Kinh số 12 – Giải Thích Đại Kinh Sư Tử Hống
(Mahāsīhanādasuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Đại Kinh Sư Tử Hống
146. Evaṃme sutanti mahāsīhanādasuttaṃ. Tattha vesāliyanti evaṃnāmake nagare. Taṃ kira aparāparaṃ visālībhūtatāya ‘‘vesālī’’ti saṅkhaṃ gataṃ. Tatrāyaṃ anupubbakathā – bārāṇasirañño kira aggamahesiyā kucchimhi gabbho saṇṭhāsi. Sā ñatvā rañño nivedesi. Rājā gabbhaparihāraṃ adāsi. Sā sammā pariharīyamānā gabbhaparipākakāle vijāyanagharaṃ pāvisi. Puññavantīnaṃ paccūsasamaye gabbhavuṭṭhānaṃ hoti, sā ca tāsaṃ aññatarā, tena paccūsasamaye alattakapaṭalabandhujīvakapupphasadisaṃ maṃsapesiṃ vijāyi. Tato ‘‘aññā deviyo suvaṇṇabimbasadise putte vijāyanti, aggamahesī maṃsapesinti rañño purato mama avaṇṇo uppajjeyyā’’ti cintetvā tena avaṇṇabhayena taṃ maṃsapesiṃ ekasmiṃ bhājane pakkhipitvā paṭikujjitvā rājamuddikāya lañchetvā gaṅgāya sote pakkhipāpesi. Manussehi chaḍḍitamatte devatā ārakkhaṃ saṃvidahiṃsu. Suvaṇṇapaṭṭakañcettha jātihiṅgulakena ‘‘bārāṇasirañño aggamahesiyā pajā’’ti likhitvā bandhiṃsu. Tato taṃ bhājanaṃ ūmibhayādīhi anupaddutaṃ gaṅgāsotena pāyāsi.
146. Đại kinh Sư Tử Hống được bắt đầu như sau: Tôi đã được nghe như vầy [evaṃ me sutaṃ]. Ở đây, Vesāliya: ở thành phố có tên gọi như vậy. Được biết rằng thành phố đó được gọi là “Vesalī” vì trở nên rộng lớn từng bước một. Ở bài kinh này được thuyết theo tuần tự. Kể rằng Hoàng hậu của Vua Bārāṇasī đang mang thai. Sau khi biết được Hoàng hậu đã báo tin cho Vua biết. Đức vua đã ban cho những thứ vật dụng cần thiết để dưỡng thai, Hoàng hậu chăm sóc thai bào chu đáo, khi bào thai đã chín muồi [thời kỳ cuối] bà đi vào nhà để hạ sanh. Lúc trời hừng sáng vị có phước báu đã được hạ sanh từ bào thai. Ngoài vị phước báu đó, bà hạ sinh một cục thịt như những cánh hoa bandhujīvaka [hoa màu nâu đỏ] không héo úa vào lúc trời rạng sáng đó. Hoàng hậu Devī khác ngoài Hoàng hậu đó hạ sanh những đứa con trai đẹp tựa như tấm ảnh vàng vô song [suvaṇṇabimbasadiso], Hoàng hậu biết rằng là cục thịt mới suy nghĩ rằng: “Mọi người sẽ chỉ trích Ta trước mặt của Đức vua”, sau khi suy nghĩ vậy sợ bị ô nhục vì sợ chỉ trích. Vì vậy, bà đã lấy miếng thịt đặt vào một cái thùng rồi đậy nắp lại, dùng Ngọc tỷ nhà Vua đóng dấu niêm phong lại, rồi cho ném xuống dòng chảy của dòng sông Hằng. Khi cái thùng bị ném đi đã được Chư thiên sắp xếp chu đáo việc bảo vệ [đứa bé]. Họ đã khắc lên những tấm vàng với màu đỏ tươi, đã được buộc chặt trong thùng chứa đó như sau: “Con trai Hoàng hậu của Vua Bārāṇasī”. Từ đó cái thùng ấy không bị ảnh hưởng từ những nguy hiểm của các cơn sóng tấn công, mà trôi theo dòng chảy sông Hằng.
Tena ca samayena aññataro tāpaso gopālakakulaṃ nissāya gaṅgātīre viharati. So pātova gaṅgaṃ otiṇṇo taṃ bhājanaṃ āgacchantaṃ disvā paṃsukūlasaññāya aggahesi. Athettha taṃ akkharapaṭṭikaṃ rājamuddikālañchanaṃ ca disvā muñcitvā taṃ maṃsapesiṃ addasa, disvānassa etadahosi ‘‘siyā gabbho, tathā hissa duggandhapūtikabhāvo natthī’’ti. Assamaṃ netvā suddhe okāse ṭhapesi. Atha aḍḍhamāsaccayena dve maṃsapesiyo ahesuṃ. Tāpaso disvā sādhutaraṃ ṭhapesi. Tato puna aḍḍhamāsaccayena ekamekissā maṃsapesiyā hatthapādasīsānamatthāya pañca pañca piḷakā uṭṭhahiṃsu. Atha tato aḍḍhamāsaccayena ekā maṃsapesi suvaṇṇabimbasadiso dārako, ekā dārikā ahosi.
Cũng vào thời điểm đó, có một vị đạo sĩ sống nương tựa vào gia đình những người chăn bò bên bờ sông Hằng. Vào sáng sớm, vị ấy đã đi xuống sông Hằng, sau khi nhìn thấy cái thùng đang trôi đến, (vị ấy) đã nhặt lấy với suy nghĩ rằng đây là vải paṃsukūla [những mảnh vải rách bị quăng bỏ]. Sau đó, khi thấy một tấm vải có khắc các ký tự và con dấu niêm phong của hoàng gia trong cái thùng rồi mở nó ra nhìn thấy cục thịt bên trong. Trong khi nhìn thấy, đã khởi lên suy nghĩ: “Có thể là bào thai, nhưng tại sao bào thai ấy lại không có tính chất hôi, không bị thối rữa?” Nên đem về nơi ẩn cư và đặt ở chỗ sạch sẽ. Nửa tháng sau, cục thịt tách ra thành hai phần. Vị đạo sĩ thấy vậy liền chuyển chúng đặt ở một nơi tốt hơn. Nửa tháng tiếp theo, mỗi một cục thịt hình thành năm mục tròn có tay chân và đầu. Sau thêm nửa tháng nữa trôi qua, một cục thịt trở thành bé trai có vẻ đẹp rực rỡ tựa như tấm ảnh vàng vô song [suvaṇṇabimbasadiso], cục thịt tròn còn lại trở thành một bé gái.
Tesu tāpasassa puttasineho uppajji, aṅguṭṭhakato cassa khīraṃ nibbatti. Tato pabhuti ca khīrabhattaṃ alabhittha, so bhattaṃ bhuñjitvā khīraṃ dārakānaṃ mukhe āsiñcati. Tesaṃ udaraṃ yaṃ yaṃ pavisati, taṃ taṃ sabbaṃ maṇibhājanagataṃ viya dissati, evaṃ nicchavī ahesuṃ. Apare āhu ‘‘sibbetvā ṭhapitā viya nesaṃ aññamaññaṃ līnā chavi ahosī’’ti. Evaṃ te nicchavitāya vā līnacchavitāya vā licchavīti paññāyiṃsu.
Vị đạo sĩ đã sanh lòng yêu thương đối với những đứa trẻ, xem chúng như con ruột của mình. Sữa mẹ được tiết ra từ ngón tay cái của vị ấy. Khởi sự từ đó, sau khi thọ dụng vật thực vị đạo sĩ nhỏ thành từng giọt sữa vào miệng các trẻ sơ sinh. Tất cả sữa chảy vào bụng những đứa trẻ hiện ra trông giống như chảy vào bình thủy tinh— có thể được thấy rõ như vậy, bởi vì cơ thể chúng (trong suốt), như thể không có da. Một số vị đã nói rằng: “Những đứa trẻ đó đan vào nhau như thể chúng được khâu lại với nhau.” Vì lý do đó, những đứa trẻ ấy được gọi là Licchavī, bởi vì chúng không có da hoặc bị ẩn đi.
Tāpaso dārake posento ussūre gāmaṃ sikkhāya pavisati, atidivā paṭikkamati. Tassa taṃ byāpāraṃ ñatvā gopālakā āhaṃsu – ‘‘bhante, pabbajitānaṃ dārakaposanaṃ palibodho, amhākaṃ dārake detha, mayaṃ posessāma, tumhe attano kammaṃ karothā’’ti. Tāpaso sādhūti paṭissuṇi. Gopālakā dutiyadivase maggaṃ samaṃ katvā pupphehi okiritvā dhajapaṭākā ussāpetvā tūriyehi vajjamānehi assamaṃ āgatā. Tāpaso – ‘‘mahāpuññā dārakā appamādena vaḍḍhetha, vaḍḍhetvā ca aññamaññaṃ āvāhavivāhaṃ karotha, pañcagorasena rājānaṃ tosetvā bhūmibhāgaṃ gahetvā nagaraṃ māpetha, tattha kumāraṃ abhisiñcathā’’ti vatvā dārake adāsi. Te sādhūti paṭissuṇitvā dārake netvā posesuṃ.
Trong thời gian nuôi dưỡng những đứa trẻ, vị đạo sĩ thường đi vào làng rất sớm để khất thực và trở về rất trễ. Những người chăn bò, khi biết được nỗi lo của vị đạo sĩ đã nói rằng: “Thưa Ngài, việc chăm sóc những đứa trẻ gây trở ngại đối với đời sốn xuất gia, xin Ngài hãy giao những đứa trẻ cho chúng tôi, chúng tôi sẽ nuôi nấng chúng, Ngài hãy chuyên tâm thực hiện bổn phận của Ngài.” Vị đạo sĩ đáp lại: “Tốt lành thay!” Vào ngày hôm sau, những người chăn bò quét dọn con đường cho bằng phẳng, rải các loại hoa, nâng cao ngọn cờ, trỗi nhạc lên, và đi đến trú xứ, của vị đạo sĩ. Vị ấy nói rằng: “Những đứa trẻ đại phước, hãy nuôi dưỡng chúng bằng sự không xao lãng, khi chúng trưởng thành hãy tổ chức lễ cưới hỏi và lễ thành hôn cho chúng, hãy làm hài lòng nhà vua với năm loại sản phẩm làm từ sữa, hãy giữ lại một vùng đất để xây dựng kinh thành, rồi dâng lên cho bé trai, rồi giao các trẻ cho họ.” Những người chăn bò đã đồng ý: ‘Dạ thưa vâng!’ rồi dẫn bọn trẻ đi để nuôi dưỡng chúng.
Dārakā vuddhimanvāya kīḷantā vivādaṭṭhānesu aññe gopālakadārake hatthenapi pādenapi paharanti. Te rodanti. ‘‘Kissa rodathā’’ti ca mātāpitūhi vuttā ‘‘ime nimmātāpitikā tāpasapositā amhe atipaharantī’’ti vadanti. Tato tesaṃ mātāpitaro ‘‘ime dārakā aññe dārake vināsenti dukkhāpenti, na ime saṅgahetabbā, vajjetabbā ime’’ti āhaṃsu. Tato pabhuti kira so padeso vajjīti vuccati yojanasatiko parimāṇena. Atha taṃ padesaṃ gopālakā rājānaṃ tosetvā aggahesuṃ. Tattha ca nagaraṃ māpetvā soḷasavassuddesikaṃ kumāraṃ abhisiñcitvā rājānaṃ akaṃsu. Tāya cassa dārikāya saddhiṃ vivāhaṃ katvā katikaṃ akaṃsu ‘‘bāhirakadārikā na ānetabbā, ito dārikā na kassaci dātabbā’’ti. Tesaṃ paṭhamasaṃvāsena dve dārakā jātā dhītā ca putto ca. Evaṃ soḷasakkhattuṃ dve dve jātā. Tato tesaṃ dārakānaṃ yathākkamaṃ vaḍḍhantānaṃ ārāmuyyānanivāsaṭṭhānaparivārasampattiṃ gahetuṃ appahontā nagaraṃ tikkhattuṃ gāvutantarena gāvutantarena parikkhipiṃsu. Tassa punappunaṃ visālīkatattā vesālītveva nāmaṃ jātaṃ. Tena vuttaṃ ‘‘vesāliyanti evaṃ nāmake nagare’’ti.
