Kinh số 124 – Giải Thích Kinh Bākula

(Bākulasuttavaṇṇanā)

Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Bākula

209. Evamme sutanti Bākulasuttaṃ[1]. Tattha Bākuloti yathā dvāvīsati dvattiṃsātiādimhi vattabbe bāvīsati bāttiṃsātiādīni vuccanti, evameva dvikuloti dvakkuloti vā[2] vattabbe Bākuloti vuttaṃ. Tassa hi therassa dve kulāni ahesuṃ. So kira devaloko cavitvā Kosambinagare nāma mahāseṭṭhikule nibbatto, tamenaṃ pañcame divase sīsaṃ nhāpetvā Gaṅgākīḷaṃ akaṃsu. Dhātiyā[3] dārakaṃ udake nimujjanummujjanavasena kīḷāpentiyā eko maccho dārakaṃ disvā “bhakkho me ayan”ti maññamāno mukhaṃ vivaritvā upagato. Dhātī[4] dārakaṃ chaḍḍetvā palātā. Maccho taṃ gili. Puññavā satto dukkhaṃ na pāpuṇi, sayanagabbhaṃ pavisitvā nipanno viya ahosi. Maccho dārakassa tejena tattakapallaṃ[5] gilitvā dayhamāno viya vegena tiṃsayojanamaggaṃ[6] gantvā Bārāṇasinagaravāsino macchabandhassa jālaṃ pāvisi, mahāmacchā nāma jālabaddhā pahariyamānā[7] maranti. ayaṃ pana dārakassa tejena jālato nīhaṭamattova mato. Macchabandhā ca mahantaṃ macchaṃ labhitvā phāletvā vikkiṇanti. Taṃ pana dārakassa ānubhāvena aphāletvā sakalameva kājena haritvā sahassena demāti vadantā nagare vicariṃsu. Koci na gaṇhāti.

209. Kinh Bākula được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, trưởng lão Bākulo: giống như nên nói rằng ‘dvāvīsati dvattiṃsa [hai mươi hai, ba mươi hai’ mọi người lại nói rằng ‘bāvīsati bāttiṃsa [hai mươi hai, ba mươi hai]’, cũng tương tự như vậy nên nói rằng ‘dvikulo hoặc dvakkulo’ lại nói rằng ‘Bākulo’. Bởi vì vị trưởng lão ấy có đến 2 gia đình. Được biết ngài tử từ thế giới chư thiên, hạ sanh vào gia đình đại trưởng giả trong thành Kosambī, vào ngày thứ năm các vú nuôi đưa ngài đi rảy nước thơm lên đầu, xuống vui chơi ở sông Gaṅgā, khi các bảo mẫu đang cho đứa bé ngoi lên lặn xuống dưới một con cá nhìn thấy đứa bé nghĩ rằng “đó là thức ăn của ta” đã mới quắp đứa đi. Các bảo mẫu ai cũng bỏ đứa bé đi. Con cá đã nuốt đứa bé. Thường chúng sanh có phước báu không hề lo lắng, vị ấy như thể đi vào phòng ngủ rồi ngủ thiếp đi. Do nhờ oai lực của đứa trẻ con cá giống như nuốt cục gạch nóng, bị sức nóng thiêu đốt, với sức bơi được đoạn đường khoảng ba mươi do-tuần rồi bị mắc vào lưới của ngư dân sống ở thành Bārāṇasī, thường con cá lớn khi bị mắc lưới, bi kéo tới kéo lui sẽ chết, tuy nhiên do nhờ oai lực của đứa trẻ, con cá này khi được đưa ra khỏi lưới rồi mới chết, và thường ngư dân có được cá lớn sẽ xẻ thịt chia ra bán. Nhưng do oai lực của đứa bé, người ngư dân không xẻ thịt con cá ấy, sử dụng cái khiên để khiêng cả con rồi loan báo khắp thành phố rằng: sẽ bán con cá với giá một ngàn (nhưng) chẳng có ai mua cả.

