Kinh số 129 – Giải Thích Kinh Bậc Trí và Kẻ Ngu

(Bālapaṇḍitasuttavaṇṇanā)

Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Bậc Trí và Kẻ Ngu (Kinh Hiền Ngu)

246. Evamme sutanti bālapaṇḍitasuttaṃ. Tattha bālalakkhaṇānīti bālo ayanti etehi lakkhiyati ñāyatīti bālalakkhaṇāni. Tāneva tassa sañjānanakāraṇānīti bālanimittāni. Bālassa apadānānīti[1] bālāpadānāni. Duccintitacintīti cintayanto abhijjhābyāpādamicchādassanavasena duccintitameva cinteti. Dubbhāsitabhāsīti bhāsamānopi musāvādādibhedaṃ dubbhāsitameva bhāsati. Dukkaṭakammakārīti karontopi pāṇātipātādivasena dukkaṭakammameva karoti. Tatra ceti yattha nisinno, tassaṃ parisati. Tajjaṃ tassāruppanti tajjātikaṃ tadanucchavikaṃ, pañcannaṃ verānaṃ diṭṭhadhammakasamparāyikāadīnavappaṭisaṃyuttanti adhippāyo. Tatrāti tāya kathāya kacchamānāya. Bālantiādīni sāmiatthe upayogavacanaṃ.

246. Kinh Hiền Trí và Kẻ Ngu được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, tướng trạng của kẻ ngu: tướng trạng của kẻ ngu bởi ý nghĩa yếu tố quyết định, là dấu hiệu cho biết rằng đây là người ngu. Chính những tướng trạng của kẻ ngu ấy được gọi là hiện tướng kẻ ngu bởi vì làm nhân để nhận biết rằng người đó là kẻ ngu. Sự thực hành không đứt quãng của kẻ ngu được gọi là dấu ấn của kẻ ngu. Nghĩ ý xấu xa: kẻ ngu ngay cả nghĩ cũng đến những chuyện xấu xa do tác động của sự tham dục, sự sân độc và tà kiến một phía. Nói lời xấu xa: Ngay cả khi nói cũng nói những lời xấu xa theo ác hạnh về khẩu có nói dối v.v. Làm hành động xấu xa: Ngay cả khi làm cũng chỉ làm những hành động xấu xa bằng khả năng của uế hạnh về thân có sát sanh v.v. Ở nói đó: ở trong hội chúng người ngu ấy. Nơi thích hợp cho hành động xấu xa đó: Nói với lời nói thích hợp cùng vị ấy, là phù hợp cùng vị ấy. Có nghĩa là những lời nói liên quan đến lỗi lầm được vận hành ở trong hiện tại và vị lai của cả 5 sự oán hận. Tại đấy: lời nói được nói đến nhau ấy. Người ngu v.v,: là cách thứ hai [đối cách], sử dụng trong ý nghĩa của cách thứ sáu [sở thuộc cách].

248. Olambantīti upaṭṭhahanti. Sesapadadvayaṃ tasseva vevacanaṃ, olambanādiākārena hi tāni upaṭṭhahanti, tasmā evaṃ vuttaṃ. Pathaviyā olambantīti pathavitale pattharanti. Sesapadadvayaṃ tasseva vevacanaṃ. Pattharaṇākāroyeva hesa. Tatra, bhikkhave, bālassāti tasmiṃ upaṭṭhānākāre āpāthagate bālassa evaṃ hoti.

248. Trải lên: đi vào an trú. Hai câu còn lại [trùm lên, phủ lên] đồng nghĩa với câu ‘trải lên’. Tướng trạng của những kẻ ngu ấy hiển lộ nhờ biểu hiện trải lên v.v, vì thế ngài mới nói như vậy. Trải lên trên mặt mất: trải lên trên mặt đất. Hai câu còn lại cũng đồng nghĩa với chính hai câu ấy. Chính câu ấy là biểu hiện được trải lên. Tại đấy, này chư Tỳ khưu, kẻ ngu: khi hiện tượng ấy xảy đến, từ đó kẻ ngu có suy nghĩ như vầy.

249. Etadavocāti anusandhikusalo bhikkhu “nirayassa upamā kātuṃ na sakkā”ti na Bhagavā vadati, “na sukarā”ti pana vadati, na sukaraṃ pana sakkā hoti kātuṃ, handāhaṃ Dasabalaṃ upamaṃ kārāpemīti cintetvā etaṃ “sakkā, bhante”ti vacanaṃ avoca. Haneyyunti vinivijjhitvā gamanavasena yathā ekasmiṃ ṭhāne dve pahārā nipatanti, evaṃ haneyyuṃ. Tenassa dve vaṇamukhasatāni honti. Ito uttaripi eseva nayo.

249. Đã nói như vầy: vị Tỳ khưu thiện xảo về sự tiếp nối đã suy nghĩ rằng: “bất kỳ ai cũng không thể nêu ra ví dụ về địa ngục được”  đức Thế Tôn cũng không nói, mà chỉ nói “không dễ dàng”, không phải điều làm được dễ dàng và dẫu làm được dễ dàng thì cũng không ai có thể, vậy thì ta sẽ thỉnh cầu đấng Thập Lực làm ví dụ rồi nói lời sau: Kính bạch ngài có thể có một ví dụ không? Có thế đâm: có thể sát hại theo kiểu đâm hai nhất vào cùng một chỗ không gây tử vong, bằng cách đâm thêm lần nữa rồi bỏ đi. Vì vậy, tên trộm ấy mới có đến hai trăm vết thương. Thậm chí có số lượng nhiều hơn cũng có phương thức tương tự.

250. Pāṇimattanti antomuṭṭhiyaṃ ṭhapanamattaṃ. Saṅkhampi na upetīti gaṇanamattampi na gacchati. Kalabhāgampīti satimaṃ kalaṃ sahassimaṃ kalaṃ satasahassimaṃ vā kalaṃ upagacchatītipi vattabbataṃ na upeti. Upanidhampīti upanikkhepanamattampi na upeti, olokentassa olokitamattampi natthi. Tattaṃ ayokhilanti tigāvutaṃ attabhāvaṃ sampajjalitāya lohapathaviyā uttānakaṃ nipajjāpetvā tassa dakkhiṇahatthe tālappamāṇaṃ ayasūlaṃ pavesenti, tathā vāmahatthādīsu. Yathā ca uttānakaṃ nipajjāpetvā, evaṃ urenapi dakkhiṇapassenapi vāmapassenapi nipajjāpetvā taṃ kammakāraṇaṃ karontiyeva. Saṃvesetvāti sampajjalitāya lohapathaviyā tigāvutaṃ attabhāvaṃ nipajjāpetvā. Kuṭhārīhīti mahatīhi gehassa ekapakkhachadanamattāhi kuṭhārīhi tacchanti. Lohitaṃ nadī hutvā sandati, lohapathavito jālā uṭṭhahitvā tacchitaṭṭhānaṃ gaṇhanti. Mahādukkhaṃ uppajjati, tacchantā pana suttāhataṃ karitvā dārū viya aṭṭhaṃsampi chaḷaṃsampi karonti. Vāsīhīti mahāsuppapamāṇāhi vāsīhi. tāhi tacchantā tacato yāva aṭṭhīni saṇikaṃ tacchanti, tacchitaṃ tacchitaṃ paṭipākatikaṃ hoti. Rathe yojetvāti saddhiṃ yugayottapañcaracakkakubbarapācanehi sabbato sampajjalite rathe yojetvā. Mahantanti mahākūṭāgārappamāṇaṃ. Āropentīti sampajjalitehi ayamuggarehi pothentā āropenti. Sakimpi uddhanti supakkuthitāya ukkhaliyā pakkhittataṇḍulā viya uddhaṃ adho tiriyañca gacchati.

250. Có kích thước bằng bàn tay: có kích thước chỉ đặt vừa trong lòng bàn tay. Nó không đáng kể gì: Không đáng kể để tính đếm được. Không được phần chia của một phần: chẳng đáng để nói đến, chẳng được một phần tư một trăm, một phần tư một ngàn, một phần tư một trăm ngàn. Không thể so sánh được: Chẳng đáng để đi vào so sánh, dầu cho người nhìn sang cũng nhìn không thấy. Trong số những câu đó ‘cọc sắt’ cho chúng sanh ở địa ngục có sắc thân cao 3 gāvuta nằm ngửa trên tấm đồng đốt cháy sáng rực, cầm lấy cây giáo sắt kích thước chừng cây thốt nốt đóng vào bàn tay phải (và) đóng vào bàn tay trái v.v, làm như thế, rồi cho nằm úp mặt xuống, (hay) nằm nghiêng sang phải, (hay) nằm nghiêng sang trái để trừng phạt như nằm ngửa rồi trừng phạt theo cùng một cách. Bắt kẻ ấy dang hai tay hai chân: người giữ địa ngục bắt những chúng sanh ở địa ngục có sắc thân cao 3 gāvuta nằm trên tấm đồng đốt cháy sáng rực. Lấy cái rìu: chặt bằng cái rìu lớn có kích thước to lớn bằng nửa mái nhà. Máu chảy thành sông, máu sẽ phun lên từ mặt đất tạo thành ngọn lửa chạm đến chỗ kẻ ấy bị vạc. Khổ đau lớn lao khởi sanh, và khi chặt cũng chặt tạo thành đường kẻ, chặt thành 8 miếng, 6 miếng tựa như chẻ củi. Bằng con dao lớn: con dao có kích thước bằng một cái mẹt lớn. Khi chặt bằng con dao ấy cũng chặt từ da cho đến tận xương các chi phần bị chặt đứt trở lại tình trạng bình thường như trước. Cột kẻ ấy vào cỗ xe: cột kể ấy vào cỗ xe đã đốt cháy toàn bộ cùng với cái ách, hàm thiếc (đế buộc dây cương), vành bánh xe, càng xe và gậy nhọn (để thúc). To lớn: Có kích thước bằng ngôi nhà mái to lớn. Cho..trèo lên: người giữ địa ngục đánh bằng roi sắt đang cháy rực rồi ra lệnh cho những kẻ ấy trèo lên. Lúc thì nổi lên trên: kẻ ấy lúc thì nổi lên trên, lúc thì chìm xuống dưới, lúc thì trôi ngang tương tự như hạt gạo được cho vào nồi cơm đang sôi.

Bhāgaso mitoti bhāge ṭhapetvā ṭhapetvā vibhatto. Pariyantoti parikkhitto. Ayasāti upari ayapaṭṭena chādito.

Được chia thành các phần cân đối: Được chia thành từng phần cân đối. Được bao quanh: bao quanh. Bằng tấm sắt: Ở phía trên được bao bọc lại bằng tấm sắt.

Samantā yojanasataṃ pharitvā tiṭṭhatīti evaṃ pharitvā tiṭṭhati, yathā samantā yojanasate ṭhāne ṭhatvā olokentassa akkhīni yamakagoḷakā viya nikkhamanti.

Tỏa khắp xung quanh một trăm do-tuần (và) tồn tại: Tỏa khắp như vậy (và) tồn tại tương tự như tròng mắt của một người đứng nhìn xa xung quanh khoảng một trăm do-tuần sẽ nhô ra giống như hai quả bóng

Na sukarā akkhānena pāpuṇitunti nirayo nāma evampi dukkho evampi dukkhoti vassasataṃ vassasahassaṃ kathentenāpi matthakaṃ pāpetvā kathetuṃ na sukarāti attho.

