, bậc Đạo Sư đang trú ngụ ở thành Sāvatthī ấy.” Thiện nam tử ấy nghĩ rằng: “Bây giờ không phải thời, ta không thể quay trở lại, hôm nay ta nghỉ lại ở đây trước, ngày mai  sẽ đi đến trú xứ của bậc Đạo Sư.” Từ đó (ngài) mới hỏi rằng: “Những vị xuất gia đến phi thời thì nghỉ ở đâu?” – Thưa ngài, nghỉ ở ngôi nhà người thợ gốm này. Sau đó, thiện nam tử ấy đã xin nghỉ ngơi cùng người thợ gốm ấy, đi vào ngồi vì lợi ích cho việc an trú trong ngôi nhà của người thợ gốm ấy.

Bhagavāpi taṃdivasaṃ paccūsakāle lokaṃ volokento Pukkusātiṃ disvā cintesi — “ayaṃ kulaputto sahāyena pesitaṃ sāsanamattakaṃ vācetvā atirekatiyojanasatikaṃ mahārajjaṃ pahāya maṃ uddissa pabbajitvā aṭṭhahi ūnakāni dve yojanasatāni atikkamma Rājagahaṃ pāpuṇissati, mayi agacchante pana tīṇi sāmaññaphalāni appaṭivijjhitvā ekarattivāsena anāthakālakiriyaṃ karissati, mayi pana gate tīṇi sāmaññaphalāni paṭivijjhissati. Janasaṅgahatthāyeva pana mayā satasahassakappādhikāni cattāri asaṅkhyeyyāni pāramiyo pūritā, karissāmi tassa saṅgahan”ti pātova sarīrapaṭijagganaṃ katvā bhikkhusaṅghaparivuto sāvatthiyaṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātappaṭikkanto gandhakuṭiṃ pavisitvā muhuttaṃ attadarathakilamathaṃ[18] paṭipassambhetvā — “Kulaputto mayi gāravena dukkaraṃ akāsi, atirekayojanasataṃ[19] rajjaṃ pahāya antamaso mukhadhovanadāyakampi ceṭakaṃ aggahetvā ekakova nikkhanto”ti Sāriputtamahāmoggallānādīsu kañci anāmantetvā sayameva attano pattacīvaraṃ gahetvā ekakova nikkhanto. Gacchanto ca neva ākāse uppati, na pathaviṃ saṃkhipi, — “kulaputto mama lajjamāno hatthiassarathasuvaṇṇasivikādīsu ekayānepi anisīditvā antamaso ekapaṭalikaṃ upāhanampi anāruyha paṇṇacchattakampi aggahetvā nikkhanto, mayāpi padasāva gantuṃ vaṭṭatī”ti pana cintetvā padasāva agamāsi.

 Vào ngày hôm ấy, đức Thế Tôn quán sát thế giới nhìn đã thấy thiện nam tử tên là Pukkusāti, khởi lên suy nghĩ rằng: “Thiện nam tử này chỉ đọc chiếu thư từ vị bằng hữu đã từ bỏ vương quốc rộng lớn hơn trăm do-tuần, xuất gia chỉ đích danh ta, đi hết quãng đường 192 do-tuần,  đến thành phố Rājagaha, hơn nữa (nếu) ta không đi thì vị ấy sẽ không thấu triệt được 3 quả vị của Sa-môn, sẽ quá vãng không có chỗ nương tựa, vẫn còn lại một đêm nhưng (nếu) ta đi thì vị ấy sẽ thấu triệt được 3 quả của Sa-môn, ta thực hành ba-la-mật hết bốn a-tăng-kỳ, hơn một trăm ngàn kiếp vì mục đích nhiếp phục chúng sanh, ta sẽ thực hiện việc nhiếp phục thiện nam tử Pukkusāti ấy.” Ngài đã làm vệ sinh thân thể từ sáng sớm, có chư Tỳ khưu vây quanh, ngài đi khất thực trong thành Sāvatthī, sau bữa ăn, khi đã đi vào Hương Thất, xoa dịu sự mệt nhọc trong việc đi bộ vừa nãy, suy tư rằng: “Thiện nam tử đã làm việc làm khó làm do sự tôn kính đối với ta, từ bỏ vương quốc hơn một trăm do tuần, không mang theo người hầu đến nỗi ngay cả người cho nước súc miệng chỉ mỗi một mình ra đi.” Không nói bất cứ điều gì cùng các vị trưởng lão có trưởng lão Sāriputta, trưởng lão Mahāmoggallāna v.v, tự mình ôm lấy bình bát và y phục của mình, chỉ mỗi một mình ra đi. Và trong khi đi cũng không bay lên không trung, cũng không thu ngắn mặt đất. (Thế Tôn) khởi lên suy từ rằng: “Thiện nam tử hổ thẹn đối với ta khi đi không ngồi lên bất kỳ phương tiện trong số các phương tiện gồm voi, ngựa, xe và kiệu vàng v.v, đến nỗi không mang đôi hài có một lớp da để lót, không che dù làm bằng lá cây, ngay cả ta cũng nên đi bộ giống như thế” vì thế ngài đã đi bằng chính đôi chân (của ngài).

So asīti anubyañjanāni byāmappabhā bāttiṃsa mahāpurisalakkhaṇānīti imaṃ buddhasiriṃ paṭicchādetvā valāhakapaṭicchanno puṇṇacando viya aññatarabhikkhuvesena gacchanto ekapacchābhatteneva pañcacattālīsa yojanāni atikkamma sūriyatthaṅgamalīvelāya kulaputte paviṭṭhamatteyeva taṃ kumbhakārasālaṃ pāpuṇi. Taṃ sandhāya vuttaṃ — “Tena kho pana samayena, Pukkusāti, nāma kulaputto bhagavantaṃ uddissa saddhāya agārasmā anagāriyaṃ pabbajito, so tasmiṃ kumbhakārāvesane paṭhamaṃ vāsūpagato hotī”ti.

Ngài đã che giấu vẻ rực rỡ của vị Phật này là 80 tướng phụ, hào quang 2 mét, 32 tướng bậc đại nhân, ngài đi với hình tướng của một vị Tỳ khưu tựa như mặt trăng ngày rằm được vầng mây che lấp lại, chỉ sau bữa ăn ngài cũng đã đi được 45 do-tuần vào lúc mặt trời lặng, ngài đến ngôi nhà của người thợ gốm ấy trong lúc thiện nam đã đi vào. Ngài muốn đề cập đến ngôi nhà của người thợ gốm ấy mới nói rằng: “Cũng chính vào lúc ấy thiện nam tử tên là Pukkusāti có đức tin, rời khỏi gia đình xuất gia chỉ vì ta, vị ấy vào nghỉ ngơi  ở nơi cư trú của người thợ gốm trước.”

Evaṃ gantvāpi pana bhagavā — “ahaṃ sammāsambuddho”ti pasayha kumbhakārasālaṃ apavisitvā dvāre ṭhitova kulaputtaṃ okāsaṃ kārento sace te bhikkhūtiādimāha. Urundanti[20] vivittaṃ asambādhaṃ. Viharatāyasmā yathāsukhanti yena yena iriyāpathena phāsu hoti, tena tena yathāsukhaṃ āyasmā viharatūti okāsaṃ akāsi. Atirekatiyojanasatañhi rajjaṃ pahāya pabbajito kulaputto parassa chaḍḍitapatitaṃ kumbhakārasālaṃ kiṃ aññassa sabrahmacārino maccharāyissati[21]. Ekacce pana moghapurisā sāsane pabbajitvā āvāsamacchariyādīhi abhibhūtā attano vasanaṭṭhāne mayhaṃ kuṭi mayhaṃ pariveṇanti aññesaṃ avāsāya parakkamanti. Nisīdīti accantasukhumālo lokanātho devavimānasadisaṃ gandhakuṭiṃ pahāya tattha tattha vippakiṇṇachārikāya bhinnabhājanatiṇapalāsakukkuṭasūkaravaccādisaṃkiliṭṭhāya saṅkāraṭṭhānasadisāya kumbhakārasālāya tiṇasanthāraṃ santharitvā paṃsukūlacīvaraṃ paññapetvā devavimānasadisaṃ dibbagandhasugandhaṃ gandhakuṭiṃ pavisitvā nisīdanto viya nisīdi.

Hơn nữa, đức Thế Tôn mặc dù đi như vậy (ngài) cũng không dọa dẫm rằng – “ta là bậc Chánh đẳng Chánh giác’”, ngài đi đến chỗ ở của người thợ gốm đứng ở cánh cửa lớn ấy để cho thiện nam tử tạo cơ hội mới nói rằng: “Này Tỳ khưu, nêu không làm phiền…”. Rộng rãi: yên tĩnh, không chật hẹp. Xin mời Tôn giả ngài có thể ở, tùy theo sở thích: thiện nam tử đã thực hiện cơ hội rằng: “Với bất cứ cách thức nào cầu mong Tôn giả hãy an trú được sự an lạc với bốn oai nghi, tùy theo sở thích ấy.” Thiện nam tử đã từ bỏ vương quốc hơn một trăm do tuần để xuất gia, sẽ keo kiệt chỗ ở của người thợ gốm bị người khác vứt bỏ sắp sập đổ vì Phạm hạnh khác được thế nào? Tuy nhiên, một số người rỗng không sau khi xuất gia trong Giáo pháp lại bị các sự keo kiệt gồm sự keo kiệt về chỗ ở v.v, chi phối, cố bấu víu để không cho người khác cư ngụ tại nơi ở của mình  “đây là liêu cốc của tôi, khu vực của tôi.” Ngồi: bậc Hộ Trì Thế Gian được nuôi dưỡng tế nhị từ bỏ Hương Thất như thể thiên cung trải ra một tấm thảm cỏ khô trong chỗ ở của người thợ gốm có tro rải rắc khắp nơi, bẩn thỉu với những vật đụng vỡ nát, cỏ khô, phân khô, phân gà và phân heo v.v, chẳng khác nơi đổ rác, trải ra tấm y phấn tảo để ngồi như thể ngài vào Hương Thất, có hương thơm cõi trời tựa như thiên cung rồi ngồi xuống.

Iti Bhagavāpi asambhinnamahāsammatavaṃse uppanno, kulaputtopi khattiyagabbhe vaḍḍhito. Bhagavāpi abhinīhārasampanno, kulaputtopi abhinīhārasampanno. Bhagavāpi rajjaṃ pahāya pabbajito, kulaputtopi. bhagavāpi suvaṇṇavaṇṇo, kulaputtopi. Bhagavāpi samāpattilābhī, kulaputtopi. Iti dvepi khattiyā dvepi abhinīhārasampannā dvepi rājapabbajitā dvepi suvaṇṇavaṇṇā dvepi samāpattilābhino kumbhakārasālaṃ pavisitvā nisinnāti tehi kumbhakārasālā ativiya sobhati, dvīhi sīhādīhi paviṭṭhaguhādīhi āharitvā dīpetabbaṃ. Tesu pana dvīsu bhagavā — “sukhumālo ahaṃ paramasukhumālo ekapacchābhattena pañcacattālīsa yojanāni āgato, muhuttaṃ tāva sīhaseyyaṃ kappetvā maggadarathaṃ paṭipassambhemī”ti cittampi anuppādetvā nisīdantova phalasamāpattiṃ samāpajji. kulaputtopi — “dvānavutiyojanasataṃ āgatomhi, muhuttaṃ tāva nipajjitvā maggadarathaṃ vinodemī”ti cittaṃ anuppādetvā nisīdamānova ānāpānacatutthajjhānaṃ samāpajji. Idaṃ sandhāya atha kho bhagavā bahudeva rattintiādi vuttaṃ.

