Kinh số 130 – Giải Thích Kinh Thiên Sứ

(Devadūtasuttavaṇṇanā)

Xem Trung Bộ Kinh – Giải Thích Kinh Thiên Sứ

261. Evamme sutanti Devadūtasuttaṃ. Tattha dve agārātiādi Assapurasutte vitthāritameva.

261. Kinh Thiên Sứ được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, có hai ngôi nhà: đước nói chi tiết trong bài Kinh Assapura.

262. Nirayaṃ upapannāti bhagavā katthaci nirayato paṭṭhāya desanaṃ devalokena osāpeti, katthaci devalokato paṭṭhāya nirayena osāpeti. Sace saggasampattiṃ vitthāretvā kathetukāmo hoti, nirayadukkhaṃ ekadesato katheti, tiracchānayonidukkhaṃ pettivisayadukkhaṃ manussalokasampattiṃ ekadesato katheti, saggasampattimeva vitthāreti. Sace nirayadukkhaṃ vitthāretvā kathetukāmo hoti, devalokamanussalokesu sampattiṃ tiracchānayonipettivisayesu ca dukkhaṃ ekadesato katheti, nirayadukkhameva vitthāreti. So imasmiṃ sutte nirayadukkhaṃ vitthāretukāmo, tasmā devalokato paṭṭhāya desanaṃ nirayena osāpeti. Devalokamanussalokasampattiyo tiracchānayonipettivisayadukkhāni ca ekadesato kathetvā nirayadukkhameva vitthārena kathetuṃ tamenaṃ, bhikkhave, nirayapālātiādimāha.  

262. Bị sanh vào địa ngục: Đôi khi đức Thế Tôn thuyết giảng kể bắt đầu từ địa ngục (và) cho kết thúc ở cõi trời, đôi khi bắt đầu từ cõi trời (và) kết thúc ở địa ngục. Nếu muốn nói chi tiết về sự thành tựu cõi trời, (ngài) nói đến khổ đau ở địa ngục vắn tắt, rồi nói đến khổ đau loài bàn sanh, khổ đau loài ngạ quỷ, sự thành tựu ở thế giới loài người vắn tắt. Nếu muốn nói đến khổ đau trong địa ngục một cách chi tiết, (ngài) nói đến sự thành tựu thiên giới và nhân giới, và khổ đau sanh loại bàng sanh, và khổ đau ngạ quỷ vắn tắt. Trong bài Kinh này ngài muốn nói chi tiết khổ đau ở địa ngục, vì thế ngài thuyết bắt đầu từ thiên giới (và) kết thúc ở địa ngục, để thuyết giảng đến sự thành tựu ở thiên giới và nhân giới, và khổ đau về sanh chủng loài bàng sanh và ngạ quỷ vắn tắt, rồi nói đến khổ trong địa ngục một cách chi tiết mới thuyết lời như sau: “Này chư Tỳ khưu, các người cai ngục, sau khi bắt giữ những chúng sanh ở địa ngục ấy…

Tattha ekacce therā “nirayapālā nāma natthi, yantarūpaṃ viya kammameva kāraṇaṃ kāretī”ti vadanti. tesaṃ taṃ “atthi niraye nirayapālāti, āmantā, atthi ca kāraṇikā”tiādinā nayena abhidhamme[1] paṭisedhitameva. Yathā hi manussaloke kammakāraṇakārakā[2] atthi, evameva niraye nirayapālā atthīti. Yamassa raññoti yamarājā nāma vemānikapetarājā, ekasmiṃ kāle dibbavimāne dibbakapparukkha-dibbauyyāna-dibbanāṭakādisampattiṃ anubhavati, ekasmiṃ kāle kammavipākaṃ, dhammiko rājā. Na cesa ekova hoti, catūsu pana dvāresu cattāro janā honti. Nāddasanti attano santike pesitassa kassaci devadūtassa abhāvaṃ sandhāya evaṃ vadati. Atha naṃ yamo “nāyaṃ bhāsitassa atthaṃ sallakkhetī”ti ñatvā sallakkhāpetukāmo ambhotiādimāha.

Trong câu đó một số trưởng lão nói rằng: “gọi là người giữ địa ngục không có, (mà) chỉ có nghiệp lực tạo ra nhân tương tự như thiết bị tự động.” Nghiệp ấy bị bác bỏ trong Abhidhamma theo phương thức sau: “Có người giữ địa ngục phải chăng? Phải, có người làm nhiệm vụ.” (kathā. 866). Cũng giống như ở nhân loại, người bị trừng phạt do hành động nào, thì người giữ địa ngục cũng có tồn tại như thế đó. Vua Yama: Vua Vemānikapeta gọi là vua Yama, thỉnh thoảng có cây như ý thọ, vườn thượng uyển ở thiên giới, các vũ công ở thiên giới, thiên sản ở trong thiên cung, thỉnh thoảng là lãnh chiu quả của nghiệp, vị vua liêm chính. Nhưng không cùng một thời điểm. Còn ở cả bốn cánh cổng có 4 người người canh gác. Tôi không nhìn thấy: ngài có ý muốn đề cập đến bất kỳ một vị thiên sứ nào được vị ấy gửi đi trong trú xứ của mình mới nói như vậy. Khi ấy, vua Yama biết được rằng: “người này suy xét ý nghĩa của lời nói” muốn cho vị ấy suy xét đã nói ‘này người kia’.