Tasmiṃ pana nagare aputtakaṃ asītikoṭivibhavaṃ seṭṭhikulaṃ atthi, tassa dvāramūlaṃ patvā “kiṃ gahetvā dethā”ti vuttā kahāpaṇanti āhaṃsu. Tehi kahāpaṇaṃ datvā gahito. Seṭṭhibhariyāpi aññesu divasesu macche na kelāyati, taṃ divasaṃ pana macchaṃ phalake ṭhapetvā sayameva phālesi. Macchañca nāma kucchito phālenti, sā pana piṭṭhito phālentī macchakucchiyaṃ suvaṇṇavaṇṇaṃ dārakaṃ disvā — “macchakucchiyaṃ me putto laddho”ti nādaṃ naditvā dārakaṃ ādāya sāmikassa santikaṃ agamāsi. seṭṭhi tāvadeva bheriṃ carāpetvā dārakaṃ ādāya rañño santikaṃ gantvā — “macchakucchiyaṃ me deva dārako laddho, kiṃ karomī”ti āha. Puññavā esa, yo macchakucchiyaṃ arogo vasi, posehi nanti.

Hơn nữa, ở trong thành phố đó có một gia đình đại phú có tài sản 80 koṭi, không có con trai ở trong gia đình khi đi đến cổng nhà của gia đình trưởng giả ấy vị ấy hỏi rằng: ‘sẽ bán bao nhiêu’. Người ấy trả lời rằng: ‘bán một kahāpana’. Trưởng giả đưa một kahāpana rồi lấy con cá. Thậm chí vợ của trưởng giả vào những ngày thường cũng không ưa thích mần cá, nhưng vào ngày hôm ấy, bà đặt cá lên tấm thớt rồi từ mình làm thịt. Thường thì cá cần mổ ở bụng, tuy nhiên bà lại mổ ở phần lưng, nhìn thấy đứa bé màu da tựa như vàng trong bụng cá, hô vang lên rằng: “ta có được đứa con ở trong bụng cá” rồi ẵm đứa bé đến phòng của chồng, ngay lập tức trưởng giả cho người đánh trống loan báo tin tức khắp nơi rồi đến hoàng cung để trình tâu rằng: “Tâu bệ hạ, hạ thần có được đứa bé ở trong bụng một con cá, hạ thần làm như thế nào?” Đức vua đáp rằng: đứa bé này ở trong bụng con cá một cách an toàn chắc hẳn có phước, khanh hãy nuôi dưỡng (đứa bé ấy).

Assosi kho itaraṃ kulaṃ — “Bārāṇasiyaṃ kira ekaṃ seṭṭhikulaṃ macchakucchiyaṃ dārakaṃ labhatī”ti, te tattha agamaṃsu. Athassa mātā dārakaṃ alaṅkaritvā kīḷāpiyamānaṃ disvāva “manāpo vatāyaṃ dārako”ti gantvā pavatiṃ ācikkhi. Itarā mayhaṃ puttotiādimāha. Kahaṃ te laddhoti? Macchakucchiyanti. No tuyhaṃ putto, mayhaṃ puttoti. Kahaṃ te laddhoti? Mayā dasamāse kucchiyā dhārito, atha naṃ nadiyā kīḷāpiyamānaṃ maccho gilīti. Tuyhaṃ putto aññena macchena gilito bhavissati, ayaṃ pana mayā macchakucchiyaṃ laddhoti, ubhopi rājakulaṃ agamaṃsu. Rājā āha — “ayaṃ dasa māse kucchiyā dhāritattā amātā kātuṃ na sakkā, macchaṃ gaṇhantāpi vakkayakanādīni[8] bahi katvā gaṇhantā nāma natthīti macchakucchiyaṃ laddhattā ayampi amātā kātuṃ na sakkā, dārako ubhinnampi kulānaṃ dāyādo hotu, ubhopi naṃ jaggathā”ti ubhopi jaggiṃsu.