Với cách ấy đức Thế Tôn xuất hiện đã xuất hiện trong dòng giống của vua Mahāsammata không bị pha trộn (huyết thống) thậm chí thiện nam cũng được phát triển trong mẫu thai của dòng dõi Sát-đế-lỵ. Cả đức Thế Tôn cũng thành tựu sự phát nguyện ban đầu, (và) cả thiện nam tử cũng thành tựu sự phạt nguyện ban đầu [abhinīhāra]. Cả đức Thế Tôn (và) cả thiện nam tử ai cũng từ bỏ vương quyền để xuất gia. Cả đức Thế Tôn (và) ngay cả thiện nam tử thì ai cũng có màu da tựa như màu vàng rồng. Cả đức Thế Tôn (và) ngay cả thiện nam tử thì ai cũng nhận được sự chứng đạt. Cả hai đều là Sát-đế-lỵ, cả hai đều thành tựu sự phát nguyện ban đầu, cả hai đều xuất gia từ dòng dõi vua chúa, cả hai đều có màu da tựa như vàng ròng, cả hai đều nhận được sự chứng đạt, sau khi bước vào chỗ ở của người thợ gốm rồi ngồi xuống. Với lý do đó chỗ ở của người thợ gốm trở nên vô cùng xinh đẹp, có thể được so sánh như hang động mà cả hai loài chúa tể có sư tử v.v, đi vào. Cũng trong 2 hạng người ấy thì đức Thế Tôn vẫn không hồi tưởng lại rằng: “Ta được nuôi dưỡng tế nhị, đi hết quãng đường dài 45 do-tuần từ sau buổi ăn, nên thực hiện thế nằm của loài sư tử một chút trước cho hết mệt từ việc đi đường, chỉ ngồi thể nhập sự thể nhập Thánh Quả mà thôi”. Còn thiện nam tử cũng chẳng suy tư: “Ta đi hết quãng đường 192 do-tuần, nên nằm nghỉ để xua tan sự mệt nhọc trong việc đi bộ vừa nảy, cũng ngồi nhập vào đề mục niệm hơi thở tứ thiền.” Ngài muốn đề cập đến thiền chứng đó mới nói rằng: “Ngài đã ngồi trải qua gần trọn đêm…”.

Nanu ca bhagavā kulaputtassa dhammaṃ desessāmīti āgato, kasmā na desesīti? kulaputtassa maggadaratho appaṭipassaddho, na sakkhissati dhammadesanaṃ sampaṭicchituṃ, so tāvassa paṭipassambhatūti na desesi. Apare — “Rājagahaṃ nāma ākiṇṇamanussaṃ avivittaṃ dasahi saddehi, so saddo diyaḍḍhayāmamattena sannisīdati, taṃ āgamento na desesī”ti vadanti. Taṃ akāraṇaṃ, brahmalokappamāṇampi hi saddaṃ bhagavā attano ānubhāvena vūpasametuṃ sakkoti, maggadarathavūpasamaṃ āgamentoyeva pana na desesi.

Đức Thế Tôn đã đi đến với suy nghĩ rằng: “Ta sẽ thuyết giảng Giáo Pháp đến thiện nam tử không phải sao, tại sao lại không thuyết?” Không thuyết bởi vì thiện nam tử đang có sự mệt nhọc trong việc đi đường vẫn chưa tan biến, sẽ không thể lắng nghe lời giảng Pháp, mong cho sự mệt nhọc trong việc đi đường ấy của thiện nam tử được tiêu tan trước. Một số vị thầy khác nói rằng: “Thành phố Rājagaha người chen chút, không yên tĩnh mười loại âm thanh, âm thanh ấy sẽ được yên tĩnh vào khoảng hai canh rưỡi,ngài chờ đợi sự vắng lặng âm thanh ấy mới không thuyết giảng.” Đó không phải lý do, bởi vì đức Thế Tôn có thể làm  cho âm thanh thậm chí ước lượng chừng Phạm thiên giới nhờ oai lực của ngài. Ngài chờ sự tan biến từ sự mệt nhọc trong việc đi đường mới không thuyết giảng.

Tattha bahudeva rattinti diyaḍḍhayāmamattaṃ. Etadahosīti bhagavā phalasamāpattito vuṭṭhāya suvaṇṇavimāne maṇisīhapañjaraṃ vivaranto viya pañcapasādappaṭimaṇḍitāni akkhīni ummīletvā olokesi, athassa hatthakukkucca-pādakukkucca-sīsakampana-virahitaṃ sunikhātaindakhīlaṃ viya niccalaṃ avibbhantaṃ suvaṇṇapaṭimaṃ viya nisinnaṃ kulaputtaṃ disvā etaṃ — “pāsādikaṃ kho”tiādi ahosi. Tattha pāsādikanti pasādāvahaṃ. Bhāvanapuṃsakaṃ panetaṃ, pāsādikena iriyāpathena iriyati. Yathā iriyato iriyāpatho pāsādiko hoti, evaṃ iriyatīti ayamettha attho. Catūsu hi iriyāpathesu tayo iriyāpathā na sobhanti. gacchantassa hi bhikkhuno hatthā calanti, pādā calanti, sīsaṃ calati, ṭhitassa kāyo thaddho[22] hoti, nipannassāpi iriyāpatho amanāpo hoti, pacchābhatte pana divāṭṭhānaṃ sammajjitvā cammakhaṇḍaṃ paññapetvā sudhotahatthapādassa catusandhikapallaṅkaṃ ābhujitvā nipannasseva iriyāpatho sobhati. Ayañca kulaputto pallaṅkaṃ ābhujitvā ānāpānacatutthajjhānaṃ appetvā nisīdi. Itissa iriyāpatheneva pasanno Bhagavā — “pāsādikaṃ kho”ti parivitakkesi.

Ở đây, gần trọn đêm: khoảng hai canh rưỡi. Suy nghĩ như vậy: đức Thế Tôn xuất khỏi thiền sự thể nhập Thánh Quả, mở mắt được tổ điểm với năm giác quan sáng chói, quan sát như thế đang mở cánh cửa sổ bằng ngọc ma-ni trong tòa lâu đài vàng, khi ấy, ngài nhìn thấy thiện nam tử không có hành vi xấu bằng tay [hattha-kukkucca], hành vi xấu bằng chân [pādakukkucca] và sự rung lắc đầu, ngồi vững như cột trụ được chôn xuống kỹ lưỡng, như bức tượng Phật bằng vàng không bị lay chuyển là thường, mới thuyết rằng: “Thật đáng tịnh tín chăng” v.v. Đáng tịnh tín: mang lại từ sự tin tưởng. Hơn nữa lời này là bhāvanapuṃsaka [trung tánh], trong lời ấy có ý nghĩa như sau: “thiện nam tử có cử chỉ với bốn oai nghi đáng tịnh tín, vì thế bốn oai nghi là hành động đáng tịnh tín bằng điều nào, cũng sẽ diễn ra theo điều đó.” Bởi vì trong bốn oai nghi thì 3 oai nghi không đẹp (đối với chư Tỳ khưu). Thật vậy, vị Tỳ khưu bước đi đôi tay lắc lư, đôi chân xê dịch, cái đầu rung lắc. Thân hình của vị Tỳ khưu đứng thô thiển. Các oai nghi mặc dù là oai nghi nằm của vị Tỳ khưu, cũng không đáng ưa thích. Tuy nhiên vị Tỳ khưu quét dọn chỗ nghỉ ngơi vào ban ngày sau bữa ăn, trải tâm da, có tay và chân được rửa sạch sẽ, ngồi với tư thế kiết già phối hợp hoàn toàn với bốn sự liên kết thì các oai nghi trở nên xinh đẹp. Và thiện nam tử này ngồi khoanh chân thiền định thể nhập vào niệm hơi thở tứ thiền, vị ấy phối hợp với các oai nghi này, đức Thế Tôn suy xét rằng: thiện nam tử này thật đáng tịn tính chăng.

Yaṃnūnāhaṃ puccheyyanti kasmā pucchati? Kiṃ bhagavā attānaṃ uddissa pabbajitabhāvaṃ na jānātīti? no na jānāti, apucchite pana kathā na patiṭṭhāti, apatiṭṭhitāya kathāya kathā na sañjāyatīti kathāpatiṭṭhāpanatthaṃ pucchi.

 Đức Thế Tôn không suy xét rằng: Có lẽ ta nên hỏi: vì sao đức thế Tôn hỏi? Không biết rằng thiện nam tử ấy xuất gia để kính dâng lên ngài sao? Không phải không biết, tuy nhiên nếu không hỏi thì lời nói sẽ không được thiết lập, việc thuyết giảng sẽ không diễn ra, vì thế mới hỏi để bắt đầu thiết lập lời nói.

Disvā ca pana jāneyyāsīti Tathāgataṃ Buddhasiriyā virocantaṃ ayaṃ Buddhoti sabbe jānanti. Anacchariyametaṃ jānanaṃ, Buddhasiriṃ pana paṭicchādetvā aññatarapiṇḍapātikavesena caranto dujjāno hoti. Iccāyasmā, Pukkusāti, “na jāneyyan”ti sabhāvameva katheti. Tathā hi naṃ ekakumbhakārasālāya nisinnampi na jānāti.

Mặc dầu đã nhìn thấy nhưng cũng không biết: Tất cả mọi người biết được đức Như Lai chói sáng với vẻ rực rỡ của vị Phật. Việc nhận biết đó chẳng có gì kỳ lạ, tuy nhiên, đức Thế Tôn che giấu hào quang của vị Phật bước đi với oai lực của một vị Tỳ khưu đang đi khất thực (vì thế) mới khó nhận biết. Tôn giả Pukkusāti nói lên đúng theo sự thật “tôi không biết”. Sự thật như thế Tôn giả Pukkusāti không biết đức Thế Tôn ấy, thậm chí ngài đang ngời tại trú xứ của thợ gốm.

Etadahosīti maggadarathassa vūpasamabhāvaṃ ñatvā ahosi. Evamāvusoti kulaputto sahāyena pesitaṃ sāsanamattaṃ[23] vācetvā rajjaṃ pahāya pabbajamāno — “Dasabalassa madhuradhammadesanaṃ sotuṃ labhissāmī”ti. Pabbajito, pabbajitvā ettakaṃ addhānaṃ āgacchanto — “dhammaṃ te bhikkhu desessāmī”ti padamattassa vattāraṃ nālattha, so “dhammaṃ te bhikkhu desessāmī”ti vuttaṃ kiṃ[24] sakkaccaṃ na suṇissati. Pipāsitasoṇḍo viya hi pipāsitahatthī viya cāyaṃ, tasmā sakkaccaṃ savanaṃ paṭijānanto “evamāvuso”ti āha.

Đã có suy nghĩ như vầy: Sau khi biết được sự mệt nhọc trong việc đi đường đã tan biến (đức Thế Tôn) có suy nghĩ như thế. Như vậy này hiền giả: Thiện nam tử đã đọc chiếu thư được vị bằng hữu gửi đến, từ bỏ vương quốc đi xuất gia với suy nghĩ rằng: “Ta sẽ được lắng nghe Pháp thoại êm dịu của đấng Thập Lực”. Khi đã xuất gia cũng đi một quãng đường xa chừng này, cũng không được bậc Đạo Sư thuyết dù chỉ một câu – “Này Tỳ khưu, ta sẽ thuyết giảng Giáo Pháp cho ông”. Vị ấy sẽ không được lắng nghe lời nói được thuyết rằng: “Này Tỳ khưu ta sẽ thuyết Pháp cho ông” bằng sự tôn kính sao? Thiện nam tử này như một kẻ nghiện rượu bị khát, và con voi đang bị khát. Vì thế, vị ấy trong khi thừa nhận việc lắng nghe bằng sự tôn kính đã nói rằng: “Như vậy này hiền giả…”.

343. Chadhāturo ayanti bhagavā kulaputtassa pubbabhāgapaṭipadaṃ akathetvā āditova arahattassa padaṭṭhānabhūtaṃ accantasuññataṃ vipassanālakkhaṇameva ācikkhituṃ āraddho. Yassa hi pubbabhāgapaṭipadā aparisuddhā hoti, tassa paṭhamameva sīlasaṃvaraṃ indriyesu guttadvārataṃ bhojane mattaññutaṃ jāgariyānuyogaṃ satta saddhamme cattāri jhānānīti imaṃ pubbabhāgapaṭipadaṃ ācikkhati. Yassa panesā parisuddhā, tassa taṃ[25] akathetvā arahattassa padaṭṭhānabhūtaṃ vipassanameva ācikkhati. kulaputtassa ca pubbabhāgapaṭipadā parisuddhā. Tathā hi anena sāsanaṃ vācetvā pāsādavaragateneva ānāpānacatutthajjhānaṃ nibbattitaṃ, yadassa[26] dvānavutiyojanasabhaṃ āgacchantassa yānakiccaṃ sādhesi, sāmaṇerasīlampissa paripuṇṇaṃ. tasmā pubbabhāgapaṭipadaṃ akathetvā arahattassa padaṭṭhānabhūtaṃ accantasuññataṃ vipassanālakkhaṇamevassa ācikkhituṃ āraddho.