Khi trưởng thành, trong lúc đùa giỡn, hai đứa trẻ nảy sinh cãi vã và đánh những đứa trẻ chăn bò khác bằng tay và chân. Những đứa trẻ bị đánh đã khóc. Khi cha mẹ hỏi: “Tại sao lại khóc?” — Chúng trả lời: “Hai đứa trẻ không cha không mẹ, được vị đạo sĩ nuôi dưỡng”. Từ đó cha mẹ của những đứa trẻ kia nói rằng: “Hai đứa này khiến những đứa trẻ khác bực bội và khó chịu, chúng ta không nên cấp dưỡng cho chúng nữa, hãy trục xuất chúng ra khỏi nơi đây.” Kể từ khi chuyện ấy xảy ra, vùng đất đó được gọi là Vajjī. Về sau, những người chăn bò đã đến làm hài lòng nhà vua (xin phép) giữ lấy một vùng đất có diện tích một trăm do-tuần. Và sau khi xây dựng kinh thành ở tại đó, đã làm lễ tấn phong cho hoàng tử khi vừa tròn mười sáu tuổi, và lập Ngài làm vua. Họ tổ chức lễ thành hôn cho vua với người con gái ấy, đồng thời thỏa thuận rằng: “Không được cưới thêm người con gái khác, không được để người con trai sanh ra từ dòng dõi này kết hợp với dòng dõi khác”. Với việc chung sống với nhau lần đầu tiên cả hai đã sanh được một cặp song sinh gồm một bé gái và một bé trai. Và họ tiếp tục sanh song thai như vậy đến mười sáu lần. Kể từ đó, vị vua trẻ phát triển kinh thành theo từng bước, nơi làm ruộng, vườn bách thảo, chỗ ở và các tiện nghi, không đủ nên Ngài đã mở rộng kinh thành ra thêm tận ba lần, mỗi lần cách nhau một gāvuta. Kinh thành đó mới có tên là Vesālī bởi vì phải mở rộng ra nhiều lần. Cho nên, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Vesāliya— gần kinh thành có tên gọi như vậy.”
Bahinagareti nagarassa bahi, na ambapālivanaṃ viya antonagarasmiṃ. Ayaṃ pana jīvakambavanaṃ viya nagarassa bahiddhā vanasaṇḍo. Tena vuttaṃ ‘‘bahinagare’’ti. Aparapureti purassa apare, pacchimadisāyanti attho. Vanasaṇḍeti so kira vanasaṇḍo nagarassa pacchimadisāyaṃ gāvutamatte ṭhāne. Tattha manussā bhagavato gandhakuṭiṃ katvā taṃ parivāretvā bhikkhūnaṃ rattiṭṭhānadivāṭṭhānacaṅkamaleṇakuṭimaṇḍapādīni patiṭṭhapesuṃ, bhagavā tattha viharati. Tena vuttaṃ ‘‘aparapure vanasaṇḍe’’ti. Sunakkhattoti tassa nāmaṃ. Licchavīnaṃ pana puttattā licchaviputtoti vutto. Acirapakkantoti vibbhamitvā gihibhāvūpagamanena adhunāpakkanto. Parisatīti parisamajjhe. Uttarimanussadhammāti ettha manussadhammā nāma dasakusalakammapathā. Te paṭisedhetuṃ na sakkoti. Kasmā? Upārambhabhayā. Vesāliyañhi bahū manussā ratanattaye pasannā buddhamāmakā dhammamāmakā saṅghamāmakā. Te dasakusalakammapathamattampi natthi samaṇassa gotamassāti vutte tvaṃ kattha bhagavantaṃ pāṇaṃ hanantaṃ addasa, kattha adinnaṃ ādiyantantiādīni vatvā attano pamāṇaṃ na jānāsi? Kiṃ dantā me atthīti pāsāṇasakkharā khādasi, ahinaṅguṭṭhe gaṇhituṃ vāyamasi, kakacadantesu pupphāvaḷikaṃ kīḷituṃ icchasi? Mukhato te dante pātessāmāti vadeyyuṃ. So tesaṃ upārambhabhayā evaṃ vattuṃ na sakkoti.
Ngoài thành [bahinagare]: Là ở phía bên ngoài thành, không phải bên trong thành giống như Ambapālivana [khu vườn xoài của kỹ nữ Ambapāli]. Nhưng ở bìa rừng bên ngoài kinh thành giống như khu vườn Jīvakamba. Bởi vậy Ngài đã nói rằng: “ngoài thành”. Nằm ở phía tây: Đối diện hướng đông là hướng tây. Ở khu rừng [vanasaṇḍe]: được biết rằng khu rừng này nằm cách khoảng một dặm về hướng tây của kinh thành. Khu rừng đó người ta đã xây dựng hương thất cúng dường Thế Tôn, xây dựng chỗ nghỉ ban đêm, chỗ nghỉ ban ngày, nơi đi kinh hành, hang động, am lá, lều vải cúng dường đến Tăng chúng tỳ khưu. Thế Tôn an trú ở đó. Bởi thế Ngài đã nói rằng: “Ở bìa rừng phía tây.” Sunakkhatta đó là tên của vị ấy. Ngoài ra, vị ấy được gọi là Licchavīputta vì là con trai thuộc tộc Licchavī. Đã từ bỏ Pháp và Luật này không bao lâu: là vị ấy đã hoàn tục trở lại đời sống cư sĩ tại gia không bao lâu. Ở hội chúng: Giữa tập thể. Thập thiện nghiệp đạo gọi là ‘pháp của loài người’ trong cụm từ ‘vượt trên pháp của loài người’, Sunakkhatta không thể phản bác mười đường lối tạo nghiệp thiện. Tại sao? Vì sợ bị quở trách. Do ở kinh thành Vesālī đa số người dân tịnh tín nơi Tam bảo, tôn kính Đức Phật, tôn kính Giáo Pháp, tôn kính Tăng chúng, họ trong khi nghe Sunakkhatta nói rằng Sa-môn Gotama không thực hiện dủ chỉ một trong mười đường lối tạo nghiệp thiện, (họ) cũng sẽ nói rằng: “Ngươi thấy Thế Tôn giết hại sanh mạng ở đâu? Nhìn thấy Thế Tôn lấy của không cho ở chỗ nào?” Rồi tiếp tục nói rằng: “Ngươi không biết tự mình ước chừng, Ngươi ăn đất và sỏi đá bởi nghĩ rằng (bản thân) có răng, ngươi ra sức nắm lấy đuôi con rắn, ngươi muốn đùa giỡn với những tràng hoa trên những lưỡi răng cưa hay sao? Chúng ta sẽ bẻ răng người ra khỏi miệng.” Sunakkhatta không thể nói những lời này, vì sợ bị khiển trách nặng nề từ dân chúng.
Giải Thích Về Thành Vesālī – được kết thúc
Giải Thích Về Pháp Thượng Nhân
Tato uttariṃ pana visesādhigamaṃ paṭisedhento uttarimanussadhammā alamariyañāṇadassanavisesoti āha.
Trong khi phản bác các sự chứng đắc cao quý ngoài pháp thượng nhân đã nói rằng: “(không có) pháp thượng nhân, (không có) sự biết và sự thấy thù thắng xứng đáng bậc Thánh”.
Tattha alamariyaṃ ñātunti alamariyo, ariyabhāvāya samatthoti vuttaṃ hoti. Ñāṇadassanameva ñāṇadassanaviseso. Alamariyo ca so ñāṇadassanaviseso cāti alamariyañāṇadassanaviseso. Ñāṇadassananti dibbacakkhupi vipassanāpi maggopi phalampi paccavekkhaṇañāṇampi sabbaññutaññāṇampi vuccati. ‘‘Appamatto samāno ñāṇadassanaṃ ārādhetī’’ti (ma. ni. 1.311) hi ettha dibbacakkhu ñāṇadassanaṃ nāma. ‘‘Ñāṇadassanāya cittaṃ abhinīharati abhininnāmetī’’ti (dī. ni. 1.235) ettha vipassanāñāṇaṃ. ‘‘Abhabbā te ñāṇadassanāya anuttarāya sambodhāyā’’ti (a. ni. 4.196) ettha maggo. ‘‘Ayamañño uttari manussadhammā alamariyañāṇadassanaviseso adhigato phāsu vihāro’’ti (ma. ni. 1.328) ettha phalaṃ. ‘‘Ñāṇañca pana me dassanaṃ udapādi, akuppā me cetovimutti, ayamantimā jāti, natthi dāni punabbhavo’’ti (mahāva. 16) ettha paccavekkhaṇañāṇaṃ. ‘‘Ñāṇañca pana me dassanaṃ udapādi sattāhakālaṅkato āḷāro kāḷāmo’’ti (ma. ni. 2.340) ettha sabbaññutaññāṇaṃ. Idha pana lokuttaramaggo adhippeto. Tañhi so bhagavato paṭisedheti.
Ở đó, alamariya: Do xứng đáng để biết đến bậc Thánh, giải thích rằng— có thể đưa đến bản thể thánh nhân. Chính sự biết và sự thấy gọi là tri kiến thù thắng. Sự biết và sự thấy thù thắng và điều xứng đáng bậc thánh, do đó gọi là tri kiến thù thắng xứng đáng bậc thánh. Thiên nhãn, hay thiền tuệ, hoặc đạo, hoặc quả, hoặc trí về sự quán xét lại, Trí Toàn Giác gọi là tri kiến. Thật vậy, ở đây ‘thiên nhãn’ được gọi là tri kiến— “Người (sống) không phóng dật sẽ đạt được tri kiến.[1]” Ở đây ‘thiền tuệ’ gọi là tri kiến— “vị ấy đem tâm, hướng tâm đến sự biết và sự thấy.[2]” Ở đây ‘Đạo’ gọi là tri kiến— “Những vị ấy không có thể đạt được tri kiến vô thượng đưa đến sự giác ngộ.[3]” Ở đây ‘Quả’ gọi là tri kiến— “Chúng con chứng được pháp thượng nhân khác, một tri kiến thù thắng, xứng đáng bậc Thánh và sống thoải mái, an lạc.[4]” Ở đây ‘trí về quán xét lại’ gọi là tri kiến— “Hơn nữa, sự thấy và sự biết của ta đã sanh khởi, giải thoát của ta không xao động, đây là kiếp sống cuối cùng giờ đây không còn tái sinh nữa.[5]” Ở đây, Trí Toàn Giác gọi là tri kiến: “Hơn nữa, sự thấy và sự biết của ta đã sanh khởi, Āḷāra Kāḷāma đã mệnh chung bảy ngày rồi.[6]” Còn trong trường hợp này, ‘tri kiến’ được hiểu là Đạo Siêu Thế, vì Sunakkhatta đã phản bác Đạo Siêu Thế đó của đức Thế Tôn.
Takkapariyāhatanti iminā ācariyaṃ paṭibāhati. Evaṃ kirassa ahosi – samaṇena gotamena ācariye upasaṅkamitvā sukhumaṃ dhammantaraṃ gahitaṃ nāma natthi, takkapariyāhataṃ pana takketvā evaṃ bhavissati evaṃ bhavissatīti takkapariyāhataṃ dhammaṃ desetīti. Vīmaṃsānucaritanti iminā cassa lokiyapaññaṃ anujānāti. Samaṇo gotamo paññavā, so taṃ paññāsaṅkhātaṃ indavajirūpamaṃ vīmaṃsaṃ evaṃ vaṭṭissati, evaṃ vaṭṭissatīti ito cito ca anucarāpetvā vīmaṃsāya anucaritaṃ dhammaṃ deseti. Sayaṃpaṭibhānanti imināssa dhammesu paccakkhabhāvaṃ paṭibāhati. Evaṃ hissa ahosi – samaṇassa gotamassa sukhumaṃ dhammantaraṃ vipassanā vā maggo vā phalaṃ vā paccavekkhaṇā vā natthi, ayaṃ pana laddhapariso, rājānaṃ cakkavattiṃ viya naṃ cattāro vaṇṇā parivārenti, suphusitaṃ panassa dantāvaraṇaṃ, mudukā jivhā, madhuro saro, anelagaḷā vācā, so yaṃ yadevassa upaṭṭhāti, taṃ taṃ gahetvā sayaṃpaṭibhānaṃ kathento mahājanaṃ rañjetīti.
Để phủ nhận các vị thầy rằng: diễn tả điều đã thu thập được do sự suy tư. Được biết Sunakkhatta đã khởi lên ý nghĩ như vầy— “Do Sa-môn Gotama sau khi đi đến các vị thầy đã không nhận lấy tuần tự các pháp vi tế. Mà vị ấy chỉ bảo giáo pháp về điều đã thu thập được do sự suy tư rằng: ‘sẽ là như thế, sẽ là như thế’, do suy luận về điều đã thu thập được do sự suy tư.’” Về điều đã đeo đuổi với sự thẩm xét— Chấp nhận trí tuệ Hiệp Thế của Sa-môn Gotama. Sa-môn Gotama có trí tuệ, vị ấy thẩm xét như lưỡi tầm sét của thần Inda được xem là tuệ ấy đi bên này và bên kia rằng: ‘sẽ vận hành như vầy, sẽ vận hành như vầy’, (vị ấy) chỉ bảo giáo pháp thuận theo sự thẩm xét. Về điều phát hiện của bản thân— Từ chối trạng thái biết rõ ở các Pháp của Sa-môn Gotama. Thật vậy, Sunakkhatta có suy nghĩ như vầy— Thiền tuệ, Đạo, Quả, hoặc trí về quán xét lại theo tuần tự pháp vi tế là không có đối với Sa-môn Gotama, tuy nhiên, (vị ấy) có được Hội chúng này, bốn giai cấp tháp tùng giống như Vua Chuyển Luân; ngoài ra, hàm răng của vị ấy đều đặn, lưỡi mềm mại, có âm giọng ngọt ngào, lời nói không lỗi lầm; điều nào khởi lên cho chư Thiên, vị ấy đã nắm giữ điều đó, rồi thuyết giảng về điều phát hiện của bản thân, khiến cho đại chúng hoan hỷ.”
