Kinh số 120 – Giải Thích Kinh Hành Sanh

(Saṅkhārupapattisuttavaṇṇanā)

Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Hành Sanh

160. Evamme sutanti saṅkhārupapattisuttaṃ. Tattha saṅkhārupapattinti saṅkhārānaṃyeva upapattiṃ[1], na sattassa, na posassa, puññābhisaṅkhārena vā bhavūpagakkhandhānaṃ upapattiṃ.

160. Kinh ‘Hành Sanh’[2] được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, Hành sanh: sự sanh khởi hoàn toàn của các Hành, chớ không phải sự sanh khởi của chúng sanh, của loài người. Hơn nữa, sự sanh khởi của các hữu là sự sanh khởi của các uẩn do phúc hành được gọi là ‘Hành sanh’.

161. Saddhāya samannāgatoti saddhādayo pañca dhammā lokikā vaṭṭanti. Dahatīti ṭhapeti. Adhiṭṭhātīti patiṭṭhāpeti. Saṅkhārā ca vihārā[3]ti saha patthanāya saddhādayova pañca dhammā. Tatrupapattiyāti tasmiṃ ṭhāne nibbattanatthāya. Ayaṃ maggo ayaṃ paṭipadāti saha patthanāya pañca dhammāva. Yassa hi pañca dhammā atthi, na patthanā, tassa gati anibaddhā. Yassa patthanā atthi, na pañca dhammā, tassapi anibaddhā. yesaṃ ubhayaṃ atthi, tesaṃ gati nibaddhā. Yathā hi ākāse khittadaṇḍo aggena vā majjhena vā mūlena vā nipatissatīti niyamo natthi, evaṃ sattānaṃ paṭisandhiggahaṇaṃ aniyataṃ. Tasmā kusalaṃ kammaṃ katvā ekasmiṃ ṭhāne patthanaṃ kātuṃ vaṭṭati.

161. Người hội đủ với niềm tin: Năm pháp có đức tin v.v, thuộc Hiệp thế. được an trú: được vững trú. Được quyết định: được thiết lập vững chắc. nguyện vọng và pháp trú: bao gồm 5 Pháp có đức tin v.v, cùng với nguyện vọng. Để đưa đến sự thành tựu tại chỗ ấy: để đưa đến sự sanh khởi tại chỗ đó. Đây là đạo, đây là lộ trình: chính năm pháp đó cùng với nguyện vọng. Hạng người có 5 pháp nhưng không có nguyện vọng, sanh thú của người ấy không liên tục. Hạng người nào có nguyện vọng nhưng không có năm pháp thì sanh thú của người đó cũng không liên tục. Hạng người nào có năm pháp và nguyện vọng cả hai pháp thì sanh thú của hạng người ấy được liên tục. Cũng giống như hạng người bắn mũi tên vào không trung, không thể xác định được phần đầu, hoặc phần giữa, hoặc phần cuối rơi xuống như thế nào, việc tái sanh của tất cả chúng sanh cũng như thế đó (tức là) không thể (xác định) một cách chắc chắn. Vì thế, sau khi làm thiện nghiệp nên tạo ước nguyện (phát nguyện) ở một chỗ là điều thích hợp.

165. Āmaṇḍanti āmalakaṃ. Yathā taṃ parisuddhacakkhussa purisassa sabbasova pākaṭaṃ hoti, evaṃ tassa brahmuno saddhiṃ tattha nibbattasattehi sahassī lokadhātu. Esa nayo sabbattha.

165. Quả āmaṇḍa: quả āmaṇḍa. Quả āmaṇḍa sẽ hiện hữu ở mọi biểu hiện đối với người có đôi mắt tốt thế nào, hàng ngàn thế giới cùng với chúng sanh sanh khởi trong đó được hiển lộ cùng Phạm thiên như thế đó. Toàn bộ các câu đều có cách thức như đã nói.

167. Subhoti sundaro. Jātimāti ākarasampanno. Suparikammakatoti dhovanādīhi suṭṭhukataparikammo. Paṇḍukambale nikkhittoti rattakambale ṭhapito.

Đẹp: xinh đẹp. Jātimā-trong sáng: sự thành tựu bằng biểu hiện. Khéo được mài dũa: có chuẩn bị tướng đã được khéo thực hiện bằng việc khéo mài dũa. Được đặt trên tấm vải nhuộm vàng: bao gồm – đặt trên tấm vải được nhuộm đỏ.