343. Người này có sáu giới: Đức Thế Tôn không thuyết pháp hành sơ khởi cho thiện nam tử, tuy nhiên bắt đầu thuyết về trạng thái Minh sát có sự rỗng không tuyệt đối [accantasuññata] làm nguyên nhân gần của vị A-ra-hán từ ban đầu. Thật vậy, Pháp hành sơ khởi của người nào không thanh tịnh, đức Thế Tôn cũng thuyết Pháp hành sơ khởi này là thu thúc giới, việc phòng vệ các giác quan, việc biết chừng mực về vật thực, sự luyện tập thường xuyên mà sự tin tấn là phương tiện để đánh thức bảy Chánh pháp, Bốn thiền lập tức cho người ấy trước. Nhưng pháp hành sơ khởi ấy của người nào thanh tịnh, đức Thế Tôn không thuyết Pháp hành sơ khởi đó, nhưng sẽ nói về trạng thái Minh sát làm nền tảng của vị A-ra-hán cho vị ấy ngay. Nhưng pháp hành sơ khởi của thiện nam tử ấy đã thanh tịnh. Thật vậy, thiện nam tử ấy đọc được chiếu thư lập tức bước lên cung điện cao thượng đó làm cho đề mục niệm hơi thở tứ thiền được sanh khởi mới đi quãng đường xuyên suốt 192 do-tuần, vẫn làm phận sự đi đường được hoàn tất. Thâm chí, giới Sa-di của thiện nam tử ấy cũng thanh tịnh, vì thế đức Thế Tôn mới không thuyết pháp hành sơ khởi, nhưng bắt đầu thuyết trạng thái Minh sát chỉ có sự rỗng không tuyệt đối làm nguyên nhân gần của vị A-ra-hán ấy cho thiện nam tử đó.

Tattha chadhāturoti dhātuyo vijjamānā, puriso avijjamāno. Bhagavā hi katthaci vijjamānena avijjamānaṃ dasseti, katthaci avijjamānena vijjamānaṃ, katthaci vijjamānena vijjamānaṃ, katthaci avijjamānena avijjamānanti sabbāsave vuttanayeneva vitthāretabbaṃ. Idha pana vijjamānena avijjamānaṃ dassento evamāha. Sace hi bhagavā purisoti paṇṇattiṃ vissajjetvā dhātuyo icceva vatvā cittaṃ upaṭṭhāpeyya[27], kulaputto sandehaṃ kareyya, sammohaṃ āpajjeyya, desanaṃ sampaṭicchituṃ na sakkuṇeyya. tasmā tathāgato anupubbena purisoti paṇṇattiṃ pahāya “sattoti vā purisoti vā puggaloti vā paṇṇattimattameva, paramatthato satto nāma natthi, dhātumatteyeva cittaṃ ṭhapāpetvā tīṇi phalāni paṭivijjhāpessāmī”ti Anaṅgaṇasutte[28] vuttabhāsantarakusalo tāya tāya bhāsāya[29] sippaṃ uggaṇhāpento ācariyo viya evamāha.

Ở đây ‘có sáu giới-dhātu’ gồm 6 giới có tồn tại, người đàn ông không tồn tại. Đức Thế Tôn thuyết giảng những thứ không có mặt với những thứ có mặt ở đâu? Thuyết giảng những thứ có mặt với những thứ không có mặt ở đâu? Thuyết giảng những thứ có mặt với những thứ có mặt ở đâu? Thuyết những thứ không có mặt với những thứ không có mặt ở đâu? Lời như đã trình bày này có thể giảng giải chi tiết theo phương thức như đã nói ở trong Kinh Sabbāsava. Nhưng trong bài Kinh Giới Phân Tích này đức Thế Tôn thuyết giảng những thứ không có mặt mới thuyết như vậy. Vì nếu đức Thế Tôn từ bỏ chế định ‘người đàn ông’ chỉ thuyết về ‘Giới’ cho vị ấy nâng tâm lên (hướng đến tính chất Giới) lập tức thiện nam tử cũng có thể khởi lên sự nghi ngờ, đi đến rối loạn không thể lắng nghe Pháp thoại được. Vì thế, đấng Như Lai bỏ chế định ‘con người’ theo tuần tự như sau: chế định là ‘chúng sanh’ hoặc ‘con người’ hoặc ‘cá nhân’ theo Pháp Chân Đế thì không có gì gọi là chúng sanh, Ta sẽ khiến vị ấy đặt tâm vào trong Pháp chỉ gọi là có Giới-dhātu rồi cho vị ấy thấu triệt 3 Thánh Quả đã được trình bày trong bài kinh Anaṅgaṇa” (ma. ni. 1.57 ādayo) như một vị thầy thông thạo các ngôn ngữ khác nhau cho học trò học môn học với ngôn ngữ ấy (của chính người học trò).

Tattha cha dhātuyo assāti chadhāturo. Idaṃ vuttaṃ hoti — Yaṃ tvaṃ purisoti sañjānāsi, so chadhātuko[30], na cettha paramatthato puriso atthi, purisoti pana paṇṇattimattamevāti. Sesapadesupi eseva nayo. Caturādhiṭṭhānoti ettha adhiṭṭhānaṃ vuccati patiṭṭhā, catupatiṭṭhānoti attho. Idaṃ vuttaṃ hoti — Svāyaṃ bhikkhu puriso chadhāturo chaphassāyatano aṭṭhārasamanopavicāro, so ettova vivaṭṭitvā uttamasiddhibhūtaṃ arahattaṃ gaṇhamāno imesu catūsu ṭhānesu patiṭṭhāya gaṇhātīti caturādhiṭṭhānoti. Yattha ṭhitanti yesu adhiṭṭhānesu patiṭṭhitaṃ. Maññassa vā nappavattantīti maññassa vā mānassa vā nappavattanti. Muni santoti vuccatīti khīṇāsavamuni upasanto nibbutoti vuccati. Paññaṃ nappamajjeyyāti arahattaphalapaññāya paṭivijjhanatthaṃ āditova samādhivipassanāpaññaṃ nappamajjeyya. Saccamanurakkheyyāti paramatthasaccassa nibbānassa sacchikiriyatthaṃ āditova vacīsaccaṃ rakkheyya. Cāgamanubrūheyyāti arahattamaggena sabbakilesapariccāgakaraṇatthaṃ āditova kilesapariccāgaṃ brūheyya. Santimeva so sikkheyyāti arahattamaggena sabbakilesavūpasamanatthaṃ āditova kilesavūpasamanaṃ sikkheyya. Iti paññādhiṭṭhānādīnaṃ adhigamatthāya imāni samathavipassanāpaññādīni pubbabhāgādhiṭṭhānāni vuttāni.

Ở đây ‘có sáu Giới-dhātu’ ấy có sự phân tích rằng: 6 Giới của hạng người ấy tồn tại, vì thế hạng người ấy mới gọi là có 6 Giới, có nghĩa là ngài phân tích hạng người nào là ‘con người’ thì hạng người ấy có 6 giới, ở trường hợp này theo Pháp Chân Đế – Paramattha chỉ có Giới-dhātu. Còn ‘purisa-con người  chỉ là pháp chế định. Kể cả câu còn lại cũng có phương thức này tương tự. Nơi vững trú được gọi là nơi cần phải thiết lập trong cụm từ này ‘bốn pháp cần được an trú trong tâm’ có bốn pháp cần được đặt trong tâm. Được giải thích như sau: Này Tỳ khưu, người này đây có 6 Giới, có 6 xúc xứ, 18 ý hành [manopavicāro]. Thiện nam tử ấy quay trở lại Giới này, nắm lấy quả vị A-ra-hán trở thành tính chất tối thượng, duy trì trong 4 vị trí này nắm lấy quả vị A-ra-hán, vì lý do đó mới gọi là có bốn trú xứ. Là Pháp đã được an trú: Trú vững trong các pháp cần thiết lập. Không có ô nhiễm vọng tưởng tự ngã và ô nhiễm tích lũy được vận hành: Không có ô nhiễm chấp ngã và ô nhiễm tích lũy vận hành. Bậc trí gọi vị ấy là ẩn sĩ tịch tịnh: Bậc ẩn sĩ lậu tận được gọi là đã tịch tịnh, đã diệt tận. Không nên xao lãng về trí tuệ: Không nên xao lãng về Định tuệ và Minh sát tuệ ngay từ ban đầu để thấu triệt A-ra-hán Quả Tuệ. Hãy gìn giữ Chân Lý: Nên gìn giữ lời nói chân thật từ đầu để tác chứng Chân Đế là Nibbāna. Nên làm tăng trưởng sự xả bỏ: Nên tích lũy việc buông bỏ ô nhiễm ngay từ đầu để thực hiện việc từ bỏ tất cả mọi nhiễm ô bằng Thánh Đạo A-ra-hán. Hãy học tập sự tịch tịnh: Nên học tập việc vắng lặng ô nhiễm từ lúc đầu để an tịnh tất cả mọi nhiễm ô bằng Thánh Đạo A-ra-hán. Đức Thế Tôn thuyết giảng toàn bộ pháp thiết lập sơ khởi có Chỉ tịnh và Minh sát tuệ v.v, này vì lợi ích cho việc chứng đắc mọi sự thiết lập có tuệ là pháp nên được an trú trong tâm [paññādhiṭṭhānā] v.v, là như thế.

345. Phassāyatananti phassassa āyatanaṃ, ākaroti attho. Paññādhiṭṭhānantiādīni pubbe vuttānaṃ arahattaphalapaññādīnaṃ vasena veditabbāni.

345. Xúc xứ [Phassāyatana]: có nghĩa xứ là nơi sanh khởi của xúc. Có tuệ là pháp nên được an trú trong tâm v.v, nên biết do tác động của các Tuệ có A-ra-hán Quả Tuệ v.v, đã được trình bày ở câu trước.

348. Idāni nikkhittamātikāvasena “yattha ṭhitaṃ maññassa vā nappavattantī”ti vattabbaṃ bhaveyya, arahatte pana patte puna “paññaṃ nappamajjeyyā”tiādīhi kiccaṃ natthi. Iti Bhagavā mātikaṃ uppaṭipāṭidhātukaṃ ṭhapetvāpi yathādhammavaseneva[31] vibhaṅgaṃ vibhajanto paññaṃ nappamajjeyyātiādimāha. Tattha ko paññaṃ pamajjati, ko nappamajjati? Yo tāva imasmiṃ sāsane pabbajitvā vejjakammādivasena ekavīsatividhāya anesanāya jīvikaṃ kappento pabbajjānurūpena cittuppādaṃ ṭhapetuṃ na sakkoti, ayaṃ paññaṃ pamajjati nāma. Yo pana sāsane pabbajitvā sīle patiṭṭhāya buddhavacanaṃ uggaṇhitvā sappāyaṃ dhutaṅgaṃ samādāya cittarucitaṃ kammaṭṭhānaṃ gahetvā vivittaṃ senāsanaṃ nissāya kasiṇaparikammaṃ katvā samāpattiṃ patvā ajjeva arahattanti vipassanaṃ vaḍḍhetvā vicarati, ayaṃ paññaṃ nappamajjati nāma. imasmiṃ pana sutte dhātukammaṭṭhānavasena esa paññāya appamādo vutto. Dhātukammaṭṭhāne panettha yaṃ vattabbaṃ, taṃ heṭṭhā Hatthipadopamasuttādīsu vuttameva.