Những gia đình khác nghe tin – “trong thành phố Bārāṇasī gia đình của một trưởng giả có được đứa con trong bụng con cá”, bọn họ cùng nhau đi đến thành phố ấy. Trong lúc đó mẹ của đứa trẻ nhìn thấy họ đang trang điểm cho đứa bé rồi cho vui chơi, mới đi thẳng tới ẵm với suy nghĩ rằng: “đứa trẻ này thật đáng yêu” rồi nói một cách vội vã. Người nữ khác (vợ trưởng giả) nói rằng ‘đưa bé này là con của tôi’. Người nữ ấy hỏi ‘bà có được (đứa bé ấy) từ đâu?’ – Ta có được đứa bé ấy từ bụng cá. – Người nữ ấy nói rằng: đứa bé này không phải con của bà, nó là con của tôi. – Vậy bà có được đứa bé ấy từ đâu? – Tôi mang thai đứa bé ấy đến tận mười tháng, khi ấy một ca đã nuốt nó được các vú nuôi đang lội nước. – Con của bà có thể bị một con cá khác nuốt rồi, còn đứa bé này tôi có được từ bụng cá, cả hai người đưa nhau đến hoàng cung. Đức vua đã nói rằng – “người phụ này không ai có thể phủ nhận rằng không phải mẹ của đứa bé bởi vì (người này) đã mang thai suốt mười tháng, ngay cả người ngư dân bắt được cá cũng đã thực hiện việc mua bán v.v, đã xong xuôi không còn quyền hạn gì nữa, kể cả người phụ nữ này cũng không thể phủ nhận rằng: ‘không phải là mẹ của đứa bé’ bởi vì (người này) có được đứa bé trong bụng cá, (như vậy) mong hai ngươi hãy cùng nhau nuôi dưỡng đứa bé ấy.\

Viññutaṃ pattassa dvīsupi nagaresu pāsādaṃ kāretvā nāṭakāni paccupaṭṭhāpesuṃ. Ekekasmiṃ nagare cattāro cattāro māse vasati, ekasmiṃ nagare cattāro māse vuṭṭhassa saṅghāṭanāvāya maṇḍapaṃ kāretvā tattha naṃ saddhiṃ nāṭakāhi āropenti. So sampattiṃ anubhavamāno itaraṃ nagaraṃ gacchati. Taṃnagaravāsino nāṭakāni upaḍḍhamaggaṃ agamaṃsu. Te paccuggantvā taṃ parivāretvā attano pāsādaṃ nayanti. Itarāni nāṭakāni nivattitvā attano nagarameva gacchanti. Tattha cattāro māse vasitvā teneva niyāmena puna itaraṃ nagaraṃ gacchati. Evamassa sampattiṃ anubhavantassa asīti vassāni paripuṇṇāni.

Cả hai gia đình đều cùng nhau nuôi dưỡng đứa bé, khi đứa bé trưởng thành cả hai gia đình đã cho vị ấy kiến tạo một tòa lâu đài ở cả hai thành phố rồi cho chăm sóc hầu hạ bởi các nữ vũ công. Vị ấy sống bốn tháng ở mỗi thành phố. Khi vị ấy trú ngụ ở một thành phố đủ bốn tháng, thì cả hai gia đình cho thợ đến xây dựng mái che ở trên thuyền song song nhau, rồi cho vị ấy ở trên thuyền ấy cùng với những nữ vũ công. Vị ấy hưởng thụ sự sung sướng để đến một thành phố khác. Nữ vũ công người thành thị đã đưa tiễn vị ấy đến nữa đường. Những người nữ đã tiếp đón vây quanh rồi đưa vị ấy đến lâu đài. Còn những nữ vũ công cũ cũng cùng nhau quay trở thành của họ. Vị ấy cư trú ở tòa lâu đài ấy suốt 4 tháng rồi lại quay trở về thành kia theo phương thức tương tự. Vị ấy hưởng thụ sung túc như vậy suốt tám mươi năm tròn đủ.

Atha Bhagavā cārikaṃ caramāno Bārāṇasiṃ patto. So Bhagavato santike dhammaṃ sutvā paṭiladdhasaddho pabbajito. Pabbajitvā sattāhameva puthujjano ahosi, aṭṭhame pana so[9] saha paṭisambhidāhi arahattaṃ pāpuṇīti gevamassa dve kulāni ahesuṃ. Tasmā bākuloti saṅkhaṃ agamāsīti.

Khi ấy đức Thế Tôn du hành đến thành phố Bārāṇasī. Vị ấy đã được lắng nghe pháp của đức Thế Tôn, có được đức tin đã xuất gia. Vị ấy đã trở thành Tỳ khưu phàm nhân chỉ bảy ngày vào ngày thứ tám vị ấy đã chứng đắc A-ra-hán cùng với các tuệ phân tích. Cả hai gia đình liên quan đến ngài như vậy. Vì lý do đó ngài mới được gọi là Bākula hay Bakkula.

Purāṇagihisahāyoti pubbe gihikāle sahāyo. Ayampi dīghāyukova theraṃ pabbajitaṃ passituṃ gacchanto asītime vasse gato. Methuno dhammoti bālo naggasamaṇako bālapucchaṃ pucchati, na sāsanavacanaṃ, idāni therena dinnanaye ṭhito imehi pana teti pucchi.

