Kinh số 127 – Giải Thích Kinh Anuruddha
(Anuruddhasuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Anuruddha
230. Evamme sutanti Anuruddhasuttaṃ. Tattha evamāhaṃsūti tassa upāsakassa aphāsukakālo ahosi, tadā upasaṅkamitvā evamāhaṃsu. Apaṇṇakanti avirādhitaṃ. Ekatthāti appamāṇāti vā mahaggatāti vā jhānameva cittekaggatāyeva evaṃ vuccatīti imaṃ sandhāya evamāha..
230. Kinh Anuruddha được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, đã nói như vậy: sau khi đến vào thời gian thiện nam ấy không khỏe đã nói như vậy. Chính xác: không sai lệch. Chung một ý nghĩa: gồm cả sự giải thoát của tâm không thể ước lượng hoặc sự giải thoát của tâm là Đáo đại, ngài đề cập đến lời này rằng thiền-jhāna cũng gọi như thế bởi tính chất chuyên nhất của tâm.
231. Yāvatā ekaṃ rukkhamūlaṃ mahaggatanti pharitvā adhimuccitvā viharatīti ekarukkhamūlapamāṇaṭṭhānaṃ kasiṇanimittena ottharitvā tasmiṃ kasiṇanimitte mahaggatajjhānaṃ pharitvā adhimuccitvā viharati. Mahaggatanti panassa ābhogo natthi, kevalaṃ mahaggatajjhānapavattivasena panetaṃ vuttaṃ. Esa nayo sabbattha. Iminā kho etaṃ gahapati pariyāyenāti iminā kāraṇena. Ettha hi appamāṇāti vuttānaṃ brahmavihārānaṃ nimittaṃ na vaḍḍhati, ugghāṭanaṃ na jāyati, tāni jhānāni abhiññānaṃ vā nirodhassa vā pādakāni na honti, vipassanāpādakāni pana vaṭṭapādakāni bhavokkamanāni ca honti. “mahaggatā”ti vuttānaṃ pana kasiṇajjhānānaṃ nimittaṃ vaḍḍhati, ugghāṭanaṃ jāyati, samatikkamā honti, abhiññāpādakāni nirodhapādakāni vaṭṭapādakāni bhavokkamanāni ca honti. evamime dhammā nānatthā, appamāṇā mahaggatāti evaṃ nānābyañjanā ca.
231. Cho đến một gốc cây, an trú, biến mãn và thấm nhuần lớn cho đến như vậy (trong khi hành thiền): an trú hướng tâm, biến mãn đến thiền Đáo Đại trong hiện tướng kasiṇa che phủ một gốc cây làm nơi để ước chừng với hiện tướng kasiṇa. Tâm Đáo Đại: sự trói buộc tâm không có nơi vị Tỳ khưu ấy, ngài mới nói câu này hoàn toàn do tác động của sự vận hành của thiền Đáo Đại. Trong toàn bộ câu cũng có phương thức này. Do vậy, này gia chủ, đây cần phải hiểu đúng với pháp môn này: với lý do này. Trong câu này lý giải như sau, hiện tướng của các Phạm trú được ngài nói là Vô Lượng hẳn không thích hợp, là vẫn chưa biến mãn và cả các thiền ấy vẫn chưa làm nền tảng của thần thông hoặc thiền diệt, nhưng làm nền tảng của Minh sát, và cả làm nền tảng của luân hồi và là việc bước đến các hữu. Nhưng hiện tướng của thiền làm kasiṇa mà ngài nói là “đáo đại” phù hợp là khởi lên sự biến mãn và (có thể) vượt qua, thiền làm nền tảng của thần thông (và) cũng làm nền tảng của thiền diệt, (và) cũng làm nên tảng luân hồi, (và) cả vượt qua các hữu. Các pháp này có ý nghĩa khác biệt như vậy và có văn tự khác nhau như thế, là Vô Lượng và là Đáo Đại.