Yassa ca khvāssa atthāya dhammo desitoti yassa ca kho atthāya assa dhammo desito. Seyyathidaṃ, rāgapaṭighātatthāya asubhakammaṭṭhānaṃ, dosappaṭighātatthāya mettābhāvanā, mohapaṭighātatthāya pañca dhammā, vitakkūpacchedāya ānāpānassati.
Pháp được Thế Tôn thuyết giảng vì lợi ích đối với người nào: Và Pháp này Ngài chỉ bào vì sự lợi ích đối với người nào. Như là— Bất tịnh nghiệp xứ nhằm diệt trừ luyến ái, tu tập tâm nhằm diệt trừ sân hận, năm Pháp nhằm diệt trừ si mê, đề mục niệm hơi thở vào-hơi thở ra nhằm cắt đứt suy tầm.
So niyyāti takkarassa sammā dukkhakkhayāyāti so dhammo yo taṃ yathādesitaṃ karoti, tassa takkarassa sammā hetunā nayena kāraṇena vaṭṭadukkhakkhayāya niyyāti gacchati tamatthaṃ sādhetīti dīpeti. Idaṃ panesa na attano ajjhāsayena vadati. Buddhānañhi dhammo aniyyānikoti evamevaṃ pavedeyya, na pana sakkoti vattuṃ. Kasmā? Upārambhabhayā. Vesāliyañhi bahū sotāpanna-sakadāgāmi-anāgāmiupāsakā. Te evaṃ vadeyyuṃ ‘‘sunakkhatta tvaṃ bhagavatā desitadhammo aniyyānikoti vadasi, yadi ayaṃ dhammo aniyyāniko, imasmiṃ nagare ime kasmā ettakā sotāpannā jātā, ettakā sakadāgāmī, ettakā anāgāmīti pubbe vuttanayena upārambhaṃ kareyyu’’nti. So iminā upārambhabhayena aniyyānikoti vattuṃ asakkonto ajjunena vissaṭṭhakaṇḍaṃ viya assa dhammo amogho niyyāti, abbhantare panassa kiñci natthīti vadati.
Dẫn dắt đưa đến sự hoàn toàn diệt tận khổ đau cho người thực hành theo: Sunakkhatta nói rằng— Pháp ấy, người nào thực hành điều đó đúng như đã được chỉ bảo, Pháp đó dẫn dắt ra khỏi, đi đến, đưa đến sự hoàn toàn diệt tận khổ luân hồi bằng nguyên nhân, bằng suy luận, bằng lý lẽ, cho người thực hành theo Pháp đã được thuyết giảng, tức là làm cho lợi ích đó được thành tựu. Tuy nhiên, Sunakkhatta đã không nói đến ý nghĩa này đây theo khuynh hướng của bản thân mà nói như vầy: “Thật vậy, Pháp của đức Phật không dẫn dắt ra khỏi,” nhưng không thể nói. Tại sao? Bởi vì sợ bị khiển trách. Thật vậy, trong thành Vesālī có rất nhiều cận sự nam là vị Nhập Lưu, vị Nhất Lai và vị Bất Lai. Họ có thể nói như vầy— “Này Sunakkhatta, ngươi nói rằng: ‘Pháp được đức Thế Tôn thuyết giảng không dẫn dắt ra khỏi, Pháp này không phải là phương tiện dẫn dắt ra khỏi, vậy tại sao trong kinh thành này, lại sản sinh ra chừng ấy vị Nhập Lưu, chừng ấy vị Nhất Lai, chừng ấy vị Bất Lai?’ Họ có thể khiển trách ta theo phương thức đã nói trước đó.’” Vị ấy khi không thể nói rằng: “Pháp này không dẫn dắt ra khỏi (luân hồi) vì sợ bị khiển trách, mới nói rằng: ‘Pháp của Sa-môn Gotama ấy không trống rỗng, dẫn dắt ra khỏi giống như một khúc gỗ đã được vứt bỏ nhưng không bị đốt cháy. Nhưng Sa-môn Gotama chẳng có thứ gì bên trong cả.’”
Assosi khoti vesāliyaṃ brāhmaṇakulaseṭṭhikulādīsu tattha tattha parisamajjhe evaṃ bhāsamānassa taṃ vacanaṃ suṇi, na pana paṭisedhesi. Kasmā? Kāruññatāya. Evaṃ kirassa ahosi ayaṃ kuddho jhāyamānaṃ veḷuvanaṃ viya pakkhittaloṇaṃ uddhanaṃ viya ca kodhavasena paṭapaṭāyati, mayā paṭibāhito pana mayipi āghātaṃ bandhissati, evamassa tathāgate ca mayi cāti dvīsu janesu āghāto atibhāriyo bhavissatīti kāruññatāya na paṭisedhesi. Api cassa evaṃ ahosi, buddhānaṃ avaṇṇakathanaṃ nāma puṇṇacande dosāropanasadisaṃ, ko imassa kathaṃ gaṇhissati? Sayameva kheḷe pacchinne mukhe sukkhe oramissatīti iminā kāraṇena na paṭisedhesi. Piṇḍapātapaṭikkantoti piṇḍapātapariyesanato apagato.
Đã nghe [assosi kho]: khi Sunakkhatta đã nói như vậy giữa hội chúng ấy, trong các gia đình Bà-la-môn, gia đình thương buôn, v.v, trong thành Vesālī, sau khi trưởng lão Sarīputta nghe những lời nói đó không phản đối. Tại sao? Bởi vì Ngài có lòng từ bi. Được biết Trưởng lão Sārīputta suy nghĩ như vầy— “Sunakkhatta gắng sức tranh đấu với sức mạnh của lòng thù hận giống như cây tre bị đốt, và giống như muối bị bỏ vào lò lửa, Sunakkhatta bị Ta khước từ sẽ ôm lòng thù hận nơi Ta, khi bị vậy thì Sunakkhatta sẽ càng cột chặt lòng thù hận mãnh liệt hơn với cả hai là với Thiện Thệ và cả đối với Ta.” Vì vậy, Ngài không phản đối vì lòng từ bi. Lại nữa, Trưởng lão Sārīputta nghĩ rằng: “Nói lời trách móc đến Chư Phật chẳng khác nào đỗ hết lỗi vào mặt trăng tròn– ai sẽ tin lời của Sunakkhatta? Hắn nói đến hết nước bọt, khô cả miệng rồi cũng sẽ tự dừng việc khiển trách mà thôi.” Do đó, Trưởng lão Sārīputta không phản đối vì lòng từ mẫn này. Trong khi đi khất thực trở về: Trở về từ việc đi khất thực.
147. Kodhanoti caṇḍo pharuso. Moghapurisoti tucchapuriso. Yassa hi tasmiṃ attabhāve maggaphalānaṃ upanissayo natthi, taṃ buddhā ‘‘moghapuriso’’ti vadanti. Upanissaye satipi tasmiṃ khaṇe magge vā phale vā asati ‘‘moghapuriso’’ti vadantiyeva. Imassa pana tasmiṃ attabhāve maggaphalānaṃ upanissayo samucchinnoyeva, tena taṃ ‘‘moghapuriso’’ti āha. Kodhā ca panassa esā vācā bhāsitāti esā ca panassa vācā kodhena bhāsitā.
147. Phẫn nộ là người cộc cằn là người thô lỗ. Kẻ rồ dại: kẻ rỗng không. Thật vậy, Chư Phật gọi người không y cứ vào Đạo và Quả ở tự thân là kẻ rồ dại. Thậm chí có chỗ y cứ nhưng Đạo và Quả không có ở sát-na đó cũng gọi là kẻ rồ dại. Nhưng Sunakkhatta đã cắt đứt chỗ y cứ của Đạo và Quả ở tự thân. Do đó, đức Thế Tôn gọi Sunakkhatta là kẻ rồ dại. Và do phẫn nộ nên ngươi nói lên lời ấy: Và hơn nữa, lời nói của Sunakkhatta, đã nói với sự giận dữ.
Kasmā panesa bhagavato kuddhoti? Ayañhi pubbe bhagavantaṃ upasaṅkamitvā dibbacakkhuparikammaṃ pucchi. Athassa bhagavā kathesi. So dibbacakkhuṃ nibbattetvā ālokaṃ vaḍḍhetvā devaloke olokento nandanavanacittalatāvanaphārusakavanamissakavanesu dibbasampattiṃ anubhavamāne devaputte ca devadhītaro ca disvā etesaṃ evarūpāya attabhāvasampattiyā ṭhitānaṃ kīvamadhuro nu kho saddo bhavissatīti saddaṃ sotukāmo hutvā dasabalaṃ upasaṅkamitvā dibbasotadhātuparikammaṃ pucchi. Bhagavā panassa dibbasotadhātuyā upanissayo natthīti ñatvā parikammaṃ na kathesi. Na hi buddhā upanissayavirahita tassa parikammaṃ kathenti. So bhagavati āghātaṃ bandhitvā cintesi ‘‘ahaṃ samaṇaṃ gotamaṃ paṭhamaṃ dibbacakkhuparikammaṃ pucchiṃ, so ‘mayhaṃ taṃ sampajjatu vā mā vā sampajjatū’ti kathesi. Ahaṃ pana paccattapurisakārena taṃ nibbattetvā dibbasotadhātuparikammaṃ pucchiṃ, taṃ me na kathesi. Addhāssa evaṃ hoti ‘ayaṃ rājapabbajito dibbacakkhuñāṇaṃ nibbattetvā dibbasotadhātuñāṇaṃ nibbattetvā cetopariyañāṇaṃ nibbattetvā āsavānaṃ khayañāṇaṃ nibbattetvā mayā samasamo bhavissatī’ti issāmacchariyavasena mayhaṃ na kathetī’’ti. Bhiyyo so āghātaṃ bandhitvā kāsāyāni chaḍḍetvā gihibhāvaṃ patvāpi na tuṇhībhūto vicarati. Dasabalaṃ pana asatā tucchena abbhācikkhanto vicarati. Tenāha bhagavā ‘‘kodhā ca panassa esā vācā bhāsitā’’ti.
Vì sao? Sunakkhatta phẫn nộ với đức Thế Tôn? Bởi vì trước đó, Sunakkhatta đến yết kiến đức Thế Tôn để hỏi về đề mục chuẩn bị nhằm đạt được Thiên Nhãn. Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy vị ấy làm sanh khởi thiên nhãn bằng cách phát triển tưởng đến ánh sáng, hướng tâm nhìn lên thế giới chư Thiên thấy được chư Thiên nam và chư Thiên nữ đang thọ hưởng sự thành tựu ở Thiên giới tại các khu vườn Nandana, khu vườnCittalatā, khu vườn Phārusaka và khu vườn Missaka. Sau đó, với mong muốn nghe được tiếng của chư Thiên nam và chư Thiên nữ, được an trú trong sự thành tựu ở tự thân với hình thức như vậy sẽ có giọng nói ngọt ngào đến dường nào? Sau khi đến yết kiến đấng Thập Lực đã hỏi về đề mục chuẩn bị nhằm đạt được Thiên Nhĩ Giới. Tuy nhiên, đức Thế Tôn sau khi biết rằng— Sunakkhatta không đủ điều kiện để đạt được Thiên Nhĩ Giới nên đã không nói về đề mục chuẩn bị cho vị ấy. Bởi vì Chư Phật sẽ không giảng dạy đề mục chuẩn bị cho bất cứ ai không có đủ điều kiện. Hắn đã ôm lòng thù hận với đức Thế Tôn, nghĩ rằng: “Lần trước ta đã hỏi Sa-môn Gotama về đề mục chuẩn bị nhằm đạt đến Thiên Nhãn, Ngài đã nói: ‘Điều đó hãy thành tựu, hoặc không thành tựu cho tôi’. Ngoài ra, ta đã làm cho sanh khởi điều đó do việc làm của mỗi cá nhân, rồi mới hỏi đến đề mục chuẩn bị Thiên Nhĩ Giới, nhưng đức Thế Tôn lại không nói cho ta điều đó. Có lẽ Ngài nghĩ rằng: “Sunakkhatta này xuất gia từ dòng dõi vua chúa, sau khi làm sanh khởi Thiên Nhãn Thông, sau khi làm sanh khởi Thiên Nhĩ Thông, sau khi làm sanh khởi Tha Tâm Thông, sau khi làm sanh khởi Lậu Tận Minh sẽ trở hành ngang bằng ta’ cho nên, Ngài đã không nói cho ta do tác động sự ganh tỵ và bỏn xẻn.’” Vị ấy càng ôm lòng thù hận hơn nữa nên đã cởi bỏ y ca-sa trên người trở thành cư sĩ. Không dừng lại ở đó hắn đi khắp nơi xuyên tạc đấng Thập Lực với sự trống rỗng không thật. Vì lý do đó, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Và lời nói mà hắn nói ra cũng do phẫn nộ.”