Một người bạn trước kia của Tôn giả Bākula khi còn là cư sĩ: Là người bạn cũ khi còn là cư sĩ. Ngay cả du sĩ Acelaka-kassapa này cũng có tuổi thọ cao, khi đến thăm trưởng lão vị đã xuất gia cũng đã đi vào năm 80 tuổi. Pháp hành dâm: kẻ ngu sống trong nhóm Sa-môn lõa lồ hỏi những câu hỏi ngu xuẩn, không hỏi đến những lời nói dựa vào Tôn giáo, vị ấy được vững trú vào cách thức mà trưởng lão đã ban cho lúc bấy giờ mới hỏi rằng: ‘trong tám mươi năm ấy, đã bao nhiêu lần, Hiền giả hành dâm dục?’

210. Yaṃpāyasmātiādīni padāni sabbavāresu Dhammasaṅgāhakattherehi niyametvā ṭhapitāni. Tattha saññā uppannamattāva, vitakko kammapathabhedakoti. thero panāha — “kasmā visuṃ karotha, ubhayampetaṃ kammapathabhedakamevā”ti.

210.  Các vị trưởng lão Dhamma-saṅgāhaka xác định các câu như sau: ‘điều mà Hiền giả’ đã đặt ở tất cả các câu, cũng trong tất cả câu đó tưởng chỉ vừa mới khởi sanh, tầm đã phá vỡ nghiệp đạo. Vì thế trưởng lão đã nói rằng – “Tại sao ngài lại nói chia rẽ, cả hai như vậy làm nghiệp đạo đều bị phá vỡ”.

211. Gahapaticīvaranti vassāvāsikaṃ cīvaraṃ. Satthenāti pipphalakena[10]. Sūciyāti sūciṃ gahetvā sibbitabhāvaṃ na sarāmīti attho. Kathine cīvaranti kathinacīvaraṃ, kathinacīvarampi hi vassāvāsikagatikameva. Tasmā tattha “sibbitā nābhijānāmī”ti āha.

211. Y của người gia chủ: y phục của vị Tỳ khưu an cư mùa mưa. Con dao: bao gồm cây kéo. Cây kim: có nghĩa là tôi không nhớ đến điều y phục cần phải may với cây kim. Y phục trong khung thêu: bao gồm y phục kathina, y phục kathina chỉ có một gati với chính y phục của mùa an cư. Vì thế, y phục kathina ấy ngài đã nói rằng: ‘tôi không biết may y trong khung thêu’.

Ettakaṃ panassa kālaṃ gahapaticīvaraṃ asādiyantassa chindanasibbanādīni akarontassa kuto cīvaraṃ uppajjatīti. Dvīhi nagarehi. Thero hi mahāyasassī, tassa puttadhītaro nattapanattakā sukhumasāṭakehi cīvarāni kāretvā rajāpetvā samugge pakkhipitvā pahiṇanti. Therassa nhānakāle nhānakoṭṭhake ṭhapenti. Thero tāni nivāseti ceva pārupati ca, purāṇacīvarāni sampattapabbajitānaṃ deti. Thero tāni nivāsetvā ca pārupitvā ca navakammaṃ na karoti, kiñci āyūhanakammaṃ natthi. Phalasamāpattiṃ appetvā appetvā nisīdati. Catūsu māsesu pattesu lomakiliṭṭhāni honti, athassa puna teneva niyāmena pahiṇitvā denti. aḍḍhamāse aḍḍhamāse parivattatītipi vadantiyeva.

Cũng bởi khi trưởng lão Bakula không hoan hỉ y phục của người gia chủ không thực hiện công việc mới có việc cắt và may v.v, suốt khoảng thời gian chừng ấy, y phục phát sanh từ đâu? Phát sanh từ hai thành phố. Bởi vì trưởng lão có danh tiếng lẫy lừng. những con trai và con gái, cháu và chắt của ngài cho người làm y phục bằng vải sāṭaka chất liệu mềm mịn, cho nhuộm rồi đặt trong hộp tráp gửi đi cúng dường. Trong lúc trưởng lão tắm gội, họ đặt ở của phòng tắm, trưởng lão đã quấn y (nội) và đắp thượng y đó. Ngài sẽ cho y phục cũ đến những vị xuất gia mà ngài gặp. Trưởng lão quấn và đắp y phục ấy không cần phải thực hiện công việc mới, bất kể nghiệp sự gì được tích lũy cũng không có. Ngài ngồi nhập vào sự thể nhập thiền quả. Khi đủ bốn tháng tóc tai trở nên bù xù, khi ấy các con, các cháu cũng gởi y phục đến cúng dường ngài cũng theo chính phương thức ấy. Một số thầy nói rằng: ngài thay đổi y phục mỗi nửa tháng.