Thật không dễ dàng nói cho được đầy đủ: có lời giải thích như sau – dầu cho nói đến một trăm năm, một ngàn năm cho đến tận cùng rằng ‘đau khổ hoàn toàn như vậy là địa ngục’ không phải là chuyện có thể dễ dàng thực hiện.

251. Dantullehakanti dantehi ullehitvā[2], luñcitvāti vuttaṃ hoti. Rasādoti rasagedhena paribhuttaraso.

251. Sử dụng răng và móng: sử dụng răng và móng, giải thích rằng nhổ lên bằng răng. Người ăn uống với sự dính mắc: thọ dụng với sự dính mắc trong các vị, với sự mong muốn trong hương vị vật thực.

252. Aññamaññakhādikāti aññamaññakhādanaṃ.

252. Chỉ có ăn thịt lẫn nhau: cắn xé lẫn nhau.

Dubbaṇṇoti durūpo. Duddasikoti dārakānaṃ bhayāpanatthaṃ katayakkho viya duddaso. Okoṭimakoti lakuṇḍako paviṭṭhagīvo mahodaro. Kāṇoti ekakkhikāṇo vā ubhayakkhikāṇo vā. Kuṇīti ekahatthakuṇī vā ubhayahatthakuṇī vā. Pakkhahatoti[3] pīṭhasappī. So kāyenāti idamassa dukkhānupabandhadassanatthaṃ āraddhaṃ.

Có màu da thô xấu: có sắc xấu. Có sắc đáng sợ: Có sắc thật đáng sợ như Dạ-xoa được thợ nặng để dọa trẻ con sợ. Thân lùn thấp: thân hình nhỏ bé, cổ ngắn, bụng phệ. Người mù: người bị mù một mắt hoặc mù cả hai bên. Người tàn tật: người có tay bị cụt một bên hoặc có tay bị cụt cả hai bên. Người bại liệt: là người bại liệt. Kẻ ngu ấy thực hành uế hạnh về thân: ngài khởi sự để thuyết đến việc buộc chặt với sự khổ đau của chúng sanh ở địa ngục ấy.

Kaliggahenāti parājayena. Adhibandhaṃ nigaccheyyāti yasmā bahuṃ jito sabbasāpateyyampissa nappahoti, tasmā attanāpi bandhaṃ nigaccheyya[4]. Kevalā paripūrā bālabhūmīti bālo tīṇi duccaritāni pūretvā niraye nibbattati, tattha pakkāvasesena manussattaṃ āgato pañcasu nīcakulesu nibbattitvā puna tīṇi duccaritāni pūretvā niraye nibbattatīti ayaṃ sakalā paripuṇṇā bālabhūmi.

Do vận rủi: với sự thất bại. Dẫn đến từ tội: Do toàn bộ tài sản số lượng nhiều của kẻ thất bại vẫn không đủ cho kẻ chiến thắng, vì thế kẻ ấy phải chịu tù tội nữa. Đây là địa xứ hoàn toàn viên mãn của kẻ ngu: kẻ ngu thực hành ba uế hạnh đầy đủ sẽ sanh vào địa ngục, những với nghiệp lực còn dư sót trong địa ngục dẫu cho kẻ ấy được tái sanh trở lại ở cõi người thì kẻ ấy cũng sanh vào cả 5 gia đình thấp kém, và nếu thực hành 3 uế hạnh  được viên mãn thì vẫn phải sanh vào địa ngục. Toàn bộ điều này là địa xứ của kẻ ngu hoàn toàn viên mãn.

253. Paṇḍitalakkhaṇānītiādi vuttānusāreneva veditabbaṃ. Sucintitacintītiādīni cettha manosucaritādīnaṃ vasena yojetabbāni.

253. Tướng trạng của bậc trí: nên hiểu theo chính phương thức đã nói. Người trí nghĩ ý nghĩ tốt lành v.v, trong phần diễn giải nên liên kết với mãnh lực của thiện hạnh về ý.

Giải Thích Về Bánh Xe Báu

256. Sīsaṃ nhātassāti sīsena saddhiṃ gandhodakena nhātassa. Uposathikassāti samādinnauposathaṅgassa. Uparipāsādavaragatassāti pāsādavarassa upari gatassa subhojanaṃ bhuñjitvā pāsādavarassa upari mahātale sirīgabbhaṃ pavisitvā sīlāni āvajjantassa. Tadā kira rājā pātova satasahassaṃ vissajjetvā mahādānaṃ datvā punapi soḷasahi gandhodakaghaṭehi sīsaṃ nhāyitvā katapātarāso suddhaṃ uttarāsaṅgaṃ ekaṃsaṃ katvā uparipāsādassa sirīsayane pallaṅkaṃ ābhujitvā nisinno attano dānamayapuññasamudayaṃ āvajjetvā nisīdati, ayaṃ sabbacakkavattīnaṃ dhammatā.

256. Đã gội đầu: đã gội bằng nước có hương thơm khắp đầu. Thọ trì trai giới uposatha: Thọ trì các chi phần uposatha. Ngồi ở lầu trên của tòa lâu đài quý giá: Ngài bước lên tòa lâu đài cao quý, sau khi thọ dụng vật thực ngài đã bước vào căn phòng lộng lẫy ở trên mặt sàn rộng lớn của tòa lâu đài cao quý rồi quán chiếu lại giới. Nghe rằng khi ấy đức vua giải quyết hàng trăm ngàn vấn đề từ lúc sáng sớm đã dâng cúng đại thí, đã gội đầu bằng mười sáu chum nước thơm, sau khi hoàn tất việc thọ dụng vật thực, đã khoác lên mình chiếc khăn choàng tinh khiết, ở tại chiếc giường lộng lẫy đã ngồi xếp chân vào thế kiết già, đã quán chiếu đến nguồn sanh khởi phước báu được thành tựu nhờ bố thí, điều phục và chế ngự của bản thân. Đây là bản thể tự nhiên của tất cả các vị Chuyển Luân Vương.

Tesaṃ taṃ āvajjantānaṃyeva vuttappakārapuññakammapaccayaṃ utusamuṭṭhānaṃ nīlamaṇisaṅghāṭasadisaṃ pācīnasamuddajalatalaṃ chindamānaṃ viya ākāsaṃ alaṅkurumānaṃ[5] viya dibbaṃ cakkaratanaṃ pātubhavati. Tayidaṃ dibbānubhāvayuttattā dibbanti vuttaṃ. Sahassaṃ assa arānanti sahassāraṃ. Saha nemiyā saha nābhiyā cāti sanemikaṃ sanābhikaṃ. Sabbehi ākārehi paripūranti sabbākāraparipūraṃ.

Khi những vị ấy tự mình quán chiếu lại phước báu, bánh xe báu thuộc cõi trời hiện ra trông giống như khối ngọc ma-ni màu xanh có nguồn sanh khởi từ nghiệp thiện, duyên, và thời tiết theo cách thức đã được nói; trông giống như mặt nước biển phía đông bị sóng xô; trông giống như bầu trời đã được trang hoàng trang trí. Bánh xe báu này đây đã được ngài nói là thuộc cõi trời bởi vì gắn liền với oai lực cõi trời. Có ngàn căm: bánh xe báu ấy có ngàn căm. Có vành xe (và) có ổ trục: với vành xe và với ổ trục. Đầy đủ với mọi bộ phận: đầy đủ với mọi bộ phận.

Tattha cakkañca taṃ ratijananaṭṭhena ratanañcāti cakkaratanaṃ. Yāya pana taṃ nābhiyā “sanābhikan”ti vuttaṃ, sā indanīlamaṇimayā hoti. Majjhe panassā rajatamayā panāḷi, yāya suddhasiniddhadantapantiyā hasamānaṃ viya virocati. Majjhe chiddena viya candamaṇḍalena ubhosupi bāhirantesu rajatapaṭṭena kataparikkhepo hoti. Tesu panassā nābhipanāḷi parikkhepapaṭṭesu yuttaṭṭhāne paricchedalekhā suvibhattāva hutvā paññāyanti. Ayaṃ tāvassa nābhiyā sabbākāraparipūratā.

Ở đây, bánh xe báu ấy vừa là bánh xe và vừa là châu báu với ý nghĩa khởi sanh sự hoan hỷ. Hơn nữa, trục bánh xe đó đã được gọi là ‘với ổ trục’, trục bánh xe ấy được làm bằng ngọc xanh biếc. Thêm nữa, ở giữa trục bánh xe được làm bằng bạc nguyên chất sáng lấp lánh tựa như đang nở một nụ cười với hàm răng trắng bóng; bao bọc bởi một tấm bạc cả trong lẫn ngoài luôn cả hai bên tựa như vòng tròn của vầng trăng có cái lỗ ở chính giữa. Vả lại, những họa tiết được chạm khắc ở những vị trí thích hợp trên tấm bạc bao quanh ổ trục và các căm xe cũng khéo được sắp xếp. Trước tiên, đây là sự đầy đủ mọi bộ phận của trục xe.

Yehi pana taṃ arehi “sahassāran”ti vuttaṃ, te sattaratanamayā sūriyarasmiyo viya pabhāsampannā honti. Tesampi ghaṭamaṇikaparicchedalekhādīni suvibhattāneva paññāyanti. Ayamassa arānaṃ sabbākāraparipūratā.

Hơn nữa, với căm xe nào đã được nói rằng ‘có ngàn căm xe’, thì những căm đó được làm bằng 7 loại châu báu (và) hoàn hảo bởi hào quang tựa như ánh mặt trời. Những họa tiết được chạm khắc bằng khối ngọc ma-ni của những căm xe đó cũng xuất hiện (và) khéo được sắp xếp. Đây là sự đầy đủ mọi bộ phận của các căm xe đó.

Yāya pana taṃ nemiyā saha “sanemikan”ti vuttaṃ, sā bālasūriyarasmikalāpasiriṃ avahasamānā viya surattasuddhasiniddhapavāḷamayā hoti. Sandhīsu panassā sañjhārāgasassirikarattajambonadapaṭṭā vaṭṭaparicchedalekhā ca suvibhattā paññāyanti. Ayamassa nemiyā sabbākāraparipūratā.

Hơn nữa, với vành bánh xe nào đã được nói rằng ‘với vành bánh xe’, thì vành bánh xe đó được làm bằng ngọc san hô có màu đỏ đậm tinh khiết trơn láng như giễu cợt khối ánh sáng mặt trời yếu ớt. Hơn nữa, chỗ tiếp nối của vành xe ấy các họa tiết được chạm khắc vòng tròn, có sự chói lọi thành khối trắng đỏ tinh khiết được, vô số vàng nguyên chất màu đỏ hiện ra (và) khéo được sắp xếp. Đây là sự đầy đủ mọi bộ phận của vành bánh xe đó.

Nemimaṇḍalapiṭṭhiyaṃ panassa dasannaṃ dasannaṃ arānamantare dhamanavaṃso viya antosusiro chiddamaṇḍalacitto vātagāhī pavāḷadaṇḍo hoti, yassa vātena paharitassa sukusalasamannāhatassa pañcaṅgikatūriyassa[6] viya saddo vaggu ca rajanīyo ca kamanīyo ca hoti. Tassa kho pana pavāḷadaṇḍassa upari setacchattaṃ, ubhosu passesu samosaritakusumadāmapantiyoti evaṃ samosaritakusumadāmapantisatadvayaparivārena setacchattasatadhārinā pavāḷadaṇḍasatena samupasobhitanemiparikkhepassa dvinnampi nābhipanāḷīnaṃ anto dve sīhamukhāni honti, yehi tālakkhandhappamāṇā puṇṇacandakiraṇakalāpasassirikā taruṇaravisamānarattakambalageṇḍukapariyantā ākāsagaṅgāgatisobhaṃ abhibhavamānā viya dve muttakalāpā olambanti, yehi cakkaratanena saddhiṃ ākāse samparivattamānehi tīṇi cakkāni ekato parivattantāni viya khāyanti. Ayamassa sabbaso sabbākāraparipūratā.