Vaṇṇo heso, sāriputtāti, sāriputta, tathāgatena satasahassakappādhikāni cattāri asaṅkhyeyyāni pāramiyo pūrentena etadatthameva vāyāmo kato ‘‘desanādhammo me niyyāniko bhavissatī’’ti. Tasmā yo evaṃ vadeyya, so vaṇṇaṃyeva tathāgatassa bhāsati. Vaṇṇo heso, sāriputta, tathāgatassa guṇo eso tathāgatassa, na aguṇoti dasseti.
Này Sāriputta… là tán thán Như Lai: Này Sāriputta, Như Lai làm tròn đủ mười pháp ba-la-mật suốt bốn a-tăng-kỳ và hơn trăm ngàn đại kiếp, đã thực hành sự tin tấn chính vì những lợi ích đó— “Việc thuyết giảng Giáo Pháp của Ta sẽ dẫn dắt ra khỏi.” Vì thế, người nào nói như vậy, người ấy nói lời tán thán Như Lai. Ngài thuyết rằng: “Này Sāriputra, là tán thán phẩm hạnh của Như Lai, chứ không phải là phi phẩm hạnh.”
Ayam pi hi nāma sāriputtātiādinā kiṃ dasseti? Sunakkhattena paṭisiddhassa uttarimanussadhammassa attani atthitaṃ dasseti. Bhagavā kira ayaṃ, sāriputta, sunakkhatto moghapuriso natthi tathāgatassa uttarimanussadhammoti vadati. Mayhañca sabbaññutaññāṇaṃ nāma atthi, iddhividhañāṇaṃ nāma atthi, dibbasotadhātuñāṇaṃ nāma atthi, cetopariyañāṇaṃ nāma atthi, dasabalañāṇaṃ nāma atthi, catuvesārajjañāṇaṃ nāma atthi, aṭṭhasu parisāsu akampanañāṇaṃ nāma atthi, catuyoniparicchedakañāṇaṃ nāma atthi, pañcagatiparicchedakañāṇaṃ nāma atthi, sabbepi cete uttarimanussadhammāyeva. Evarūpesu uttarimanussadhammesu ekassāpi vijānanasamatthaṃ dhammanvayamattampi nāma etassa moghapurisassa na bhavissatīti etamatthaṃ dassetuṃ ayampi hi nāma sāriputtātiādinā nayena imaṃ desanaṃ ārabhi. Tattha anvetīti anvayo, jānāti , anubujjhatīti attho. Dhammassa anvayo dhammanvayo, taṃ taṃ sabbaññutaññāṇādidhammaṃ jānanapaññāyetaṃ adhivacanaṃ. ‘‘Itipi so bhagavā’’tiādīhi evarūpampi nāma mayhaṃ sabbaññutaññāṇasaṅkhātaṃ uttarimanussadhammaṃ vijjamānameva atthīti jānituṃ tassa moghapurisassa dhammanvayopi na bhavissatīti dasseti. Iddhividhañāṇādīsupi evaṃ yojanā veditabbā.
“Này Sāriputta, đối với Sunakkhatta kẻ rồ dại kia…” Thuyết điều gì? Thuyết về pháp thượng nhân mà Sunakkhatta bác bỏ có ở nơi Ngài. Được biết rằng đức Thế Tôn thuyết điều này, này Sāriputta, Sunakkhatta là kẻ rồ dại nói rằng pháp thượng nhân của Như Lai không có. Và Ta gọi là có Trí toàn tri, là có Trí về thể loại của thần thông, là có trí về thiên nhĩ giới, là có Trí biết được tâm (Tha Tâm Thông), là có thập lực trí, là có Trí về bốn vô sở uý, là có Trí không sợ hãi giữa tám hội chúng, là có trí quyết định bốn cách sanh, là có trí tuệ quyết định năm cảnh giới tái sanh, tất cả những Pháp đó cũng là Pháp thượng nhân. Theo lẽ thường dẫu tùy thuận theo pháp mà có thể biết được Pháp thượng nhân dù chỉ một câu trong số các Pháp thượng nhân có hình thức như vậy sẽ không có nơi kẻ rồ dại đó. Ở đấy, anveti: là đi theo, là biết, sự tùy thuận theo pháp là có sự hiểu biết đúng đắn, lời đó là tên gọi của trí tuệ cho biết được pháp có Trí toàn tri. “itipi so bhagavā” v.v, trình bày rằng dẫu sự hiểu biết đúng đắn sẽ không có nơi kẻ rồ dại đó, để biết rằng pháp bậc thượng nhân, gọi là Trí toàn tri của ta có hình thức như vậy tồn tại thật sự. Nên biết sự kết hợp này trong tất cả các loại trí có Trí về thể loại của thần thông v.v, là như thế.
Giải Thích Pháp Bậc Thượng Nhân Kết Thúc
Giải Thích Thập Lực Trí
148. Ettha ca kiñcāpi cetopariyañāṇānantaraṃ tisso vijjā vattabbā siyuṃ, yasmā pana tāsu vuttāsu upari dasabalañāṇaṃ na paripūrati, tasmā tā avatvā tathāgatassa dasabalañāṇaṃ paripūraṃ katvā dassento dasa kho panimāni sāriputtātiādimāha. Tattha tathāgatabalānīti aññehi asādhāraṇāni tathāgatasseva balāni. Yathā vā pubbabuddhānaṃ balāni puññussayasampattiyā āgatāni, tathā āgatabalānītipi attho. Tattha duvidhaṃ tathāgatabalaṃ kāyabalañca ñāṇabalañca. Tesu kāyabalaṃ hatthikulānusārena veditabbaṃ. Vuttañhetaṃ porāṇehi –
‘‘Kālāvakañca gaṅgeyyaṃ, paṇḍaraṃ tambapiṅgalaṃ;
Gandhamaṅgalahemañca, uposathachaddantime dasā’’ti.
[148] Và dù vậy Tam Minh cũng có thể được nói đến theo tuần tự Tha Tâm Thông ở đây. Nhưng bởi vì trong khi nói đến Tam Minh ấy thì Thập Lực Trí ở trên không trở nên trọn vẹn. Do đó, mới không nói đến Tam Minh đó, mà thuyết làm cho trọn vẹn Thập Lực Trí của đức Như Lai, mới nói rằng: “Này Sāriputta, Như Lai có đầy đủ mười Như Lai lực…” v.v. Trong các lực ấy, mười Như Lai lực— Các lực này chỉ có ở Như Lai không phổ biến với những người khác. Hơn nữa, các lực của chư Phật trong quá khứ được đã đạt được bởi sự thành tựu phước báu và sự thành tựu uy quyền như thế nào; có nghĩa là– các lực đã đạt được (của Như Lai ở hiện tại) cũng như thế ấy. Trong các lực ấy, Như Lai lực có 2 loại là thân lực và trí lực. Trong hai lực ấy, thân lực nên được hiểu theo thứ tự của các giống voi. Bởi vì việc này đã được các bậc tiền bối nói như sau:
Có mười giống loài voi là Kālāvaka, Gaṅgeyya, Paṇḍara, Tamba, Piṅgala, Gandha, Maṅgala, Hema, Uposatha và Chaddanta.
Imāni hi dasa hatthikulāni. Tattha kālāvakanti pakatihatthikulaṃ daṭṭhabbaṃ. Yaṃ dasannaṃ purisānaṃ kāyabalaṃ, taṃ ekassa kālāvakahatthino. Yaṃ dasannaṃ kālāvakānaṃ balaṃ, taṃ ekassa gaṅgeyyassa. Yaṃ dasannaṃ gaṅgeyyānaṃ, taṃ ekassa paṇḍarassa. Yaṃ dasannaṃ paṇḍarānaṃ, taṃ ekassa tambassa. Yaṃ dasannaṃ tambānaṃ, taṃ ekassa piṅgalassa. Yaṃ dasannaṃ piṅgalānaṃ, taṃ ekassa gandhahatthino. Yaṃ dasannaṃ gandhahatthīnaṃ, taṃ ekassa maṅgalassa. Yaṃ dasannaṃ maṅgalānaṃ, taṃ ekassa hemavatassa. Yaṃ dasannaṃ hemavatānaṃ, taṃ ekassa uposathassa. Yaṃ dasannaṃ uposathānaṃ, taṃ ekassa chaddantassa. Yaṃ dasannaṃ chaddantānaṃ taṃ ekassa tathāgatassa. Nārāyanasaṅghātabalantipi idameva vuccati . Tadetaṃ pakatihatthigaṇanāya hatthīnaṃ koṭisahassānaṃ purisagaṇanāya dasannaṃ purisakoṭisahassānaṃ balaṃ hoti. Idaṃ tāva tathāgatassa kāyabalaṃ.
Đây là mười giống voi. Trong số mười giống voi ấy, nên biết rằng— Kālāvaka là giống voi bình thường. Sức mạnh một con voi Kālāvaka bằng sức mạnh của mười người đàn ông cộng lại; Sức mạnh của mười con voi Kālāvaka bằng sức mạnh của một con voi Gaṇgeyya; Sức mạnh của mười con voi Gaṇgeyya bằng sức mạnh của một con voi Paṇḍara; Sức mạnh của mười con voi Paṇḍara bằng sức mạnh của một con voi Tamba; Sức mạnh của mười con voi Tamba bằng sức mạnh của một con voi Piṅgala; Sức mạnh của mười con voi Piṅgala bằng sức mạnh của một con voi Gandha; Sức mạnh của mười con voi Gandha bằng sức mạnh của một con voi Maṅgala; Sức mạnh của mười con voi Maṅgala bằng sức mạnh của một con voi Hema; Sức mạnh của mười con voi Hema bằng sức mạnh của một con voi Uposatha; Sức mạnh của mười con voi Uposatha bằng sức mạnh của một con voi Chaddanta; Sức mạnh của mười con voi Chaddanta mới bằng sức mạnh của đức Như Lai; Như Lại lực này gọi là sức mạnh Nārāyana cũng được. Sức mạnh này nếu là sức mạnh của loài voi bình thường ngang bằng một ngàn koṭi[7] con voi. Nếu tính theo sức mạnh của con người thì tương đương với sức mạnh của mười ngàn koṭi người hợp lại. Đây chính là Thân Lực (sức mạnh thể chất) của đức Như Lai.
Ñāṇabalaṃ pana pāḷiyaṃ tāva āgatameva. Dasabalañāṇaṃ, catuvesārajjañāṇaṃ, aṭṭhasu parisāsu akampanañāṇaṃ, catuyoniparicchedakañāṇaṃ, pañcagatiparicchedakañāṇaṃ. Saṃyuttake (saṃ. ni. 2.34) āgatāni tesattati ñāṇāni sattasattati ñāṇānīti evaṃ aññānipi anekāni ñāṇasahassāni, etaṃ ñāṇabalaṃ nāma. Idhāpi ñāṇabalameva adhippetaṃ. Ñāṇañhi akampiyaṭṭhena upatthambhanaṭṭhena ca balanti vuttaṃ.
Còn trí lực [ñāṇabala] đã được nói đến trong Chánh Tạng Pāḷi. Hàng ngàn trí tuệ khác như thế này là thập lực trí, bốn vô sở uý trí, trí không run sợ trước tám đạo quân hùng mạnh, trí tuệ quyết định bốn cách sanh, trí tuệ quyết định năm cảnh giới tái sanh, 73 loại trí, 77 loại trí nguồn kinh Tương Ưng Bộ[8] đó gọi là trí lực. Trường hợp này, Ngài chỉ muốn nói đến trí lực. Bởi vì trí Ngài sắp xếp thành sức mạnh với ý nghĩa không lay động, và ý nghĩa sự hỗ trợ.
Yehi balehi samannāgatoti yehi dasahi ñāṇabalehi upeto samupeto. Āsabhaṃ ṭhānanti seṭṭhaṭṭhānaṃ uttamaṭṭhānaṃ. Āsabhā vā pubbabuddhā, tesaṃ ṭhānanti attho. Apica gavasatajeṭṭhako usabho, gavasahassajeṭṭhako vasabho. Vajasatajeṭṭhako vā usabho, vajasahassajeṭṭhako vasabho. Sabbagavaseṭṭho sabbaparissayasaho seto pāsādiko mahābhāravaho asanisatasaddehipi akampaniyo nisabho, so idha usabhoti adhippeto. Idampi hi tassa pariyāyavacanaṃ. Usabhassa idanti āsabhaṃ. Ṭhānanti catūhi pādehi pathaviṃ uppīḷetvā acalaṭṭhānaṃ. Idaṃ pana āsabhaṃ viyāti āsabhaṃ. Yatheva hi nisabhasaṅkhāto usabho usabhabalena samannāgato catūhi pādehi pathaviṃ uppīḷetvā acalaṭṭhānena tiṭṭhati, evaṃ tathāgatopi dasahi tathāgatabalehi samannāgato catūhi vesārajjapādehi aṭṭhaparisapathaviṃ uppīḷetvā sadevake loke kenaci paccatthikena paccāmittena akampiyo acalaṭṭhānena tiṭṭhati. Evaṃ tiṭṭhamānova taṃ āsabhaṃ ṭhānaṃ paṭijānāti, upagacchati na paccakkhāti attani āropeti. Tena vuttaṃ ‘‘āsabhaṃ ṭhānaṃ paṭijānātī’’ti.