168. Satasahassoti lokadhātusatasahassamhi ālokapharaṇabrahmā. Nikkhanti nikkhena kataṃ piḷandhanaṃ, nikkhaṃ nāma pañcasuvaṇṇaṃ, ūnakanikkhena kataṃ pasādhanañhi ghaṭṭanamajjanakkhamaṃ na hoti, atirekena kataṃ ghaṭṭanamajjanaṃ khamati, vaṇṇavantaṃ pana na hoti, pharusadhātukaṃ khāyati. Nikkhena kataṃ ghaṭṭanamajjanañceva khamati, vaṇṇavantañca hoti. Jambonadanti jambunadiyaṃ nibbattaṃ. Mahājamburukkhassa hi ekekā sākhā paṇṇāsa paṇṇāsa yojanāni vaḍḍhitā, tāsu mahantā nadiyo sandanti, tāsaṃ nadīnaṃ ubhayatīresu jambupakkānaṃ patitaṭṭhāne suvaṇṇaṅkurā uṭṭhahanti, te nadījalena vuyhamānā anupubbena mahāsamuddaṃ pavisanti. Taṃ sandhāya jambonadanti vuttaṃ. Dakkhakammāraputtaukkāmukhasukusalasampahaṭṭhanti dakkhena sukusalena kammāraputtena ukkāmukhe pacitvā sampahaṭṭhaṃ. Ukkāmukheti uddhane. Sampahaṭṭhanti dhotaghaṭṭitamajjitaṃ. Vatthopame (ma. ni. 1.75-76) ca Dhātuvibhaṅge (ma. ni. 3.357-360) ca piṇḍasodhanaṃ vuttaṃ. Imasmiṃ sutte katabhaṇḍasodhanaṃ vuttaṃ.

168. Trăm ngàn Phạm thiên: Phạm thiên lan tỏa ánh sáng trăm ngàn thế giới. Bằng vàng nikkha: vật trang sức được làm bằng vàng nikkha, năm loại vàng rồng được gọi là vàng nikkha, vật trang sức bằng vàng non nikkha không thể chịu được việc va chạm và chà bóng, nhưng được làm bằng vàng nikkha quá nhiều thì chịu được sự va chạm và chà bóng nhưng lại có màu không đẹp hiển lộ tính chất thô. Được làm bằng vàng khối sẽ chịu được sự va chạm và chà bóng. Bằng vàng hồng: xuất xứ từ sông Jambū, lan tỏa rộng khắp mỗi nhánh 50 do-tuần. Kể cả những dòng sông lớn chảy qua bề mặt ở những nơi đó búp vàng sanh lên ở chỗ quả Jambū rơi xuống ở hai bên bờ sông, bị nước ở dòng sông đó cuốn trôi và đổ ra biển theo tuần tự. Ngài muốn đề cập đến vàng được sinh ra như đã trình bày nên mới nói rằng: vàng nikkha được sanh ra ở dòng sông Jambū. Được khéo tôi luyện trong lò của một thợ vàng thiện xảo: con trai người thợ vàng thiện xảo, siêng năng tôi luyện trong lò. Trong lò: gồm trong nồi. Được tôi luyện: được nung nấu cả đúc và đánh bóng. Trong bài Kinh Vatthopama (ma. ni. 1.75-76) và bài Kinh Dhātuvibhaṅga (ma. ni. 3.357-360) nói về việc làm vàng thỏi được tinh khiết, nhưng trong bài Kinh này vàng miếng được tinh khiết.

Yaṃ pana sabbavāresu pharitvā adhimuccitvāti vuttaṃ, tattha pañcavidhaṃ pharaṇaṃ cetopharaṇaṃ kasiṇapharaṇaṃ dibbacakkhupharaṇaṃ ālokapharaṇaṃ sarīrapharaṇanti. Tattha cetopharaṇaṃ nāma lokadhātusahasse sattānaṃ cittajānanaṃ. kasiṇapharaṇaṃ nāma lokadhātusahasse kasiṇapattharaṇaṃ. Dibbacakkhupharaṇaṃ nāma ālokaṃ vaḍḍhetvā dibbena cakkhunā sahassalokadhātudassanaṃ. Ālokapharaṇampi etadeva. Sarīrapharaṇaṃ nāma lokadhātusahasse sarīrapabhāya pattharaṇaṃ. sabbattha imāni pañca pharaṇāni avināsentena kathetabbanti.

Hướng đến, biến mãn: được nói trong tất cả các phần đó: biến mãn có 5 loại là – biến mãn nhờ tâm, biến mãn nhờ biến xứ, biến mãn nhờ thiên nhãn, biến mãn nhờ ánh sáng, và biến mãn nhờ thân. Trong năm cách biến mãn đó việc biết được tâm của tất cả chúng sanh trong ngàn thế giới được gọi là biến mãn nhờ tâm. việc lan tỏa biến xứ trong ngàn thế giới gọi là biến mãn nhờ biến xứ. Việc khuếch tán ánh sáng cùng khắp rồi quan sát ngàn thế giới gọi là biến mãn nhờ thiên nhãn, dù việc khuếch tán nhờ ánh sáng (những) cũng chính là biến mãn nhờ thiên nhãn. Việc lan tỏa hào quang của sắc thân trong ngàn thế giới gọi là biến mãn nhờ thân. Ở mọi chỗ nên nói đến 5 việc biến mãn này không nên làm cho tách rời nhau.

