Kinh số 136 – Giải Thích Kinh Đại Nghiệp Phân Biệt
(Mahākammavibhaṅgasuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Đại Nghiệp Phân Biệt
298. Evaṃ me sutanti mahākammavibhaṅgasuttaṃ. Tattha moghanti tucchaṃ aphalaṃ. Saccanti tathaṃ bhūtaṃ. Idañca etena na sammukhā sutaṃ, Upālisutte (ma. ni. 2.56) pana — “manokammaṃ mahāsāvajjataraṃ paññapemi pāpassa kammassa kiriyāya pāpassa kammassa pavattiyā, no tathā kāyakammaṃ no tathā vacīkamman”ti Bhagavatā vuttaṃ atthi, sā kathā titthiyānaṃ antare pākaṭā jātā, taṃ gahetvā esa vadati. atthi ca sā samāpattīti idaṃ — “kathaṃ nu kho, bho, abhisaññānirodho hotī”ti Poṭṭhapādasutte (dī. ni. 1.406 ādayo) uppannaṃ abhisaññānirodhakathaṃ sandhāya vadati. Na kiñci vediyatīti ekavedanampi na vediyati. Atthi ca khoti thero nirodhasamāpattiṃ sandhāya anujānāti. Parirakkhitabbanti garahato mocanena rakkhitabbaṃ. Sañcetanā assa atthīti sañcetanikaṃ, sābhisandhikaṃ sañcetanikakammaṃ katvāti attho. Dukkhaṃ soti thero “akusalameva sandhāya paribbājako pucchatī”ti saññāya evaṃ vadati.
298. Kinh Đại Nghiệp Phân Biệt được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, trống không bao gồm trống rỗng, không có kết quả. Sự thật: bản thể thật. Điều này du sĩ ngoại đạo Potaliputta ấy chưa từng được lắng nghe tận mặt, hơn nữa trong bài Kinh Upāli có phật ngôn được đức Thế Tôn thuyết rằng : “Ta chủ trương ý nghiệp là tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp, khẩu nghiệp không bằng được, ý nghiệp không bằng được.” (ma. ni. 2.56), kệ ngôn ấy khởi lên hiện khởi giữa các du sĩ ngoại đạo, du sĩ Potaliputta đã nắm lấy kệ ngôn ấy để nói, nói rằng hơn nữa thiền chứng [sampatti] này có tồn tại chăng?: Du sĩ ngoại đạo Potaliputta muốn đề cập đến lời nói về sự diệt tận của tưởng đã xuất hiện trong bài Kinh Poṭṭhapāda (dī. ni. 1.406 ādayo) – “Thưa ngài, sự diệt tận của tưởng như thế nào?” Không thọ hưởng bất kỳ cảm thọ gì? Không thọ hưởng dù chỉ một cảm thọ. Có (thiền chứng)…có tồn tại: Trưởng lão nhận biết trong sự liên hệ đến sự thể nhập thiền diệt. Thận trọng: Cần được gìn giữ với việc giảm bớt từ lời khiển trách. Ý định của hành động đó có tồn tại, vì thế hành động ấy gọi là có sự cố ý, có nghĩa là đã tạo nghiệp có sự cố ý. Hạng người (…lãnh thọ) khổ đau: Trưởng lão nói như vậy về tường (rằng) “đề cập thuần về bất thiện câu hỏi của du sĩ ngoại đạo”.
Dassanampi kho ahanti bhagavā caturaṅgepi andhakāre samantā yojanaṭṭhāne tilamattampi saṅkhāraṃ maṃsacakkhunāva passati, ayañca paribbājako na dūre gāvutamattabbhantare vasati, kasmā bhagavā evamāhāti? Samāgamadassanaṃ sandhāyevamāha.