Jātidhammoti jātisabhāvo, aparimutto jātiyā, jāti nāma mayhaṃ abbhantareyeva atthīti[3]. Parato jarādhammotiādīsupi eseva nayo.

Có trạng thái sanh: có sự sanh là thực tính, không thoát khỏi sự sanh gọi là sanh, vận hành bên trong của tôi. Ngay cả trong câu ‘Có trạng thái già’ cũng có phương thức tương tự.

263. Paṭhamaṃ devadūtaṃ samanuyuñjitvāti ettha daharakumāro atthato evaṃ vadati nāma “passatha, bho, mayhampi tumhākaṃ viya hatthapādā atthi, sake panamhi muttakarīse palipanno, attano dhammatāya uṭṭhahitvā nhāyituṃ na sakkomi, ahaṃ kiliṭṭhagattomhi, nhāpetha manti vattumpi na sakkomi, jātitomhi aparimuttatāya ediso jāto. Na kho panāhameva, tumhepi jātito aparimuttāva. Yatheva hi mayhaṃ, evaṃ tumhākampi jāti āgamissati, iti tassā pure āgamanāva kalyāṇaṃ karothā”ti. Tenesa devadūto nāma jāto, vacanattho pana maghadevasutte vuttova.

263. Khi thẩm vấn…đến thiên sứ thứ nhất: thanh niên trẻ nói như vầy với ý nghĩa như sau “hãy nhìn tôi, thưa ngài, thậm chí tôi cũng có tay và chân như các ngài, nhưng tôi thích đắm mình vào trong đống phân và nước tiểu của mình, không thể đứng dậy tắm rửa theo bản thể tự nhiên của mình, tôi có thân hình bẩn thỉu, không thể nói rằng  – hãy tắm cho tôi, tôi là như thế, do không vượt khỏi sự sanh, những cũng không chỉ mình tôi, ngay cả các ngài cũng không thể thoát khỏi sự sanh, sự sanh cũng sẽ đến đối với các ngài tương tự như tôi, vì thế các ngài hãy làm những việc tốt đẹp trước khi chúng tôi đi tái sanh”. Với chính nguyên nhân ấy thanh niên trẻ đó được gọi là thiên sứ, nhưng ý nghĩa của lời nói đã được nói trong bài Kinh Megadeva.

Dutiyaṃ devadūtanti etthāpi jarājiṇṇasatto atthato evaṃ vadati nāma — “passatha, bho, ahampi tumhe viya taruṇo ahosiṃ ūrubalabāhubalajavanasampanno, tassa me tā balajavanasampattiyo antarahitā, vijjamānāpi me hatthapādā hatthapādakiccaṃ na karonti, jarāyamhi[4] aparimuttatāya ediso jāto. Na kho panāhameva, tumhepi jarāya aparimuttāva. Yatheva hi mayhaṃ, evaṃ tumhākampi jarā āgamissati, iti tassā pure āgamanāva kalyāṇaṃ karothā”ti. tenesa devadūto nāma jāto.

Thiên sứ thứ 2 này chúng sanh già nua được gọi là như vậy với ý nghĩa rằng “hãy nhìn tôi, thưa ngài, dẫu cho ta cũng từng (trải qua giai đoạn) trẻ trung, sung mãn với sức lực chân, lực tay, và nhanh nhẹn như ngài, sự thành tựu với sức lực và sự nhanh nhẹn ấy của tôi không còn nữa, dẫu chân và tay của tôi có mặt, (nhưng) không thể làm các phận sự tay và chân, tôi được gọi là như vậy, do không thoát khỏi sự già, không phải chỉ mình tôi, ngay cả các ngài cũng không thể thoát khỏi sự già, sự già sẽ đến với các ngài tương tự như tôi, các ngài hãy làm việc tốt đẹp trước khi sự già ấy đến. Vì lý do ấy chúng sanh già nua ấy gọi là thiên sứ.