Tipiṭakacūḷābhayatthero panāha — “maṇiopamme kasiṇapharaṇaṃ viya nikkhopamme sarīrapharaṇaṃ viya dissatī”ti. Tassa vādaṃ viya aṭṭhakathā nāma natthīti paṭikkhitvā sarīrapharaṇaṃ na sabbakālikaṃ, cattārimāni pharaṇāni avināsetvāva kathetabbanti vuttaṃ. Adhimuccatīti padaṃ pharaṇapadasseva vevacanaṃ, atha vā pharatīti pattharati. Adhimuccatīti jānāti.

Còn trưởng lão Tipiṭakacūḷābhaya đã nói rằng – “trong việc so sánh với ngọc ma-ni, việc khuếch tán được hiện hữu giống như biến mãn nhờ biến xứ, trong việc so sánh với vàng nikkha việc khuếch tán được hiện hữu tựa như biến mãn nhờ hào quang của sắc thân.” Như thế ngài bác bỏ lời nói của trưởng lão Tipiṭakacūḷābhaya như sau: gọi là Chú giải (việc giải thích ý nghĩa như ngài nói đó) không có, rồi nói rằng: việc khuếch tán của sắc thân không có trong mọi thời điểm, cần phải nói để không làm cho bốn sự biến mãn hư hoại. Hướng tâm là từ đồng nghĩa (sử dụng thay thế nhau) của từ biến mãn, hơn nữa khuếch tán: gồm lan tỏa. Adhimuccati: đang biết.

169. Ābhātiādīsu ābhādayo nāma pāṭiyekkā devā natthi, tayo parittābhādayo devā ābhā nāma, parittāsubhādayo ca. Subhakiṇhādayo ca subhā nāma. vehapphalādivārā pākaṭāyeva.

169. Chư thiên Quang âm thiên: thêm một nhóm chư thiên riêng biệt gọi là Chư thiên Quang âm thiên v.v, không có (chỉ có) 3 nhóm Chư thiên có nhóm Chư thiên Thiểu Quang thiên được gọi là ābhā. Chư thiên Thiểu tịnh thiên v.v, và nhóm Chư thiên Biến tịnh thiên v.v, gọi là subhā. Chư thiên nhóm Quảng quả thiên đã hiện hữu rõ ràng.

Ime tāva pañca dhamme bhāvetvā kāmāvacaresu nibbattatu. Brahmaloke nibbattaṃ pana āsavakkhayañca kathaṃ pāpuṇātīti? ime pañca dhammā sīlaṃ, so imasmiṃ sīle patiṭṭhāya kasiṇaparikammaṃ katvā tā tā samāpattiyo bhāvetvā rūpībrahmaloke nibbattati, arūpajjhānāni nibbattetvā arūpībrahmaloke, samāpattipadaṭṭhānaṃ vipassanaṃ vaḍḍhetvā anāgāmiphalaṃ sacchikatvā pañcasu suddhāvāsesu nibbattati. Uparimaggaṃ bhāvetvā āsavakkhayaṃ pāpuṇātīti.

Hạng người tu tập trong năm pháp này sẽ sanh khởi về cõi dục (cũng không thể nói gì) trước nhưng ngài hóa sanh vào Phạm thiên giới và đạt đến sự diệt tận các lậu được như thế nào? Năm pháp (là tín, giới, văn, thí và tuệ) này làm giới. Người ấy vững trú trong giới này rồi thực hành biến xứ chuẩn bị, thực hành các thiền chứng ấy cho sanh khởi vào thời gian đó sẽ hóa sanh vào Phạm thiên giới hữu sắc. Thực hành các thiền vô sắc làm cho sanh khởi sẽ hóa sanh vào Phạm thiên giới vô sắc. Tu tập Minh sát có thiền chứng làm nhân cận rồi thực hành làm cho chứng đắc Bất-lai thánh quả hóa sanh vào 5 cõi Tịnh cư thiên, tu tập Đạo cao đạt đến sự diệt tận các lậu.

Giải Thích Kinh Hành Sanh Kết Thúc


[1] Sī. – uppattiṃ

[2] Sự sanh khởi của các Hành

[3] Sī. – vihāro