348. Bây giờ, nói đến câu “Pháp được an trú, không có ô nhiễm vọng tưởng tự ngã và ô nhiễm tích lũy được vận hành” do tác động của tiêu đề mātikā đã được thiết lập. Nhưng khi đã chứng đắc A-ra-hán thì phận sự với từ rằng: ‘Không nên xao lãng về trí tuệ’ v.v, hẳn không còn nữa. Đức Thế Tôn đã đặt tiêu đề mātikā có giới không theo nguyên tắc, trong khi phân chia và phân tích do tác động thuận theo định luật mới thuyết lời sau: ‘Không nên xao lãng về trí tuệ v.v.” Ở đây, người nào xao lãng về trí tuệ? Người nào không xao lãng về trí tuệ? Hạng người nào xuất gia trong Giáo Pháp này trước thành tựu với 21 loại nghề nghiệp nuôi mạng bất chánh do tác động công việc như làm nghề thầy thuốc v.v, không thể thiết lập sự sanh lên của tâm phù hợp đối với vị xuất gia, hạng người này gọi là xao lãng về trí tuệ. Còn hạng người nào xuất gia trong Giáo Pháp này được vững trú trong giới, học tập Phật ngôn, thọ trì pháp từ khước [dhutaṅga] là nơi thuận lợi, nắm lấy đề mục hành thiền ưa thích, nương nhờ chỗ ở tịch tịnh thực hành biến xứ chuẩn bị làm cho thiền chứng sanh khởi, phát triển Minh sát với sự chú tâm rằng: “vào ngày hôm nay (ta) sẽ chứng đạt quả vị A-ra-hán” thực hành như vậy thì hạng người này gọi là không xao lãng về trí tuệ. Nhưng trong bài Kinh này thuyết đến sự không xao lãng về trí tuệ do mãnh lực của Giới nghiệp xứ [Dhātukammaṭṭhāna]. Còn lời nào cần nói trong Giới nghiệp xứ ấy thì lời ấy đã được nói trong các bài Kinh như Kinh Hatthipadopama v.v, ở phần trước.

354. Athāparaṃ viññāṇaṃyeva avasissatīti ayampettha pāṭiyekko anusandhi. heṭṭhato hi rūpakammaṭṭhānaṃ kathitaṃ, idāni arūpakammaṭṭhānaṃ vedanāvasena nibbattetvā[32] dassetuṃ ayaṃ desanā āraddhā. Yaṃ vā panetaṃ imassa bhikkhuno pathavīdhātuādīsu āgamaniyavipassanāvasena kammakārakaviññāṇaṃ, taṃ viññāṇadhātuvasena bhājetvā dassentopi imaṃ desanaṃ ārabhi. Tattha avasissatīti kimatthāya avasissati? Satthu kathanatthāya kulaputtassa ca paṭivijjhanatthāya avasissati. Parisuddhanti nirupakkilesaṃ. Pariyodātanti pabhassaraṃ. sukhantipi vijānātīti sukhavedanaṃ vedayamāno sukhavedanaṃ vedayāmīti pajānāti. sesapadadvayesupi eseva nayo. sace panāyaṃ vedanākathā heṭṭhā na kathitā bhaveyya, idha ṭhatvā kathetuṃ vaṭṭeyya. Satipaṭṭhāne panesā kathitāvāti tattha kathitanayeneva veditabbā. Sukhavedaniyanti evamādi paccayavasena udayatthaṅgamanadassanatthaṃ vuttaṃ. Tattha sukhavedaniyanti sukhavedanāya paccayabhūtaṃ. Sesapadesupi eseva nayo.

354. Trong bài Kinh này sự liên kết riêng biệt “từ đó, những thứ còn lại là thức”. Bởi đã thuyết Sắc nghiệp xứ từ đầu, bây giờ đức Thế Tôn để thay đổi (và) thuyết giảng Vô sắc nghiệp xứ do mãnh lực của thọ mới bắt đầu thuyết Pháp thoại này. Vô sắc nghiệp xứ này này là thức thực hiện tạo nghiệp do mãnh lực của Minh sát được vị Tỳ khưu này có thể đạt đến trong tất cả Giới gồm Địa Giới v.v, đức Thế Tôn mặc dù phân tích thuyết giảng Vô sắc nghiệp xứ ấy do mãnh lực của Thức Giới mới bắt đầu thuyết Pháp thoại này. Ở đấy, ‘những thứ còn lại’, còn lại vì lợi ích gì? Còn lại vì lợi  cho việc thuyết giảng của bậc Đạo Sư và vì lợi ích cho việc thấu triệt của thiện nam tử. Thanh tịnh: xa lìa tùy phiền não. Trong sáng: chói sáng. Biết rõ được lạc: biết rõ rằng khi ta cảm nghiệm lạc thọ, gọi là cảm nghiệm cảm giác an lạc. Ngay cả hai câu còn lại cũng có phương thức tương tự như vậy. Còn nếu lời nói về thọ này không được thuyết trong phần trước cũng nên diễn ra để thuyết trong bài Kinh này. Lời nói về thọ ấy cũng đã được thuyết trong bài Kinh Sự Thiết Lập Niệm [Satipaṭṭhāna] ấy, vì thế nên hiểu theo cách được nói trong bài Kinh Sự Thiết Lập Niệm ấy. Câu bắt đầu như vầy rằng ‘là nơi thiết lập của lạc thọ’ đã được trình bày, để thuyết giảng sự sanh khởi và sự đoạn diệt do mãnh lực duyên trợ. Ở đây ‘là nơi thiết lập của lạc thọ’ bao gồm làm duyên cho lạc thọ. Ngay cả những từ còn lại cũng theo phương thức này tương tự.

360. Upekkhāyeva avasissatīti ettāvatā hi yathā nāma chekena maṇikārācariyena vajirasūciyā vijjhitvā cammakhaṇḍe pātetvā pātetvā dinnamuttaṃ antevāsiko gahetvā gahetvā suttagataṃ karonto muttolambakamuttajālādīni karoti, evameva Bhagavatā kathetvā kathetvā dinnaṃ kammaṭṭhānaṃ ayaṃ kulaputto manasikaronto manasikaronto paguṇaṃ akāsīti rūpakammaṭṭhānampissa arūpakammaṭṭhānampi paguṇaṃ jātaṃ, atha bhagavā “athāparaṃ upekkhāyeva avasissatī”ti āha.

360. Những thứ còn lại là xả: giống như người học trò (của người thợ mài ngọc) cầm lấy viên ngọc trai được thầy làm ngọc thiện xảo dùng kim xâu ngọc mang đến đặt xuống trên tấm da giao cho, (vị ấy) thực hiện việc xâu lại bằng chỉ, tạo thành các loại trang sức khác nhau có tràng hoa ngọc trai và tấm lưới ngọc trai v.v, như thế nào, thì Thiện nam tử này khi tác ý đến nghiệp xứ được đức Thế Tôn ban cho đã thực hiện một cách khéo léo cũng tương tự như thế ấy, vì thế Sắc nghiệp xứ, hay Vô sắc nghiệp xứ đã khởi lên một cách khéo léo, là như thế, sau đó, đức Thế Tôn đã nói “hơn nữa, những thứ còn lại là xả”.

Kimatthaṃ pana avasissatīti? Satthu kathanatthaṃ. Kulaputtassa paṭivijjhanatthantipi vadanti, taṃ na gahetabbaṃ. kulaputtena hi sahāyassa sāsanaṃ vācetvā pāsādatale ṭhiteneva ānāpānacatutthajjhānaṃ nibbattitaṃ, yadassa[33] ettakaṃ maggaṃ āgacchantassa yānakiccaṃ sādheti. Satthu kathanatthaṃyeva avasissati. imasmiñhi ṭhāne satthā kulaputtassa rūpāvacarajjhāne vaṇṇaṃ kathesi. idañhi vuttaṃ hoti “bhikkhu paguṇaṃ tava idaṃ rūpāvacaracatutthajjhānan”ti. Parisuddhātiādi tassāyeva upekkhāya vaṇṇabhaṇanaṃ. Ukkaṃ bandheyyāti aṅgārakapallaṃ sajjeyya. Ālimpeyyāti tattha aṅgāre pakkhipitvā aggiṃ datvā nāḷikāya dhamento aggiṃ jāleyya. Ukkāmukhe pakkhipeyyāti aṅgāre viyūhitvā aṅgāramatthake vā ṭhapeyya, tattake vā pakkhipeyya. Nīhaṭanti[34] nīhaṭadosaṃ. Ninnītakasāvanti apanītakasāvaṃ. Evameva khoti yathā taṃ suvaṇṇaṃ icchiticchitāya piḷandhanavikatiyā saṃvattati, evameva ayaṃ tāva catutthajjhānupekkhā vipassanā abhiññā nirodho bhavokkantīti imesu yaṃ icchati, tassatthāya[35] hotīti vaṇṇaṃ kathesi.

Còn lại để làm gì? Để cho việc thuyết giảng của bậc Đạo Sư. Một số vị thầy nói rằng: nhằm mục đích thấu triệt của thiện nam tử. Lời ấy không nên giữ lấy. Thiện nam tử đã đọc chiếu thư của vị bằng hữu đã đứng trên bề mặt cung điện làm cho đề mục niệm hơi thở Tứ thiền sanh khởi, cũng đề mục niệm hơi thở Tứ thiền ấy là cho phận sự trên phương tiện của thiện nam tử ấy, vị đi trên quãng đường ngần ấy được hoàn thành, do đó, còn lại nhằm mục đích cho việc thuyết giảng của thuyết giảng của bậc Đạo Sư mà thôi. Cũng trong trường hợp này bậc Đạo Sư nói về ân đức-guṇa trong thiền Sắc giới cho thiện nam tử. Bởi vì điều này đã được nói rằng: “Này Tỳ khưu, Tứ thiền Sắc giới này phải được thuần thục trước”. Thanh tịnh v.v, là việc thuyết giảng chính ân đức của xả đó. Đốt lửa miệng lò: chuẩn bị khuôn đúc lò. Chất đống: đặt than đốt vào trong khuôn đúc ấy rồi đốt lửa, dùng bơm thổi làm cho lửa cháy lên. Đặt khuôn đúc: gắp than đốt đặt lên than đốt, hoặc đặt than đốt lên than đốt ấy. Phủi sạch tạp chất: Có tạp chất được lấy ra. Hết tỳ vết: có nước chát (đốm đỏ chi tiết) được loại bỏ. Tương tự như thế: Thuyết giảng về ân đức chỉ riêng thọ xả trong Tứ thiền này mới có lợi ích cho Pháp mà bản thân mong muốn, trong số những Pháp ấy là Minh sát, thắng trí-abhiññā, sự diệt tận, đi vào các hữu-bhavokkanti, giống như miếng vàng ấy được tôi luyện để làm ra những món trang sức khác biệt theo nhu cầu và theo sự mong muốn.

Kasmā pana bhagavā imasmiṃ rūpāvacaracatutthajjhāne nikantipariyādānatthaṃ avaṇṇaṃ akathetvā vaṇṇaṃ kathesīti. Kulaputtassa hi catutthajjhāne nikantipariyuṭṭhānaṃ balavaṃ. Sace avaṇṇaṃ katheyya, — “mayhaṃ pabbajitvā dvānavutiyojanasataṃ āgacchantassa imaṃ catutthajjhānaṃ yānakiccaṃ sādhesi, ahaṃ ettakaṃ maggaṃ āgacchanto jhānasukhena jhānaratiyā āgato, evarūpassa nāma paṇītadhammassa avaṇṇaṃ katheti, jānaṃ nu kho katheti ajānan”ti kulaputto saṃsayaṃ sammohaṃ āpajjeyya, tasmā bhagavā vaṇṇaṃ kathesi.

Hơn nữa, tại sao đức Thế Tôn không thuyết về lỗi lầm để đưa đến sự trong sạch từ sự tham muốn trong Tứ thiền Sắc giới mà chỉ nói về ân đức. Bởi việc chấp thủ sự tham muốn trong Tứ thiền của thiện nam tử ấy có năng lực. Nếu thuyết về lỗi lầm thì thiện nam tử có thể đi đến sự nghi hoặc, sự rối loạn rằng: – “Khi ta đã xuất gia, đi suốt quãng đường 192 do-tuần Tứ thiền này làm phận sự đi đường được hoàn thành, ta đã đi đến đạo lộ chừng này cũng đã đến vì hoan hỷ trong sự an lạc của thiền, đức Thế Tôn đã nói về lỗi lầm của Pháp vi tế có hình như thế, biết được mới nói hay không biết mới nói”, vì thế đức Thế Tôn mới thuyết về ân đức.