Ta cũng chưa từng nhìn thấy: Đức Thế Tôn nhìn thấy các hành thậm chí bằng hạt mè ở nơi xấp xỉ một do-tuần xung quanh, ở nơi tối tăm có bốn yếu tố hoàn toàn bằng con mắt thịt, và du sĩ này ở nơi không xa bên trong khoảng một gāvuta[1], tại sao đức Thế Tôn lại nói như vậy? Bởi nói đề cập đến cái thấy ở cuộc gặp gỡ mà thôi.
299. Udāyīti Lāludāyī[2]. Taṃ dukkhasminti sabbaṃ taṃ dukkhameva. Iti imaṃ vaṭṭadukkhaṃ kilesadukkhaṃ saṅkhāradukkhaṃ sandhāya “sace bhāsitaṃ bhaveyya bhagavā”ti pucchati.
299. Udāyī là tỳ khưu Lāludāyī. Cảm giác khổ đau: Toàn bộ những đau khổ đó. Như thế ngài Udāyī muốn đề cập đến vòng luân hồi là khổ, phiền não là khổ, các hành là khổ, là như thế mới hỏi rằng “Kính bạch đức Thế Tôn, đôi lúc ngài đại đức Samiddhi có thể nói liên hệ đến…”
300. Ummaṅganti pañhāummaṅgaṃ[3]. Ummujjamānoti sīsaṃ nīharamāno. Ayoniso ummujjissatīti anupāyena sīsaṃ nīharissati. Idañca pana bhagavā jānanto neva dibbacakkhunā na cetopariyañāṇena na sabbaññutañāṇena jāni, adhippāyeneva pana aññāsi. Kathentassa hi adhippāyo nāma suvijāno hoti, kathetukāmo gīvaṃ paggaṇhāti, hanukaṃ cāleti, mukhamassa phandati, sannisīdituṃ na sakkoti. Bhagavā tassa taṃ ākāraṃ disvā “ayaṃ udāyī sannisīdituṃ na sakkoti, yaṃ abhūtaṃ, tadeva kathessatī”ti oloketvāva aññāsi. Ādiṃ yevātiādimhiyeva. Tisso vedanāti “kiṃ so vediyatī”ti? pucchantena “tisso vedanā pucchāmī”ti evaṃ vavatthapetvāva tisso vedanā pucchitā. sukhavedaniyanti sukhavedanāya paccayabhūtaṃ. Sesesupi eseva nayo.
300. Nói ngược với thói thường: Nói ngược lại vấn đề. Trong khi buột miệng nói ra: thò đầu ra (thể hiện ý kiến). Sẽ buột miệng nói ra không khéo léo: thò đầu ra không khéo léo. Hơn nữa, đức Thế Tôn biết được chuyện này không phải biết do thiên nhãn, không phải do tha tâm thông, không phải do trí toàn giác, mà biết được nhờ vào sự giải thích mà thôi, trong khi được giải thích đơn giản cũng biết được dễ dàng, người mong muốn nói (sẽ) vươn cổ, rung giọng, miệng của vị ấy mấp máy, không thể giữ được định tĩnh. Đức Thế Tôn nhìn thấy biểu hiện ấy của Tỳ khưu Udāyī vươn cổ, sau khi quan sát biết được rằng: “Udāyī này không thể giữ được định tĩnh sẽ nói những lời nói không như thật”. Chỗ khởi thủy: ở chỗ đầu tiên. 3 thọ: Du sĩ ngoại đạo Potaliputta khi hỏi rằng: “hạng người ấy cảm giác như thế nào?” cũng xác định như vầy: “Ta sẽ hỏi về 3 thọ”. Cho kết quả an lạc: có trạng thái là duyên của lạc thọ. Ngay cả câu còn lại cũng có phương thức như này tương tự.
Ettha ca kāmāvacarakusalato somanassasahagatacittasampayuttā catasso cetanā, heṭṭhā tikajjhānacetanāti evaṃ paṭisandhipavattesu sukhavedanāya jananato sukhavedaniyaṃ kammaṃ nāma. Kāmāvacarañcettha paṭisandhiyaṃyeva ekantena sukhaṃ janeti, pavatte iṭṭhamajjhattārammaṇe adukkhamasukhampi.