Yehi balehi samannāgato [có sức mạnh nào]: Thành tựu với mười tuệ lực nào. āsabhaṃ ṭhānanṃ (địa vị Ngưu Vương) là vị trí cao cả nhất, là vị trí cao thượng nhất. Vị trí của đức Phật trong thời quá khứ, là vị trí nhà lãnh đạo. Lại nữa, con bò đực trong số 100 con bò gọi là usabha, con bò đực trong số 1000 con bò gọi là vasabha; và lại nữa con bò đực trong số 100 con bò gọi là usabha, con bò đực trong số 1000 con bò gọi là vasabha. Con bò đầu đàn đứng đầu cả đàn bảo vệ sự an toàn cho cả đàn, trắng tinh, oai nghiêm, gánh vác trách nhiệm trọng đại, không lay động trước trăm tiếng sấm sét gọi là con bò chúa hay con bò đầu đàn, con bò chúa đó Ngài muốn ám chỉ đến ‘usabha’ ở đây. Bởi vì từ nisabha [con bò chúa] này là tên gọi của con bò usabha [bò đầu đàn] theo cách nói gián tiếp. Gọi là āsabha [con bò có sức mạnh phi thường] này bởi ý nghĩa của usabha [bò đầu đàn]. Từ ṭhāna nghĩa là giống như bò chúa usabha sau khi giẫm đặt trên mặt đất bằng bốn chân rồi đứng vững không lây động, cho nên gọi là āsabha. Bò chúa usabha được gọi là nisabha bởi thành tựu sức mạnh của bò chúa asubha giẫm đặt chân bằng bốn chân rồi đứng vững không lay động như thế nào; cũng tương tự y như thế, Như Lai thành tựu với mười Như Lai lực, giẫm lên mặt đất là 8 hội chúng, bằng đôi chân là bốn vô sở úy trí, không khiếp sợ khi đối diện với bất kỳ kẻ địch nào cả ở thế giới nhân loại cho đến thế giới chư Thiên, an trú không dao động. Khi an trú như thế ấy gọi là tuyên bố, tức là đi đến địa vị người đứng đầu, không thối lui, thiết lập nơi Ngài. Bởi vậy mới nói rằng: “āsabhaṃ ṭhānaṃ paṭijānāti = tự nhận cho mình địa vị Ngưu Vương [người đứng đầu].”
Parisāsūti aṭṭhasu parisāsu. Sīhanādaṃ nadatīti seṭṭhanādaṃ abhītanādaṃ nadati, sīhanādasadisaṃ vā nādaṃ nadati. Ayamattho sīhanādasuttena dīpetabbo. Yathā vā sīho sahanato hananato ca sīhoti vuccati, evaṃ tathāgato lokadhammānaṃ sahanato parappavādānañca hananato sīhoti vuccati. Evaṃ vuttassa sīhassa nādaṃ sīhanādaṃ. Tattha yathā sīho sīhabalena samannāgato sabbattha visārado vigatalomahaṃso sīhanādaṃ nadati, evaṃ tathāgatasīhopi tathāgatabalehi samannāgato aṭṭhasu parisāsu visārado vigatalomahaṃso iti rūpantiādinā nayena nānāvidhadesanāvilāsasampannaṃ sīhanādaṃ nadati. Tena vuttaṃ ‘‘parisāsu sīhanādaṃ nadatī’’ti. Brahmacakkaṃ pavattetīti ettha brahmanti seṭṭhaṃ uttamaṃ visiṭṭhaṃ. Cakka-saddo panāyaṃ –
Sampattiyaṃ lakkhaṇe ca, rathaṅge iriyāpathe;
Dāne ratanadhammūra-cakkādīsu ca dissati;
Dhammacakke idha mato, tañca dvedhā vibhāvaye.
Trong các hội chúng [parisāsu]: Trong tám hội chúng. Gầm lên tiếng gầm loài sư tử [sīhanādaṃ nadati]: Gầm lên tiếng gầm sư tử tối thượng nhất, tiếng gầm không khiếp sợ bất cứ ai, hoặc gầm lên tiếng gầm của loài sư tử chúa. Ý nghĩa này cần được làm sáng tỏ trong Kinh Tiếng Gầm Sư Tử [Sīhanādasutta]. Ngoài ra, sư tử chúa gọi là sư tử bởi khả năng chế ngự và sát hại [các loài khác] như thế nào; tương tự y như vậy, Như Lai được gọi là sư tử vì (Ngài) chế ngự tất cả các pháp thế gian và phá bỏ các học thuyết của các giáo phái khác. Việc gầm lên của sư tử như thế được gọi là Sīhanāda [tiếng gầm của sư tử]. Trong câu đó giải thích rằng— sư tử chúa được thành tựu nhờ vào sức mạnh của loài sư tử, sự sởn lông tóc đã được xa lìa, gầm lên tiếng gầm sư tử ở mọi nơi như thế nào; tương tự y như thế ấy, Như Lai là (giống như) sư tử chúa được thành tựu nhờ Như Lai lực, sự sởn lông tóc đã được xa lìa, gầm lên tiếng gầm sư tử, có lời dạy rộng rãi dưới nhiều phương diện khác nhau như sau— “sắc như vầy” trong 8 hội chúngc. Do đó, Ngài đã nói rằng: “Gầm lên tiếng gầm sư tử trong các hội chúng.” Chuyển vận Pháp Luân tối thượng— Ở đây, ‘Brahmaṃ’ là tối thượng, cao cả, phi thường. Hơn nữa, từ ‘bánh xe’ này:
Được xuất hiện trong các sự thành tựu, đặc điểm, bộ phận của xe, oai nghi, bố thí, châu báu, bánh xe sắt [đặt trên ngực như một công cụ tra tấn] và bánh xe Pháp v.v, ở đây được hiểu là bánh xe pháp, và bánh xe pháp được chia thành 2 loại.
‘‘Cattārimāni, bhikkhave, cakkāni, yehi samannāgatānaṃ devamanussāna’’ntiādīsu (a. ni. 4.31) hi ayaṃ sampattiyaṃ dissati. ‘‘Pādatalesu cakkāni jātānī’’ti (dī. ni. 2.35) ettha lakkhaṇe. ‘‘Cakkaṃva vahato pada’’nti (dha. pa. 1) ettha rathaṅge. ‘‘Catucakkaṃ navadvāra’’nti (saṃ. ni. 1.29) ettha iriyāpathe. ‘‘Dadaṃ bhuñja mā ca pamādo, cakkaṃ pavattaya sabbapāṇina’’nti (jā. 1.7.149) ettha dāne. ‘‘Dibbaṃ cakkaratanaṃ pāturahosī’’ti (dī. ni. 2.243) ettha ratanacakke. ‘‘Mayā pavattitaṃ cakka’’nti (su. ni. 562) ettha dhammacakke. ‘‘Icchāhatassa posassa, cakkaṃ bhamati matthake’’ti (jā. 1.1.104; 1.5.103) ettha uracakke. ‘‘Khurapariyantena cepi cakkenā’’ti (dī. ni. 1.166) ettha paharaṇacakke. ‘‘Asanivicakka’’nti (dī. ni. 3.61; saṃ. ni. 2.162) ettha asanimaṇḍale. Idha panāyaṃ dhammacakke adhippeto.
Thât vậy, cakka được xuất hiện (với ý nghĩa) là ‘sự thành tựu’ trong câu sau— “Này các Tỳ-khưu, chư Thiên và nhân loại đạt đến sự thành tựu với bốn bánh xe nào, bốn bánh xe này.”[9] Ở đây, (với ý nghĩa) đặc điểm như trong câu— “Ở dưới lòng bàn chân của đứa bé trai này có vòng bánh xe.”[10] Ở đây, (với ý nghĩa) bộ phận của xe như trong câu— “Giống như bánh xe chuyển động theo bước chân của con vật đang kéo xe.”[11] Ở đây, (với ý nghĩa) các oai nghi như trong câu— “Bốn bánh xe và chín cái cửa.”[12] Ở đây, với ý nghĩa bố thí như trong câu— “Hãy bố thí, hãy thọ dụng, và đừng dễ duôi, hãy bố thí đến chúng sanh có mạng sống.”[13] Ở đây, (với ý nghĩa) bánh xe báu như trong câu— “Bánh xe báu thuộc cõi trời đã xuất hiện.”[14] Ở đây, (với ý nghĩa) bánh xe pháp như trong câu— Bánh xe đã được chuyển vận bởi Ta.”[15] Ở đây, (với ý nghĩa) bánh xe sắt như trong câu— “Bánh xe quay tròn ở trên đầu của kẻ bị hành hạ do ước muốn chế ngự.”[16] Ở đây, (với ý nghĩa) vũ khí sắc bén như trong câu—“Nếu lấy một bánh xe sắc bén.”[17] Ở đây, (với ý nghĩa) quầng sáng của tia chớp như trong câu: “Ánh sáng của tia chớp.”[18] Còn ở đây, bánh xe này được hiểu là bánh xe pháp.
Taṃ pana dhammacakkaṃ duvidhaṃ hoti paṭivedhañāṇañceva desanāñāṇañca. Tattha paññāpabhāvitaṃ attano ariyabalāvahaṃ paṭivedhañāṇaṃ. Karuṇāpabhāvitaṃ sāvakānaṃ ariyabalāvahaṃ desanāñāṇaṃ. Tattha paṭivedhañāṇaṃ uppajjamānaṃ uppannanti duvidhaṃ. Tañhi abhinikkhamanato yāva arahattamaggā uppajjamānaṃ, phalakkhaṇe uppannaṃ nāma. Tusitabhavanato vā yāva mahābodhipallaṅke arahattamaggā uppajjamānaṃ, phalakkhaṇe uppannaṃ nāma. Dīpaṅkaradasabalato paṭṭhāya vā yāva arahattamaggā uppajjamānaṃ, phalakkhaṇe uppannaṃ nāma. Desanāñāṇampi pavattamānaṃ pavattanti duvidhaṃ. Tañhi yāva aññātakoṇḍaññassa sotāpattimaggā pavattamānaṃ, phalakkhaṇe pavattaṃ nāma. Tesu paṭivedhañāṇaṃ lokuttaraṃ, desanāñāṇaṃ lokiyaṃ. Ubhayampi panetaṃ aññehi asādhāraṇaṃ, buddhānaṃyeva orasañāṇaṃ.
Ngoài ra, bánh xe pháp đó có 2 loại là trí về sự triệt ngộ và trí về sự thấy (trí giáo hóa chúng sinh). Trong hai loại trí ấy, trí tuệ sau khi được huấn luyện sẽ mang lại Thánh quả nơi tự thân gọi là trí về sự triệt ngộ. Tâm từ sau khi được huấn luyện mang lại Thánh quả cho vị Thánh đệ tử gọi là trí về sự thấy. Trí về sự triệt ngộ có 2 là đang sanh và đã sanh. Trí về sự triệt ngộ ấy kể từ lúc Ngài rời khỏi gia đình để xuất gia cho đến khi chứng đắc A-ra-hán Đạo gọi là ‘đang sanh’, trí về sự triệt ngộ ở sát-na Quả gọi là ‘đã sanh’. Lại nữa, trí về sự triệt ngộ từ cõi trời Đâu Suất cho đến A-ra-hán Đạo ở tại đại thọ Bồ-đề gọi là ‘đang sanh’, ở sát-na Quả gọi là ‘đã sanh’. Trí về sự triệt ngộ kể từ thời đức Phật Dīpaṇkara cho đến A-ra-hán Đạo gọi là ‘đang sanh’, trí về sự triệt ngộ ở sát-na Quả gọi là ‘đã sanh’. Và trí về sự thấy cũng có 2 là đang vận hành và đã vận hành. Thật vậy, trí về sự thấy kể từ trưởng lão Aññākoñḍañña thành tựu Nhập Lưu Đạo gọi là ‘đang vận hành’, ở sát-na Quả gọi là ‘đã vận hành’. Trong số 2 loại trí ấy— trí về sự triệt ngộ là Siêu Thế, trí về sự thấy là Hiệp Thế. Hơn nữa, 2 loại trí này cũng không phổ biến đối với những người khác, chúng là trí chánh thống chỉ có ở nơi đức Phật.