Lại nữa, ở phía sau vòng tròn của trục bánh xe báu thuộc cõi trời có một thanh gỗ bằng ngọc san hô giống như ống sậy có lỗ trống bên trong, được trang trí thành vòng tròn nằm ở căm xe mỗi bên mười thanh, thanh gỗ được hoàn thành với ngọc san hô nào vào lúc gió thổi sẽ phát ra âm thanh du dương tạo ra cảm giác bồi hồi, thỏa thích, tựa như âm thanh của năm loại nhạc cụ được chơi bởi người nhạc sĩ lão luyện. Cũng chính thanh gỗ được hoàn thành bởi ngọc san hô đó có cây lọng trắng ở  phía trên, có những tràng hoa tạo thành chùm sắp xếp thứ tự treo ở hai bên như cách thức đã trình bày, có cửa sổ ở hai bên, ở bên trong lỗ trống của vành cả hai của bánh xe báu thuộc cõi trời vòng tròn di chuyển với vành bánh xe tạo thêm sự xinh đẹp bằng thanh gỗ được hoàn thành với một trăm viên ngọc san hô, đặt một trăm cây lộng trắng với những chùm hoa phủ khắp theo thứ tự đến hai trăm xung quanh, hai khối ngọc trai được treo lơ lửng, trong như thể đẹp hơn vẻ đẹp tự nhiên của bầu không khí sông Hằng, hòa trộn với ánh sáng mặt trăng ngày rằm chiếu sáng độ chừng thân cây thốt nốt, giảm xuống với tấm vải len được nhuộm đỏ tựa như ánh nắng mặt trời hừng đông, cả 3 vòng hiển lộ như thể cùng xoay chuyển luân phiên luân chuyển trong hư không cùng với bánh xe báu. Đây là sự hoàn hảo với mọi tính chất, với mọi khía cạnh của bánh xe báu đó ấy.

Taṃ panetaṃ evaṃ sabbākāraparipūraṃ pakatiyā sāyamāsabhattaṃ bhuñjitvā attano attano gharadvāre paññattāsanesu nisīditvā pavattakathāsallāpesu manussesu vīthicatukkādīsu kīḷamāne dārakajane nātiuccena nātinīcena vanasaṇḍamatthakāsannena ākāsappadesena upasobhayamānaṃ viya rukkhasākhaggāni, dvādasayojanato paṭṭhāya suyyamānena madhurassarena sattānaṃ sotāni odhāpayamānaṃ yojanato paṭṭhāya nānappabhāsamudayasamujjalena vaṇṇena nayanāni samākaḍḍhantaṃ rañño cakkavattissa puññānubhāvaṃ ugghosayantaṃ viya rājadhāniabhimukhaṃ āgacchati.

Sau khi mọi người ăn tối xong theo thường lệ, sau đó mọi người ngồi xuống tọa cụ được họ trải sẵn ở tại cửa nhà của mỗi người đàm luận với nhau về những câu chuyện đang diễn ra, khi nhóm trẻ không quá cao, cũng không quá thấp đang chơi giỡn trên đường phố, ngã tư, v.v. bánh xe báu hoàn hảo với tất cả mọi tính chất như vậy cũng di chuyển thẳng tiến đến kinh thành trong như thể bổ sung thêm nét đẹp nhành cây ngọn cây, với việc truyền thêm ánh sáng trong hư không cho đến tận khu vực rừng rậm, xui khiến các nhóm chúng sanh lóng tai nghe do nhờ âm thanh du dương, lắng nghe xa đến 12 do-tuần, xui khiến cho nhìn thấy nhờ ánh sáng rực rỡ làm duyên cho phát ra nhiều loại ánh sáng khác nhau nhìn thấy xa được một do-tuần như thể tuyên bố về oai lực phước báu của vua Chuyển-luân.

Atha tassa cakkaratanassa saddassavaneneva “kuto nu kho, kassa nu kho ayaṃ saddo”ti āvajjitahadayānaṃ puratthimadisaṃ olokayamānānaṃ tesaṃ manussānaṃ aññataro aññataraṃ evamāha — “Passa bho acchariyaṃ, ayaṃ puṇṇacando pubbe eko uggacchati, ajja pana attadutiyo uggato, etañhi rājahaṃsamithunaṃ viya puṇṇacandamithunaṃ pubbāpariyena gaganatalaṃ abhilaṅghatī”ti. Tamañño āha — “kiṃ kathesi samma kahaṃ nāma tayā dve puṇṇacandā ekato uggacchantā diṭṭhapubbā, nanu esa tapanīyaraṃsidhāro piñcharakiraṇo divākaro uggato”ti. Tamañño sitaṃ katvā evamāha — “kiṃ ummattosi, nanu kho idānimeva divākaro atthaṅgato, so kathaṃ imaṃ puṇṇacandaṃ anubandhamāno uggacchissati, addhā panetaṃ anekaratanappabhāsamujjalaṃ ekassa puññavato vimānaṃ bhavissatī”ti. Te sabbepi apasādayantā[7] aññe evamāhaṃsu — “kiṃ bahuṃ vippalapatha, nevesa puṇṇacando, na sūriyo na devavimānaṃ. Na hetesaṃ evarūpā sirisampatti atthi, cakkaratanena panetena bhavitabban”ti.

Khi ấy, bằng chính việc lắng nghe âm thanh của bánh xe báu, mọi người nhìn về phía đông có tâm chăm chú: “Đây là âm thanh của ai? (âm thanh) này đến từ đâu?” Ai cũng nói với nhau rằng – “Thưa các ngài, hãy nhìn thật là kỳ diệu, trước đây vào ngày rằm chỉ có một mặt trăng được mọc lên, nhưng ngày hôm nay lại mọc lên hai mặt trăng, và hai mặt trăng ngày rằm này trông giống như đôi chim thiên nga chúa ngự trên bầu trời. Một người khác phản đối lại rằng: “Này bạn, bạn nói gì vậy? Có bao giờ bạn nhìn thấy hai mặt trăng xuất hiện cùng một lúc chưa? Đó là mặt trời mà ánh sáng đang cháy rực, có màu đỏ vàng ló ra không phải sao?” Một người khác lại mỉa mai, giễu cợt người ấy rằng: “Các ông bị điên rồi hay sao? Mặt trời mới vừa lặn không phải sao? Làm sao mặt trời ấy sẽ có thể mọc cùng mặt trăng rằm này được? Nhưng đây chắc hẳn phải là cung điện của một vị có phước báu, mới chói sáng rực rỡ nhờ ánh sáng của các loại châu báu.” Toàn bộ những người ấy chẳng ai tin ai cũng nói cùng những người ấy như vầy: “Tại sao các ông nói quá nhiều chuyện vô nghĩa, đó không phải là mặt trăng rằm, cũng không phải là mặt trời, mà cũng chẳng phải Thiên cung của vị Thiên tử, mà cũng không phải sự thành tựu quyền quý của các Thiên nhân có hình thức như vậy, mà những thứ đó chắc chắn chỉ có thể là bánh xe báu”.

Evaṃ pavattasallāpasseva tassa janassa candamaṇḍalaṃ ohāya taṃ cakkaratanaṃ abhimukhaṃ hoti. Tato tehi “kassa nu kho idaṃ nibbattan”ti vutte bhavanti vattāro — “na kassaci aññassa[8], nanu amhākaṃ rājā pūritacakkavattivatto, tassetaṃ nibbattan”ti. Atha so ca mahājano, yo ca añño passati, sabbo cakkaratanameva anugacchati. Tampi cakkaratanaṃ raññoyeva atthāya attano āgatabhāvaṃ ñāpetukāmaṃ viya sattakkhattuṃ pākāramatthakeneva nagaraṃ anusaṃyāyitvā rañño antepuraṃ padakkhiṇaṃ katvā antepurassa uttarasīhapañjarāasanne ṭhāne yathā gandhapupphādīhi sukhena sakkā hoti pūjetuṃ, evaṃ akkhāhataṃ viya tiṭṭhati.

Khi cuộc tranh luận còn đang diễn ra như thế bánh xe báu ấy đã rời bỏ vầng trăng tròn tiến thẳng đến. Sau đó những người ấy nói với nhau rằng “Bánh xe báu này sanh lên vì ai đây?” cũng có người nói lên rằng: “bánh xe báu này không sanh lên cho bất cứ người nào cả, đại vương của tất cả chúng ta thực hành (ba-la-mật) tròn đủ trở thành vị Chuyển-luân-vương, bánh xe báu này xuất hiện chắc chắn là cặp đôi ba-la-mật của ngài. Khi ấy cả đại chúng nhóm đó, cả những người khác, được nhìn thấy mọi người lần lượt đi theo đi theo bánh xe báu, thậm chí bánh xe báu ấy cũng đi vòng quanh thành phố cho đến cuối bức tường bảy lần, giống như thông báo cho mọi người biết được điều mà bản thân đã đi đến vì lợi ích của chính đức vua rồi hướng vai phải nhiễu quanh trong hoàng cung của đức vua, ở địa điểm gần giống chỗ cánh cửa sổ phương Bắc của hoàng cung, giống như bị cái nêm được chạm khắc cài lại để cho đại chúng lễ bái bằng các lễ vật có hương thơm và tràng hoa v.v, được thuận tiện.

Evaṃ ṭhitassa panassa vātapānacchiddādīhi pavisitvā nānāvirāgaratanappabhāsamujjalaṃ anto pāsādaṃ alaṅkurumānaṃ pabhāsamūhaṃ disvā dassanatthāya sañjātābhilāso rājā hoti. Parijanopissa piyavacanapābhatena āgantvā tamatthaṃ nivedeti. Atha rājā balavapītipāmojjaphuṭasarīro pallaṅkaṃ mocetvā uṭṭhāyāsanā sīhapañjarasamīpaṃ gantvā taṃ cakkaratanaṃ disvā “sutaṃ kho pana metan”tiādikaṃ cintanaṃ cintesi. Tena vuttaṃ — “disvāna rañño khattiyassa … pe … assaṃ nu kho ahaṃ rājā cakkavattī”ti. Tattha so hoti rājā cakkavattīti kittāvatā cakkavattī hoti? Ekaṅguladvaṅgulamattampi cakkaratane ākāsaṃ abbhuggantvā pavatte[9].