361. Tadanudhammanti ettha arūpāvacarajjhānaṃ dhammo nāma, taṃ anugatattā rūpāvacarajjhānaṃ anudhammoti vuttaṃ. Vipākajjhānaṃ vā dhammo, kusalajjhānaṃ anudhammo. Tadupādānāti taggahaṇā. Ciraṃ dīghamaddhānanti vīsatikappasahassāni. Vipākavasena hetaṃ vuttaṃ. ito uttarimpi eseva nayo.

361. Có Pháp phù hợp cho thiền ấy: thiền Vô sắc gọi là Dhamma [Pháp]. Thiền Sắc giới gọi là Anudhamma [y theo Pháp] bởi vì là Pháp tùy thuận theo thiền Vô sắc ấy. Hơn nữa, (tâm) thiền quả gọi là Dhamma, còn (tâm) thiền thiện gọi là Anudhamma. Chấp thủ Không vô biên xứ: việc chấp thủ Không vô biên xứ ấy. Trong một thời gian dài: suốt hai mươi nghìn kiếp. Cũng lời ấy được nói do mãnh lực của dị thục quả. Ngay cả những từ còn lại cũng có phương thức tương tự.

362. Evaṃ catūhi vārehi arūpāvacarajjhānassa vaṇṇaṃ kathetvā idāni tasseva ādīnavaṃ dassento so evaṃ pajānātītiādimāha. Tattha saṅkhatametanti kiñcāpi ettha vīsatikappasahassāni āyu atthi, etaṃ pana saṅkhataṃ pakappitaṃ āyūhitaṃ, karontena karīyati, aniccaṃ adhuvaṃ asassataṃ tāvakālikaṃ, cavanaparibhedana[36] viddhaṃsanadhammaṃ, jātiyā anugataṃ, jarāya anusaṭaṃ, maraṇena abbhāhataṃ, dukkhe patiṭṭhitaṃ, atāṇaṃ aleṇaṃ asaraṇaṃ asaraṇībhūtanti. viññāṇañcāyatanādīsupi eseva nayo.

362. Đức Thế Tôn khi thuyết ân đức của thiền Vô sắc giới với 4 đoạn này, bây giờ khi thuyết về lỗi lầm trong thiền Vô sắc ấy mới thuyết rằng “vị ấy biết rõ như vậy v.v.” Ở đây, ‘tâm này cũng là Hữu vi’: trong Sơ thiên ở cõi Phạm thiên có tuổi thọ hai mươi nghìn kiếp dù là sự thật, tuy vậy tuổi thọ ấy được đức Thế Tôn làm cho nhìn thấy rằng: bị tạo tác (bởi các duyên trợ), bị sắp đặt, bị tích lũy, giải thích rằng: tuổi thọ ấy là vô thường, không bền vững, không trường tồn, có tính chất tạm thời, có sự biến đổi, tàn lụi, và tiêu tan là bản chất, bị theo sau bởi sanh, bị đeo đuổi bởi già, bị hành hạ bởi chết, được thiết lập trong khổ, là không nơi nương tựa, là không nơi trú ẩn, là không nơi nương nhờ, có trạng thái không nơi nương nhờ; Ngay cả trong Thức vô biên xứ v.v, cũng có phương thức ấy tương tự.

Idāni arahattanikūṭena desanaṃ gaṇhanto so neva taṃ abhisaṅkharotītiādimāha. Yathā hi cheko bhisakko visavikāraṃ disvā vamanaṃ kāretvā visaṃ ṭhānato cāvetvā upari āropetvā khandhaṃ vā sīsaṃ vā gahetuṃ adatvā visaṃ otāretvā pathaviyaṃ pāteyya, evameva Bhagavā kulaputtassa arūpāvacarajjhāne vaṇṇaṃ kathesi. Taṃ sutvā kulaputto rūpāvacarajjhāne nikantiṃ pariyādāya arūpāvacarajjhāne patthanaṃ ṭhapesi.

Bây giờ, trong khi nắm lấy pháp thoại với đỉnh cao A-ra-hán đã nói rằng: “hạng người ấy không bị tạo tác v.v.” Như vị thầy thuốc tài giỏi nhìn thấy sự biến đổi của độc dược, lệnh cho nôn ra, làm cho thuốc độc di chuyển khỏi vị trí, làm cho trở lại phía trên, không để cho thuốc độc ấy thấm vào cơ thể hoặc não bộ nôn mửa thuốc độc xuống mặt đất như thế nào, đức Thế Tôn thuyết giảng ân đức thiền Vô sắc cho thiện nam tử cũng tương tự như thế ấy. Thiện nam tử sau khi lắng nghe về thiền Vô sắc ấy, đã chế ngự được sự tham muốn trong thiền Sắc giới rồi thiết lập ước muốn trong thiền Vô sắc.

Bhagavā taṃ ñatvā taṃ asampattassa appaṭiladdhasseva bhikkhuno “atthesā ākāsānañcāyatanādīsu sampatti nāma. tesañhi paṭhamabrahmaloke vīsatikappasahassāni āyu, dutiye cattālīsaṃ, tatiye saṭṭhi, catutthe caturāsīti kappasahassāni āyu. Taṃ pana aniccaṃ adhuvaṃ asassataṃ tāvakālikaṃ, cavanaparibhedanaviddhaṃsanadhammaṃ, jātiyā anugataṃ, jarāya anusaṭaṃ, maraṇena abbhāhataṃ, dukkhe patiṭṭhitaṃ, atāṇaṃ aleṇaṃ asaraṇaṃ asaraṇībhūtaṃ, ettakaṃ kālaṃ tattha sampattiṃ anubhavitvāpi puthujjanakālakiriyaṃ katvā puna catūsu apāyesu patitabban”ti sabbametaṃ ādīnavaṃ ekapadeneva “saṅkhatametan”ti kathesi. kulaputto taṃ sutvā arūpāvacarajjhāne nikantiṃ pariyādiyi, bhagavā tassa rūpāvacarārūpāvacaresu nikantiyā pariyādinnabhāvaṃ ñatvā arahattanikūṭaṃ gaṇhanto “so neva taṃ abhisaṅkharotī”tiādimāha.

Đức Thế Tôn biết được rằng thiện nam tử đã phá tan tham muốn trong thiền Sắc giới ấy, rồi thiết lập sự mong muốn trong thiền Vô sắc mới nói về toàn bộ lỗi lầm cho vị Tỳ khưu vẫn chưa chứng đắc, vẫn chưa đạt được thiền Vô sắc như sau “trong Không vô biên xứ v.v, tồn tại thì tuổi thọ của chúng sanh có được trong cõi Không vô biên xứ ấy là hai mươi ngàn đại kiếp, ở cõi Phạm thiên Vô sắc thứ 2[37]bốn mươi ngàn đại kiếp, ở cõi Phạm thiên Vô sắc thứ 3[38] có tuổi thọ sáu mươi ngàn đại kiếp, ở cõi Phạm thiên Vô sắc thứ 4[39] có tuổi thọ tám mươi bốn ngàn đại kiếp, tuy nhiên tuổi ấy là không thường còn, không bền vững, không trường tồn, có tính chất tạm thời, có sự biến đổi, tàn lụi, và tiêu tan là bản chất, bị theo sau bởi sanh, bị đeo đuổi bởi già, bị hành hạ bởi chết, được thiết lập trong khổ, là không nơi nương tựa, là không nơi trú ẩn, là không nơi nương nhờ, có trạng thái không nơi nương nhờ, thậm chí thọ hưởng sự thành tựu ở cõi Phạm thiên giới ấy suốt khoảng thời gian chừng ấy cũng thân hoại mạng chung như phàm nhân cũng có thể rơi vào 4 khổ cảnh nữa” chỉ bằng một câu ‘tâm này cũng là Hữu vi’. Thiện nam tử sau khi nghe Phật ngôn ấy rồi mới phá tan sự tham muốn trong thiền Vô sắc, đức Thế Tôn khi biết được thiện nam tử ấy đã phá tan sự ham muốn trong thiền Sắc giới và Vô sắc giới rồi, khi nắm lấy đỉnh cao quả vị A-ra-hán mới nói rằng: “hạng người ấy không bị tạo tác v.v.”

Yathā vā paneko mahāyodho ekaṃ rājānaṃ ārādhetvā satasahassuṭṭhānakaṃ gāmavaraṃ labheyya, puna rājā tassānubhāvaṃ saritvā — “mahānubhāvo yodho, appakaṃ tena laddhan”ti — “nāyaṃ tāta gāmo tuyhaṃ anucchaviko, aññaṃ catusatasahassuṭṭhānakaṃ gaṇhāhī”ti dadeyya so sādhu devāti taṃ vissajjetvā itaraṃ gāmaṃ gaṇheyya. Rājā asampattameva ca naṃ pakkosāpetvā — “kiṃ te tena, ahivātarogo ettha uppajjati? asukasmiṃ pana ṭhāne mahantaṃ nagaraṃ atthi, tattha chattaṃ ussāpetvā rajjaṃ kārehī”ti pahiṇeyya, so tathā kareyya.

Hơn nữa, cũng giống như một đại dũng sĩ sau khi được lòng của một vị vua có thế nhận được ân huệ một ngôi làng có giá trị một trăm ngàn. Đức vua nhớ đến oai lực của đại dũng sĩ ấy rằng: “vị dũng sĩ ấy có nhiều oai lực, vị ấy nhận được ít tài sản nên ban thêm (cho vị ấy)” – “Này khanh ngôi làng này thật không thích hợp đối với khanh, khanh hãy chọn lấy một ngôi làng khác có giá trị đến bốn trăm ngàn.” vị ấy nhận lấy đặc ân của đức vua rằng “lành thay, tâu bệ hạ” rồi giao lại ngôi làng ấy nhận lấy ngôi làng ‘. Đức vua đã cho gọi đại dũng sĩ ấy, vị vẫn chưa đến ngôi làng ấy (nói rằng): “khanh có được lợi ích gì từ ngôi làng ấy, bệnh truyền nhiễm đang khởi lên trong ngôi làng ấy, những ở đằng kia có thành phố to lớn, ngài nên nâng cây lọng trắng để tạo dựng vương quyền ở thành phố ấy.” Vị đại dũng sĩ ấy có thể tạo dựng vương quyền như thế.

Tattha rājā viya sammāsambuddho daṭṭhabbo, mahāyodho viya pukkusāti kulaputto, paṭhamaladdhagāmo viya ānāpānacatutthajjhānaṃ, taṃ vissajjetvā itaraṃ gāmaṃ gaṇhāhīti vuttakālo viya ānāpānacatutthajjhāne nikantipariyādānaṃ katvā āruppakathanaṃ, taṃ gāmaṃ asampattameva pakkosāpetvā “kiṃ te tena, ahivātarogo ettha uppajjati? asukasmiṃ ṭhāne nagaraṃ atthi, tattha chattaṃ ussāpetvā rajjaṃ kārehī”ti vuttakālo viya arūpe saṅkhatametanti ādīnavakathanena appattāsuyeva tāsu samāpattīsu patthanaṃ nivatthāpetvā upari arahattanikūṭena desanāgahaṇaṃ.

Ở đây, nên thấy bậc Chánh đẳng Chánh giác như đức vua, pukkusāti như đại dũng sĩ, đề mục niệm hơi thở Tứ thiền giống như ngôi làng thứ nhất, việc phá tan sự tham muốn trong đề mục thiền niệm hơi thở, rồi thuyết về thiền Vô sắc giống như việc cho vị đại dũng sĩ bỏ ngôi làng ấy rồi nói rằng “khanh hãy lấy ngôi làng này.” Việc cho thiện nam tử ấy thay đổi sự ước muốn trong những thiền chứng ấy mà vẫn chưa đạt đến bằng việc nói về lỗi lầm ở thiền Vô sắc rằng ‘Tâm đó cũng là Hữu vi’ rồi thuyết giảng về đỉnh cao quả vị A-ra-hán tương tự như thời gian cho gọi vị đại dũng sĩ ấy lúc chưa đi đến ngôi làng kia (ngài) nói rằng: “Có lợi ích gì cho khanh ở ngôi làng ấy, bệnh truyền nhiễm đang phát bộc phát ở ngôi làng ấy, ở đằng kia có thành phố, khanh hãy nâng cây lọng tạo dựng vương quyền ở thành phố ấy.”