Tatiyaṃ devadūtanti etthāpi gilānasatto[5] atthato eva vadati nāma — “passatha, bho, ahampi tumhe viya nirogo ahosiṃ, somhi etarahi byādhinā abhihato[6] sake muttakarīse palipanno, uṭṭhātumpi na sakkomi, vijjamānāpi me hatthapādā hatthapādakiccaṃ na karonti, byādhitomhi aparimuttatāya ediso jāto. Na kho panāhameva, tumhepi byādhito aparimuttāva. yatheva hi mayhaṃ, evaṃ tumhākaṃ byādhi āgamissati, iti tassa pure āgamanāva kalyāṇaṃ karothā”ti. Tenesa devadūto nāma jāto.

Thiên sứ thứ 3 này chúng sanh đau bệnh được gọi là như vậy với ý nghĩa rằng: “hãy nhìn tôi, thưa ngài, dẫu tôi không có bệnh tật giống như ngài, nhưng bây giờ tôi bị tật bệnh chi phối đắm mình trong nước tiểu và phân của mình, không thể đứng dậy dẫu cho tay và chân của ta có mặt, không thể làm được những việc tay và chân, tôi là như thế do không thoát khỏi bệnh tật, không phải chỉ riêng ta ngay cả các ngài cũng không thoát khỏi tật bệnh, bệnh tật sẽ đến với tất cả các ngài tương tự như ta, ngài hãy làm những việc tốt đẹp trước khi bệnh tật đến như vậy. Vì thế chúng sanh đau bệnh ấy được gọi là thiên sứ.

265. Catutthaṃ devadūtanti ettha pana kammakāraṇā vā devadūtāti kātabbā kammakāraṇikā vā. Tattha pana kammakāraṇapakkhe bāttiṃsa tāva kammakāraṇā atthato evaṃ vadanti nāma — “mayaṃ nibbattamānā na rukkhe vā pāsāṇe vā nibbattāma, tumhādisānaṃ sarīre nibbattāma, iti amhākaṃ pure nibbattitova kalyāṇaṃ karothā”ti. Tenete devadūtā nāma jātā. Kammakāraṇikāpi atthato evaṃ vadanti nāma — “mayaṃ dvattiṃsa kammakāraṇā karontā na rukkhādīsu karoma, tumhādisesu sattesuyeva karoma, iti amhākaṃ tumhesu pure kammakāraṇākaraṇatova[7] kalyāṇaṃ karothā”ti. tenetepi devadūtā nāma jātā.

265. Thiên sứ thứ 4 này hình phạt hoặc người trừng phạt là thiên sứ. Ở đấy, ở phần hình phạt thì 32 loại hình phạt được nói như vầy theo ý nghĩa (rằng): – “chúng tôi trong khi sanh ra, không sanh ra nơi cây cối hoặc đất đá, mà chỉ sanh ra ở trong chính thân thể của người như ngài như thế, ngài hãy làm những việc làm tốt đẹp trước khi tôi sanh ra. Vì thế hình phạt này mới gọi là thiên sứ. Người phải chịu hình phạt được nói như vầy – “Chúng tôi khi thực hiện 32 loại hình phạt, (chúng tôi) không thực hiện ở gốc cây, (mà) thực hiện trên chúng sanh như chính các ngài” các ngài hãy làm những việc tốt đẹp trước khi tôi trừng phạt.” Chính vì lý do đó, ngay cả những người trừng phạt ấy được gọi là thiên sứ.

266. Pañcamaṃ devadūtanti ettha matakasatto atthato evaṃ vadati nāma — “passatha bho maṃ āmakasusāne chaḍḍitaṃ uddhumātakādibhāvaṃ pattaṃ, maraṇatomhi aparimuttatāya ediso jāto. na kho panāhameva, tumhepi maraṇato aparimuttāva. yatheva hi mayhaṃ, evaṃ tumhākampi maraṇaṃ āgamissati, iti tassa pure āgamanāva kalyāṇaṃ karothā”ti. tenesa devadūto nāma jāto.

266. Thiên sứ thứ 5 này chúng sanh, người đã chết được nói như vầy theo ý nghĩa rằng – “thưa ngài, hãy nhìn tôi bị họ vứt bỏ ở bãi tha ma mộ địa, đi đến tính chất trương phình v.v, tôi cũng tương tự y như thế, do không thoát khỏi được cái chết, nhưng không phải chỉ mình ta, ngay cả các ngài cũng không thoát khỏi cái chết tương tự, sự chết sẽ đến với các ngài tương tự như tôi, các ngài hãy làm những việc tốt đẹp trước khi cái chết ấy đến. Vì thế, chúng sanh (người) chết đó gọi là thiên sứ.