Idāni yehi balehi samannāgato tathāgato āsabhaṃ ṭhānaṃ paṭijānāti, yāni āditova ‘‘dasa kho panimāni, sāriputta, tathāgatassa tathāgatabalānī’’ti nikkhittāni, tāni vitthārato dassetuṃ katamāni dasa? Idha, sāriputta, tathāgato ṭhānañca ṭhānatotiādimāha. Tattha ṭhānañca ṭhānatoti kāraṇañca kāraṇato. Kāraṇañhi yasmā tattha phalaṃ tiṭṭhati tadāyattavuttiyāya uppajjati ceva pavattati ca, tasmā ṭhānanti vuccati. Taṃ bhagavā ‘‘ye ye dhammā yesaṃ yesaṃ dhammānaṃ hetū paccayā uppādāya, taṃ taṃ ṭhānaṃ. Ye ye dhammā yesaṃ yesaṃ dhammānaṃ na hetū na paccayā uppādāya, taṃ taṃ aṭṭhāna’’nti pajānanto ṭhānañca ṭhānato aṭṭhānañca aṭṭhānato yathābhūtaṃ pajānāti. Abhidhamme panetaṃ, ‘‘tattha katamaṃ tathāgatassa ṭhānañca ṭhānato aṭṭhānañca aṭṭhānato yathābhūtaṃ ñāṇa’’ntiādinā (vibha. 809) nayena vitthāritameva. Yampīti yena ñāṇena. Idampi, sāriputta, tathāgatassāti idampi ṭhānāṭṭhānañāṇaṃ tathāgatassa tathāgatabalaṃ nāma hotīti attho. Evaṃ sabbapadesu yojanā veditabbā.
Như Lai thành tựu với sức mạnh nào mới tự nhận địa vị Ngưu Vương [người dẫn đầu], và sức mạnh nào nâng lên ban đầu như sau: “Này Sariputta, Như Lai có đầy đủ mười Như Lai lực” bây giờ để thuyết chi tiết về sức mạnh đó nên mới thuyết rằng— “Mười lực của đức Như Lai là gì? Này Sāriputta, Như Lai biết được điều hợp lý là hợp lý” như vậy. Trong câu đó điều hợp lý là hợp lý: và có lý lẽ theo lý lẽ. Thật vậy, lý lẽ gọi là vị trí bởi vì làm nơi thiết lập của Quả– là chỗ sanh và là chỗ vận hành của quả, do tính chất uả vận hành từ nhân đó. Thế Tôn khi biết rõ điều hợp lý ấy, pháp nào làm nhân làm duyên cho pháp nào do nương vào pháp đó thì được gọi là điều hợp lý. Pháp nào không làm nhân làm duyên cho pháp nào do nương vào pháp đó được gọi là điều không hợp lý, biết rõ như thật về điều hợp lý là hợp lý và điều phi lý là phi lý. Lý lẽ ấy đã được giải thích chi tiết trong bộ Abhidhamma như sau— “Trong trí tuệ đó, sự biết đúng theo thực thể về điều hợp lý là hợp lý và điều phi lý là phi lý của Như Lai là như thế nào?”[19] Yampī: bằng trí tuệ nào. Ở đây, này Sāriputta, sức mạnh của Như Lai: là trí tuệ biết rõ điều hợp lý và điều phi lý gọi là sức mạnh của Thiện Thệ. Nên biết rằng ý nghĩa toàn bộ câu như vậy.
Kammasamādānānanti samādiyitvā katānaṃ kusalākusalakammānaṃ, kammameva vā kammasamādānaṃ. Ṭhānaso hetusoti paccayato ceva hetuto ca. Tattha gatiupadhikālapayogā vipākassa ṭhānaṃ. Kammaṃ hetu. Imassa pana ñāṇassa vitthārakathā ‘‘atthekaccāni pāpakāni kammasamādānāni gatisampattipaṭibāḷhāni na vipaccantī’’tiādinā (vibha. 810) nayena abhidhamme āgatāyeva.
Sự thọ nhận về nghiệp: là nghiệp thiện và nghiệp bất thiện đã được thực hành theo sự thọ trì, hoặc chỉ là hành động, hoặc là sự thọ trì về nghiệp. Tùy theo sự kiện, tùy theo chủng tử: Theo nhân và theo duyên. Trong câu đó sự đi [gati], sanh y [upadhi], thời gian [kāla] và phương tiện [payoga] là sự kiện của kết quả. Nguyên nhân của kết quả là hành động. Ngoài ra, lời nói chi tiết của trí này đã được đề cập trong bộ Abhidhamma theo phương thức sau: “Sự thọ nhận về nghiệp một số ác nghiệp tồn tại đưa đến sự thành tựu các cảnh giới tái sanh bị trở ngại không cho kết quả.”[20]
Sabbatthagāmininti sabbagatigāminiṃ agatigāminiñca. Paṭipadanti maggaṃ. Yathābhūtaṃ pajānātīti bahūsupi manussesu ekameva pāṇaṃ ghātentesu imassa cetanā nirayagāminī bhavissati, imassa cetanā tiracchānayonigāminīti iminā nayena ekavatthusmimpi kusalākusalacetanāsaṅkhātānaṃ paṭipattīnaṃ aviparītato sabhāvaṃ jānāti. Imassa ca ñāṇassa vitthārakathā ‘‘tattha katamaṃ tathāgatassa sabbatthagāminiṃ paṭipadaṃ yathābhūtaṃ ñāṇaṃ? Idha tathāgato ayaṃ maggo ayaṃ paṭipadā nirayagāmīti pajānātī’’tiādinā (vibha. 811) nayena abhidhamme āgatāyeva.
Đưa đến tất cả các cõi tái sanh: là dẫn dắt chúng sanh đi đến các sanh thú và không cho đi đến các sanh thú. Sự thực hành: là đạo lộ. Tuệ tri…đúng theo thực thể: Biết được thực tính không bị thay đổi trong sự thực hành, được xem là tác ý thiện [kusalacetanā] và tác ý bất thiện [akusalacetanā] cả trong một sắc vật [vatthu] theo cách này, khi nhiều người sát hại dù chỉ một sinh mạng thì tác ý của người này sẽ dẫn người đó đi đến địa ngục, tác ý của người này sẽ dẫn đi tái sanh làm loài bàng sanh. Ngoài ra, lời nói chi tiết của trí này đã được đề cập trong bộ Abhidhamma theo phương thức sau: “Ở đây, sự biết đúng theo thực thể sự thực hành đưa đến tất cả các cõi tái sanh của Như Lai là như thế nào? Như Lai ở thế gian này biết rõ đây là đạo, đây là còn đường thực hành dẫn dắt chúng sanh đi địa ngục..”[21]
Anekadhātunti cakkhudhātuādīhi kāmadhātuādīhi vā dhātūhi bahudhātuṃ. Nānādhātunti tāsaṃyeva dhātūnaṃ vilakkhaṇatāya nānappakāradhātuṃ. Lokanti khandhāyatanadhātulokaṃ. Yathābhūtaṃ pajānātīti tāsaṃ tāsaṃ dhātūnaṃ aviparītato sabhāvaṃ paṭivijjhati. Idampi ñāṇaṃ ‘‘tattha katamaṃ tathāgatassa anekadhātunānādhātulokaṃ yathābhūtaṃ ñāṇaṃ, idha tathāgato khandhanānattaṃ pajānātī’’tiādinā nayena abhidhamme vitthāritameva.
Có vô số bản chất: Nhiều yếu tố là nhãn giới, v.v, hoặc dục giới, v.v. Có bản chất khác biệt: Bản chất có nhiều khác biệt do có trạng thái đặc biệt của chính các giới ấy. Thế giân: Thế gian gồm uẩn, xứ và giới. Tuệ tri…đúng theo thực thể: Thấu triệt thực tính không bị thay đổi của các giới đó. Ngoài ra, lời nói chi tiết của trí này đã được đề cập trong bộ Abhidhamma theo phương thức sau: “Ở đây, sự biết đúng theo thực thể thế gian là có vô số bản chất và có các bản chất khác biệt của Như Lai như thế nào? Ở thế gian này Như Lai biết rõ trạng thái khác biệt nơi ngũ uẩn.”
Nānādhimuttikatanti hīnādīhi adhimuttīhi nānādhimuttikabhāvaṃ. Idampi ñāṇaṃ, ‘‘tattha katamaṃ tathāgatassa sattānaṃ nānādhimuttikataṃ yathābhūtaṃ ñāṇaṃ, idha tathāgato pajānāti santi sattā hīnādhimuttikā’’ti ādinā nayena abhidhamme vitthāritameva.
Có khuynh hướng khác biệt: Trạng thái có khuynh hướng khác biệt với khuynh hướng hạ liệt v.v. Trí tuệ này cũng được giải thích rõ trong Abhidhamma theo cách sau: “Ở đây, sự biết đúng theo thực thể tất cả chúng sanh có khuynh hướng sai biệt của Như Lai như thế nào? Ở thế gian này, đức Như Lai biết rõ rằng tất cả chúng sanh có khuynh hướng hạ liệt.”
Parasattānanti padhānasattānaṃ. Parapuggalānanti tato paresaṃ hīnasattānaṃ. Ekatthameva vā etaṃ padadvayaṃ. Veneyyavasena pana dvedhā vuttaṃ. Indriyaparopariyattanti saddhādīnaṃ indriyānaṃ parabhāvaṃ aparabhāvañca, vuddhiñca hāniñcāti attho. Imassapi ñāṇassa vitthārakathā – ‘‘tattha katamaṃ tathāgatassa parasattānaṃ parapuggalānaṃ indriyaparopariyattaṃ yathābhūtaṃ ñāṇaṃ, idha tathāgato sattānaṃ āsayaṃ pajānāti anusayaṃ pajānātī’’tiādinā (vibha. 814) nayena abhidhamme āgatāyeva.
Của các chúng sinh khác: của các chúng sanh đứng đầu. Của các cá nhân khác: của các chúng sanh hạ liệt khác từ các chúng sanh đứng đầu. Cả 2 câu đó có ý nghĩa như nhau nhưng được nói làm 2 với các chúng sanh có khả năng lãnh hội được Giáo lý. Khả năng về các quyền [indriyaparopariyattaṃ]: Các căn có đức tin v.v, thượng và hạ, tức là sự phát triển và sự suy giảm. Ngoài ra, lời nói chi tiết của trí này đã được đề cập trong bộ Abhidhamma theo phương thức sau: “Ở đây, sự biết theo đúng sự thật đến các chúng sanh khác, những hạng người khác có các căn cao và thấp của Như Lai như thế nào? Ở thế gian này, đức Như Lai biết rõ sở chấp, biết rõ tùy miên.”[22]
Jhānavimokkhasamādhisamāpattīnanti paṭhamādīnaṃ catunnaṃ jhānānaṃ rūpī rūpāni passatītiādīnaṃ aṭṭhannaṃ vimokkhānaṃ savitakkasavicārādīnaṃ tiṇṇaṃ samādhīnaṃ paṭhamajjhānasamāpattiādīnañca navannaṃ anupubbasamāpattīnaṃ. Saṃkilesanti hānabhāgiyadhammaṃ. Vodānanti visesabhāgiyadhammaṃ. Vuṭṭhānanti ‘‘vodānampi vuṭṭhānaṃ. Tamhā tamhā samādhimhā vuṭṭhānampi vuṭṭhāna’’nti (vibha. 828) evaṃ vuttapaguṇajjhānañceva bhavaṅgaphalasamāpattiyo ca. Heṭṭhimaṃ heṭṭhimañhi paguṇajjhānaṃ uparimassa uparimassa padaṭṭhānaṃ hoti. Tasmā ‘‘vodānampi vuṭṭhāna’’nti vuttaṃ. Bhavaṅgena pana sabbajjhānehi vuṭṭhānaṃ hoti. Phalasamāpattiyā nirodhasamāpattito vuṭṭhānaṃ hoti. Taṃ sandhāya ‘‘tamhā tamhā samādhimhā vuṭṭhānampi vuṭṭhāna’’nti vuttaṃ. Idampi ñāṇaṃ ‘‘tattha katamaṃ tathāgatassa jhānavimokkhasamādhisamāpattīnaṃ saṃkilesaṃ vodānaṃ vuṭṭhānaṃ yathābhūtaṃ ñāṇaṃ, jhāyīti cattāro jhāyī, atthekacco jhāyī sampattiṃyeva samānaṃ vipattīti paccetī’’tiādinā (vibha. 828) nayena abhidhamme vitthāritaṃ. Sattannaṃ ñāṇānaṃ vitthārakathāvinicchayo sammohavinodaniyaṃ vibhaṅgaṭṭhakathāyaṃ vutto. Pubbenivāsānussatidibbacakkhuñāṇakathā visuddhimagge vitthāritā. Āsavakkhayakathā bhayabherave.