Và ở đây, được gọi là hành động cho kết quả an lạc do làm khởi lên lạc thọ trong thời tục sanh và thời bình nhật như vầy là bốn Tư-cetanā tương ưng với tâm câu hành với thọ hỷ thuộc Tư-cetanā thiện Dục giới trong thiền nhóm thứ ba bậc thấp. Trong trường hợp này nghiệp thiện Dục giới làm khởi sanh lạc thọ hoàn toàn ngay chính trong thời tục sanh, làm cho khởi sanh bất khổ bất lạc ở đối tượng khả ái và đối tượng trung tính trong thời bình nhật.
Akusalacetanā paṭisandhipavattesu dukkhasseva jananato dukkhavedaniyaṃ kammaṃ nāma. Kāyadvāre pavatteyeva cetaṃ ekantena dukkhaṃ janeti, aññattha adukkhamasukhampi, sā pana vedanā aniṭṭhāniṭṭhamajjhattesuyeva ārammaṇesu uppajjanato dukkhātveva saṅkhaṃ gatā.
Tư bất thiện gọi là hành động cho quả khổ đau bởi khi sanh lên chỉ toàn khổ trong thời tục sanh và thời bình nhật. Trong khi thân môn đã vận hành (dẫn đến) khổ đau hoàn toàn được khởi sanh, thậm chí bất khổ bất lạc (sanh khởi) trong các môn khác (từ nhãn môn đến thiệt môn), hơn nữa, thọ ấy đi đến gọi là thuần khổ do sanh lên nơi đối tượng xấu và đối tượng trung tính.
Kāmāvacarakusalato pana upekkhāsahagatacittasampayuttā catasso cetanā, rūpāvacarakusalato catutthajjhānacetanāti evaṃ paṭisandhipavattesu tatiyavedanāya jananato adukkhamasukhavedaniyaṃ kammaṃ nāma. Ettha ca kāmāvacaraṃ paṭisandhiyaṃyeva ekantena adukkhamasukhaṃ janeti, pavatte iṭṭhārammaṇe sukhampi. apica sukhavedaniyakammaṃ paṭisandhipavattivasena vaṭṭati, tathā adukkhamasukhavedaniyaṃ, dukkhavedaniyaṃ pavattivaseneva vaṭṭati. etassa pana vasena sabbaṃ pavattivaseneva vaṭṭati.
Hơn nữa, gọi là hành động cho kết quả bất khổ bất lạc bởi sanh lên cảm thọ thứ 3 trong thời tục sanh và thời bình nhật là 4 Tư-cetanā tương ưng với tâm câu hành với thọ xả phía thiện Dục giới và Tư-cetanā trong tứ thiền phía thiện Sắc giới. Nghiệp thiện Dục giới cho sanh khởi hoàn toàn bất khổ bất lạc thọ trong chính thời tục sanh ấy, thậm chí lạc thọ cũng khởi sanh ở đối tượng tốt trong thời bình nhật. Và lại nữa, nghiệp cho quả an lạc vận hành do tác động của thời tục sanh và thời bình nhật, nghiệp cho quả bất khổ bất lạc được diễn ra tương tự, nghiệp cho quả khổ được vận hành do tác động của thời bình nhật. Hơn nữa, do tác động của nghiệp cho quả khổ đó (mà) toàn bộ nghiệp được vận hành do tác động của thời bình nhật.
Etassa bhagavāti thero tathāgatena mahākammavibhaṅgakathanatthaṃ ālayo dassito, tathāgataṃ yācitvā mahākammavibhaṅgañāṇaṃ bhikkhusaṅghassa pākaṭaṃ karissāmīti cintetvā anusandhikusalatāya evamāha. Tattha mahākammavibhaṅganti mahākammavibhajanaṃ[4]. Katame cattāro … pe … idhānanda, ekacco puggalo … pe … nirayaṃ upapajjatīti idaṃ na mahākammavibhaṅgañāṇabhājanaṃ, mahākammavibhaṅgañāṇabhājanatthāya pana mātikāṭṭhapanaṃ.