Imaṃ pana devadūtānuyogaṃ ko labhati, ko na labhatīti? yena tāva bahuṃ pāpaṃ kataṃ, so gantvā niraye nibbattatiyeva. Yena pana parittaṃ pāpakammaṃ kataṃ, so labhati. Yathā hi sabhaṇḍaṃ coraṃ gahetvā kattabbameva karonti, na vinicchinanti. Anuvijjitvā gahitaṃ pana vinicchayaṭṭhānaṃ nayanti, so vinicchayaṃ labhati. Evaṃsampadametaṃ. Parittapāpakammā hi attano dhammatāyapi saranti, sāriyamānāpi saranti.

Ai nhận được lợi ích của thiên sứ này, ai không nhận được? Người nào đã tạo nhiều ác nghiệp, người ấy (sẽ) tái sanh vào địa ngục. Người nào đã tạo một chút ít ác nghiệp, người ấy có được. Mọi người bắt được tên trộm cùng với đồ đạc tạo ra những điều cần làm, không phán xét. Nhưng (sẽ) đưa tên trộm bị thẩm vấn (và) bắt đưa ra pháp đình, kẻ ấy nhận được phán quyết như thế nào, thì điều so sánh cũng tương tự như thế. Lại nữa, người có ác nghiệp chút ít nhớ được theo bản thể tự nhiên của chính mình, kể cả bị người khác nhắc nhở mới nhớ được.

Tattha Dīghajayantadamiḷo nāma attano dhammatāya sari. So kira damiḷo Sumanagirivihāre ākāsacetiyaṃ rattapaṭena pūjesi. Atha niraye Ussadasāmante nibbatto aggijālasaddaṃ sutvāva attano pūjitapaṭaṃ anussari, so gantvā sagge nibbatto. Aparopi puttassa daharabhikkhuno khalisāṭakaṃ dento pādamūle ṭhapesi, maraṇakālamhi paṭapaṭāti sadde nimittaṃ gaṇhi, sopi Ussadasāmante nibbatto jālasaddena taṃ sāṭakaṃ anussaritvā sagge nibbatto. Evaṃ tāva attano dhammatāya kusalaṃ kammaṃ saritvā sagge nibbattatīti.

Trong câu đó có Damiḷa tên là Dīghadanta nhận được theo bản thể tự nhiên của mình. Được biết rằng Damiḷa ấy lấy tấm vải được nhuộm đỏ lễ bái Ākāsacetiya bên trong tịnh xá Sumanagiri. Khi ấy vị ấy sanh ở gần địa ngục Ussada, đã nghe được âm thanh ngọn lửa đã nhớ đến tấm vải mà mình dâng cúng (do đó) vị ấy được tái sanh vào thiên giới. Hơn nữa, cúng dường xấp vải chất liệu thô cho vị Tỳ khưu trẻ là người con trai đặt ở gần dưới chân. Vào lúc sắp lâm chung vị ấy giữ lấy hiện tướng trong âm thanh rằng: ‘tấm vải, tấm vải’ mặc dù vị ấy sanh ở gần địa ngục cũng nhớ đến tấm vải ấy, do âm thanh ngọn lửa mới được hóa sanh vào thiên giới. Vị ấy nhớ đến thiện nghiệp theo bản thể tự nhiên của mình trước như thế, (cho nên) mới hóa sanh trên thiên giới.

Attano dhammatāya asarante pana pañca devadūte pucchati. Tattha koci paṭhamena devadūtena sarati, koci dutiyādīhi. yo pana pañcahipi na sarati, taṃ yamo rājā sayaṃ sāreti. eko kira amacco sumanapupphakumbhena mahācetiyaṃ pūjetvā yamassa pattiṃ adāsi, taṃ akusalakammena niraye nibbattaṃ yamassa santikaṃ nayiṃsu. tasmiṃ pañcahipi devadūtehi kusale asarante yamo sayaṃ olokento disvā — “nanu tvaṃ mahācetiyaṃ sumanapupphakumbhena pūjetvā mayhaṃ pattiṃ adāsī”ti sāresi, so tasmiṃ kāle saritvā devalokaṃ gato. Yamo pana sayaṃ oloketvāpi apassanto — “mahādukkhaṃ nāma anubhavissati ayaṃ satto”ti tuṇhī hoti.

Nhưng khi nhớ đến theo bản thể tự nhiên của mình không được mới hỏi đến cả năm thiên sứ. Cả năm thiên sứ ấy, một số người nhớ được nhờ vào thiên sứ thứ nhất, một số người nhớ được nhờ vào thiên sứ thứ hai v.v. Còn người nào không thể nhớ được 5 thiên sứ thì vua Yama cho người ấy tự mình nhớ. Được biết rằng một vị quan đại thần đã dâng cúng bái Đại bảo điện bằng một chậu hoa nhài đã hồi hướng phần phước báu đến vua Yama. Người canh giữ ngục dẫn quan đại thần ấy sanh ra trong địa ngục do ác nghiệp đến gặp vua Yama. Trong khi quan đại thần ấy không thể nhớ được với cả năm thiên sứ vì vua Yama đã tự mình quan sát, sau khi nhìn thấy đã cho vị ấy nhớ rằng: “ngài đã dâng cúng đến Đại bảo điện với chậu hoa nhài, hồi hướng một phần phước báu đến ta không phải hay sao?” vị ấy đã nhớ được vào thời gian ấy nên được hóa sanh vào thiên giới. Hơn nữa, vua Yama sau khi tự mình quan sát không nhìn thấy, (vị ấy) suy nghĩ rằng: “chúng sanh này sẽ lãnh chịu khổ đau lớn lao” mới giữ  im lặng.