Khi bánh xe báu thuộc cõi trời được thiết lập bằng cách như vậy, đức vua đưa mắt nhìn khối ánh sáng xuyên qua khe hở của cửa sổ, khiến cho bên trong hoàng cung chói sáng rực rỡ với ánh sáng với vô số loại ngọc quý có nhiều màu sắc, (ngài) có ý muốn đưa mắt ngắm nhìn bánh xe báu. Thậm chí đại chúng vây quanh cũng cùng nhau nói về nhân của bánh xe báu đó toàn những lời nói dễ thương, lúc ấy đức vua có sắc thân tràn ngập phỉ lạc và niềm hân hoan mãnh liệt, rời bỏ tư thế kiết già đứng dậy từ chỗ ngồi đi đến gần cửa sổ, sau đó đã đưa mắt nhìn bánh xe báu, mới khởi suy nghĩ rằng: “Hơn nữa, ta đã nghe như vầy v.v.” Với lý do đó đức Thế Tôn đã nói – “Trong khi đưa mắt nhìn mới có suy nghĩ rằng …nt…phải chăng ta có thể trở thành vị Chuyển luân vương?”. Ở đây, vị vua ấy trở thành vị Chuyển luân vương: đức vua trở thành vị Chuyển luân vương xa có nhân chỉ chừng ấy. Ngài làm cho bánh xe báu di chuyển trong hư không chỉ một lóng tay, (hay) hai lóng tay.

Idāni tassa pavattāpanatthaṃ[10] yaṃ kātabbaṃ taṃ[11] dassento atha kho, bhikkhavetiādimāha. Tattha uṭṭhāyāsanāti nisinnāsanato uṭṭhahitvā cakkaratanasamīpaṃ āgantvā. Bhiṅkāraṃ gahetvāti hatthisoṇḍasadisapanāḷiṃ suvaṇṇabhiṅkāraṃ ukkhipitvā vāmahatthena udakaṃ gahetvā. Pavattatu bhavaṃ cakkaratanaṃ, abhivijinātu bhavaṃ cakkaratananti. Anvadeva rājā cakkavattī saddhiṃ caturaṅginiyā senāyāti sabbacakkavattīnañhi udakena abhisiñcitvā “abhivijānātu bhavaṃ cakkaratanan”ti vacanasamanantarameva vehāsaṃ abbhuggantvā cakkaratanaṃ pavattati, yassa pavattisamakālameva so rājā cakkavattī nāma hoti.

Bây giờ, trong khi thuyết đến đức vua có thể thực hành lễ đăng quang trở thành vị Chuyển luân vương đã nói lời như sau: “Này chư Tỳ khưu, từ đó.” Ở đây, từ chỗ ngồi đứng dậy: ngài đã đứng dậy từ tọa cụ trong tư thế ngồi đi đến gần bánh xe báu. Cầm lấy bình nước: đã cầm lấy bình nước bằng vàng lên có lỗ trống tựa như cái vòi voi, cầm lấy bình nước bằng tay trái (rưới nước lên bánh xe báu bằng tay phải) truyền lệnh rằng: Này xe báu hãy di chuyển, này xe báu hãy chinh phục!” Vua Chuyển luân cùng với bốn loại binh chủng đi theo sau: Trong lúc đức vua rưới nước mong muốn trở thành vị Chuyển luân vương rồi truyền lệnh “này xe báu hãy chinh phục!” bánh xe báu đã bay lên không trung rồi di chuyển. Đức vua được gọi là vị Chuyển luân vương trong cùng chính một thời điểm mà bánh xe báu ấy di chuyển.

Pavatte pana cakkaratane taṃ anubandhamānova rājā cakkavattī yānavaraṃ āruyha vehāsaṃ abbhuggacchati, athassa chattacāmarādihattho[12] parijano ceva antepurajano ca. tato nānappakārakañcukakavacādisannāhavibhūsitena vividhāharaṇappabhāsamujjalitena[13] samussitaddhajapaṭākapaṭimaṇḍitena attano attano balakāyena[14] saddhiṃ uparājasenāpati pabhūtayopi vehāsaṃ abbhuggantvā rājānameva parivārenti. Rājayuttā pana janasaṅgahatthaṃ nagaravīthīsu bheriyo carāpenti “tātā amhākaṃ rañño cakkaratanaṃ[15] nibbattaṃ, attano attano vibhavānurūpena maṇḍitappasādhitā sannipatathā”ti. Mahājano pana pakatiyā cakkaratanasaddeneva sabbakiccāni pahāya gandhapupphādīni ādāya sannipatitova, sopi sabbo vehāsaṃ abbhuggantvā rājānameva parivāreti. yassa yassa hi raññā saddhiṃ gantukāmatā uppajjati, so so ākāsagatova hoti. Evaṃ dvādasayojanāyāmavitthārā parisā hoti. Tattha ekapurisopi chinnabhinnasarīro vā kiliṭṭhavattho vā natthi. Suciparivāro hi rājā cakkavattī. Cakkavattiparisā nāma vijjādharaparisā[16] viya ākāse gacchamānā indanīlamaṇitale vippakiṇṇaratanasadisā hoti. Tena vuttaṃ “anvadeva rājā cakkavattī saddhiṃ caturaṅginiyā senāyā”ti.

Khi bánh xe báu ấy đã chuyển vận thì đức vua Chuyển Luân đi theo sau bánh xe đó, ngài bước lên cổ xe tối thượng rồi phóng lên không trung. Sau đó, những người tùy tùng và những cận vệ của vua cầm lấy cây lọng và một cái lông đuôi bò Tây tạng v.v, bên cạnh đó các vị phó vương và tướng quân cùng với các quân lính được trang bị các loại y phục như áo choàng dài, áo ngắn, áo giáp, v.v, rực rỡ với nhiều ánh sáng khác nhau, trang trí các cờ và biểu ngữ xinh đẹp đã phóng lên không trung bao quanh đức vua. Hơn nữa, để nhiếp phục dân chúng các cận thần của vua đã đánh trống thông báo khắp các con đường trong thành (rằng): “Hỡi các thần dân, bánh xe báu đã xuất hiện cho đức vua của chúng ta, hãy sửa soạn trang điểm tùy thuộc vào khả năng của mỗi người, rồi đến tụ hội.” Hơn nữa đám đông dân chúng đã từ bỏ hết mọi việc cần làm phải làm hằng ngày, mang theo các lễ vật lễ bái như vật thơm và tràng hoa v.v, đên tụ hội nhờ vào âm thanh của chính bánh xe báu đó, (và) họ cũng bay lên không trung vây quanh đức vua, những người nào có ý muốn đồng hành cùng đức vua thì những người đó sẽ đi theo đường hư không. Như vậy hội chúng vừa dài vừa rộng khoảng mười hai do-tuần. Ở trong hội chúng ấy không có một ai dù chỉ một người bị thương hoặc mặc (đắp) y phục dơ bẩn. Thật vậy, Vua Chuyển Luân có hội chúng sạch sẽ. Thường hội chúng của Vua Chuyển Luân bay được trong hư không giống như hội chúng Vijjādhara, tương tợ như ngọc bích và ngọc ma-ni đầy trên bầu trời xanh. Vì thế, ngài đã nói rằng “Vua Chuyển luân cùng với bốn loại binh chủng đi theo sau”.

Tampi cakkaratanaṃ rukkhaggānaṃ uparūpari nātiuccena gaganapadesena pavattati, yathā rukkhānaṃ pupphaphalapallavehi atthikā tāni sukhena gahetuṃ sakkonti, bhūmiyaṃ ṭhitā “esa rājā, esa uparājā, esa senāpatī”ti sallakkhetuṃ sakkonti. Ṭhānādīsupi iriyāpathesu yo yena icchati, so teneva gacchati. Cittakammādisippapasutā cettha attano attano kiccaṃ karontāyeva gacchanti. Yatheva hi bhūmiyaṃ, tathā nesaṃ sabbakiccāni ākāse ijjhanti. Evaṃ cakkavattiparisaṃ gahetvā taṃ cakkaratanaṃ vāmapassena sineruṃ pahāya samuddassa uparibhāgena aṭṭhayojanasahassappamāṇaṃ Pubbavidehaṃ gacchati.

Vả lại, bánh xe báu đó chuyển vận trên hư không không quá cao và cũng không quá thấp, nằm ở phía bên trên ngọn cây trong khoảng cách mà những ai có nhu cầu về hoa, quả hoặc lá của cây cũng có thể dễ dàng hái được những thứ đó, và như người đứng trên mặt đất cũng có thể xác định rằng “đó là đức vua, đó là phó vương, đó là tướng quân”. Trong các tư thế như đứng, v.v, người nào ước muốn tư thế nào thì người ấy có thể di chuyển trong tư thế ấy. Và ở đây, người say mê nghệ thuật như hội họa v.v, khi làm công việc của mình, tất cả công việc của họ đều hoàn thành trong không trung tương tự như trên mặt đất. Ở trên mặt đất đã làm việc như thế nào thì trên hư không cũng có thể làm mọi việc như thế ấy. Bánh xe báu ấy đưa hội chúng của vua Chuyển Luân đi như vậy (và) đã bỏ qua ngọn núi Suneru bên trái tiến đến xứ Pubbavideha khoảng tám ngàn do-tuần ở phía trên của biển cả.

Tattha yo vinibbedhena dvādasayojanāya parikkhepato chattiṃsayojanaparisāya sannivesakkhamo sulabhāhārūpakaraṇo chāyūdakasampanno sucisamatalo ramaṇīyo bhūmibhāgo, tassa uparibhāge taṃ cakkaratanaṃ ākāse akkhāhataṃ viya tiṭṭhati. atha tena saññāṇena so mahājano otaritvā yathāruci nhānabhojanādīni sabbakiccāni karonto vāsaṃ kappeti, tena vuttaṃ “yasmiṃ kho pana, bhikkhave, padese taṃ cakkaratanaṃ patiṭṭhāti, tattha rājā cakkavattī vāsaṃ upeti saddhiṃ caturaṅginiyā senāyā”ti.

Ở nơi ấy, vùng đất nào có chiều rộng bao quanh mười hai do-tuần, thích hợp việc cư trú của hội chúng rộng mười sáu do-tuần, dễ dàng tìm kiếm thức ăn và các vật dụng phụ tùng, đầy đủ bóng mát và nguồn nước, có đất đai màu mỡ sạch sẽ, có sự đáng thích thú, bánh xe báu ấy được thiết lập giống như không lay động ở bên trên vùng đất ấy. Sau đó, theo dấu hiệu ấy dân chúng đã bước xuống làm tất cả mọi phận sự như tắm rửa và ăn uống, v.v, sống tùy theo ý thích. Vì lý do đó nên ngài mới nói rằng: bánh xe báu đã dừng lại ở quốc độ nào thì vua Chuyển luân tiến đến đóng quân tại quốc độ đó cùng với bốn loại binh chủng.

Evaṃ vāsaṃ upagate cakkavattimhi ye tattha rājāno, te “paracakkaṃ āgatan”ti sutvāpi na balakāyaṃ sannipātetvā yuddhasajjā honti. cakkaratanassa uppattisamanantarameva natthi so satto nāma, yo paccatthikasaññāya rājānaṃ ārabbha āvudhaṃ ukkhipituṃ visaheyya. ayamanubhāvo cakkaratanassa.

Cakkānubhāvena hi tassa rañño,

Arī asesā damathaṃ upenti.

Arindamaṃ nāma narādhipassa,

Teneva taṃ vuccati tassa cakkaṃ.

Trong khi vua Chuyển Luân đến đóng quân như vậy, các vị vua ở khu vực ấy khi nghe tin “bánh xe khác [kẻ thù] đã đến” cũng không triệu tập các binh chủng để chuẩn bị chiến đấu. Bởi vì, trong giai đoạn bánh xe báu xuất hiện thì không người nào cố gắng cầm vũ khí trước mặt đức vua với tư tưởng là kẻ thù. Đây là oai lực của bánh xe báu.