Kính bạch đức Thế Tôn…hãy phân tích đại phân biệt về nghiệp! Như Lai thuyết giảng về nơi cư ngụ để trình bày đại nghiệp phân biệt, ta đã khẩn cầu đấng Như Lai rồi sẽ thực hiện đại nghiệp phân biết trí cho hiển lộ cùng chư Tỳ khưu Tăng, rồi nói như vậy bơi do bản thân thiện xảo trong việc liên kết ý nghĩa. Trong câu đó ‘đại nghiệp phân biệt’ gồm việc phân tích đại nghiệp. Thế nào là bốn …nt… này Ānanda, một số người trong đời này …nt… sanh vào địa ngục: đây là việc phân tích trí trong đại nghiệp phân biệt, tuy nhiên cũng là việc đặt tiêu đề nhằm mục đích phân tích trí trong đại nghiệp phân biệt.
301. Idhānanda, ekacco samaṇo vāti pāṭiyekko anusandhi. Idañhi bhagavā — “dibbacakkhukā samaṇabrāhmaṇā idaṃ ārammaṇaṃ katvā imaṃ paccayaṃ labhitvā idaṃ dassanaṃ gaṇhantī”ti pakāsanatthaṃ ārabhi. Tattha ātappantiādīni pañcapi vīriyasseva nāmāni. Cetosamādhinti dibbacakkhusamādhiṃ. Passatīti “so satto kuhiṃ nibbatto”ti olokento passati. Ye aññathāti ye “dasannaṃ kusalānaṃ kammapathānaṃ pūritattā nirayaṃ upapajjatī”ti jānanti, micchā tesaṃ ñāṇanti vadati. Iminā nayena sabbavāresu attho veditabbo. Viditanti pākaṭaṃ. Thāmasāti diṭṭhithāmena. Parāmāsāti diṭṭhiparāmāsena. Abhinivissa voharatīti adhiṭṭhahitvā ādiyitvā voharati.
301. Này Ānanda, một số Sa-môn trong đời này: mỗi từ đều là sự liên kết. Thật vậy đức Thế Tôn bắt đầu đến sự liên kết này để tuyên bố rằng – “Tất cả Sa-môn hoặc Bà-la-môn có thiên nhãn, đã tạo điều này[5] làm đối tượng đã đạt được điều này làm duyên, nắm giữ quan điểm này”. Trong số những từ đó thì ‘nhiệt tâm’ v.v, là tên gọi của năm sự tinh tấn. Trạng thái định của tâm: định phối hợp với thiên nhãn. Thấy: quan sát thấy rằng “chúng sanh ấy đã sanh ra ở đâu”. Người nào biết được theo cách khác: nói rằng – “những người nào biết được như sau: ‘hạng người này tái sanh vào địa ngục do tính chất thập thiện nghiệp đạo mà tự thân đã thực hành thì cái biết của những người ấy sai”. Nên hiểu ý nghĩa ở phần còn lại theo phương thức này. Biết: xuất hiện. Sự nắm giữ: do sức mạnh tà kiến. Sự bám chấp: với sự bám chấp bởi tà kiến. Nói đâm chặt vào: Nói kiểu nắm chặt, chấp chặt.
302. Tatrānandāti idampi na mahākammavibhaṅgañāṇassa bhājanaṃ, atha khvāssa mātikāṭṭhapanameva. Ettha pana etesaṃ dibbacakkhukānaṃ vacane[6] ettakā anuññātā, ettakā ananuññātāti idaṃ dassitaṃ. Tattha tatrāti tesu catūsu samaṇabrāhmaṇesu. Idamassāti idaṃ vacanaṃ assa. Aññathāti aññenākārena. Iti imesaṃ samaṇabrāhmaṇānaṃ vāde dvīsu ṭhānesu anuññātā, tīsu ananuññātāti evaṃ sabbattha anuññā nānuññā[7] veditabbā.