267. Mahānirayeti Avīcimahānirayamhi. kiṃ panassa pamāṇaṃ? Abbhantaraṃ āyāmena ca vitthārena ca yojanasataṃ hoti. Lohapathavī lohachadanaṃ ekekā ca bhitti navanavayojanikā hoti. Puratthimāya bhittiyā acci uṭṭhitā[8] pacchimaṃ bhittiṃ gahetvā taṃ vinivijjhitvā parato yojanasataṃ gacchati. Sesadisāsupi eseva nayo. Iti jālapariyantavasena āyāmavitthārato aṭṭhārasayojanādhikāni tīṇi yojanasatāni, parikkhepato pana navayojanasatāni catupaṇṇāsayojanāni, samantā pana ussadehi saddhiṃ dasayojanasahassaṃ hoti.

267. Đại địa ngục: đại địa ngục Avīcī. Địa ngục Avīcī ấy có kích thước bên trong bao nhiêu? Địa địa ngục ấy bề mặt bằng đồng, mái trên bằng đồng dài và rộng chừng 900 do-tuần[9], một bên vách tường khoảng 81 do-tuần, ngọn lửa ấy bốc cháy ở hướng Đông cho đến vách tường phía Tây, xuyên thủng bức tường ấy đến phía trước 100 do-tuần. Ngay cả các hướng còn lại cũng có phương thức tương tự. Theo chiều dài và rộng với phạm vi của ngọn lửa có khoảng 318 do-tuần. Nhưng khu vực xung quanh có khoảng 954 do-tuần, còn phần xung quanh với địa ngục Ussada khoảng mười ngàn do-tuần.

268. Ubbhataṃ tādisameva hotīti ettha akkantapadaṃ yāva aṭṭhito daḍḍhaṃ[10] uddharitumeva na sakkā. Ayaṃ panettha attho — heṭṭhato paṭṭhāya ḍayhati, uparito paṭṭhāya jhāyati[11], iti akkamanakāle ḍayhamānaṃ paññāyati, uddharaṇakāle tādisameva, tasmā evaṃ vuttaṃ. Bahusampattoti bahūni vassasatavassasahassāni sampatto.

268. Các chi phần bị lửa đốt cháy: không thể nhấc chân đã chạm bị lửa bốc cháy đến xương lên được. Ở trong câu này giải thích như vầy – Bị đốt cháy cả phía dưới lẫn phía trên, trong thời gian chạm bị lửa cháy, trong thời gian nhấc lên cũng tương tự y như thế, vì thế ngài đã nói như vậy. Gần đến cổng: trải qua nhiều trăm ngàn năm.

Kasmā panesa narako Avīcīti saṅkhaṃ gatoti. Vīci nāma antaraṃ vuccati, tattha ca aggijālānaṃ vā sattānaṃ vā dukkhassa vā antaraṃ natthi. Tasmā so avīcīti saṅkhaṃ gatoti. Tassa hi puratthimabhittito jālā uṭṭhitā saṃsibbamānā yojanasataṃ gantvā pacchimabhittiṃ vinivijjhitvā parato yojanasataṃ gacchati. Sesadisāsupi eseva nayo.

Vì sao địa ngục này gọi là Avīci. bên trong (loại bỏ khoảng trống) được gọi là cơn sóng, và ở trong địa ngục ấy khoảng trống của ngọn lửa, của chúng sanh, hoặc của đau khổ không có. Vì thế địa ngục ấy gọi là Avīci. Ngọn lửa cháy lên từ bức tường ở hướng Đông của địa ngục ấy bốc lên nghi ngút một trăm do-tuần xuyên thủng bức tường phía trước một trăm do-tuần. Kể cả những hướng còn lại cũng tương tự như vậy.