Bởi nhờ oai lực của bánh xe báu những kẻ thù còn lại của đức vua đều đi đến sự quy thuận,việc chinh phục kẻ thù là nhiệm vụ của đức vua vị chúa tể loài người, do chính nguyên nhân ấy ngài nói đến bánh xe báu của vị vua ấy.

Tasmā sabbepi te rājāno attano attano rajjasirivibhavānurūpaṃ pābhataṃ[17] gahetvā taṃ rājānaṃ upagamma onatasirā[18] attano moḷiyamaṇippabhābhisekenassa pādapūjaṃ karonto “ehi kho mahārājā”tiādīhi vacanehi tassa kiṅkārappaṭissāvitaṃ āpajjanti. Tena vuttaṃ ye kho pana, bhikkhave, puratthimāya … pe … anusāsa mahārājāti.

Do đó, tất cả những vị ấy đều mang theo cống phẩm phù hợp với vương quyền của mỗi vị đi đến yết kiến, những vị ấy cúi đầu và thể hiện sự lễ bái dưới chân của vua ấy bằng lễ rưới nước nhờ ánh sáng viên ngọc ma-ni ở trên đỉnh đầu của mình, đi đến tiếp đón đức vua ấy với những lời nói được bắt đầu rằng: “Tâu đại vương, hãy đến”. Vì thế ngài đã nói lời sau “Này các Tỳ khưu, các địch vương ở phía Đông …nt… xin ngài hãy giáo huấn

Tattha svāgatanti suāgamanaṃ. Ekasmiñhi āgate socanti, gate nandanti. Ekasmiṃ āgate nandanti, gate socanti. Tādiso tvaṃ āgatanandano gamanasocano, tasmā tava āgamanaṃ suāgamananti vuttaṃ hoti. Evaṃ vutte pana cakkavattī nāpi “ettakaṃ nāma me anuvassaṃ baliṃ upakappethā”ti vadati, nāpi aññassa bhogaṃ acchinditvā aññassa deti. Attano pana dhammarājabhāvassa anurūpāya paññāya pāṇātipātādīni upaparikkhitvā pemanīyena mañjunā sarena “passatha tātā, pāṇātipāto nāmesa āsevito bhāvito bahulīkato nirayasaṃvattaniko hotī”tiādinā nayena dhammaṃ desetvā “pāṇo na hantabbo”tiādikaṃ ovādaṃ deti. Tena vuttaṃ rājā cakkavattī evamāha pāṇo na hantabbo … pe … yathābhuttañca bhuñjathāti.

Ở đây, svāgataṃ đồng nghĩa với suāgamanaṃ (đi đến tốt đẹp). Khi một số vị vua đến thì người dân buồn rầu, khi đi thì người dân vui mừng. Khi một số vị đến người dân vui mừng, khi đi người dân thương tiếc. Ngài cũng như thế, khi ngài đến thì dân chúng vui mừng, khi ngài ra đi thì dân chúng thương tiếc. Vì thế, việc đi đến của ngài được gọi là đi đến tốt đẹp. Khi các vua ấy nói như vậy vua Chuyển luân cũng không nói rằng: “các ngài phải cống nạp cho ta suốt thời gian chừng ấy năm” mà cũng không tịch thu tài sản của vị này để ban cho vị kia. Nhưng sau khi suy xét các bất thiện nghiệp đạo như sát sanh v.v, bằng trí tuệ phù hợp với bản thể của vị minh vương, ngài đã thuyết giảng giáo pháp với âm giọng dễ thương, trìu mến theo phương thức như sau – “Hỡi các thần dân hãy nhìn, gọi là sát sanh này đây được thực hiện, được tu tập, được làm cho sung mãn, vận hành đưa đến địa ngục” rồi ban lời giáo huấn như sau: “không nên sát hại sinh mạng”. Với nhân đó ngài đã nói rằng: “Vua Chuyển Luân đã nói như vầy – không nên sát hại sinh mạng …nt…các ngươi hãy thọ thực như thông lệ.

kiṃ pana sabbepi rañño imaṃ ovādaṃ gaṇhantīti. Buddhassapi tāva sabbe na gaṇhanti, rañño kiṃ gaṇhissanti. Tasmā ye paṇḍitā vibhāvino, te gaṇhanti. Sabbe pana anuyantā bhavanti. Tasmā “ye kho pana, bhikkhave”tiādimāha.

Lại nữa, phải chăng các đức vua tiếp nhận lời giáo huấn của đức vua? Trước đó, các vị ấy không tiếp nhận (giáo huấn) dầu là của đức Phật, thì làm sao (có thể) tiếp nhận (giáo huấn) của các vị vua? Vì thế, những vị nào là bậc trí có sự rành rẽ, thì những vị ấy tiếp nhận. Hơn nữa, tất cả các vị vua đều phục tùng ngài. Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Này chư Tỳ khưu, trong số các địch vương”.

Atha taṃ cakkaratanaṃ evaṃ Pubbavidehavāsīnaṃ ovāde dinne katapātarāse[19] cakkavattībalena vehāsaṃ abbhuggantvā puratthimaṃ samuddaṃ ajjhogāhati. Yathā yathā ca taṃ ajjhogāhati, tathā tathā agadagandhaṃ ghāyitvā saṃkhittaphaṇo nāgarājā viya saṃkhittaūmivipphāraṃ hutvā ogacchamānaṃ mahāsamuddasalilaṃ yojanamattaṃ ogantvā antosamudde veḷuriyabhitti viya tiṭṭhati. Taṅkhaṇaññeva ca tassa rañño puññasiriṃ daṭṭhukāmāni viya mahāsamuddatale vippakiṇṇāni nānāratanāni tato tato āgantvā taṃ padesaṃ pūrayanti. Atha sā rājaparisā taṃ nānāratanaparipūraṃ mahāsamuddatalaṃ disvā yathāruci ucchaṅgādīhi ādiyati, yathāruci ādinnaratanāya pana parisāya taṃ cakkaratanaṃ paṭinivattati. Paṭinivattamāne ca tasmiṃ parisā aggato[20] hoti, majjhe rājā, ante cakkaratanaṃ. Tampi jalanidhijalaṃ palobhiyamānamiva cakkaratanasiriyā, asahamānamiva ca tena viyogaṃ, nemimaṇḍalapariyantaṃ abhihanantaṃ nirantarameva upagacchati.

Sau đó, bánh xe báu ấy trong lúc đức vua ban lời giáo huấn cho dân chúng thành Pubbavideha như vậy, sau khi thọ dụng điểm tâm sáng, thì bánh xe báu ấy cũng bay lên không trung nhờ sức mạnh của vua Chuyển Luân rồi tiến vào đại dương phía Đông vượt qua các cơn sóng rộng lớn giống như loài rồng chúa đã ngửi được mùi của loài rắn rồi phùng mang, bay trên mặt nước đại dương khoảng một do-tuần, đứng vững trong lòng đại dương trông giống như vách tường ngọc bích. Và chính trong khoảnh khắc đó nhiều loại báu vật khác tản mát ở bề mặt đại dương dường như mong muốn nhìn thấy phước báu vinh hiển của vị vua ấy xuất phát từ chỗ này chỗ nọ lấp đầy khu vực ấy. Lúc đó, sau khi hội chúng của đức vua nhìn thấy bề mặt đại dương tràn ngập nhiều loại châu báu khác nhau, đều lấy một vốc tùy theo ý thích. Hơn nữa, khi hội chúng đã lấy châu báu theo ý thích thì bánh xe báu ấy cũng quay trở lại. Và sau khi bánh xe báu ấy quay trở lại lần nữa thì hội chúng không thể di chuyển, đức vua ở chính giữa, còn bánh xe báu ở cuối. Thậm chí mặt nước biển ấy dường như bị cuốn hút bởi ánh sáng của bánh xe và dường như không thể thắng phục đã tách đôi từ bánh xe báu và liên tục lao đến vỗ vào vành bánh xe báu ấy.

 257. Evaṃ rājā cakkavattī puratthimasamuddapariyantaṃ Pubbavidehaṃ abhivijinitvā dakkhiṇasamuddapariyantaṃ Jambudīpaṃ vijetukāmo cakkaratanadesitena maggena dakkhiṇasamuddābhimukho gacchati. Tena vuttaṃ atha kho taṃ, bhikkhave, cakkaratanaṃ puratthimasamuddaṃ ajjhogāhetvā paccuttaritvā dakkhiṇaṃ disaṃ pavattatīti. Evaṃ pavattamānassa pana tassa pavattanavidhānaṃ senāsanniveso paṭirājagamanaṃ[21] tesaṃ anusāsanippadānaṃ dakkhiṇasamuddaṃ ajjhogāhanaṃ samuddasalilassa ogacchanaṃ ratanādānanti sabbaṃ purimanayeneva veditabbaṃ.

257. Như vậy, sau khi Vua Chuyển Luân chinh phục vùng đất Pubbavideha[22] có bờ biển phía Đông làm ranh giới, có ý muốn chinh phục Jambudīpa[23] có bờ biển phía Nam làm ranh giới hướng mắt đến bờ biển ở phía Nam theo con đường mà bánh xe báu chỉ dẫn. Bởi nhân ấy đức Thế Tôn đã nói rằng: “Sau đó, này chư Tỳ khưu, bánh xe báu ấy lặn xuống biển Đông rồi quay trở lên và chuyển vận về phương Nam.” Quy trình vận hành của bánh xe báu được vận hành như vậy, việc hội tụ của các quân lính, việc đi đến của các địch vương, việc ban lời giáo huấn đến các địch vương ấy, việc lặn xuống đại dương ở phương Nam, việc giữ lấy châu báu chảy đến theo dòng nước của đại dương này, toàn bộ (sự việc ấy) bậc trí nên hiểu theo chính phương thức trước.

Vijinitvā pana taṃ dasasahassayojanappamāṇaṃ Jambudīpaṃ dakkhiṇasamuddatopi paccuttaritvā sattayojanasahassappamāṇaṃ Aparagoyānaṃ vijetuṃ pubbe vuttanayeneva gantvā tampi samuddapariyantaṃ tatheva abhivijinitvā pacchimasamuddatopi paccuttaritvā aṭṭhayojanasahassappamāṇaṃ Uttarakuruṃ vijetuṃ tatheva gantvā tampi samuddapariyantaṃ tatheva abhivijiya uttarasamuddatopi paccuttarati.

Hơn nữa, sau khi chinh phục châu Jambudīpa (diện tích) khoảng mười ngàn do-tuần đã quay trở lại biển Nam ngài đã đi theo phương thức đã được nói trước; để chinh phục châu Aparagoyāna[24], (diện tích) khoảng bảy ngàn do-tuần, ngay cả châu đó cũng có bờ biển làm ranh giới như thế, ngài vượt qua từ biển Tây, ngài đã đi như thế; để chinh phục châu Uttarakuru[25] (diện tích) tám ngàn do-tuần, ngay cả châu đó cũng có bờ biển làm ranh giới tương tự, rồi ngài quay trở lại từ biển Bắc.

Ettāvatā raññā cakkavattinā cāturantāya pathaviyā ādhipaccaṃ adhigataṃ hoti. so evaṃ vijitavijayo attano rajjasirisampattidassanatthaṃ sapariso uddhaṃ gaganatalaṃ abhilaṅghitvā suvikasitapadumuppalapuṇḍarīkavanavicitte cattāro jātassare viya pañcasatapañcasataparittadīpaparivāre cattāro mahādīpe oloketvā cakkaratanadesiteneva maggena yathānukkamaṃ attano rājadhānimeva paccāgacchati. Atha taṃ cakkaratanaṃ antepuradvāraṃ sobhayamānaṃ viya hutvā tiṭṭhati.