232. Idāni mahaggatasamāpattito nīharitvā bhavūpapattikāraṇaṃ dassento catasso kho imātiādimāha. Parittābhāti pharitvā jānantassa ayamābhogo atthi, parittābhesu pana devesu nibbattikāraṇaṃ jhānaṃ bhāvento evaṃ vutto. Esa nayo sabbattha. Parittābhā siyā saṃkiliṭṭhābhā honti siyā parisuddhābhā, appamāṇābhā siyā saṃkiliṭṭhābhā honti siyā parisuddhābhā. Kathaṃ? Suppamatte vā sarāvamatte vā kasiṇaparikammaṃ katvā samāpattiṃ nibbattetvā pañcahākārehi āciṇṇavasibhāvo paccanīkadhammānaṃ suṭṭhu aparisodhitattā dubbalameva samāpattiṃ vaḷañjitvā appaguṇajjhāne ṭhito kālaṃ katvā parittābhesu nibbattati, vaṇṇo panassa paritto ceva hoti saṃkiliṭṭho ca. Pañcahi panākārehi āciṇṇavasibhāvo paccanīkadhammānaṃ suṭṭhu parisodhitattā suvisuddhaṃ samāpattiṃ vaḷañjitvā paguṇajjhāne ṭhito kālaṃ katvā parittābhesu nibbattati, vaṇṇo panassa paritto ceva hoti parisuddho ca. Evaṃ parittābhā siyā saṃkiliṭṭhābhā honti siyā parisuddhābhā. Kasiṇe pana vipulaparikammaṃ katvā samāpattiṃ nibbattetvā pañcahākārehi āciṇṇavasibhāvoti sabbaṃ purimasadisameva veditabbaṃ. evaṃ appamāṇābhā siyā saṃkiliṭṭhābhā honti siyā parisuddhābhāti.
232. Bây giờ, khi thuyết giảng nhân của việc thoát khỏi sự thể nhập thiền Đáo Đại rồi tiến vào hữu (cho nên) ngài đã ‘Đây có bốn hữu v.v. [bhavuppattiyo: bốn sự sanh khởi cho một đời sống mới]’. Hào quang hạn lượng: sự dính mắc của vị Tỳ khưu hướng tâm biến mãn đang biết có tồn tại, nhưng vị Tỳ khưu cần phải tu tập thiền để làm nhân sanh vào các chúng thiên các cõi Thiểu Quang thiên, ngài mới nói như vậy. Trong toàn bộ câu cũng có phương thức này. Chư thiên cõi Thiểu Quang thiên có hào quang lu mờ cũng có, có hào quang trong sáng cũng có. Chư thiên cõi Vô Lượng thiên có hào quang lu mờ cũng có, có hào quang trong sáng cũng có. Tại sao? Vị Tỳ khưu thực hành công việc chuẩn bị trong kasiṇa có kích thước bằng cái giỏ hoặc có kích thước bằng cái bát, làm cho thiền chứng sanh khởi (trong cõi Thiểu Quang) có sự thiện xảo đã được tích lũy với năm biểu hiện-ākāra y cứ thiền chứng có năng lực yếu ớt rồi an trú trong thiền mà chưa thuần thục do các pháp đối nghịch vẫn chưa được thanh tịnh một cách tốt đẹp, vị ấy sử dựng chính thiền chứng chưa thuần thực, rồi an trú trong thiền chưa thuần thục, sau khi tử vị ấy hóa sanh vào chúng thiên cõi Thiểu Quang thiên, cả màu sắc của vị cũng ít và mờ nhạt. Còn vị Tỳ khưu thiện xảo đã được tích lũy bởi năm biểu hiện-ākāra y cứ thiền chứng được thanh tịnh, an trú trong thiền được thuần thục do các pháp đối nghịch được thanh tịnh một cách tốt đẹp, sau khi tử vị ấy hóa sanh vào chúng thiên cõi Thiểu Quang thiên, cả màu da cũng có chút ít và thanh tịnh. Với cách đã trình bày chư thiên cõi Thiểu Quang thiên được xem là có hào quang lu mờ, (và) có hào quang trong sáng. Vị Tỳ khưu thực hiện công việc chuẩn bị kasiṇa quảng đại làm cho thiền chứng sanh khởi, có sự thuần thục đã tích lũy với cả năm biểu hiện-ākāra toàn bộ nên hiểu theo cùng cách thức như đã đề cập trước đó. Với cách đã nói này chư thiên cõi Vô Lượng thiên được xem là có hào quang lu mờ, (và) cả có hào quang trong sáng.
Vaṇṇanānattanti sarīravaṇṇassa nānattaṃ. No ca ābhānānattanti āloke nānattaṃ na paññāyati. Accinānattanti dīgharassāṇuthūlavasena acciyā nānattaṃ.
Có sự sai khác về màu sắc: Có sự khác biệt về màu sắc ở thân. Không có sự sai khác về hào quang: Không hiện bày sự khác biệt về hào quang. Có sự sai khác về ngọn lửa: Có ngọn lửa khác biệt, tức là dài, ngắn, nhỏ, lớn.