Anacchariyañcetaṃ therassa mahāpuññassa mahābhiññassa[11] satasahassakappe pūritapāramissa, Asokadhammarañño kulūpako Nigrodhatthero divasassa nikkhattuṃ cīvaraṃ parivattesi. Tassa hi ticīvaraṃ hatthikkhandhe ṭhapetvā pañcahi ca gandhasamuggasatehi pañcahi ca mālāsamuggasatehi saddhiṃ pātova āhariyittha, tathā divā ceva sāyañca. Rājā kira divasassa nikkhattuṃ sāṭake parivattento “therassa cīvaraṃ nītan”ti pucchitvā “āma nītan”ti sutvāva parivattesi. Theropi na bhaṇḍikaṃ bandhitvā ṭhapesi, sampattasabrahmacārīnaṃ adāsi. Tadā kira jambudīpe bhikkhusaṅghassa yebhuyyena nigrodhasseva santakaṃ cīvaraṃ ahosi.

Trưởng lão vị có nhiều phước báu, có nhiều thần thông, thực hành ba-la-mật đến một trăm ngàn kiếp, thay đổi y phục mỗi nửa tháng ấy chẳng có gì phi thường cả, trưởng lão Nirodha thường trú ở trú xứ hoàng gia của đức vua Asokadhamma vẫn thay đổi y phục 3 lần mỗi ngày. Người hầu cận đặt tam y của ngài ở trên cổ voi, mang đến cúng dường từ sáng sớm cùng với hộp tráp đựng 500 hộp vật thơm, hộp đựng 500 bông hoa. Vào buổi trưa và buổi chiều cũng làm tương tự như vậy. Được biết rằng đức vua khi ban cho ngài thay đổi y phục một ngày 3 lần hỏi rằng: “các ngươi đã mang y phục đến cúng dường cho trưởng lão hay chưa?” Khi vừa nghe rằng: “Thưa bệ hạ, thần đã mang đi cúng dường rồi”. Tuy nhiên trưởng lão cũng buộc lại thành cuộn rồi cất giữ, sau đó cúng dường lại cho những vị đồng Phạm hạnh mà ngài gặp. Tương truyền rằng trong lần đó toàn bộ chư Tỳ khưu tăng ở  Jambudīpa phần đông đã sử dụng phương tiện y phục đều là của trưởng lão Nirodha.

Aho vata maṃ koci nimanteyyāti kiṃ pana cittassa anuppādanaṃ bhāriyaṃ, uppannassa pahānanti. Cittaṃ nāma lahukaparivattaṃ, tasmā anuppādanaṃ bhāriyaṃ, uppannassa pahānampi[12] bhāriyameva. Antaraghareti Mahāsakuludāyisutte (ma. ni. 2.237) indakhīlato paṭṭhāya antaragharaṃ nāma idha nimbodakapatanaṭṭhānaṃ adhippetaṃ. Kuto panassa bhikkhā uppajjitthāti. Thero dvīsu nagaresu abhiññāto, gehadvāraṃ āgatassevassa pattaṃ gahetvā nānārasabhojanassa pūretvā denti. So laddhaṭṭhānato nivattati, bhattakiccakaraṇaṭṭhānaṃ panassa nibaddhameva ahosi. Anubyañjanasoti therena kira rūpe nimittaṃ gahetvā mātugāmo na olokitapubbo. Mātugāmassa dhammanti mātugāmassa chappañcavācāhi dhammaṃ desetuṃ vaṭṭati, pañhaṃ puṭṭhena gāthāsahassampi vattuṃ vaṭṭatiyeva. Thero pana kappiyameva na akāsi. Yebhuyyena hi kulūpakatherānametaṃ kammaṃ hoti. Bhikkhunupassayanti bhikkhuniupassayaṃ. Taṃ pana gilānapucchakena gantuṃ vaṭṭati, thero pana kappiyameva na akāsi. esa nayo sabbattha. Cuṇṇenāti kosambacuṇṇādinā. gattaparikammeti sarīrasambāhanakamme. Vicāritāti payojayitā. Gaddūhanamattanti gāviṃ thane gahetvā ekaṃ khīrabinduṃ dūhanakālamattampi.