Vua Chuyển Luân đạt đến quyền thống trị ở quả địa đất này có bốn biển làm ranh giới bằng cách như vậy. Vị ấy chiến thắng bằng sự chinh phục như vậy, có hội chúng để chỉ rõ đến sự thành tựu vương quyền của ngài, ngước lên nhìn bầu trời, ngắm nhìn bốn châu lớn có khoảng năm trăm đảo nhỏ xung quanh tương tự như bốn hồ nước tự nhiên tuyệt đẹp được tô điểm với nhiều loại hoa sen, hoa súng, hoa sen trắng đang hé nở như thế, đức vua đã quay trở về kinh thành của ngài theo tuần tự mà bánh xe báu đã chỉ dẫn. Vào thời điểm đó, bánh xe báu vững trú trông giống như được tô thêm vẻ đẹp cho cánh cửa hoàng cung.

Evaṃ patiṭṭhite pana tasmiṃ cakkaratane rājantepure ukkāhi vā dīpikāhi vā kiñci karaṇīyaṃ na hoti, cakkaratanobhāsoyeva rattiṃ andhakāraṃ vidhamati. ye ca pana rattiṃ andhakāratthikā honti, tesaṃ andhakārameva hoti. Tena vuttaṃ dakkhiṇasamuddaṃ ajjhogāhetvā … pe … evarūpaṃ cakkaratanaṃ pātubhavatīti.

Vả lại, khi bánh xe báu được vững trú như thế, các phận sự cần làm liên quan đến những ngọn đuốc, ngọn đèn, không cần thiết có trong hoàng cung; ánh sáng của bánh xe báu đã xua tan bóng tối của màn đêm, nhưng đối với những ai cần bóng tối, thì bóng tối ấy vẫn sẽ có đối với họ.” Vì thế ngài đã nói rằng: “đã lặn xuống biển Nam …nt… bánh xe báu bằng hình thức như thế xuất hiện cùng vị Chuyển Luân Vương.

Giải Thích về Voi Báu

258. Evaṃ pātubhūtacakkaratanassa panassa cakkavattino amaccā pakatimaṅgalahatthiṭṭhānaṃ sucibhūmibhāgaṃ kāretvā haricandanādīhi surabhigandhehi upalimpāpetvā heṭṭhā vicittavaṇṇasurabhikusumasamākiṇṇaṃ upari suvaṇṇatārakānaṃ antarantarā samosaritamanuñña-kusumadāmappaṭimaṇḍitavitānaṃ devavimānaṃ viya abhisaṅkharitvā “evarūpassa nāma deva hatthiratanassa āgamanaṃ cintethā”ti vadanti. So pubbe vuttanayeneva mahādānaṃ datvā sīlāni samādāya taṃ puññasampattiṃ āvajjanto nisīdati, athassa puññānubhāvacodito Chaddantakulā vā Uposathakulā vā taṃ sakkāravisesaṃ anubhavitukāmo taruṇaravimaṇḍalābhirattacaraṇa-gīvamukhappaṭimaṇḍitavisuddhasetasarīro sattappatiṭṭho susaṇṭhitaṅgapaccaṅgasanniveso vikasitaratta-padumacārupokkharo iddhimā yogī viya vehāsaṃ gamanasamattho manosilācuṇṇarañjitapariyanto viya rajatapabbato hatthiseṭṭho tasmiṃ padese patiṭṭhāti. So Chaddantakulā āgacchanto sabbakaniṭṭho āgacchati, Uposathakulā sabbajeṭṭho. pāḷiyaṃ pana “Uposatho nāgarājā” icceva āgacchati. Svāyaṃ pūritacakkavattivattānaṃ cakkavattīnaṃ[26] sutte vuttanayeneva cintayantānaṃ āgacchati, na itaresaṃ. Sayameva pakatimaṅgalahatthiṭṭhānaṃ āgantvā maṅgalahatthiṃ apanetvā tattha tiṭṭhati. Tena vuttaṃ puna caparaṃ, bhikkhave … pe … nāgarājāti.

258. Hơn nữa, đại thần cố vấn của vua Chuyển luân xuất hiện như vậy, truyền lệnh dọn vệ sinh khu vực thuộc chỗ ở của voi Maṅgala theo thường lệ, cho xoa bóp với hương thơm ngát gồm gỗ đàn hương đỏ v.v, bên dưới cho trải đầy các loại hoa thơm có nhiều màu sắc, ở phía trên được trang trí bằng những ngôi sao vàng, có màn che được trang trí với nhiều loại bông hoa làm cho thỏa mãn được gom lại tạo thành tràng hoa ở chính giữa ngôi sao vàng, được trang trí xinh đẹp tựa như thiên cung, rồi nói rằng: “Tâu bệ hạ, xin ngài hãy suy nghĩ việc đi đến của voi báu có hình thức như thế.” Vị ấy đã bố thí những phẩm vật lớn lao, thọ trì giới hạnh, ngồi suy tư đến sự thành tựu của phước báu theo phương thức đã nói trước đó, sau đó một con voi cao quý do uy lực phước báu vua Chuyển luân được cho báo trước, mong muốn thọ hưởng sự cung kính đặc biệt ấy, từ dòng giống voi Chaddanta hoặc từ dòng giống voi Uposatha có thân hình trắng ngần, có môi, cổ, và khuôn mặt đỏ ửng tựa như mặt trời lúc bình minh, có bảy chi phần[27] chạm lên bề mặt quả đất, các chi phần lớn nhỏ được đặt cân xứng, có phần cuối của vòi màu đỏ xinh đẹp tựa như hoa sen đỏ đang hé nụ có thể bay lượn trong hư không như một hành giả có thần thông, là con voi cao quý nhất tựa như ngọn núi bạc có phần đỉnh được thoa bột manosilā đã đến ở tại nơi đó. Con voi cao quý đó trong khi đến từ dòng giống Chaddanta là con voi trẻ nhất (trong số) tất cả các con voi đi đến, dòng giống Uposatha cũng cao quý hơn tất cả loài voi. Nhưng trong Pāḷī trình bày rằng: đi đến trong tướng trạng “Long tượng gọi là Uposatha”. Khi vua Chuyển luân thực hành phận sự của vị ấy viên mãn đã suy tư theo cách thức đã được trình bày trong chính bài Kinh này. Long tượng Uposatha đi đến không phải vì những người khác, Sau khi đến chuồng voi Maṅgala đã đuổi voi ấy ra khỏi rồi đi vào thay thế hoàn toàn trong chuồng voi đó bởi chính mình. Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: Và lại nữa, này các Tỳ khưu, voi báu thuộc dòng giống Long tượng Uposatha…nt…xuất hiện cho vua Chuyển luân.

Evaṃ pātubhūtaṃ pana taṃ hatthiratanaṃ disvā hatthigopakādayo haṭṭhatuṭṭhā vegena gantvā rañño ārocenti. Rājā turitaturitaṃ āgantvā taṃ disvā pasannacitto “bhaddakaṃ vata bho hatthiyānaṃ, sace damathaṃ upeyyā”ti cintayanto hatthaṃ pasāreti. Atha so gharadhenuvacchako viya kaṇṇe olambetvā sūratabhāvaṃ[28] dassento rājānaṃ upasaṅkamati, rājā taṃ abhiruhitukāmo hoti. Athassa parijanā adhippāyaṃ ñatvā taṃ hatthiratanaṃ sovaṇṇaddhajaṃ sovaṇṇālaṅkāraṃ hemajālapaṭicchannaṃ katvā upanenti. Rājā taṃ anisīdāpetvāva[29] sattaratanamayāya nisseṇiyā abhiruyha ākāsaṃ gamananinnacitto hoti. Tassa saha cittuppādeneva so hatthirājā rājahaṃso viya indanīlamaṇippabhājālanīlagaganatalaṃ abhilaṅghati, tato cakkacārikāya vuttanayeneva sakalarājaparisā. iti sapariso rājā antopātarāseyeva sakalapathaviṃ anusaṃyāyitvā rājadhāniṃ paccāgacchati, evaṃ mahiddhikaṃ cakkavattino hatthiratanaṃ hoti. Tena vuttaṃ disvāna rañño cakkavattissa … pe … evarūpaṃ hatthiratanaṃ pātubhavatīti.

Hơn nữa người quản tượng v.v, sau khi nhìn thấy voi báu ấy xuất hiện ai cũng vui mừng hớn hở, ngay tức khắc đi trình báo cho đức vua biết, đức vua đã đến một cách nhanh chóng khi nhìn thấy đã sanh lòng yêu quý, khởi lên suy nghĩ như sau: “Này khanh! phương tiện di chuyển là voi thật tốt đẹp, nếu nó hoàn thành việc rèn luyện” rồi đưa cánh tay ra. Lúc ấy Long tượng vểnh tai lên như con bê theo bò mẹ trong làng để thể hiện tính chất tự thân là loài dũng mãnh mới đi đến gặp vua. Ngài có ý muốn ngồi trên lưng voi báu ấy. Khi đó, sau khi biết được biết được ý định của vua những người hầu cận của ngài đã trang trí voi báu ấy bằng cờ vàng, những đồ trang sức bằng vàng, phủ tấm lưới vàng rồi mang đến dâng lên vua. Đức vua đã khiến con voi hạ mình xuống, (rồi) bước lên (mình voi) bằng bậc thang được hoàn thành bằng 7 loại châu báu, có ý định đi trong hư không. Cùng với chính suy nghĩ của vua Chuyển luân, Long tượng đã đưa ngài khỏi mặt đất lên bầu trời xinh đẹp với tấm lưới vàng, chói sáng nhờ ánh sáng của ngọc bích và ngọc ma-ni như loài thiên nga chúa. Từ đó hội chúng của đức vua toàn bộ cũng đi theo theo cách thức đã được trình bày trong việc di chuyển của bánh xe báu. Đức vua cùng với hội chúng du hành khắp toàn bộ quả địa cầu rồi trở về kinh đô kịp thời gian thọ dụng điểm tâm sáng. Voi báu của vua Chuyển luân, có nhiều thần lực như vậy. Vì thế đức Thế Tôn đã nói rằng: “Vua Chuyển luân sau khi nhìn thấy…nt…xuất hiện cho vua Chuyển luân”.

Giải Thích về Ngựa Báu

Evaṃ pātubhūtahatthiratanassa pana cakkavattino parisā pakatimaṅgalāssaṭṭhānaṃ sucisamatalaṃ kāretvā alaṅkaritvā ca purimanayeneva rañño tassa āgamanacintanatthaṃ ussāhaṃ janenti. So purimanayeneva katadānasakkāro samādinnasīlova pāsādatale nisinno puññasampattiṃ samanussarati, athassa puññānubhāvacodito sindhavakulato vijjullatāvinaddha-saradakāla[30] setavalāhakarāsisassiriko rattapādo rattatuṇḍo candappabhāpuñjasadisasuddhasiniddhaghanasaṅghātasarīro kākagīvā viya indanīlamaṇi viya ca kāḷavaṇṇena sīsena samannāgatattā kāḷasīso suṭṭhu kappetvā ṭhapitehi viya muñjasadisehi saṇhavaṭṭaujugatigatehi kesehi samannāgatattā muñjakeso vehāsaṅgamo valāhako nāma assarājā āgantvā tasmiṃ ṭhāne patiṭṭhāti. Sesaṃ sabbaṃ hatthiratane vuttanayeneva veditabbaṃ. Evarūpaṃ assaratanaṃ sandhāya Bhagavā puna caparantiādimāha.