302. Này Ānanda trong bốn nhóm Sa-môn Bà-la-môn ấy: đây là câu phân tích đại nghiệp trí mặc dù vậy cũng vẫn câu để đặt tiêu đề. Hơn nữa, ở đây đức Thế Tôn thuyết giảng câu này rằng: Lời nói chừng ấy, ta chấp nhận lời nói chừng ấy, ta không chấp nhận theo lời của Sa-môn hay Bà-la-môn đó người có thiên nhãn.” Tattha tatra: trong những Sa-môn hay Bà-la-môn này. Idamassā tách từ thành idaṃ vacanaṃ assa [lời này có thể có]. Theo cách khác: với biểu hiện khác. Nên hiểu lời nói được chấp nhận (và) không được chấp nhận trong toàn bộ câu như vầy rằng: chấp nhận trong 2 trường hợp, không chấp nhận trong 3 trường hợp trong lời nói của Sa-môn hay Bà-la-môn này là như thế.
303. Evaṃ dibbacakkhukānaṃ vacane[8] anuññā ca ananuññā ca dassetvā idāni mahākammavibhaṅgañāṇaṃ vibhajanto tatrānanda, yvāyaṃ puggalotiādimāha.
303. Như vậy đức Thế Tôn sau khi thuyết giảng đến sự chấp nhận và không chấp nhận theo lời của Sa-môn hay Bà-la-môn có thiên nhãn, bây giờ khi phân tích trí trong đại nghiệp phân biệt mới nói rằng: Ở đây, này Ānanda trong bốn nhóm người thì hạng người v.v.
Pubbe vāssa taṃ kataṃ hotīti yaṃ iminā dibbacakkhukena kammaṃ karonto diṭṭho, tato pubbe kataṃ. pubbe katenapi hi niraye nibbattati, pacchā katenapi nibbattati, maraṇakāle vā pana — “khando seṭṭho sivo seṭṭho, pitāmaho seṭṭho, issarādīhi vā loko visaṭṭho”tiādinā micchādassanenapi nibbattateva. Diṭṭheva dhammeti yaṃ tattha diṭṭhadhammavedanīyaṃ hoti, tassa diṭṭheva dhamme, yaṃ upapajjavedanīyaṃ, tassa upapajjitvā, yaṃ aparāpariyavedanīyaṃ, tassa aparasmiṃ pariyāye vipākaṃ paṭisaṃvedeti.
Hạng người ấy đã tạo nghiệp ác trong thời quá khứ: hạng người đã tạo nghiệp nào mà Sa-môn hay Bà-la-môn này có thiên nhãn đã nhìn thấy, nghiệp mà người đã tạo trong thời quá khứ từ nghiệp đó, người ấy tái sanh vào địa ngục do nghiệp mà bản thân đã tạo trong thời quá khứ, sanh vào địa ngục do nghiệp mà bản thân đã tạo trong thời vị lai, cũng vậy vào lúc sắp chết cũng sanh vào địa ngục tương tự, ngay cả với tà kiến v.v, rằng – “Uẩn tối thượng, thần Siva tối thượng, Phạm thiên tối thượng, hoặc thế gian tối thượng đặc biệt do đấng tạo chủ v.v. Ở kiếp sống này: trong những nghiệp ấy, nghiệp nào có thể cho quả ở hiện tại thì người đã tạo phải lãnh thọ quả của nghiệp ấy ở ngay hiện tại, nghiệp nào cho quả khi sanh khởi thì hạng người sanh ra phải chịu quả của nghiệp ấy, nghiệp nào cho quả theo tuần tự thứ lớp (người ấy) phải lạnh thọ quả của nghiệp ấy theo tuần tự thứ lớp.