Mong rằng có người thỉnh mời tôi: này có kệ ngôn rằng – nguyên nhân gì việc không để cho tâm khởi sanh là gánh nặng và đã khởi sanh phải dứt trừ. Tâm được xem là thay đổi nhanh chóng, vì thế việc không để tâm sanh khởi là gánh nặng, ngay cả việc dứt trừ tâm đã sanh lên cũng hoàn toàn là gánh nặng. Trong xóm làng: trong bài Kinh Mahāsakuludāyi (ma. ni. 2.237) từ phần cửa nhà trở đi được gọi là nhà, nhưng ở trường hợp này muốn lấy tính từ phần nước xuống từ mái hiên. Vật thực phát sanh cùng ngài ở chỗ nào? Trưởng lão nổi tiếng khắp cả hai thành phố, khi ngài chỉ vừa mới đến cổng làng mọi người đều đến tiếp nhận bình bát đặt nhiều loại thức ăn thượng vị để cúng dường. Ngài quay về từ nơi nhận được vật thực, nhưng nơi để làm phận sự về vật thực của ngài hoàn toàn đều đặn. Thuộc về chi tiết: được biết rằng trưởng lão đã nắm giữ hình tướng ở trong sắc không bao giờ nhìn vào nữ nhân. Các tướng đặc biệt của nữ nhân: thuyết giảng pháp cho nữ nhân dù chỉ 5-6 lời vừa đủ. Nhưng nếu bị hỏi đến vấn đề sẽ nói cả hàng ngàn kệ ngôn hoàn toàn phù hợp. Cũng bởi trưởng lão không bao giờ thực hành những điều thích đáng trở thành không thích đáng. Thật vậy việc thực hành như thế đa phần có cùng vị trưởng lão thường xuyên đến gia đình. Đến trú xứ của Tỳ khưu ni: trú xứ của Tỳ khưu ni. Hơn nữa, thăm hỏi bệnh sẽ đi đến trú xứ của vị Tỳ khưu ni ấy, thích hợp, lại nữa trưởng lão hoàn toàn không thực hành những điều không thích đáng. Trong toàn bộ câu đều có phương thức như vậy. Với bột Cuṇṇa: bột của hoa của cây hồng hoa v.v. việc xoa bóp tay chân: việc xoa bóp cơ thể. Hoan hỷ: gắn kết. Phút chốc vắt sữa bò: Dầu khoảnh khắc nắm lấy vú con bò rồi vắt lấy sữa dù chỉ một giọt.

Kena pana kāraṇena thero nirābādho ahosi. Padumuttare kira Bhagavati satasahassabhikkhuparivāre cārikaṃ caramāne himavati visarukkhā pupphiṃsu. bhikkhusatasahassānampi tiṇapupphakarogo uppajjati. Thero tasmiṃ samaye iddhimā tāpaso hoti, so ākāsena gacchanto bhikkhusaṅghaṃ disvā otaritvā rogaṃ pucchitvā Himavantato osadhaṃ āharitvā adāsi. Upasiṅghanamatteneva rogo vūpasami. Kassapasammāsambuddhakālepi paṭhamavappadivase vappaṃ ṭhapetvā bhikkhusaṅghassa paribhogaṃ aggisālañceva vaccakuṭiñca kāretvā bhikkhusaṅghassa bhesajjavattaṃ nibandhi[13], iminā kammena nirābādho ahosi. Ukkaṭṭhanesajjiko panesa ukkaṭṭhāraññako ca tasmā “nābhijānāmi apassenakaṃ apassayitā”tiādimāha.