Hơn nữa, hội chúng của vua Chuyển luân có ngựa báu đã xuất hiện như vậy, đã dọn dẹp và trang trí chuồng ngựa Maṅgala như thường lệ, làm cho mặt đất sạch sẽ, bằng phẳng, khiến sự gắng sức khởi lên cùng đức vua để suy nghĩ việc đến của ngựa báu ấy theo cách thức trước đó. Vị ấy có sự tôn kính hướng đến sự bố thí đã được thực hiện theo cách thức trước, thọ trì giới hạnh, ngồi một cách an lạc ở tầng trên của tòa lâu đài để hồi tưởng lại sự thành tựu phước báu. Khi ấy, ngựa chúa tên là Valāhaka thuộc dòng giống Sindhava nhờ oai lực phước báu của đức vua đánh thức, có màu tro nhạt tựa như áng mây trắng vào vào mùa thu được bao quanh với những tia chớp, có bàn chân màu đỏ, có móng màu đỏ, có thân hình mạnh mẽ, sạch sẽ, trơn bóng tựa như khối ánh sáng của mặt trăng; đầu có màu đen do có tính chất hội đủ bởi cái đầu có màu đen trông giống như cổ quạ và trông giống như màu ngọc bích; có sợi lông như cỏ muñja do có tính chất lông mềm mịn, tròn và thẳng giống như cỏ muñja đã được sắp đặt tỉ mỉ theo thứ tự; có thể di chuyển trong hư không là ngựa chúa tên Valāhaka đã đi đến trú ngụ ở tại nơi đó. Những từ còn lại nên hiểu theo phương thức đã được trình bày trong phần ‘voi báu’. Liên quan đến ‘ngựa báu’ có hình thức như vậy đức Thế Tôn mới nói lời như sau: “Lại nữa, này các tỳ khưu…

Giải Thích về Ngọc Ma-ni Báu

Evaṃ pātubhūtāssaratanassa pana rañño cakkavattissa catuhatthāyāmaṃ sakaṭanābhisamappamāṇaṃ ubhosu antesu kaṇṇikapariyantato viniggatasuparisuddhamuttākalāpehi dvīhi kañcanapadumehi alaṅkataṃ caturāsītimaṇisahassaparivāraṃ tārāgaṇaparivutassa puṇṇacandassa siriṃ paṭippharamānaṃ viya vepullapabbatato maṇiratanaṃ āgacchati. Tassevaṃ āgatassa muttājālake ṭhapetvā veḷuparamparāya saṭṭhihatthappamāṇaṃ ākāsaṃ āropitassa rattibhāge samantā yojanappamāṇaṃ okāsaṃ ābhā pharati, yāya sabbo so okāso aruṇuggamanavelā viya sañjātāloko hoti. Tato kassakā kasikammaṃ, vāṇijā āpaṇugghāṭanaṃ, te te ca sippino taṃ taṃ kammantaṃ payojenti divāti maññamānā. Tena vuttaṃ puna caparaṃ, bhikkhave … pe … maṇiratanaṃ pātubhavatīti.

Hơn nữa, ngọc ma-ni báu từ đỉnh núi Vepulla dài 4 cánh tay, có hình dáng xinh đẹp, được trang trí bằng vàng và hoa sen ở hai bên, có cánh hoa bằng ngọc trai tinh khiết phát ra ở hai khối, ở cả hai bên có tám mươi bốn ngàn viên ngọc ma-ni xung quanh y như đang lan tỏa (ánh sáng) chạm đến vầng hào quang của ánh trăng rằm được bao quanh với những vì tinh tú cũng đến cho vua Chuyển Luân có ‘ngựa báu’ đã hiện ra như vậy. Khi ngọc ma-ni đến như vậy vị ấy, mọi người đã đặt vào tấm lưới ngọc trai rồi  nâng lên không trung cao khoảng mười sáu cánh tay bằng đầu ngọn cây tre, ánh sáng biến mãn ở xung quanh không trung khoảng một do-tuần vào ban đêm, đó là nguyên nhân khiến toàn bộ không trung phát ra ánh sáng tương tợ như (ánh sáng) lúc bình minh. Khi đó những người nông phu thì canh tác, những người thương buôn thì buôn bán, những người thợ thủ công thì làm việc này việc nọ, (họ) đều nghĩ rằng: ‘là ban ngày’. Vì thế đức Thế Tôn mới nói rằng: “Còn có điều khác nữa, này chư tỳ khưu …nt… ngọc ma-ni báu có hình thức như vậy xuất hiện cùng vua Chuyển Luân.

Giải Thích về Nữ Nhân Báu

Evaṃ pātubhūtamaṇiratanassa pana cakkavattissa visayasukhavisesakāraṇaṃ itthiratanaṃ pātubhavati. Maddarājakulato vā hissa aggamahesiṃ ānenti, Uttarakuruto vā puññānubhāvena sayaṃ āgacchati. Avasesā panassā sampatti “puna caparaṃ, bhikkhave, rañño cakkavattissa itthiratanaṃ pātubhavati abhirūpā dassanīyā”tiādinā nayena pāḷiyaṃyeva āgatā.

Hơn nữa nữ nhân báu có lý do đặc biệt hiện ra cho đức vua Chuyển Luân, vị hưởng thụ sự an lạc đặc biệt có ngọc ma-ni báu đã hiện ra như vậy. Các thân quyến đưa nữ nhân báu ấy từ dòng tộc Maddarāja đến làm hoàng hậu của vua Chuyển Luân, hoặc tự mình đi đến từ châu Uttarakuru nhờ vào năng lực phước báu. Sự thành tựu những ưu điểm còn lại của hoàng hậu toàn bộ được trình bày trong Chánh Tạng theo phương thức sau: ‘Còn có điều khác nữa, này Ānanda, nữ nhân báu đã hiện ra cho đức vua Chuyển Luân, có vóc dáng đẹp, đáng nhìn…

Tattha saṇṭhānapāripūriyā adhikaṃ rūpaṃ assāti abhirūpā. Dissamānā ca cakkhūni pīṇayati, tasmā aññaṃ kiccavikkhepaṃ hitvāpi daṭṭhabbāti dassanīyā. Dissamānā ca somanassavasena cittaṃ pasādetīti pāsādikā. Paramāyāti evaṃ pasādāvahattā uttamāya. Vaṇṇapokkharatāyāti vaṇṇasundaratāya. Samannāgatāti upetā. Abhirūpā vā yasmā nātidīghā nātirassā dassanīyā yasmā nātikisā nātithūlā, pāsādikā yasmā nātikāḷikā naccodātā. Paramāya vaṇṇapokkharatāya samannāgatā yasmā atikkantā mānusaṃ vaṇṇaṃ appattā dibbavaṇṇaṃ. Manussānañhi vaṇṇābhā bahi na niccharati, devānaṃ atidūraṃ niccharati, tassā pana dvādasahatthappamāṇaṃ padesaṃ sarīrābhā obhāseti.

Ở đây, có vóc dáng xinh đẹp bởi vì có vóc dáng tuyệt đẹp do sự hoàn hảo về hình tướng. Và (gọi là) đáng nhìn bởi đáng để ngắm nhìn, thậm chí phải gác lại công việc khác. Dễ mến vì khi nhìn thì tâm được tịnh tín do mãnh lực của thọ hỷ. Tuyệt vời: cao quý vì đem lại sự tịnh tín như vậy. Sắc vóc và tướng mạo (tuyệt vời): vì có màu da tuyệt đẹp. Được thành tựu: đạt đến. Hơn nữa, có vóc dáng xinh đẹp do không quá cao, không quá thấp. Đáng nhìn do không quá ốm, không quá mập. Dễ mến do không quá đen, không quá trắng. Được thành tựu sắc vóc và tướng mạo tuyệt vời do vượt trội sắc đẹp của loài người, tuy nhiên vẫn chưa đạt đến sắc đẹp của cõi Trời. Thật vậy, màu da của loài người không có hào quang phóng ra bên ngoài, còn màu da của các Thiên nhân phóng ra bên ngoài, thậm chí (phóng ra) xa. Tuy nhiên hào quang từ sắc thân của nữ nhân báu ấy tỏa ra (có thể) làm chói sáng một khu vực khoảng 12 cánh tay.

Nātidīghādīsu cassā paṭhamayugaḷena ārohasampatti, dutiyayugaḷena pariṇāhasampatti, tatiyayugaḷena vaṇṇasampatti vuttā. Chahi vāpi etehi kāyavipattiyā abhāvo, atikkantā mānusaṃ vaṇṇanti iminā kāyasampatti vuttā.

Không quá cao v.v, của nữ nhân báu ấy đã được nói rằng: sự thành tựu là chiều cao với sự thành tựu đôi thứ nhất, sự thành tựu là kích thước với sự thành tựu đôi thứ hai, sự thành tựu là sắc vóc với sự thành tựu đôi thứ ba. Và hơn nữa, với 6 sự thành tựu này hoàng hậu không có bất kỳ khiếm khuyết gì về thân, sự thành tựu về sắc thân được nói như sau: vượt trội sắc đẹp của loài người.

Tūlapicuno vā kappāsapicuno vāti sappimaṇḍe pakkhipitvā ṭhapitassa satavihatassa tūlapicuno vā satavihatassa kappāsapicuno vā kāyasamphasso hoti. Sīteti rañño sītakāle. Uṇheti rañño uṇhakāle. Candanagandhoti niccakālameva supisitassa abhinavassa catujjātisamāyojitassa haricandanassa gandho kāyato vāyati. Uppalagandhoti hasitakathitakālesu mukhato nikkhanto taṅkhaṇaṃ vikasitasseva nīluppalassa atisurabhigandho vāyati.

Xúc chạm (êm ái) như chùm bông vải hoặc chùm bông gòn: có sự xúc chạm ở thân tương tợ như thể chạm vào chùm bông vải hoặc chùm bông gòn được đặt vào đề hồ rồi giũ bỏ một trăm lần. Ấm khi thời tiết lạnh: ấm áp khi đức vua lạnh. mát khi thời tiết nóng: mát mẻ khi đức vua nóng. (Từ thân tỏa ra) hương thơm của gỗ đàn hương: hương thơm của gỗ đàn hương đỏ hòa trộn với bốn giống (khác) vẫn còn tươi, nghiền thật mịn, lưu liên tục (sẽ) tỏa ra từ thân. (Từ miệng tỏa ra) hương thơm của hoa sen: mùi hương cực thơm của hoa sen xanh vào thời điểm đang hé nở, từ miệng tỏa ra (hương thơm) trong lúc cười hoặc nói.

Evaṃ rūpasamphassagandhasampattiyuttāya[32] panassā sarīrasampattiyā anurūpaṃ ācāraṃ dassetuṃ taṃ kho panātiādi vuttaṃ. Tattha rājānaṃ disvā nisinnāsanato aggidaḍḍhā viya paṭhamameva uṭṭhātīti pubbuṭṭhāyinī. Tasmiṃ nisinne tassa rañño tālavaṇṭena bījanādikiccaṃ katvā pacchā nipatati nisīdatīti pacchānipātinī. Kiṃ karomi devāti tassa kiṃkāraṃ paṭissāvetīti kiṃkārapaṭissāvinī. Rañño manāpameva carati karotīti manāpacārinī. Yaṃ rañño piyaṃ, tadeva vadatīti piyavādinī.