Imesaṃ channaṃ jālānaṃ majjhe nibbatto Devadatto, tassa yojanasatappamāṇo attabhāvo, dve pādā yāva gopphakā lohapathaviṃ paviṭṭhā, dve hatthā yāva maṇibandhā lohabhittiyo paviṭṭhā, sīsaṃ yāva bhamukaṭṭhito lohachadane paviṭṭhaṃ, adhobhāgena ekaṃ lohasūlaṃ pavisitvā kāyaṃ vinivijjhantaṃ chadane paviṭṭhaṃ, pācīnabhittito nikkhantasūlaṃ hadayaṃ vinivijjhitvā pacchimabhittiṃ paviṭṭhaṃ, uttarabhittito nikkhantasūlaṃ phāsukā vinivijjhitvā dakkhiṇabhittiṃ paviṭṭhaṃ. Niccale Tathāgatamhi aparaddhattā niccalova hutvā paccatīti kammasarikkhatāya ediso jāto. Evaṃ jālānaṃ nirantaratāya avīci nāma.

(Tỳ khưu) Devadatta đã sanh vào giữa của cả sáu ngọn lửa này. Vị ấy có thân hình khoảng một trăm do-tuần, cả hai chân đã đi vào quả đất bằng đồng [lohapathavī] đến tận hai mắt cá chân, cả hai bàn tay đi vào bức tường bằng đồng đến hai cổ tay, cái đầu ở trên mái nhà bằng đồng đến xương trán (nằm ở phần chân mày). Một ngọn giáo bằng đồng đâm vào phần bên dưới xuyên thủng thân cắm tận phần mái trên. Ngọn giáo bay ra từ bức tường ở hướng Đông đâm xuyên tim, bay vào bức tường hướng Tây, ngọn giáo bay ra từ hướng Bắc xuyên thủng phần xương sườn đến tận bức tường hướng Nam, Devadatta bị như thế bởi vì quả của nghiệp (khổ đau) âm ỉ bởi sai phạm đối với đấng Như Lai vị không lay động. Như vậy địa ngục đó gọi là Avīci do ngọn lửa (bốc cháy) không ngưng nghỉ.

Abbhantare panassa yojanasatike ṭhāne nāḷiyaṃ koṭṭetvā pūritapiṭṭhaṃ viya sattā nirantarā, “imasmiṃ ṭhāne satto atthi, imasmiṃ natthī”ti na vattabbaṃ, gacchantānaṃ ṭhitānaṃ nisinnānaṃ nipannānaṃ anto natthi, gacchante vā ṭhite vā nisinne vā nipanne vā aññamaññaṃ na bādhanti. evaṃ sattānaṃ nirantaratāya avīci.

Bên trong địa ngục ấy ở vị trí khoảng một trăm do-tuần chúng sanh chen chúc nhau giống như bột được nhồi đặt vào trong cái gáo dừa, không nên nói rằng: ‘ở chỗ này có chúng sanh, ở chỗ này không có”, chúng sanh đi, đứng, ngồi, và nằm không có sự chấm dứt. (tuy nhiên) các chúng sanh trong khi đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm không xúc chạm lẫn nhau. Gọi là Avīci do các chúng sanh chen chúc nhau như vậy.

Kāyadvāre pana cha upekkhāsahagatāni cittāni uppajjanti, ekaṃ dukkhasahagataṃ. Evaṃ santepi yathā jivhagge cha madhubindūni ṭhapetvā ekasmiṃ tambalohabindumhi ṭhapite anudahanabalavatāya tadeva paññāyati, itarāni abbohārikāni honti, evaṃ anudahanabalavatāya dukkhamevettha nirantaraṃ, itarāni abbohārikānīti. evaṃ dukkhassa nirantaratāya Avīci.

Còn trong Thân-môn tâm đồng sanh với 6 thọ xả được sanh khởi, một tâm đồng sanh với khổ thọ. Dẫu là như vậy, khi hạng người nhỏ 6 giọt nước ngọt ở phần đầu lưỡi, một giọt được đặt ở chậu nước bằng đồng đỏ do bị thiêu đốt lực của giọt nước ấy xuất hiện, ngoài ra không đáng kể, khổ đau ở địa ngục này không có khoảng cách bởi có sự thiểu đốt làm sức mạnh, ngoài ra đều là không đáng kể. Do đầy rẫy bởi khổ như vậy được gọi là Avīci.

269. Mahantoti yojanasatiko. So tattha patatīti eko pādo mahāniraye hoti, eko gūthaniraye nipatati. Sūcimukhāti sūcisadisamukhā, te hatthigīvappamāṇā ekadoṇikanāvāppamāṇā vā honti.

269. To lớn: khoảng một trăm do-tuần. Kẻ ấy bị rơi xuống địa ngục hố phân ấy: Một bên chân ở trong Đại địa ngục, một bên rơi vào địa ngục hố phân. Miệng như mũi kim: Có cái miệng tựa mũi kim, những chúng sanh này có bằng cổ voi và (chiều dài) bằng một chiếc thuyền.