Iti ayaṃ samaṇo vā brāhmaṇo vā ekaṃ kammarāsiṃ ekañca vipākarāsiṃ addasa, sammāsambuddho iminā adiṭṭhe tayo kammarāsī, dve ca vipākarāsī addasa. Iminā pana diṭṭhe adiṭṭhe ca cattāro kammarāsī tayo ca vipākarāsī addasa. Imāni satta ṭhānāni jānanañāṇaṃ tathāgatassa mahākammavibhaṅgañāṇaṃ nāma. Dutiyavāre dibbacakkhukena kiñci na diṭṭhaṃ, tathāgatena pana tayo kammarāsī, dve ca vipākarāsī diṭṭhāti. imānipi pañca paccattaṭṭhānāni[9] jānanañāṇaṃ tathāgatassa mahākammavibhaṅgañāṇaṃ nāma. sesavāradvayepi eseva nayo.
Sa-môn hay Bà-la-môn này nhìn thấy một tập hợp của nghiệp và một tập hợp của quả là như thế. Bậc Chánh đẳng Chánh giác nhìn thấy 3 tập hợp của nghiệp và 2 tập hợp của quả mà Sa-môn hay Bà-la-môn không nhìn thấy. Hơn nữa, nhìn thấy 4 tập hợp của nghiệp và 3 tập hợp của quả mà những Sa-môn hay Bà-la-môn đã thấy và không nhìn thấy. Trí trong việc nhận biết 7 trường hợp này gọi là trí trong đại nghiệp phân tích của đức Như Lai. Sa-môn hay Bà-la-môn này có thiên nhãn không nhìn thấy gì trong phần thứ hai. Hơn nữa trí trong việc nhận biết 5 trường hợp như vầy là 3 tập hợp của nghiệp và 2 tập hợp của quả đã được nhìn thấy bởi đức Như Lai gọi là trí trong đại nghiệp phân tích của đức Như Lai. Ngay cả 2 phần còn lại cũng có cách thức tương tự.
Abhabbanti bhūtavirahitaṃ akusalaṃ. Abhabbābhāsanti abhabbaṃ ābhāsati abhibhavati paṭibāhatīti attho. Bahukasmiñhi akusalakamme āyūhite balavakammaṃ dubbalakammassa vipākaṃ paṭibāhitvā attano vipākassa okāsaṃ karoti idaṃ abhabbañceva abhabbābhāsañca[10]. Kusalaṃ[11] pana āyūhitvā āsanne akusalaṃ[12] kataṃ hoti, taṃ kusalassa[13] vipākaṃ paṭibāhitvā attano vipākassa okāsaṃ karoti, idaṃ abhabbaṃ bhabbābhāsaṃ. Bahumhi kusale āyūhitepi balavakammaṃ dubbalakammassa vipākaṃ paṭibāhitvā attano vipākassa okāsaṃ karoti, idaṃ bhabbañceva bhabbābhāsañca[14]. Akusalaṃ[15] pana āyūhitvā āsanne kusalaṃ[16] kataṃ hoti, taṃ akusalassa vipākaṃ paṭibāhitvā attano vipākassa okāsaṃ karoti, idaṃ bhabbaṃ abhabbābhāsaṃ.
Không thích hợp: loại trừ bản chất thật là bất thiện. Soi rọi cho thấy không thích hợp: Nghiệp không thích hợp soi rọi cho thấy, là chế ngự, tức ngăn chặn nghiệp không phù hợp. Bởi khi bất thiện nghiệp quá nhiều mà người đã tạo, nghiệp có năng lực cản trở quả của nghiệp không có năng lực tạo cơ hội cho quả của chính nó thì nghiệp đó gọi là nghiệp không thích hợp soi rọi cho thấy rằng không phù hợp. Còn hạng người đã tích lũy thiện nghiệp (mà) tạo bất thiện nghiệp vào lúc sắp chết, bất thiện nghiệp ấy cản trở quả của thiện nghiệp tạo cơ hội cho quả của chính nó thì nghiệp này gọi là nghiệp không thích hợp soi rọi cho thấy rằng phù hợp. Khi thiện quá nhiều mà người đã tích lũy, nghiệp có năng lực cản trở quả của nghiệp không có năng lực tạo điều kiện cho quả của chính nó nghiệp này gọi là nghiệp thích hợp và sọi rọi cho thấy rằng thích hợp. Còn hạng người nào đã tích lũy bất thiện nghiệp, làm thiện nghiệp vào lúc sắp chết, thiện nghiệp ấy cản trở quả của bất thiện nghiệp tạo cơ hội cho quả của chính nó thì nghiệp này gọi là nghiệp thích hợp sọi rọi cho thấy rằng không thích hợp.