Tattha neva abhisaṅkharotīti nāyūhati na rāsiṃ karoti. Na abhisañcetayatīti na kappeti. Bhavāya vā vibhavāya vāti vuddhiyā vā parihāniyā vā, sassatucchedavasenapi yojetabbaṃ. Na kiñci loke upādiyatīti loke rūpādīsu kiñci ekadhammampi taṇhāya na gaṇhāti, na parāmasati. Nāparaṃ itthattāyāti pajānātīti bhagavā attano buddhavisaye ṭhatvā desanāya arahattanikūṭaṃ gaṇhi. Kulaputto pana attano yathopanissayena tīṇi sāmaññaphalāni paṭivijjhi. Yathā nāma rājā suvaṇṇabhājanena nānārasabhojanaṃ bhuñjanto attano pamāṇena piṇḍaṃ vaṭṭetvā aṅke nisinnena rājakumārena piṇḍamhi ālaye dassite taṃ piṇḍaṃ upanāmeyya, kumāro attano mukhappamāṇeneva kabaḷaṃ kareyya, sesaṃ rājā sayaṃ vā bhuñjeyya, pātiyaṃ vā pakkhipeyya, Evaṃ dhammarājā Tathāgato attano pamāṇena arahattanikūṭaṃ gaṇhanto desanaṃ desesi, kulaputto attano yathopanissayena tīṇi sāmaññaphalāni paṭivijjhi.

Ở đây, không bị tạo tác: Không tích trữ, không tạo thành đống. Không nhớ đến: sẽ không suy tư đến. Sự tăng trưởng và sự suy hoại: để tăng trưởng hoặc để suy hoại. Có thể liên kết với mãnh lực của sự trường tồn và sự đoạn diệt. Không chấp thủ bất kỳ thứ gì ở trên đời: Không nắm lấy, không bám chấp bất cứ một Pháp gì trong tất cả các Pháp có Sắc v.v, ở trong đời nay với tham ái. Biết rõ… không còn phận sự nào khác (phải làm) đối với bản thể (A-la-hán) này nữa: đức Thế Tôn vững trú trong buddhavisaya [cảnh giới của đức Phật] của chính ngài nắm lấy đỉnh cao quả vị A-ra-hán bằng Pháp thoại. Còn thiện nam tử thấu triệt được 3 Quả của Sa-môn[40] theo căn tánh của mình. Giống như đức vua thọ dụng thức ăn có các hương vị khác nhau bằng cái bát vàng, nặng ổ bánh gạo có kích thước bằng chính ngài, khi vương tử ngồi ở trên đùi thể hiện sự mong muốn ổ bánh gạo ấy (đức vua) đã duỗi cánh tay đưa cho ổ bánh gạo ấy. Vương tử chia ổ bánh có kích thước bằng vương tử, đức vua tự mình thọ dụng phần bánh gạo còn lại, hoặc để vào cái dĩa như thế nào, thì đức Như Lai vị Pháp vương cũng như thế ấy, khi nắm lấy đỉnh cao A-ra-hán thuyết giảng Pháp thoại theo ước lượng của ngài, thiên nam tử thấu triệt 3 quả của Sa-môn theo căn tánh của mình. 

Ito pubbe panassa khandhā dhātuyo āyatanānīti evarūpaṃ accantasuññataṃ tilakkhaṇāhataṃ kathaṃ kathentassa neva kaṅkhā, na vimati, nāpi — “evaṃ kira taṃ, evaṃ me ācariyena vuttan”ti iti kira na dandhāyitattaṃ na vitthāyitattaṃ atthi. Ekaccesu ca kira ṭhānesu buddhā aññātakavesena vicaranti, Sammāsambuddho nu kho esoti ahudeva saṃsayo, ahu vimati. Yato anena anāgāmiphalaṃ paṭividdhaṃ, atha ayaṃ me satthāti niṭṭhaṃ gato. Yadi evaṃ kasmā accayaṃ na desesīti. Okāsābhāvato. Bhagavā hi yathānikkhittāya mātikāya acchinnadhāraṃ katvā ākāsagaṅgaṃ otārento viya desanaṃ desesiyeva.

Cũng trong thời quá khứ từ đây[41], thiện nam tử thuyết kệ ngôn gắn liền với Tam tướng có sự trống rỗng tuyệt đối có hình thức như sau: Uẩn, Giới, Xứ không do dự, không hoài nghi, cũng không nghĩ rằng: “Điều quan trọng không phải như vậy, câu đó đã được nói bởi thầy của ta như vầy”, biết được không có trạng thái bị trì trệ, không  không có trạng thái bối rối, là như thế. Được biết rằng trong một số trường hợp chư Phật đi du hành với hình tướng mà phàm nhân không thể nhận biết được nên mới không có sự hoài nghi, không do dự đó phải chăng là bậc Chánh đẳng Chánh giác? Bởi vì thiện nam tử này đã thấu triệt Thánh Quả A-na-hàm trong thời gian đó mới đi đến sự xác chứng rằng: “hạng người này là bậc Đạo Sư của ta”. Nếu vậy, tại sao thiện nam tử không bày tỏ tội lỗi? Do không có cơ hội. Đức Thế Tôn đã làm không gián đoạn với tiêu đề-mātikā y theo điều được nêu ra rồi mới thuyết giảng Pháp thoại tựa như dòng nước mưa chảy vào hồ nước.

363. Soti arahā. Anajjhositāti gilitvā pariniṭṭhāpetvā gahetuṃ na yutthāti pajānāti. Anabhinanditāti taṇhādiṭṭhivasena abhinandituṃ na yuttāti pajānāti.

363. Vị ấy: vị A-ra-hán đó. Không đáng ưa thích: biết rõ rằng không thích hợp, để nuốt vào, dính mắc, giữ lấy. Không đáng vui mừng: biết rõ rằng không nên hân hoan do tác động của tham ái và tà kiến.

364. Visaṃyutto naṃ vedetīti sace hissa sukhavedanaṃ ārabbha rāgānusayo, dukkhavedanaṃ ārabbha paṭighānusayo, itaraṃ ārabbha avijjānusayo uppajjeyya, saṃyutto vediyeyya nāma. Anuppajjanato pana visaṃyutto naṃ vedeti nissaṭo[42] vippamutto. Kāyapariyantikanti kāyakoṭikaṃ. Yāva kāyapavattā uppajjitvā tato paraṃ anuppajjanavedananti attho. Dutiyapadepi eseva nayo. Anabhinanditāni sītībhavissantīti dvādasasu āyatanesu kilesānaṃ visevanassa[43] natthitāya anabhinanditāni hutvā idha dvādasasuyeva āyatanesu nirujjhissanti. Kilesā hi nibbānaṃ āgamma niruddhāpi yattha natthi, tattha niruddhāti vuccanti. Svāyamattho — “etthesā taṇhā nirujjhamānā nirujjhatī”ti samudayapañhena dīpetabbo. Tasmā Bhagavā nibbānaṃ āgamma sītibhūtānipi idheva sītībhavissantīti āha. Nanu ca idha vedayitāni vuttāni, na kilesāti. Vedayitānipi kilesābhāveneva sītībhavanti. Itarathā nesaṃ sītibhāvo nāma natthīti suvuttametaṃ.

364. Là người không bị ràng buộc bởi sự an lạc: nếu như ái tùy miên mở lối cho lạc thọ, sân tùy miên mở lối cho khổ thọ, vô minh tùy miên mở lối cho các thọ còn lại có thể khởi sanh đến hạng người ấy, cũng gọi là bị ràng buộc rồi cảm nhận, nhưng do 3 tùy miên này không sanh khởi mới gọi là không bị ràng buộc, cảm giác, tức là đã thoát khỏi, đã vượt khỏi đặc biệt. Có thân là tối hậu: Thọ sanh khởi có thân là tối hậu, cho đến sự vận hành của thân, khi ấy cũng không sanh. Kể cả câu thứ hai cũng có phương thức này tương tự. Mọi cảm thọ hoan hỷ ở nơi đây trở nên yên tĩnh: Sự cảm nghiệm các đối tượng được xem là không có tính chất sai quấy của các mọi ô nhiễm trong 12 Xứ sẽ đoạn diệt trong 12 Xứ này đây. Tất cả mọi ô nhiễm đã diệt tận do đạt đến Nibbāna, không có ở bất cứ nơi nào gọi là đã diệt ở nơi đó. Ý nghĩa này đây có thể được mô tả bằng vấn đề Tập Khởi rằng: – “Tham ái ấy khi diệt tận sẽ tận diệt ở nói ấy”. Vì thế, đức Thế Tôn mới thuyết rằng: “Sự cảm thọ các đối tượng dẫu là trạng thái an tĩnh do y cứ Nibbāna sẽ trở nên an tịnh ở đời này. Chẳng phải Đức Phật đã nói đến sự cảm thọ (các đối tượng) ở đây sao? Tại sao Ngài không nói đến các phiền não? Bởi chính sự cảm thọ (các đối tượng) sẽ trở nên an tĩnh do hoàn toàn không có phiền não. Thường trạng thái cảm thọ đối tượng  trở nên an tịnh không có ở trường hợp khác ngoài trường hợp này do đó lời ấy đã khéo thuyết rồi.

365. Evameva khoti ettha idaṃ opammasaṃsandanaṃ — yathā hi eko puriso telapadīpassa jhāyato tele khīṇe telaṃ āsiñcati, vaṭṭiyā khīṇāya vaṭṭiṃ pakkhipati, evaṃ dīpasikhāya anupacchedova hoti, evameva puthujjano ekasmiṃ bhave ṭhito kusalākusalaṃ karoti, so tena sugatiyañca apāyesu ca nibbattatiyeva, evaṃ vedanānaṃ anupacchedova hoti. Yathā paneko dīpasikhāya ukkaṇṭhito — “imaṃ purisaṃ āgamma dīpasikhā na upacchijjatī”ti nilīno tassa purisassa sīsaṃ chindeyya, evaṃ vaṭṭiyā ca telassa ca anupahārā dīpasikhā anāhārā nibbāyati, evameva vaṭṭe ukkaṇṭhito yogāvacaro arahattamaggena kusalākusalaṃ samucchindati, tassa samucchinnattā khīṇāsavassa bhikkhuno kāyassa bhedā puna vedayitāni na uppajjantīti.

365. Đây là ví dụ so sánh trong câu này “Cũng tương tự như thế” – “Giống như một người đàn ông trong lúc cầm cây đèn dầu, cho đến khi cây đèn dầu hết dầu (vị ấy) sẽ thêm dầu vào, khi tim đèn hết (vị ấy) cũng phải thay tim, chính vì thế mà ngọn đèn không bị tắt như thế nào, thì phàm nhân cũng tương tự như thế ấy vững trú trong một kiếp tạo thiện nghiệp hoặc bất thiện nghiệp, vị ấy cũng sẽ hóa sanh vào các thiên giới và các cõi khổ do thiện nghiệp và bất thiện nghiệp đó, nếu như vậy các cảm thọ hoàn toàn không bị đứt đoạn. Hơn nữa, giống như một người cảm thấy khó chịu với ngọn đèn nghĩ rằng: “Do y cứ người đàn ông này nên ngọn đèn mới tắt” mới ẩn núp chặt đầu người đàn ông ấy. Bởi do không thay tim đèn và không châm thêm dầu như thế, ngọn lửa của cây đèn hết tim cũng tắt như thế nào thì hành giả cảm thấy bức rức trong thời bình nhật tương tự như thế ấy, cắt đứt thiện nghiệp và bất thiện nghiệp bằng Thánh Đạo A-ra-hán. Do tính chất thiện ấy đã bị cắt đứt, sự cạm thọ các đối tượng không sanh khởi nữa đối với vị Tỳ khưu bậc lậu tận, vì sự tan rã của thân.

Tasmāti yasmā ādimhi samādhivipassanāpaññāhi arahattaphalapaññā uttaritarā, tasmā. Evaṃ samannāgatoti iminā uttamena arahattaphalapaññādhiṭṭhānena samannāgato. Sabbadukkhakkhaye ñāṇaṃ nāma arahattamagge ñāṇaṃ, imasmiṃ pana sutte arahattaphale ñāṇaṃ adhippetaṃ. Tenevāha tassa sā vimutti sacce ṭhitā akuppā hotīti.