Kukkulanirayoti yojanasatappamāṇova anto kūṭāgāramattavitaccitāṅgārapuṇṇo ādittachārikanirayo, yattha patitapatitā kudrūsakarāsimhi khittaphālavāsisilādīni[12] viya heṭṭhimatalameva gaṇhanti.

Địa ngục tro nóng: Địa ngục tro nóng chứa đầy bởi tro, không có lửa bên trong ngôi nhà nóc nhọn khoảng một trăm do-tuần, chúng sanh rơi vào trong địa ngục đến mặt đất bên dưới giống như hạt cải trong đống hạt cải được ném vào trong hố than đang cháy.

Āropentīti ayadaṇḍehi pothentā āropenti. Tesaṃ ārohanakāle te kaṇṭakā adhomukhā honti, orohanakāle uddhaṃmukhā.

Buộc phải…: đánh đập bằng roi sắt buộc phải đứng lên. Vào lúc những chúng sanh địa ngục ấy bay lên gai sắt nhọn hướng xuống dưới, thời gian xuống dưới thì gai sắt nhọn hướng lên trên.

Vāteritānīti kammamayena vātena calitāni. Hatthampi chindantīti phalake maṃsaṃ viya koṭṭayamānāni chindanti. Sace uṭṭhāya palāyati, ayopākāro samuṭṭhahitvā parikkhipati, heṭṭhā khuradhārā samuṭṭhāti.

Gió thổi: bị gió sanh lên do nghiệp thổi đi. Chặt tay: giã, cắt xẻo như cắt xẻo thịt trên thớt. Nếu đứng dậy bỏ trốn thì bức tường sắt nhô lên bao quanh lại, lưỡi dao sắc bén cũng đặt ở bên dưới.

Khārodakā nadīti Vetaraṇī nāma tambalohanadī. tattha ayomayāni kharavālika[13] pokkharapattāni, heṭṭhā khuradhārā ubhosu tīresu vettalatā ca kusatiṇāni ca. So tattha dukkhā tibbā kharāti so tattha uddhañca adho ca vuyhamāno pokkharapattesu chijjati. Siṅghāṭakasaṇṭhānāya kharavālikāya[14] kaṇṭakehi vijjhiyati, khuradhārāhi phāliyati, ubhosu tīresu kusatiṇehi vilekhati, vettalatāhi ākaḍḍhiyati, tikkhasattīhi phāliyati.

Dòng sông lớn, nước trở thành vôi: Dòng sông đồng đỏ được gọi là Vetaraṇī. Trong dòng sống Vetaraṇī đó những hạt cát thô được hoàn thiện bằng sắt, hoa sen phía dưới có dao cạo sắc bén, ở hai bên có dây leo mây và cỏ tranh. Kẻ ấy (thọ lãnh những cảm giác) đau đớn, thống khổ, khốc liệt trong dòng sông ấy: Chúng sanh địa ngục ấy nổi lên trên và lặn xuống dưới địa ngục bị cắt đứt ở chỗ hoa sen, bị gai nhọn cát thô có hình dạng chữ thập đâm thủng, bị cắt xẻ bởi dòng nước sắc bén như dao cạo sắc bén, bị khứa đứt bởi cỏ tranh ở hai bên bờ, bị lôi kéo bởi dây leo mây, bị cắt xẻo bằng vũ khí sắc bén.

270. Tattena ayosaṅkunāti tena[15] jigacchitomhīti vutte mahantaṃ lohapacchiṃ lohaguḷānaṃ pūretvā taṃ upagacchanti, so lohaguḷabhāvaṃ ñatvā dante samphuseti, athassa te tattena ayosaṅkunā mukhaṃ vivaranti, tambalohadhārehi mahantena lohakaṭāhena tambalohaṃ upanetvā evamevaṃ karonti. Puna mahānirayeti evaṃ pañcavidhabandhanato paṭṭhāya yāva tambalohapānā tambalohapānato paṭṭhāya puna pañcavidhabandhanādīni kāretvā mahāniraye pakkhipanti. tattha koci pañcavidhabandhaneneva muccati, koci dutiyena, koci tatiyena, koci tambalohapānena muccati, kamme pana aparikkhīṇe puna mahāniraye pakkhipanti.

270. Lấy cọc sắt nung đỏ: Khi chúng sanh ở địa ngục nói rằng ‘tôi đói’ thì những người giữ ngục ấy bánh sắt nén lại thành một giỏ đầy cọc sắt lớn lấy nhét vào (miệng) cho kẻ ấy. Kẻ ấy biết được rằng bánh sắt chạm vào răng, khi đó người giữ ngục lấy cọc sắt nung đỏ cạy miệng của kẻ ấy, lấy nước đồng đỏ đổ vào trong chậu đồng đỏ lớn rồi làm tương tự như vậy. Trong Đại địa ngục: Người giữ ngục trừng phạt bắt đầu từ năm loại dụng cụ giam hãm liên tục cho đến uống nước đồng đỏ như vậy, kể từ khi uống nước đồng đỏ xuống tay với năm dụng cụ giam hãm nữa rồi ném xuống Đại địa ngục. Trong Đại địa ngục mốt số thoát khỏi năm dụng cụ giam hãm, một số thoát lần thứ 2, một số thoát lần thứ 3, một số thoát khỏi lần thoát khỏi việc uống nước đồng đỏ. Khi vẫn chưa hết nghiệp, người giữ ngục lại ném (kẻ ấy) vào Đại địa ngục.

