Kinh số 134 – Giải Thích Kinh Lomasakaṅgiya Nhất Dạ Hiền Giả

(Lomasakaṅgiyabhaddekarattasuttavaṇṇanā)

Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Lomasakaṅgiya Nhất Dạ Hiền Giả

286. Evaṃ me sutanti Lomasakaṅgiyabhaddekarattasuttaṃ. Tattha Lomasakaṅgiyoti Aṅgathero kira nāmesa, kāyassa pana īsakalomasākāratāya Lomasakaṅgiyoti pākaṭo jāto. Candano devaputtoti kassapasammāsambuddhakāle kiresa candano nāma upāsako aḍḍho mahaddhano tīṇi ratanāni catūhi paccayehi pūjetvā devaloke nibbatto, purimanāmena Candano devaputtotveva saṅkhaṃ gato. Paṇḍukambalasilāyanti rattakambalasilāyaṃ. Tassā kira rattakambalasseva jayasumanapuppharāsi viya vaṇṇo, tasmā “paṇḍukambalasilā”ti vuccati.

286. Kinh Lomasakaṅgiya Nhất Dạ Hiền Giả được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, Lomasakaṅgiyo là được kể rằng Lomasakaṅgiya ấy là tên của trưởng lão Aṅga, vị ấy xuất hiện với tên Lomasakaṅgiya do thân thể có hiện tượng một chút ít lông. Thiên tử Candana: được biết vào thời gian bậc Chánh đẳng Chánh giác Kassapa, cận sự nam Candana là người giàu có sung túc có nhiều tài sản, cung kính lễ bái Tam bảo với bốn món vật dụng, sau khi mạng chúng vị ấy hóa sanh vào thiên giới, được coi là thiên tử Candana theo cái tên mà vị ấy đã có trong kiếp sống trước. Trên tảng đá được phủ tấm mềm[1]: trên tảng đá được phủ tấm mềm màu đỏ. Được biết màu của tảng đá phủ lên tấm mền màu đỏ ấy có màu tương tự như chùm hoa tử vi, vì thế được gọi là ‘trên hòn đá được phủ tấm mềm màu đỏ’.

Kadā pana tattha bhagavā vihāsīti? Bodhipattito sattame saṃvacchare sāvatthiyaṃ āsāḷhīmāsapuṇṇamāya dvādasayojanāya parisāya majjhe yamakapāṭihāriyaṃ katvā oruyha kaṇḍambamūle paññattavarabuddhāsane nisīditvā dhammadesanāya mahājanaṃ mahāviduggato uddharitvā buddhā nāma yasmā pāṭihāriyaṃ katvā manussapathe na vasanti, tasmā passamānasseva tassa janassa padavīkkamaṃ katvā tāvatiṃsabhavane pāricchattakamūle paṇḍukambalasilāyaṃ vassaṃ upagato, tasmiṃ samaye vihāsi.

Hơn nữa, đức Thế Tôn an tọa ở bảo tọa của vua trời Sakka ấy khi nào? Vào năm thứ bảy từ việc giác ngộ trong khi thị hiện song thông ở giữa hội chúng khoảng mười hai do-tuần, vào ngày trăng tròn āsāḷha gần thành sāvatthī, ngài đã an tọa tại Phật tọa đã được trải sẵn gần gốc cây kaṇḍamba, đã đưa đại chúng thoát khỏi khổ đau lớn lao bằng thời pháp thoại bởi thường chư Phật sau khi thị hiện song thông (sẽ) không an trú ở cõi nhân loại, do đó làm cho thoát khỏi dân chúng đến yết kiến, ngài an trú mùa mưa ở cung trời Tam Thập Tam tại gốc cây san hô, ở bảo tọa của vua trời Sakka, ngài đã an trú mùa mưa vào thời điểm ấy.

Tatra bhagavāti tatra viharanto bhagavā yebhuyyena dasahi cakkavāḷasahassehi sannipatitāhi devatāhi parivuto mātaraṃ kāyasakkhiṃ katvā abhidhammapiṭakaṃ kathento gambhīraṃ nipuṇaṃ tilakkhaṇāhataṃ rūpārūpaparicchedakathaṃ paṭivijjhituṃ asakkontānaṃ devānaṃ saṃvegajananatthaṃ antarantarā bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca abhāsi. Tatrāyaṃ devaputto uggaṇhanto imā gāthā saddhiṃ vibhaṅgena uggaṇhi, devattassa pana pamādādhiṭṭhānattā dibbehi ārammaṇehi nippīḷiyamāno anupubbena suttaṃ sammuṭṭho gāthāmattameva dhāresi. Tenāha “evaṃ kho ahaṃ bhikkhu dhāremi bhaddekarattiyo gāthā”ti.

Tại đấy đức Thế Tôn: Đức Thế Tôn trong khi an trú tại cung trời Tam Thập Tam ấy chư thiên mười ngàn thế giới đông đảo đến hội họp vây quanh, (ngài) thuyết giảng Tạng Abhidhamma cho Phật mẫu trở thành bậc thân chứng [kāyasakkhi là người thực chứng chân lý cuối cùng bằng thân] đọc lên uddesavibhaṅga của hạng người có một đêm tăng trưởng theo tuần tự để làm cho khởi lên trạng thái chấn động cho một nhóm lớn chư thiên không thể thấu triệt kệ ngôn xác định sắc và vô sắc thâm sâu vi tế phối hợp với Tam tướng. Tại nơi đó vị thiên tử này trong khi học tập đã học tập những kệ ngôn này cũng với phân tích nhưng do ý tính chất vị thiên tử an trú với sự xao lãng, bị đối tượng thuộc cõi trời chi phối đã quên bài Kinh này theo tuần tự, chỉ nhớ được mỗi kệ ngộn. Vì thế vị Thiên tử đã nói rằng: này chư Tỳ khưu tôi nhớ được kệ ngôn một đêm tăng trưởng [Nhất Dạ Hiền Giả) như vầy.

Uggaṇhāhi tvantiādīsu tuṇhībhūto nisīditvā suṇanto uggaṇhāti nāma, vācāya sajjhāyaṃ karonto pariyāpuṇāti nāma, aññesaṃ vācento dhāreti nāma. sesamettha uttānamevāti.

Này chư Tỳ khưu hãy học v.v, là người giữ im lặng, ngồi lắng nghe gọi là học tập. Khi thực hành việc giải thích bằng lời nói gọi là học tập kỹ lưỡng , trong khi nói lại (những điều được học) gọi là ghi nhớ. Những từ còn lại trong bài Kinh này đều đơn giản.

Giải Thích Kinh Lomasakaṅgiya Nhất Dạ Hiền Giả Kết Thúc


[1] Bảo tọa của vua trời Sakka