Để miêu tả các cách cư xử phù hợp với sự thành tựu ở sắc thân của nữ nhân báu liên quan với sự thành về xúc chạm và sự thành tựu hương thơm như vậy nên mới nói rằng: “Hơn nữa, nữ nhân báu ấy…” Trong các cách cư xử ấy, đứng dậy tiếp đón trước (thức dậy trước): sau khi nhìn thấy đức vua, ngay lập tức từ chỗ ngồi (nữ nhân báu) đã đứng dậy trước trông như thể bị lửa thiêu đốt. Ngồi xuống sau (nằm ngủ sau): khi đức vua đã ngồi xuống (nữ nhân báu) phải làm các bổn phận như dâng lên cây quạt lá cọ cho vị ấy rồi mới nghỉ ngơi, tức là ngồi xuống sau. Chờ nghe mệnh lệnh: (nữ nhân báu) sốt sắng trong công việc cần làm bằng lời nói rằng: “Tâu bệ hạ, thần thiếp sẽ phải làm gì cho ngài?”. Cư xử làm hài lòng: (nữ nhân báu) luôn hành xử và làm những điều khiến cho đức vua hài lòng. Lời nói đáng yêu: (nữ nhân báu) chỉ nói những lời nói đáng yêu đối với đức vua.

Idāni svāssā ācāro bhāvasuddhiyā eva, na sāṭheyyenāti dassetuṃ taṃ kho panātiādimāha. Tattha no aticaratīti na atikkamitvā carati, aññaṃ purisaṃ cittenapi na patthetīti vuttaṃ hoti. tattha ye tassā ādimhi “abhirūpā”tiādayo ante “pubbuṭṭhāyinī”tiādayo guṇā vuttā, te pakatiguṇā eva “atikkantā mānusaṃ vaṇṇan”tiādayo pana cakkavattino puññaṃ upanissāya cakkaratanapātubhāvato paṭṭhāya purimakammānubhāvena nibbattantīti veditabbā. Abhirūpatādikāpi vā cakkaratanapātubhāvato paṭṭhāya sabbākārapāripūrā jātā. Tenāha evarūpaṃ itthiratanaṃ pātubhavatīti.

Bây giờ, để thuyết giảng rằng: “Cách hành xử của nữ nhân báu này đây hoàn toàn trong sạch, không có sự phản bội,” nên đã nói rằng: “Hơn nữa, nữ nhân báu ấy…” Trong câu đó, không có sự bất chính: không hành xử vượt quá giới hạn, (điều này) được nói là không mong mỏi, thậm chí với tâm suy nghĩ người đàn ông khác ngoài đức vua. Trong câu đó, ưu điểm nào của nữ nhân ấy được nói rằng “có vóc dáng xinh đẹp” v.v, ở phần đầu; và nói rằng: “đứng dậy tiếp đón trước” ở phần sau thì những ưu điểm ấy chỉ là những ưu điểm thông thường. Còn “vượt trội sắc đẹp của loài người” nên hiểu rằng: đã hóa sanh nhờ năng lực của nghiệp cũ kể từ khi bánh xe báu hiện ra do bởi nương vào phước của vua Chuyển Luân. Hoặc, sự thành tựu “có vóc dáng xinh đẹp, v.v,” đã sanh khởi tròn đủ với mọi biểu hiện kể từ khi bánh xe báu hiện ra. Vì thế, đức Thế Tôn đã nói như sau: “Nữ nhân báu có hình thức như vậy đã hiện ra…

Giải Thích về Gia Chủ Báu

Evaṃ pātubhūtaitthiratanassa pana rañño cakkavattissa dhanakaraṇīyānaṃ kiccānaṃ yathāsukhappavattanatthaṃ gahapatiratanaṃ pātubhavati. So pakatiyāva mahābhogo mahābhogakule jāto rañño dhanarāsivaḍḍhako seṭṭhi gahapati hoti, cakkaratanānubhāvasahitaṃ panassa kammavipākajaṃ dibbacakkhu pātubhavati, yena antopathaviyaṃ yojanabbhantare nidhiṃ passati. So taṃ sampattiṃ disvā tuṭṭhahadayo[33] gantvā rājānaṃ dhanena pavāretvā sabbāni dhanakaraṇīyāni sampādeti. Tena vuttaṃ puna caparaṃ, bhikkhave … pe … evarūpaṃ gahapatiratanaṃ pātubhavatīti.

Hơn nữa, gia chủ báu hiện ra nhằm mục đích vận hành các việc cần phải làm bằng của cải được thuận lợi cho vua Chuyển Luân vị có nữ nhân báu đã xuất hiện như vậy. Vị ấy vốn dĩ có rất nhiều tài sản, được sanh ra trong gia đình đại phú. Giàu có bởi khối tài sản của đức vua là vị trưởng giả. Thêm nữa, Thiên nhãn do quả thành tựu của nghiệp được hiện ra hòa hợp với oai lực của bánh xe báu, nhờ nó vị ấy nhìn thấy các của cải chôn giấu bên dưới lòng đất trong bán kính một do-tuần, sau khi nhìn thấy sự thành tựu ấy vị ấy khởi tâm hoan hỷ đã yêu cầu để tiếp nhận làm các việc cần phải làm với tài sản của đức vua được hoàn tất. Ngay cả gia chủ báu của đức vua Mahāsudassana cũng làm việc cần phải làm được hoàn tất tương tự như thế. Do đó, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Và lại nữa, này chư Tỳ khưu…nt…gia chủ báu có hình thức như vậy đã hiện ra.”

Giải Thích về Tướng Quân Báu

Evaṃ pātubhūtagahapatiratanassa pana rañño cakkavattissa sabbakiccasaṃvidhānasamatthaṃ pariṇāyakaratanaṃ pātubhavati. So rañño jeṭṭhaputtova hoti. Pakatiyā eva paṇḍito byatto medhāvī, rañño puññānubhāvaṃ nissāya panassa attano kammānubhāvena paracittañāṇaṃ uppajjati. Yena dvādasayojanāya rājaparisāya cittavāraṃ[34] ñatvā rañño ahite hite ca vavatthapetuṃ samattho hoti. Sopi taṃ attano ānubhāvaṃ disvā tuṭṭhahadayo rājānaṃ sabbakiccānusāsanena[35] pavāreti. Tena vuttaṃ puna caparaṃ … pe … pariṇāyakaratanaṃ pātubhavatīti. Tattha ṭhapetabbaṃ ṭhapetunti tasmiṃ tasmiṃ ṭhānantare ṭhapetabbaṃ ṭhapetuṃ.

Lại nữa, tướng quân báu có thể sắp xếp mọi việc xuất hiện cho vua Chuyển Luân có gia chủ báu đã xuất hiện như vậy. Vị ấy chính là con trai trưởng của vua Chuyển Luân. Đúng như bản chất tự nhiên vị ấy là vị sáng suốt, có kinh nghiệm, thông minh, có sự rành rẽ. Hơn nữa, có tuệ y cứ năng lực phước báu của đức vua (mà) đạt đến tha tâm thông bởi năng lực nghiệp của bản thân. Nhờ nó vị ấy biết được trình độ tâm của đoàn tùy tùng của đức vua trong phạm vi mười hai do-tuần có thể dàn xếp những điều vô ích và hữu ích cho đức vua. Thậm chí vi ấy sau khi nhìn thấy oai lực của mình khởi tâm hoan hỷ, đã đưa ra lời thỉnh cầu đức vua để quản lý mọi việc. Vì thế, đức Thế Tôn mới nói rằng: “Này chư Tỳ khưu, vẫn còn nữa…nt…tướng quân báu hiện ra cho vua Chuyển Luân.” Ở đấy, ban tước vị cho người xứng đáng được ban: để ban tước vị cho vị cho người xứng đáng được đặt vào vị trí đó. 

259. samavepākiniyātiādi heṭṭhā vuttameva.

259. Thường xuyên tiêu hóa vật thực v.v, ngài đã nói ở phần sau.

260. Kaṭaggahenāti jayaggāhena. Mahantaṃ bhogakkhandhanti ekappahāreneva dve vā tīṇi vā satasahassāni. Kevalā paripūrā paṇḍitabhūmīti paṇḍito tīṇi sucaritāni pūretvā sagge nibbattati, tato manussalokaṃ āgacchanto kularūpabhogasampattiyaṃ nibbattati, tattha ṭhito tīṇi ca sucaritāni pūretvā puna sagge nibbattatīti ayaṃ sakalā paripuṇṇā paṇḍitabhūmi. sesaṃ sabbattha uttānamevāti.

260. Do sự may mắn: do đã nắm lấy phần thắng. Vô số của cải tài sản: có thể có được tiền hai hoặc ba trăm ngàn chỉ nhờ vào một lần nắm lấy phần thắng. địa vức hoàn toàn viên mãn của bậc trí: bậc trí thực hành 3 thiện hạnh được hóa sanh vào thiên giới, từ đó khi trở lại nhân giới được sanh vào chỗ có sự đầy đủ trọn vẹn ở gia đình, hình tướng và tài sản được vững trú trong sự thành tựu ấy, thực hành 3 thiện ấy trọn vẹn lại tiếp tục hóa sanh vào thiên giới. Theo lời giải thích này nên mới xếp vào địa vức hoàn toàn viên mãn của bậc trí. Từ còn lại ở các câu đều đơn giản.

Giải Thích Kinh Bậc Trí và Kẻ Ngu Kết Thúc.


[1] Sī. Syā. – Caritāpadānānīti

[2] Ka. – ullihitvā

[3] Ka. – Pakkhapādoti

[4] Ka. – attanopi bandhaṃ gaccheyya

[5] Ka. – alaṅkaramānaṃ

[6] Sī. Syā. – pañcaṅgikassa tūriyassa

[7] Ka. avahasantā

[8] Sī. Ka. – kassaññassa

[9]  Ka. pavatteti

[10] Ka. – pattavidhāne

[11] Ka. – pavattividhāne kātabbaṃ

[12] Ka. – chattacāmarihattho

[13] Ka. – vividhasaṃhāraṇappabhāsamujjalitena

[14] Ka. – kāyālaṅkārena

[15] Cha. Ma. – cakkaratanaṃ nibbattaṃ

[16] Vijjādharapurisā, su.vi. 2/244/230

[17] Ka. – vibhavaṃ

[18] Sī. – paṇatasirā

[19] Sī.,Ka. – katapātarāso

[20] Syā: purato

[21] paṭirājāgamanaṃ su.vi. 2/245/233 

[22] Đông thắng thần châu

[23] Nam thiệm bộ châu

[24] Tây ngưu hóa châu

[25] Bắc cu lu châu

[26] Ka. – cakkavattisutte

[27] gồm đuôi, ngà, vòi, và cả bốn chân

[28] Ka. – mudutabhāvaṃ

[29] Syā. – asannisīdāpetvā, Ka. – sannisīdāpetvāva

[30] Sī. Ka. – vijjullatāvinaddha-saradakāle

[31] 4 giống là cây nghệ tây, trầm hương, kỳ nam, và cây đinh hương

[32] Sī. – evarūpa…

[33] Ka. – Tuṭṭhamānaso

[34] Syā. cittācāraṃ

[35] Syā. Ka. – Sabbakiccānusārena