Vì thế: Do Tuệ A-ra-hán Thánh Quả vượt trội hơn Định tuệ và Minh sát tuệ ban đầu. Vị đã thành tựu đầy đủ với sự cảm nhận như vậy: vị phối hợp cùng với Tuệ A-ra-hán Thánh Quả là Pháp nên thiết lập trong tâm cao cả này. Trí A-ra-hán Thánh Đạo gọi là trí dẫn đến sự chấm dứt mọi khổ đau. Nhưng trong bài Kinh này muốn đề cập đến Trí A-ra-hán Thánh Quả. Chính vì lý do ấy mới thuyết rằng: Sự thoát khỏi của vị ấy là an trú vào Chân Lý, không bị lay chuyển.

366. Ettha hi vimuttīti arahattaphalavimutti, saccanti paramatthasaccaṃ nibbānaṃ. Iti akuppārammaṇakaraṇena akuppāti vuttā. Musāti vitathaṃ. Mosadhammanti nassanasabhāvaṃ. Taṃ saccanti taṃ avitathaṃ sabhāvo. Amosadhammanti anassanasabhāvaṃ.

366. Bởi trong câu đó ‘sự giải thoát’ bao gồm sự giải thoát bởi A-ra-hán Thánh Quả. Chân Lý: Pháp Chân Đế là Nibbāna. Sự giải thoát đó gọi là không bị lay chuyển bởi làm đối tượng bất động bằng cách như thế. Dối trá: không thật. Có tính chất dối trá: có tính chất tan rã. Điều đó là sự thật: Chân lý đó là thật, có bản thể. Có tính chất không dối trá: có tính chất không tan rã.

Tasmāti yasmā ādito samathavipassanāvasena vacīsaccato dukkhasaccasamudayasaccehi ca paramatthasaccaṃ nibbānameva uttaritaraṃ, tasmā. Evaṃ samannāgatoti iminā uttamena paramatthasaccādhiṭṭhānena samannāgato.

Do đó: bởi Pháp Chân Đế chính là Nibbāna đó cao quý hơn lời nói chân thật [vacīsacca], (hay) sự thật về khổ và sự thật về nguyên nhân của khổ do mãnh lực của Chỉ tịnh và Minh sát ban đầu. Vị đã thành tựu đầy đủ với sự cảm nhận như vậy: vị phối hợp cùng với Tuệ A-ra-hán Thánh Quả là Pháp nên thiết lập trong tâm cao cả này.

367. Pubbeti puthujjanakāle. Upadhī hontīti khandhūpadhi kilesūpadhi abhisaṅkhārūpadhi pañcakāmaguṇūpadhīti ime upadhayo honti. Samattā samādinnāti paripūrā gahitā paramaṭṭhā. Tasmāti yasmā ādito samathavipassanāvasena kilesapariccāgato, sotāpattimaggādīhi ca kilesapariccāgato arahattamaggeneva kilesapariccāgo uttaritaro, tasmā. Evaṃ samannāgatoti iminā uttamena cāgādhiṭṭhānena samannāgato.

367. Trước kia: là trong thời gian còn là phàm như. Bản thể của sự tái sanh: những bản thể của sự tái sanh này – bản thể của sự tái sanh là Uẩn, bản thể của sự tái sanh là phiền não, bản thể của sự tái sanh là sự tạo tác, bản thể của sự tái sanh là sự trói chặt vào năm loại dục. Được đầy đủ, được thọ trì: trọn vẹn, là được nắm lấy, được bám víu. Do đó: bởi Pháp Chân Đế chính là Nibbāna đó cao quý hơn việc xả bỏ ô nhiễm do mãnh lực của Chỉ tịnh và Minh sát ban đầu và cao quý hơn việc xả bỏ phiền não bằng Thánh Đạo Tu-đà-hoàn v.v. Vị thành tựu với việc từ bỏ như vậy: vị thành tựu toàn vẹn với nguyện vọng dứt bỏ cao quý này.

368. Āghātotiādīsu āghātakaraṇavasena āghāto, byāpajjanavasena byāpādo, sampadussanavasena sampadosoti tīhi padehi[44] dosākusalamūlameva vuttaṃ. Tasmāti yasmā ādito samathavipassanāvasena kilesavūpasamato, sotāpattimaggādīhi kilesavūpasamato ca arahattamaggeneva kilesavūpasamo uttaritaro, tasmā. Evaṃ samannāgatoti iminā uttamena upasamādhiṭṭhānena samannāgato.

368. Sự hiềm khích v.v. gọi là sự hiềm khích do tác động của việc kết oán. Sân độc: do tác động ác ý. Suy nghĩ làm hại: do tác động của việc gây tổn hại mọi thứ. Ngài chỉ nói đến 3 căn bất thiện với cả 3 câu. Vì lý do đó: do việc vắng lặng tất cả mọi phiền não bằng Thánh Đạo A-ra-hán ấy cao quý hơn việc tĩnh lặng phiền não do mãnh lực của Chỉ tịnh và Minh sát ban đầu và việc tĩnh lặng phiền não bởi Thánh Đạo Tu-đà-hoàn v.v. Vị thành tựu với sự tĩnh lặng như vậy: vị thành tựu toàn vẹn với sự tĩnh lặng là Pháp cần được thiết lập trong tâm do sự cao quý.

369. Maññitametanti taṇhāmaññitaṃ mānamaññitaṃ diṭṭhimaññitanti tividhampi vaṭṭati. Ayamahamasmīti ettha pana ayamahanti ekaṃ taṇhāmaññitameva vaṭṭati. Rogotiādīsu ābādhaṭṭhena rogo, antodosaṭṭhena gaṇḍo, anupaviṭṭhaṭṭhena sallaṃ. Muni santoti vuccatīti khīṇāsavamuni santo nibbutoti vuccati. Yattha ṭhitanti yasmiṃ ṭhāne ṭhitaṃ. Saṃkhittenāti Buddhānaṃ kira sabbāpi dhammadesanā saṃkhittāva, vitthāradesanā nāma natthi, samantapaṭṭhānakathāpi saṃkhittāyeva. Iti Bhagavā desanaṃ yathānusandhiṃ pāpesi. Ugghāṭitaññūtiādīsu pana catūsu puggalesu pukkusāti kulaputto vipañcitaññū, iti vipañcitaññuvasena Bhagavā imaṃ dhātuvibhaṅgasuttaṃ kathesi.

369. Đây là sự suy nghĩ: Sự suy nghĩ có 3 là sự suy nghĩ do tham ái, sự suy nghĩ do ngã mạn, sự suy nghĩ do tà kiến được vận hành. Hơn nữa, ở đây ‘tôi là cái này’ chính là sự suy nghĩ do tham ái ấy được vận hành như vầy ‘tôi có thể là’. Bệnh tật v.v, gọi là bệnh tật bởi ý nghĩa đau đớn. Ung nhọt: bởi ý nghĩa làm tổn thương bên trong. Như mũi tên: với ý nghĩa đâm xuyên thủng. Bậc trí gọi hạng người ấy là bậc ẩn sĩ tịch tịnh: hạng người ấy gọi là bậc ẩn sĩ lậu tận tịch tịnh, tức là vị đã hoàn toàn tịch tịnh, đã đoạn tận khổ đau. Là Pháp đã được thiết lập: đã được thiết lập ở vị trí nào. Tóm lược: do toàn bộ Pháp thoại của chư Phật đều được thuyết giảng vắn tắt, gọi là thuyết giảng chi tiết thì không có, thậm chí lời nói về Samanta-paṭṭhāna cũng được (thuyết) vắn tắt. Đức Thế Tôn vẫn thuyết theo trình tự tùy biến bằng cách như thế. Hơn nữa, trong bốn hạng người gồm người hiểu khi được nói ngắn gọn thì Pukkusāti là người hiểu khi được nói đầy đủ, đức Thế Tôn thuyết giảng bài Kinh Giới Phân Tích do mãnh lực người hiểu khi được nói đầy đủ, là như thế.

370. Na kho me, bhante, paripuṇṇaṃ pattacīvaranti kasmā kulaputtassa iddhimayapattacīvaraṃ na nibbattanti. Pubbe aṭṭhannaṃ parikkhārānaṃ adinnattā. kulaputto hi dinnadāno katābhinīhāro, na dinnattāti na vattabbaṃ. Iddhimayapattacīvaraṃ pana pacchimabhavikānaṃyeva nibbattati, ayañca punapaṭisandhiko, tasmā na nibbattanti. Atha bhagavā sayaṃ pariyesitvā kasmā na upasampādesīti. Okāsābhāvato. Kulaputtassa āyu parikkhīṇaṃ, suddhāvāsiko anāgāmī mahābrahmā kumbhakārasālaṃ āgantvā nisinno viya ahosi. Tasmā sayaṃ na pariyesi.

370. Này Tỳ khưu, Ông có đủ y bát không?: Tại sao bình bát và y phục thanh tựu do thần thông không sanh khởi cho thiện nam tử vậy? Bởi thiện nam tử chưa từng cúng dường tám món vật dụng cần thiết vào thời quá khứ. Thiện nam tử có vật thí đã từng bố thí, có sự phát nguyện ban đầu đã tạo, (vì thế) không nên nói rằng: “do chưa từng bố thí”. Hơn nữa, bình bát và y phục thành tựu do thần thông chỉ phát sanh lên cho vị Thánh Thinh văn có kiếp sống cuối cùng mà thôi, còn đối với thiện nam tử này vẫn còn tái sanh nữa. Vì lý do đó mà bình bát và y phục không thành tựu do thần thông mới không phát sanh. Nếu vậy thì lý do gì đức Thế Tôn không tự mình tìm kiếm rồi cho thiện nam tử tu lên bậc trên? Bởi vì ngài không cơ hội. Tuổi thọ của thiện nam tử này cũng đã chấm dứt. Thiện nam tử giống như Đại Phạm thiên vị đã trở thành bậc Thánh A-na-hàm cõi trời Tịnh Cư đã đến trú xứ của người thợ gốm rồi ngồi xuống. Do đó, mới không tự mình tìm kiếm.

Pattacīvarapariyesanaṃ pakkāmīti kāya velāya pakkāmi? Uṭṭhite aruṇe. Bhagavato kira dhammadesanāpariniṭṭhānañca aruṇuṭṭhānañca rasmivissajjanañca ekakkhaṇe ahosi. Bhagavā kira desanaṃ niṭṭhapetvāva chabbaṇṇarasmiyo vissajji, sakalakumbhakāranivesanaṃ ekapajjotaṃ ahosi, chabbaṇṇarasmiyo jālajālā puñjapuñjā hutvā vidhāvantiyo sabbadisābhāge suvaṇṇapaṭapariyonaddhe viya ca nānāvaṇṇakusumaratanavisarasamujjale viya ca akaṃsu. Bhagavā “nagaravāsino maṃ passantū”ti adhiṭṭhāsi. Nagaravāsino bhagavantaṃ disvāva “satthā kira āgato, kumbhakārasālāya kira nisinno”ti aññamaññassa ārocetvā rañño ārocesuṃ.

Thân phía hữu hướng về Ngài rồi ra đi tìm y bát: Ngài Pukkusāti ra đi vào thời gian đó, là lúc bình minh đang lên. Được biết rằng kết thúc Pháp thoại của đức Thế Tôn, việc đang lên cao của ánh bình minh, việc lan tỏa hào quang xảy ra trong cùng một thời điểm. Kể rằng đức Thế Tôn làm cho Pháp thoại kết thúc rồi tỏa hào quang sáu màu, toàn bộ trú xứ của người thợ gốm cũng phát cùng lúc. Hào quang sáu màu tỏa sáng lan tỏa thành từng cụm từng cụm làm cho khắp mọi phương hướng như thể được bao phủ bởi một tấm vàng và như lấp lánh với những bông hoa và các loại châu báu quý hiếm có nhiều màu sắc khác nhau. Bởi đức Thế Tôn phát nguyện rằng: “Cầu mong toàn bộ dân chúng trong thành phố có thể nhìn thấy ta.” Toàn bộ người dân trong thành phố nhìn thấy được đức Thế Tôn, ai cũng nói với nhau rằng: “được biết bậc Đạo Sư đã đến, kể rằng đang ngồi ở trú xứ của người thợ gốm” rồi hỏi đức vua.