Yattha yatthāti uyyānavimānakapparukkhanadītīrapokkharaṇītīresu yattha yattha. Abhinivisantīti vasanti. Abhiramantīti ramanti na ukkaṇṭhanti. Kājenāti yāgubhattatelaphāṇitamacchamaṃsakājesu yena kenaci kājena. “kācenāti”pi pāṭho, ayameva attho. Piṭakenāti pacchiyā. Tattha tatthevāti sappimadhuphāṇitādīnaṃ sulabhaṭṭhānato loṇapūtimacchādīnaṃ ussannaṭṭhānaṃ nītā “pubbe amhākaṃ vasanaṭṭhānaṃ phāsukaṃ, tattha sukhaṃ vasimhā, idha loṇaṃ vā no[1] bādhati pūtimacchagandho vā sīsarogaṃ uppādetī”ti evaṃ cittaṃ anuppādetvā tattha tattheva ramanti.
Yattha yattha: an trú, thường trú ở nơi nào chẳng hạn như vườn hoa, thiên cung, cây kappa và hồ nước. Chỗ y cứ: chỗ trú ngụ. Vui thú: hoan hỷ, không nhàm chán. Gánh: bất kỳ một loại đòn gánh nào như gánh cháo, gánh thức ăn, gánh dầu, gánh nước mía, gánh cá và gánh thịt. Pāḷī ‘kācena – gánh’ cũng có. Ý nghĩa cũng tương tự như vậy. Với giỏ xách: với giỏ xách. Tại chỗ ấy: Loài côn trùng được đem ra khỏi môi trường sống một cách dễ dàng chẳng hạn như bơ lỏng, mật ong, nước mía v.v, rồi mang đi đến chỗ dày đặc với muối và cá thối v.v, kong khởi lên suy nghĩ như vầy rằng “trước đây chỗ ở của ta thoải mái, ta sống an lạc ở nơi đó, muối đã làm cho ta đau khổ ở nơi này, hoặc rằng mùi cá thối làm cho ta nhức đầu” (vị ấy) hoàn toàn vui thích ở chính tại nơi ấy (nơi vị ấy an trú).
234. Ābhāti ābhāsampannā. Tadaṅgenāti tassā bhavūpapattiyā aṅgena, bhavūpapattikāraṇenāti attho. Idāni taṃ kāraṇaṃ pucchanto ko nu kho, bhantetiādimāha.
234. Có hào quang: thành tựu bởi ánh sáng. Căn bản của việc sanh khởi đó: Với yếu tố sanh khởi cho một đời sống mới, tức là nguyên nhân sanh khởi cho một kiếp sống mới. Bây giờ khi hỏi đến nguyên nhân ấy ngài mới nói lời như sau: “Kính bạch ngài, do do gì làm nhân?”
Kāyaduṭṭhullanti kāyālasiyabhāvo. Jhāyatoti jalato.
Sự thấp hèn ở lộ thân: sự ghê tởm ở lộ thân. Đang cháy: ngọn lửa đang chói sáng.
235. Dīgharattaṃ kho meti thero kira pāramiyo pūrento isipabbajjaṃ pabbajitvā samāpattiṃ nibbattetvā nirantaraṃ tīṇi attabhāvasatāni brahmaloke paṭilabhi, taṃ sandhāyetaṃ āha. vuttampi cetaṃ —
“avokiṇṇaṃ[2] tīṇi sataṃ, yaṃ pabbajiṃ isipabbajjaṃ.
asaṅkhataṃ gavesanto, pubbe sañcaritaṃ maman”ti.
sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
235. Tôi (đã từng sống chung) rất lâu: Được biết rằng trưởng lão thực hành ba-la-mật, xuất gia trở thành đạo sĩ vẫn làm cho các thiền chứng sanh khởi, (sau khi thân hoại mạng chung) hóa sanh vào thế giới Phạm thiên ba trăm lần liên tiếp nhau, lời này ngài đề cập đến chính vị trưởng lão ấy. Điều này như đã nói –
Trước đây ta tâm cầu Pháp vô vi đã xuất gia trở thành đạo sĩ liên tiếp ba trăm kiếp, đây là sự thực hành liên tục trong thời gian trước của ta.
Từ còn lại trong các câu đều đơn giản.
Giải Thích Kinh Anuruddha Kết Thúc.