Apica upaṭṭhānākārenapettha attho veditabbo. Idañhi vuttaṃ hoti, abhabbato ābhāsati upaṭṭhātīti abhabbābhāsaṃ. Tattha “yvāyaṃ puggalo idha pāṇātipātī”tiādinā nayena cattāro[17] puggalā vuttā, tesu paṭhamassa kammaṃ abhabbaṃ abhabbābhāsaṃ, tañhi akusalattā abhabbaṃ, tassa ca niraye nibbattattā tattha nibbattikāraṇabhūtaṃ akusalaṃ hutvā upaṭṭhāti. dutiyassa kammaṃ abhabbaṃ bhabbābhāsaṃ, tañhi akusalattā abhabbaṃ. Tassa pana sagge nibbattattā aññatitthiyānaṃ sagge nibbattikāraṇabhūtaṃ kusalaṃ hutvā upaṭṭhāti. Itarasmimpi kammadvaye eseva nayo. Sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
Hơn nữa nên biết ý nghĩa ở đây theo biểu hiện được xuất hiện. Bởi có lời giải thích như sau, gọi là sọi rọi cho thấy là xuất hiện không phù hợp, vì lý do ấy nghiệp đó gọi là soi rọi cho thấy rằng không thích hợp. Đức Thế Tôn thuyết giảng bốn hạng người theo cách thứ như sau “Ở đây hạng người ưa thích sát sanh”, trong bốn hạng người ấy thì nghiệp của hạng người nhóm thứ nhất gọi là nghiệp không thích hợp soi rọi cho thấy rằng không phù hợp, bởi nghiệp này gọi là không thích hợp bởi là bất thiện, nghiệp làm nhân dẫn đi tái sanh trong địa ngục được gọi là bất thiện hiện hữu do tính chất hạng người nhóm thứ nhất ấy tái sanh trong địa ngục. Nghiệp của hạng người nhóm thứ hai được gọi là nghiệp không thích hợp soi rọi cho thấy rằng thích hợp, cũng nghiệp ấy gọi là không thích hợp bởi là bất thiện. Bởi nghiệp làm nhân đưa đến tái sanh vào thiên giới của các ngoại đạo gọi là thiện hiện hữu do tính chất hạng người nhóm thứ sanh vào thiên giới. 2 loại nghiệp còn lại cũng có phương thức tương tự như vậy. Từ còn lại trong các câu đều đơn giản.
Giải Thích Kinh Đại Nghiệp Phân Biệt Kết Thúc.
[1] 1 gāvuta là 4km
[2] Syā. – Lāludāyī
[3] Sī. – ummagganti pañhāummaggaṃ
[4] Sī. – mahākammavibhattaṃ
[5] là người sát sanh v.v.
[6] Syā. – Vacanena
[7] Syā., ka. – anuññātā nānuññātā
[8] Ma. – ca vasena, Cha. – vacane
[9] Syā. Ka. – pañcattaṭṭhānāni
[10] Sī. Syā. – idaṃ abhabbaṃ abhabbābhāsaṃ nāma
[11] Sī., Ka. – akusalaṃ
[12] Sī., Ka. – kusalaṃ
[13] Sī., Ka. – akusalassa
[14] Cha. Ma. – bhabbābhāsaṃ
[15] Sī. – kusalaṃ
[16] Sī. – akusalaṃ
[17] Ma. – abhabbatā