Của thiền, của giải thoát, của định, và của sự chứng đạt: Bốn tầng thiền có sơ thiền v.v, — Tám sự giải thoát như hành giả có sắc được nhìn thấy tất cả sắc v.v, — Ba định có tầm và có tứ, v.v, — và chín sự chứng đạt theo tuần tự có sự thể nhập sơ thiền. Ô nhiễm: Pháp dẫn đến sự suy giảm. Sự thanh lọc: Pháp dẫn đến sự tăng trưởng. Sự ra khỏi: Thiền được thực hành khéo léo [paguṇajjhānaṃ] và có hộ kiếp thể nhập thánh quả [bhavaṅgaphalasamāpatti] đã được nói như vầy— “sự thanh lọc cũng là sự thoát ra khỏi,” cả việc thoát ra khỏi sự thể nhập đó cũng là việc thoát ra khỏi,” (vibha. 828); bởi sơ thiền được thực hành khéo léo đưa đến thiền sơ khởi làm nhân cận cho thiền cao hơn. Do đó, “sự thanh lọc cũng gọi là sự thoát ra khỏi,” hơn nữa, là sự thoát ra khỏi từ các thiền bằng hộ kiếp. Là sự thoát ra khỏi sự thể nhập thiền diệt có được bởi sự thể nhập thánh quả. Ngài muốn đề cập đến sự thoát ra khỏi đó mới nói rằng: “Sự thoát ra khỏi từ sự thể nhập đó gọi là sự ra khỏi.” Trí này cũng được giải thích chi tiết trong Abhidhamma theo cách sau: “Ở đây, sự biết đúng theo thực thể về phiền não, sự thanh lọc, sự thoát ra của thiền, của giải thoát, của định, và của sự chứng đạt của Như Lai là như thế nào? Người đắc bốn thiền gọi là người đắc thiền, một vài vị đắc thiền thọ hưởng sự thể nhập có sự tồn tại đó.” Việc lý giải đến Trí Toàn Tri bằng lời dẫn giải đã được nói trong Chú-giải bộ Phân Tích là Sammohavinodanī. Giảng về trí nhớ lại các kiếp sống quá khứ và trí về thiên nhãn được giảng giải chi tiết trong bộ Visuddhimagga. Giảng về sự cạn kiệt các lậu được giảng giải chi tiết trong bài Kinh Khiếp Đảm và Sợ Hãi.
149. Imāni kho sāriputtāti yāni pubbe ‘‘dasa kho panimāni, sāriputta, tathāgatassa tathāgatabalānī’’ti avocaṃ, imāni tānīti appanaṃ karoti. Tattha paravādīkathā hoti – dasabalañāṇaṃ nāma pāṭiyekkaṃ natthi, sabbaññutaññāṇassevāyaṃ pabhedoti. Taṃ na tathā daṭṭhabbaṃ. Aññameva hi dasabalañāṇaṃ, aññaṃ sabbaññutaññāṇaṃ. Dasabalañāṇañhi sakasakakiccameva jānāti. Sabbaññutañāṇaṃ tampi tato avasesampi pajānāti. Dasabalañāṇesu hi paṭhamaṃ kāraṇākāraṇameva jānāti. Dutiyaṃ kammantaravipākantarameva. Tatiyaṃ kammaparicchedameva. Catutthaṃ dhātunānattakāraṇameva. Pañcamaṃ sattānaṃ ajjhāsayādhimuttimeva. Chaṭṭhaṃ indriyānaṃ tikkhamudubhāvameva. Sattamaṃ jhānādīhi saddhiṃ tesaṃ saṃkilesādimeva. Aṭṭhamaṃ pubbenivutthakhandhasantatimeva. Navamaṃ sattānaṃ cutipaṭisandhimeva. Dasamaṃ saccaparicchedameva. Sabbaññutaññāṇaṃ pana etehi jānitabbañca tato uttariñca pajānāti. Etesaṃ pana kiccaṃ na sabbaṃ karoti. Tañhi jhānaṃ hutvā appetuṃ na sakkoti, iddhi hutvā vikubbituṃ na sakkoti, maggo hutvā kilese khepetuṃ na sakkoti. Apica paravādī evaṃ pucchitabbo – ‘‘dasabalañāṇaṃ nāma etaṃ savitakkasavicāraṃ avitakkavicāramattaṃ avitakkaavicāraṃ kāmāvacaraṃ rūpāvacaraṃ arūpāvacaraṃ lokiyaṃ lokuttara’’nti? Jānanto paṭipāṭiyā satta ñāṇāni savitakkasavicārānīti vakkhati. Tato parāni dve avitakkaavicārānīti vakkhati. Āsavakkhayañāṇaṃ siyā savitakkasavicāraṃ, siyā avitakkavicāramattaṃ, siyā avitakkaavicāranti vakkhati. Tathā paṭipāṭiyā satta kāmāvacarāni, tato parāni dve rūpāvacarāni, avasāne ekaṃ lokuttaranti vakkhati, sabbaññutaññāṇaṃ pana savitakkasavicārameva kāmāvacarameva lokiyamevāti vakkhati.
149. Này Sāriputta, sức mạnh của Như Lai— Đức Thế Tôn thuyết lập lại rằng “ Này Sariputta, Như Lai có đầy đủ mười Như Lai lực.” Trong trường hợp này, có thể có lời tranh cãi rằng mười thập lực trí không thể tách riêng [từng loại trí], chỉ có Trí Toàn Tri mới có thể làm được điều đó, điều đó không nên hiểu như vậy bởi vì thập lực trí là một chuyện, Trí Toàn Tri lại là chuyện khác. Thập lực trí chỉ biết được phận sự của chính mình. Còn Trí Toàn Trí biết được phận sự của chính mình và biết được phận sự khác ngoài phận sự của chính mình. Trong thập lực trí— Trí thứ nhất chỉ biết được nhân và không phải nhân. Trí thứ hai chỉ biết được tuần tự nghiệp và tuần tự quả. Trí thứ ba chỉ biết ranh giới của nghiệp. Trí thứ tư chỉ biết được nguyên nhân của sự khác biệt trong các giới [dhātu]. Trí thứ năm chỉ biết căn tánh và khuynh hướng của tất cả chúng sanh [ajjhāsayādhimutti]. Trí thứ sáu chỉ biết được sự chín mùi [mạnh mẽ, sắc bén] và yếu ớt của các căn. Trí thứ bảy chỉ biết được phận sự có sự cấu uế v.v, của căn đó. Trí thứ tám chỉ biết được sự liên tục của uẩn đã từng tồn tại trong các kiếp sống quá khứ. Trí thứ chín chi biết sự chết và tục sanh của tất cả chúng sanh. Trí thứ mười chỉ biết việc xác định các Chân Lý. Còn Trí Toàn Tri biết rõ phận sự đáng biết bằng trí ấy, biết rõ những thứ cao hơn nữa. Nhưng thập lực trí không thể thực hiện được mọi thứ. Bởi trí đó mà thiền cũng không thể đạt đến an chỉ định, thần thông cũng không thể thể hiện được thần lực. Đạo cũng không thể tẩy sạch phiền não. Lại nữa, lời phản đối nên được hỏi như thế này— “Gọi là thập lực trí này ‘hữu tầm hữu tứ’ hoặc ‘hữu tầm vô tứ’, hoặc ‘hữu tứ vô tầm’, là Dục giới, hoặc Sắc giới, là Hiệp Thế hay Siêu Thế?” (vị ấy) sẽ nói rằng trí từ 1-7 hữu tầm hữu tứ, 2 trí tiếp theo từ trí thứ 7 đó là ‘vô tầm vô tứ’; Lậu Tận Trí có thể là ‘có tầm có tứ’, có thể là ‘vô tầm hữu tứ’, có thể là ‘vô tầm vô tứ’. Cũng vậy, sẽ nói rằng trí liên tiếp từ 1-7 là Dục giới, 2 trí ngoài ra ngoại trừ [7 trí vừa nói] là Sắc giới, trí cuối cùng là Siêu Thế. (vị ấy) sẽ nói rằng— Còn Trí Toàn Tri là ‘hữu tầm hữu tứ’, là Dục giới, và cũng là Siêu Thế.
Evamettha anupadavaṇṇanaṃ katvā idāni yasmā tathāgato paṭhamaṃyeva ṭhānāṭṭhānañāṇena veneyyasattānaṃ āsavakkhayādhigamassa ceva anadhigamassa ca ṭhānāṭṭhānabhūtaṃ kilesāvaraṇābhāvaṃ passati, lokiyasammādiṭṭhiṭṭhānadassanato niyatamicchādiṭṭhiṭṭhānābhāvadassanato ca. Atha nesaṃ kammavipākañāṇena vipākāvaraṇābhāvaṃ passati, tihetukapaṭisandhidassanato. Sabbatthagāminīpaṭipadāñāṇena kammāvaraṇābhāvaṃ passati, anantariyakammābhāvadassanato. Evaṃ anāvaraṇānaṃ anekadhātunānādhātuñāṇena anukūladhammadesanatthaṃ cariyavisesaṃ passati, dhātuvemattadassanato. Atha nesaṃ nānādhimuttikatāñāṇena adhimuttiṃ passati, payogaṃ anādiyitvāpi adhimuttivasena dhammadesanatthaṃ. Athevaṃ diṭṭhādhimuttīnaṃ yathāsatti yathābalaṃ dhammaṃ desetuṃ indriyaparopariyattañāṇena indriyaparopariyattaṃ passati, saddhādīnaṃ tikkhamudubhāvadassanato. Evaṃ pariññātindriyaparopariyattā pana te sace dūre honti, paṭhamajjhānādīsu vasībhūtattā iddhivisesena te khippaṃ upagacchati. Upagantvā ca nesaṃ pubbenivāsānussatiñāṇena pubbajātibhāvanaṃ, dibbacakkhuñāṇānubhāvato pattabbena cetopariyañāṇena sampati cittavisesaṃ passanto āsavakkhayañāṇānubhāvena āsavakkhayagāminiyā paṭipadāya vigatasammohattā āsavakkhayāya dhammaṃ deseti. Tasmā iminā anukkamena imāni dasabalāni vuttānīti veditabbāni.
Sau khi đã giải thích thứ tự các phần này như vậy, giờ đây (cần hiểu rằng) bởi vì ngay từ đầu, đức Như Lai thấy được sự vắng mặt của chướng ngại do phiền não về việc đắc chứng và không đắc chứng cho chúng sanh loài hữu tình với sự hợp lý và không hợp lý, do nhìn thấy sự hợp lý của chánh kiến thuộc Hiệp Thế và nhìn thấy sự không hợp lý của tà kiến cố định. Sau đó, Ngài thấy được sự vắng mặt ở quả chướng ngại với trí về quả thành tựu của nghiệp, do nhìn thấy tâm tục sinh liên kết với ba nhân (vô tham, vô sân, và vô si). Ngài thấy được sự vắng mặt của chướng ngại do nghiệp với trí về lối thực hành đưa đến tất cả các nơi, do nhìn thấy sự không hiện hữu của vô gián nghiệp. Như vậy, Ngài thấy được tánh đặc biệt nhằm mục đích thuyết giảng Giáo Pháp phù hợp với trí về vô số bản chất và có các bản chất khác biệt của sự không chướng ngại, do nhìn thấy sự khác biệt của các bản chất. Tiếp theo, Ngài thấy được khuynh hướng với trí về tính chất khuynh hướng khác biệt của chúng sanh loài hữu tình, nhằm mục đích thuyết giảng Giáo Pháp do tác động khuynh hướng đó mà không liên kết với sự nỗ lực. Khi ấy, để thuyết giảng Giáo Pháp tùy theo khả năng, tùy theo sức lực của các chúng sanh loài hữu tình có tánh khí đã được nhìn thấy như vậy, Ngài thấy được khả năng của người khác về các quyền bởi trí biết được khả năng của người khác về các quyền, do nhìn thấy tính chất sắc bén (mạnh) và tính chất yếu ớt (yếu) của các quyền có tín quyền, v.v. Hơn nữa, nếu như các chúng sanh loài hữu tình sau khi đã biết toàn diện khả năng của người khác về các quyền như vậy (mạnh và yếu) ở xa, bản thể chúng sanh loài hữu tình thiện xảo trong các tầng thiền có Sơ thiền, v.v, đạt đến một cách nhanh chóng bởi trạng thái thuần thục về thần thông. Và sau khi đạt đến bằng sự quan sát đời sống trước đây của chúng sanh loài hữu tình với trí nhớ về các kiếp sống trước, trong khi thấy sự thành tựu đặc biệt về tâm bằng trí biết được tâm người khác mà đạt được nhờ oai lực trí về thiên nhãn, (Ngài) thuyết giảng Pháp đưa đến sự cạn kiệt các lậu hoặc, do trạng thái đã xa lìa sự mê muội về sự thực hành đưa đến sự cạn kiệt các lậu hoặc bằng oai lực của trí về sự cạn kiệt của các lậu hoặc. Do đó, cần phải hiểu rằng theo trình tự này, mười lực của Như Lai đã được nói đến.
Taṃ, sāriputta, vācaṃ appahāyātiādīsu puna evarūpiṃ vācaṃ na vakkhāmīti vadanto taṃ vācaṃ pajahati nāma. Puna evarūpaṃ cittaṃ na uppādessāmīti cintento cittaṃ pajahati nāma. Puna evarūpaṃ diṭṭhiṃ na gaṇhissāmīti pajahanto diṭṭhiṃ paṭinissajjati nāma, tathā akaronto neva pajahati, na paṭinissajjati. So yathābhataṃ nikkhitto evaṃ nirayeti yathā nirayapālehi āharitvā niraye ṭhapito, evaṃ niraye ṭhapitoyevāti veditabbo.