Idaṃ pana suttaṃ gaṇhanto eko daharabhikkhu, — “bhante, ettakaṃ dukkhaṃ anubhavitasattaṃ[16] punapi mahāniraye pakkhipantī”ti āha. Āma, āvuso, kamme aparikkhīṇe punappunaṃ evaṃ karontīti. Tiṭṭhatu, bhante, uddeso, kammaṭṭhānameva kathethāti kammaṭṭhānaṃ kathāpetvā sotāpanno hutvā āgamma uddesaṃ aggahesi. aññesampi imasmiṃ padese uddesaṃ ṭhapetvā arahattaṃ pattānaṃ gaṇanā natthi. sabbabuddhānañcetaṃ suttaṃ avijahitameva hoti.

Hơn nữa, một vị Tỳ khưu trẻ khi học bài Kinh này, – “bạch ngài, khi chúng sanh địa ngục lãnh chịu cảm giác thống khổ như vậy, người giữ ngục lại ném kẻ ấy vào Đại địa ngục nữa hay sao?” Đúng vậy, này hiền giả, người giữ ngục vẫn làm như thế lập đi lập lại do nghiệp (ác) vẫn chưa hết”. – Kinh bạch ngài, uddesa (bài Kinh này), hãy đưa lên, ngài hãy nói về nghiệp xứ cho con, khi trưởng lão đã nói về nghiệp xứ, – (vị Tỳ khưu trẻ) chứng đắc Nhập Lưu thánh quả, rồi trở lại học uddesa. Những người khác ngoại trừ uddesa trạng thái này chứng đắc A-ra-hán nhờ có số lượng không đếm xuể. Cũng bài Kinh này tất cả các vị Phật không loại trừ.

271. Hīnakāyūpagāti hīnakāyaṃ upagatā hutvā. Upādāneti taṇhādiṭṭhigahaṇe. Jātimaraṇasambhaveti jātiyā ca maraṇassa ca kāraṇabhūte. Anupādāti catūhi upādānehi anupādiyitvā. Jātimaraṇasaṅkhayeti jātimaraṇasaṅkhayasaṅkhāte[17] nibbāne vimuccanti.

271. Đi đến tập thể thấp kém: là người đi đến tập thể thấp kém. Khi chấp thủ: chấp thủ do tham ái và tà kiến. Làm nhân dẫn đến sự sanh và sự chết: Làm nhân dẫn đến sự sanh và sự chết. Khi không chấp thủ: Không chấp thủ với bốn sự chấp thủ. Sự tái sanh và sự chết được đoạn tận: được thoát khỏi do Nibbāna, được xem là chấm dứt sự tái sanh và sự chết.

Diṭṭhadhammābhinibbutāti diṭṭhadhamme imasmiṃyeva attabhāve sabbakilesanibbānena nibbutā. Sabbadukkhaṃ upaccagunti sabbadukkhātikkantā nāma honti.

Dập tắt hoàn toàn ngay trong hiện tại: đã diệt tắt với sự diệt tắt toàn bộ các phiền não ở hiện tại, tức là chính trong tự ngã này. Vượt khỏi tất cả mọi khổ đau: được gọi là vượt qua tất cả mọi khổ đau.

Giải Thích Kinh Thiên Sứ Kết Thúc


[1] abhi. ka. 37/1818/628 (syā)

[2]  ka. – kammakaraṇakammakaraṇikā

[3] ka. pavattatīti

[4] Ka. – jarāya

[5] Ka. – gilānappatto

[6] Sī. – abhibhūto

[7] Ka. – kammakāraṇākaraṇatova

[8]  Ka. – uṭṭhahitvā

[9] Theo bản Miến Điện là 100 do-tuần

[10] Syā. Ka. – daḷhaṃ

[11] Ka. – jalati

[12] Ka. – khittā sāsaparāsimhi siddhatthaphalādīni

[13] Sī. – ayomayā khāravalliyā…, Ka. – ayomayāni khuravallika…

[14] Sī. – khāravallikāya, Ka. – kharavālukāya

[15] Sī. – tenahi

[16] Ka. – anubhavitabbaṃ

[17] Ka. – jātiyā maraṇassa khayasaṅkhāte