Rājā āgantvā satthāraṃ vanditvā, “bhante, kāya velāya āgatatthā”ti pucchi. hiyyo sūriyatthaṅgamanavelāya mahārājāti. Kena kammena bhagavāti? Tumhākaṃ sahāyo Pukkusāti rājā tumhehi pahitaṃ sāsanaṃ sutvā nikkhamitvā pabbajitvā maṃ uddissa āgacchanto sāvatthiṃ atikkamma pañcacattālīsa yojanāni āgantvā imaṃ kumbhakārasālaṃ pavisitvā nisīdi, ahaṃ tassa[45] saṅgahatthaṃ āgantvā dhammakathaṃ kathesiṃ, kulaputto tīṇi phalāni paṭivijjhi mahārājāti. Idāni kahaṃ, bhanteti? upasampadaṃ yācitvā aparipuṇṇapattacīvaratāya pattacīvarapariyesanatthaṃ gato mahārājāti. Rājā kulaputtassa gatadisābhāgena agamāsi. Bhagavāpi ākāsenāgantvā Jetavanagandhakuṭimhiyeva pāturahosi.

Đức vua đã đến đảnh lễ bậc Đạo Sư rồi hỏi rằng: “Thưa ngài, ngài đã đến đây khi nào?” – Tâu đại vương, khi mặt trời lặng. – Đức Thế Tôn đến đây vì công việc gì? – đức vua Pukkusāti vị bằng hữu của đại vương, đọc chiếu thư mà đại vương gửi đi, vị ấy đã xuất gia, vị ấy đến vì bần đạo, qua thành Sāvatthi đã đi hết 45 do-tuần, vị ấy đã đến trú xứ của người thọ gốm này rồi ngồi xuống, bần đạo đến để nhiếp phục vị bằng hữu của đại vương, đã thuyết giảng Giáo Pháp, thiện nam tử ấy đã thấu triệt được 3 Thánh Quả tâu đại vương. – Kính bạch ngài, bây giờ đức vua Pukkusāti an trú ở đâu, thưa ngài? – Thiện nam tử Pukkusāti xin phép tu lên bậc trên, vị ấy đã đi để tìm kiếm bình bát và y phục, do bình bát và y phục chưa đầy đủ. – Đức vua đi theo con đường mà thiện nam tử đã đi. – Còn đức Thế Tôn bay lên không trung hiện ra ở trước Hương Thất ở Tinh xá Jetavana ấy.

Kulaputtopi pattacīvaraṃ pariyesamāno neva Bimbisārarañño na takkasīlakānaṃ jaṅghavāṇijānaṃ santikaṃ agamāsi. Evaṃ kirassa ahosi — “na kho me kukkuṭassa viya tattha tattha manāpāmanāpameva vicinitvā pattacīvaraṃ pariyesituṃ yuttaṃ, mahantaṃ nagaraṃ vajjitvā udakatitthasusānasaṅkāraṭṭhānāntaravīthīsu pariyesissāmī”ti antaravīthiyaṃ saṅkārakūṭesu tāva pilotikaṃ pariyesituṃ āraddho.

Mặc dù thiện nam tử trong khi tìm kiếm bình bát và y phục cũng không đi đến trú xứ của vua Bimbisāra và nhóm thương buôn đi đường bộ người dân Takkasīla. Được biết rằng thiện nam tử ấy suy nghĩ như vầy – “Việc lựa chọn tìm kiếm bình bát và y phục ưa thích và không ưa thích ở trú xứ này trú xứ kia thật không thích hợp đối với ta, so sánh như một con gà trống (thường tìm kiếm thức ăn ở những chỗ khác nhau) thành phố rộng lớn, ta sẽ tìm kiếm ở bên nước, bãi tha ma, đống rác và ngõ hẻm.” Thiện nam tử bắt đầu tìm kiếm những mảnh vải vụn, vải thừa ở đống rác trong các ngõ hẻm trước.

Jīvitā voropesīti etasmiṃ saṅkārakūṭe pilotikaṃ olokentaṃ vibbhantā taruṇavacchā gāvī upadhāvitvā siṅgena vijjhitvā ghātesi. chātakajjhatto kulaputto ākāseyeva āyukkhayaṃ patvā patito. Saṅkāraṭṭhāne adhomukhaṭṭhapitā suvaṇṇapaṭimā viya ahosi, kālaṅkato ca pana avihābrahmaloke nibbatti, nibbattamattova arahattaṃ pāpuṇi. Avihābrahmaloke kira nibbattamattāva satta janā arahattaṃ pāpuṇiṃsu. vuttañhetaṃ —

Đoạt mất mạng sống (của Tôn giả): Một con bò cái có con nhỏ chạy lao đến húc vào thiện nam tử ấy, người đang quan sát những mảnh vải vụn ở trong một đống rác văng lên dẫn đến sự chết. Thiện nam tử ấy bị đói chế ngự đưa đến chấm dứt tuổi thọ trong chính thời gian ấy rơi xuống nằm sấp mặt trên đống rác như pho tượng bằng vàng, và như thế sau khi thân hoại mạng chung vị ấy đã hóa sanh vào Phạm thiên giới cõi Vô phiền – Avihā, vừa sanh vào (vị ấy) cũng chứng đắc A-ra-hán. Được biết rằng người vừa mới sanh vào Phạm thiên giới cõi Vô phiền đã chứng đắc A-ra-hán có 7 người. Điều này đã được nói –

“avihaṃ upapannāse, vimuttā satta bhikkhavo.

rāgadosaparikkhīṇā, tiṇṇā loke visattikaṃ.

ke ca te ataruṃ paṅkaṃ, maccudheyyaṃ suduttaraṃ.

ke hitvā mānusaṃ dehaṃ[46], dibbayogaṃ upaccaguṃ.

Upako Palagaṇḍo ca, Pukkusāti ca te tayo.

Bhaddiyo Khaṇḍadevo ca, Bāhuraggi ca Siṅgiyo.

Te hitvā mānusaṃ dehaṃ[47], dibbayogaṃ upaccagun”ti. [48]

”Có bảy vị Tỳ khưu được sanh vào Phạm thiên giới cõi Vô phiền đã giải thoát

Có ái luyến và sân được đoạn tận, vượt qua tham ái ở đời.

Và họ là ai, vượt qua bùn nhơ, vượt qua đạo binh của thần chết khó vượt,

Những vị ấy từ bỏ sự trói buộc của loài người, vượt qua sự trói buộc của chư thiên.

Họ là Upaka và Palagaṇḍa, với Pukkusāti hợp thành là ba vị,

Bhaddiya và Khaṇḍadeva, với Bāhuraggi, cùng với Siṅgiya,

Những vị ấy sau khi từ bỏ sự trói buộc của loài người, vượt khỏi sự trói buộc của chư thiên.

Bimbisāropi “mayhaṃ sahāyo mayā pesitasāsanamattaṃ vācetvā hatthagataṃ rajjaṃ pahāya ettakaṃ addhānaṃ āgato, dukkaraṃ kataṃ kulaputtena, pabbajitasakkārena taṃ sakkarissāmī”ti “pariyesatha me sahāyakan”ti tattha tattha pesesi. pesitā taṃ addasaṃsu saṅkāraṭṭhāne patitaṃ, disvā āgamma rañño ārocesuṃ. Rājā gantvā kulaputtaṃ disvā — “na vata, bho, labhimhā sahāyakassa sakkāraṃ kātuṃ, anātho me jāto sahāyako”ti. Paridevitvā kulaputtaṃ mañcakena gaṇhāpetvā yuttokāse ṭhapetvā anupasampannassa sakkāraṃ kātuṃ jānanābhāvena nhāpakakappakādayo pakkosāpetvā kulaputtaṃ sīsaṃ nhāpetvā suddhavatthāni nivāsāpetvā rājavesena alaṅkārāpetvā sovaṇṇasivikaṃ āropetvā sabbatāḷāvacaragandhamālādīhi pūjaṃ karonto nagarā nīharitvā bahūhi gandhakaṭṭhehi mahācitakaṃ kāretvā kulaputtassa sarīrakiccaṃ katvā dhātuyo ādāya cetiyaṃ patiṭṭhapesi. sesaṃ sabbattha uttānamevāti.

Còn vua Bimbisāra nghĩ rằng: “Vị bằng hữu của trẫm chỉ đọc chiếu thư được trẫm gửi đi đã dứt bỏ cả vương quốc nằm trong lòng bàn tay, ngài đã đến từ con đường xa xôi ngần ấy, phận sự khó làm đã được làm bởi thiện nam tử, ta sẽ cung kính ngài với lễ vật cung kính của vị xuất gia”, đoàn tùy tùng của đức vua được đưa đi đến nơi đó đã nhìn thấy thiện nam tử nằm sấp ở đống rác, họ đã quay về trình báo cho đức vua. Đức vua khởi giá, sau khi (ngài) nhìn thấy thiện nam tử nằm sấp (chết), đã rơi nước mắt (nói rằng): “này các khanh, trẫm và các khanh không được thực hiện sự cung kính đến vị bằng hữu thật ư? vị bằng hữu của trẫm không nơi nương tựa rồi” rồi ngài truyền lệnh lấy giường để khiêng thiện nam tử ấy đi, cho đặt ở vị trí thích hợp, biết rằng thực hiện cung kính đối với vị chưa xuất gia như thế nào mới truyền lệnh cho gọi người đến tắm gội và thợ cắt tóc v.v, thay xiêm y sạch sẽ v.v, cho trang điểm như đức vua, nâng lên kiệu vàng thực hiện lễ bái với những vật dụng gồm các loại nhạc cụ, vật thơm và tràng hoa khác nhau v.v, rồi đưa ra khỏi thành tạo lên giàn hỏa thiêu vĩ đại bằng nhiều loại gỗ thơm để hỏa táng thi thể của thiện nam tử, rồi đem Xá-lợi đặt vào trong Bảo tháp. Từ còn lại trong các câu đều đơn giản.

Giải Thích Kinh Giới Phân Biệt Kết Thúc.


[1] Sī. dutamittako

[2] agāriyaratanesu api cakkavattirājā (?)

[3] Pañcapatiṭṭhita: ngũ thể tạ địa, cách lạy năm điểm chạm đất gồm 2 đầu gối, 2 tay và đầu.

[4] Ka. nibbattantīti

[5] Ka. bhaveyyuṃ

[6] khu. pā. 6.3; su. ni. 226

[7] khu. pā. 6.5; su. ni. 228

[8] khu. pā. 6.6; su. ni. 229

[9] Syā. – vicittasamuṭṭhā

[10] Ka. Mahāparivāro nāmāyaṃ

[11] Ka. paharitvā

[12] Ka. tattha

[13] Sī. Syā. Labhinti

[14] Syā. Ka. Purato

[15] Ka. yampaṭicchati, Syā. – yaṃ paṭicchati

[16] Syā. Ka. detu

[17] Sī. vayesu

[18] ka. maggakilamathaṃ

[19] ka. atirekayojanasataṃ

[20] Ka. uruddhanti

[21] Ka. macchariyāyati

[22] Ka. baddho

[23] Sī. sāsanapattaṃ

[24] Ka. vutte taṃ

[25] Sī. taṃ kathaṃ

[26] Ka. tañca tassa, Syā. Yassa

[27] Sī. Syā. ṭhapāpeyya

[28] ma. ni. 1.57 ādayo

[29] Syā., ka. vuttabhāsantarakusalatāya bhāsāya

[30] Ka. so ca chamātumattameva

[31] Sī. yathādhammaraseneva

[32] Sī. nibbeṭhetvā, Syā. nivattetvā

[33] Syā., ka. taṃ panassa

[34] ṭīkā. nihatanti

[35] Ka. tadatthāya

[36] Sī. Cavanapatana

[37] Thức vô biên xứ

[38] Vô sở hữu xứ

[39] Phi tưởng phi phi tưởng xứ

[40] Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm và A-na-hàm

[41] Ṭīkā. Sau khi chứng đắc Thánh Quả A-na-hàm

[42] Ka. niyutto

[43] Ka. visesanassa

[44] Ka, Tividhampi

[45] Syā. Tava sahāyassa

[46] Sī., Syā. saṅgaṃ

[47] Syā., ka., ṭīkāyam ca. yogaṃ

[48] saṃ. ni. 1.50, 105