Trưởng lão không bao giờ bệnh bởi bất kỳ lý do nào. Được biết rằng (vào thời kỳ) đức Phật Padumuttara có một trăm ngàn vị Tỳ khưu làm tùy tùng, ngài đi du hành, một loại cây có độc trong rừng Hy-mã-lạp nở hoa. Dầu cho cả một trăm ngàn vị Tỳ khưu bị nhiễm bệnh do hoa cỏ độc. Vào lúc đó, trưởng  lão là một vị đạo sĩ có thần thông. Ngài bay lên hư không nhìn thấy chư Tăng mới hạ xuống hỏi đến căn bệnh bị nhiễm phải rồi mang cây thuốc từ rừng Hy-mã-lạp đến cúng dường. Khi vừa chạm đến cây thuốc bệnh tật đã biến mất ngay lập tức. Kể cả trong Giáo pháp của bậc Chánh đẳng Chánh giác Kassapa ngài cũng ngừng việc gieo mạ vào ngày đầu tiên cho xây dựng nhà bếp và phòng vệ sinh, chia thuốc cúng dường đến chư Tăng đều đặn, do nghiệp lực này ngài trở thành người vô bệnh. Và do ngài theo hạnh thường tọa bậc thượng và hạnh sống trong rừng bậc thượng vì thế ngài mới nói lời bắt đầu như sau: “ta không biết dựa vào tấm gỗ dựa”.

Saraṇoti sakileso. Aññā udapādīti anupasampannassa aññaṃ byākātuṃ na vaṭṭati. Thero kasmā byākāsi? Na thero ahaṃ arahāti āha, aññā udapādīti panāha. Apica thero arahāti pākaṭo, tasmā evamāha.

Người có phiền não: vẫn còn phiền não. A-ra-hán quả sanh khởi: Không nên tuyên bố thánh quả A-ra-hán đến người chưa thọ cụ túc giới. Vì sao trưởng lão lại tuyên bố? Trưởng lão không nói ‘ta là bậc A-ra-hán’, mà lại nói rằng ‘A-ra-hán quả đã khởi sanh’. Và hơn nữa, hiện bày rằng: trưởng lão đã trở thành A-ra-hán, vì thế ngài mới nói như vậy.

212. Pabbajjanti thero sayaṃ neva pabbājesi, na upasampādesi aññehi pana bhikkhūhi evaṃ kārāpesi. Avāpuraṇaṃ ādāyāti kuñcikaṃ gahetvā.

212. Được xuất gia: trưởng lão không tự mình cho du sĩ Celakassapa xuất gia và tu lên bậc trên, nhưng ngài để nhóm Tỳ khưu khác xuất gia cho vị ấy. Cầm lấy chìa khóa: Cầm lấy chìa khóa.

Nisinnakova parinibbāyīti ahaṃ dharamānopi na aññassa bhikkhussa bhāro ahosiṃ, parinibbutassāpi me sarīraṃ bhikkhusaṅghassa palibodho mā ahosīti tejodhātuṃ samāpajjitvā parinibbāyi. sarīrato jālā uṭṭhahi, chavimaṃsalohitaṃ sappi viya jhāyamānaṃ parikkhayaṃ gataṃ, sumanamakulasadisā dhātuyova avasesiṃsu. Sesaṃ sabbattha pākaṭameva. Idaṃ pana suttaṃ dutiyasaṅgahe saṅgītanti.

 Trương lão Bākula ngồi giữa chúng Tỳ khưu nhập Nibbana: trưởng lão nghĩ rằng – dầu cho ta có sống cũng đừng trở thành gánh nặng cho những vị Tỳ khưu khác, sắc thân của ta dầu cho viên tịch Nibbāna cũng đừng để cho chư Tăng phải bận tâm (cho nên) ngài nhập vào hỏa giới tịch diệt Nibbāna, ngọn lửa bùng cháy bao phủ toàn bộ thân thể da thịt và máu bị lửa thiêu cháy toàn bộ tựa như bơ lỏng, chỉ còn sót lại xá-lợi có tướng trạng như nụ bông hoa lài. Từ còn lại trong các câu đều đơn giản. Hơn nữa, bài Kinh này ngài kết tập trong kết tập thứ hai.

Giải Thích Kinh Bākula Kết Thúc


[1] Sī. Syā. – Bakkulasuttaṃ

[2] Cha. Ma. dvakkuloti vāti pāṭho na dissati

[3] Ka. – Dhātīsu

[4] Ka. – Dhātiyo

[5] Sī. – tattaphālaṃ, Syā. – tattakapallaṃ

[6] Ka. – tiyojanamattampi

[7] Sī. – māriyamānā, pahariyamānāva (?)

[8] Ka. – vikkayakīṇādīni

[9] Ka. – anulomabalaṃ

[10] Sī. Syā. – pipphalikena

[11] Ka. – mahāvīriyassa

[12] Sī. Syā. – upnappahānampi

[13] Syā. Ka. – nibaddhaṃ.