Taṃ, Sāriputta, vācaṃ appahāya [Này Sāriputta, nếu người ấy không từ bỏ lời nói ấy] khi người nói rằng ta sẽ không nói lời nói bằng hình thức như vậy gọi là từ bỏ lời nói ấy. Khi nghĩ rằng ta sẽ không làm cho sanh suy nghĩ bằng hình thức như vậy gọi là từ bỏ suy nghĩ. Khi từ bỏ quan điểm rằng ta sẽ không chấp lấy cái thấy bằng hình thức như thế nữa gọi là từ bỏ quan điểm. Khi không thực hành điều đó gọi là không từ bỏ, không dứt bỏ. So yathābhataṃ nikkhitto evaṃ niraye [người ấy sẽ bị rơi vào địa ngục như đã bị chôn] nên biết rằng người ấy bị đọa vào địa ngục giống như bị người cai ngục mang đến quăng vào trong địa ngục.
Idānissa atthasādhakaṃ upamaṃ dassento seyyathāpītiādimāha. Tattha sīlasampannotiādīsu lokiyalokuttarā sīlasamādhipaññā veditabbā. Lokuttaravaseneva vinivattetumpi vaṭṭati. Ayañhi sammāvācākammantājīvehi sīlasampanno, sammāvāyāmasatisamādhīhi samādhisampanno, sammādiṭṭhisaṅkappehi paññāsampanno. So evaṃ sīlādisampanno bhikkhu yathā diṭṭheva dhamme imasmiṃyeva attabhāve aññaṃ ārādheti arahattaṃ pāpuṇāti, evaṃ sampadamidaṃ, sāriputta, vadāmi imampi kāraṇaṃ evarūpameva. Yathā hi maggānantaraṃ avirajjhitvāva phalaṃ nibbattati, evameva imassāpi puggalassa cutianantaraṃ avirajjhitvāva niraye paṭisandhi hotīti dasseti. Sakalasmiñhi buddhavacane imāya upamāya gāḷhataraṃ katvā vuttaupamā nāma natthi.
Bây giờ, để nêu lên ví dụ thích hợp với nội dung Ngài đã nói rằng— Seyyathāpi [cũng như] v.v. Trong câu đó ‘thành tựu về giới’ nên biết rằng muốn nói đến giới định tuệ thuộc Hiệp Thế và Siêu Thế. Tất cả sẽ được xếp vào Siêu Thế cũng được. Tỳ khưu có chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng gọi là thành tựu về giới; Chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định gọi là thành tựu với định; có chánh kiến và chánh tư duy gọi là thành tựu với tuệ. Vị tỳ khưu ấy thành tựu giới v.v., như thế này đây, đạt được bản thể A-ra-hán ngay ở bản thể này, (tức là) ngay chính bản ngã này đây thế nào; Này Sāriputta, Ta nói ví dụ này, là lý do này với chính hình thức như thế tương tự như vậy. Bởi vì, Ngài chỉ bảo rằng: Tâm Quả không bị gián đoạn theo tuần tự với tâm Đạo được sanh khởi thế nào; Đối với kẻ này (Sunakkhatta) là tái sanh vào địa ngục không bị gián đoạn theo tuần tự của tâm tử cũng tương tự y như vậy. Trong toàn bộ Phật ngôn không còn ví dụ nào sâu sắc hơn ví dụ này.
150. Vesārajjānīti ettha sārajjapaṭipakkho vesārajjaṃ, catūsu ṭhānesu sārajjābhāvaṃ paccavekkhantassa uppannasomanassamayañāṇassetaṃ nāmaṃ. Sammāsambuddhassa te paṭijānatoti ahaṃ sammāsambuddho, sabbe dhammā mayā abhisambuddhāti evaṃ paṭijānato tava. Anabhisambuddhāti ime nāma dhammā tayā anabhisambuddhā. Tatra vatāti tesu vata anabhisambuddhāti evaṃ dassitadhammesu. Sahadhammenāti sahetunā sakāraṇena vacanena sunakkhatto viya vippalapanto appamāṇaṃ. Nimittametanti ettha puggalopi dhammopi nimittanti adhippeto. Taṃ puggalaṃ na passāmi, yo maṃ paṭicodessati, taṃ dhammaṃ na passāmi, yaṃ dassetvā ayaṃ nāma dhammo tayā anabhisambuddhoti maṃ paṭicodessatīti ayamettha attho. Khemappattoti khemaṃ patto, sesapadadvayaṃ imasseva vevacanaṃ. Sabbañhetaṃ vesārajjañāṇameva sandhāya vuttaṃ. Dasabalassa hi ayaṃ nāma dhammo tayā anabhisambuddhoti codakaṃ puggalaṃ vā codanākāraṇaṃ anabhisambuddhadhammaṃ vā apassato sabhāvabuddhoyeva vā samāno ahaṃ buddhosmīti vadāmīti paccavekkhantassa balavataraṃ somanassaṃ uppajjati. Tena sampayuttaṃ ñāṇaṃ vesārajjaṃ nāma. Taṃ sandhāya ‘‘khemappatto’’tiādimāha. Evaṃ sabbattha attho veditabbo.
[150] Ở đây, pháp vô sở úy [vesārajjāni] là sự chống lại tính nhút nhát, sợ hãi gọi là pháp vô sở úy. Đây được gọi là trí thành tựu từ sự hoan hỷ sanh lên cho người suy xét đến sự sợ hãi trong 4 trường hợp. Ngài tự nhận mình là bậc Chánh đẳng Chánh giác [sammāsambuddhassa te paṭijānato]: Ngài tự nhận như vầy— Ta là bậc A-ra-hán, bậc Chánh đẳng Chánh giác hiểu biết toàn diện tất cả các Pháp. Anabhisambuddhā [Các pháp này chưa được chứng ngộ hoàn toàn]: các Pháp này Ngãi vẫn chưa chứng ngộ hoàn toàn. Tatra vata: trong Pháp được thuyết như vầy vẫn chưa được chứng ngộ. Sahadhammena [chỉ trích ta với lý do]: bằng lời nói có nguyên nhân, có lý do giống như Sunakkhatta phàn nàn không giới hạn. Ở đây, đây là cơ sở– được hiểu là hạng người, Pháp, hoặc cơ sở. Ta không thấy người nào có thể khiển trách; Ta cũng không thấy Pháp nào, khi ta thuyết giảng, họ có thể khiển trách Ta rằng: Pháp tên này Ngài vẫn chưa chứng ngộ hoàn toàn. Là người đạt được sự an toàn: Đạt đến sự yên tĩnh. Hai câu còn lại là từ đồng nghĩa của câu này. Toàn bộ câu đó đề cập đến trí về bốn vô sở úy. Quả thật, đối với đấng Thập Lực, Pháp tên này Ngài vẫn chưa chứng ngộ hoàn toàn, hoặc trong khi quán xét— Ngài không thấy người nào có thể khiển trách, hoặc lý do để khiển trách ta; cũng không có pháp nào mà Ta chưa chứng ngộ hoàn toàn (rằng): ‘Ta là đức Phật hoàn toàn theo bản thể,’ nói rằng: ‘Ta là đức Phật’; — thì niềm hoan hỷ mạnh mẽ khởi lên.” Trí tương ưng với hỷ ấy gọi là vô sở úy. Để đề cập đến vô sở úy đó, nên mới nói rằng: “là người đạt đến sự an toàn.” Nên hiểu rằng ý nghĩa tất cả Vô Sở Úy như vậy.
Antarāyikā dhammāti ettha pana antarāyaṃ karontīti antarāyikā, te atthato sañcicca vītikkantā satta āpattikkhandhā. Sañcicca vītikkantañhi antamaso dukkaṭa-dubbhāsitampi maggaphalānaṃ antarāyaṃ karoti. Idha pana methunadhammo adhippeto. Methunaṃ sevato hi yassa kassaci nissaṃsayameva maggaphalānaṃ antarāyo hoti. Yassa kho pana tesu atthāyāti rāgakkhayādīsu yassa atthāya. Dhammo desitoti asubhabhāvanādidhammo kathito . Tatra vata manti tasmiṃ aniyyānikadhamme maṃ. Sesaṃ vuttanayeneva veditabbaṃ.
Sự chướng ngại— ở đây, với ý nghĩa gây ra sự trở ngại: “các pháp chướng ngại” này. Pháp đó theo nội dung gồm 7 nhóm tội [āpattikkhandhā] có sự cố ý vi phạm. Bởi nhóm tội mà cố ý vi phạm dù là tội dukkaṭa và tội dubbhāsita, cũng gây ra chướng ngại cho Đạo và Quả. Nhưng ở đây, nên được hiểu là pháp đôi lứa. Khi bất cứ vị tỳ khưu nào thực hành việc đôi lứa thì (việc đó) gây nguy hại đến Đạo và Quả không cần nghi ngờ. Yassa kho pana tesu atthāya [mang lại lợi ích thế nào]: lợi ích nào trong các lợi ích đưa đến sự cạn kiệt luyến ái, v.v. Ngài thuyết Pháp: Pháp có sự tu tập đề mục bất tịnh, v.v, mà Ngài thuyết. Tatra vata maṃ: Đối với Ta, trong Pháp dẫn xuất ra khỏi mọi khổ đau. Từ còn lại nên được hiểu theo phương thức đã được trình bày.
Giải Thích Về Thập Lực Trí — được kết thúc
Giải Thích Về Tám Hội Chúng
151. ‘‘Aṭṭha kho imā sāriputtā’’ti idaṃ kasmā āraddhaṃ? Vesārajjañāṇassa baladassanatthaṃ. Yathā hi byattaṃ parisaṃ ajjhogāhetvā viññūnaṃ cittaṃ ārādhanasamatthāya kathāya dhammakathikassa chekabhāvo paññāyati, evaṃ imā aṭṭha parisā patvā vesārajjañāṇassa vesārajjabhāvo sakkā ñātunti vesārajjañāṇassa balaṃ dassento, aṭṭha kho imā sāriputtātiādimāha.
Này Sāriputta có 8 hội chúng: điều này bắt đầu vì lý do gì? Nhằm mục đích hiển bày sức mạnh của trí vô sở úy. Thật vậy, đối với vị Pháp Sư có bản thể thiện xảo bằng những lời nói có khả năng thuyết phục bậc trí, cũng như làm thỏa mãn tâm trí của bậc trí thế nào; trạng thái tự tin của trí vô sở úy có thể được nhận biết ở 8 hội chúng cũng như thế đó. Do đó, trong khi thuyết về sức mạnh của trí vô sở úy, Ngài đã nói rằng: “Này Sāriputta có 8 hội chúng ”.
Tattha khattiyaparisāti khattiyānaṃ sannipatitvā nisinnaṭṭhānaṃ, esa nayo sabbattha. Mārakāyikānaṃ pana sannipatitvā nisinnaṭṭhānaṃ māraparisā veditabbā, na mārānaṃ. Sabbāpi cetā parisā uggaṭṭhānadassanavasena gahitā. Manussā hi ‘‘ettha rājā nisinno’’ti pakativacanampi vattuṃ na sakkonti, kacchehi sedā muccanti. Evaṃ uggā khattiyaparisā. Brāhmaṇā tīsu vedesu kusalā honti, gahapatayo nānāvohāresu ceva akkharacintāya ca. Samaṇā sakavādaparavādesu kusalā honti. Tesaṃ majjhe dhammakathākathanaṃ nāma ativiya bhāro. Amanussāpi uggā honti. Amanussoti hi vuttamattepi manussānaṃ sakalasarīraṃ saṅkampati, tesaṃ rūpaṃ vā disvā saddaṃ vā sutvā sattā visaññino honti. Evaṃ amanussaparisā uggā. Tāsupi dhammakathākathanaṃ nāma ativiya bhāro. Iti uggaṭṭhānadassanavasena tā gahitāti veditabbā.
Ở đó, hội chúng Sát-đế-lỵ: khu vực ngồi hội họp của các Sát-đế-lỵ. Trong các hội chúng cũng áp dụng cách thức tương tự. Hơn nữa, khu vực ngồi hội họp của tập thể Māra— nên biết là hội chúng Māra, không phải ám chỉ có nhiều Māra. Và hội chúng ấy, tất cả nắm lấy do tác động việc nhìn thấy vị trí nổi bậc. Bởi vì, mọi người không thể nói những lời bình thường rằng: “Đức vua an tọa ở chỗ này”, (thì) mồ hôi chảy ra từ nách. Hội chúng Sát-đế-lỵ dữ tợn như vậy. Bà-la-môn là những vị thiện xảo trong 3 tập Vệ-đà. Các gia chủ là những vị khéo léo trong các việc buôn bán khác nhau và nhà ngữ pháp. Sa-môn là những vị thiện xảo trong sakavāda [tự thuyết hay quan điểm của mình] và paravāda [tha thuyết, hay quan điểm người khác], việc thuyết giảng Giáo Pháp ở giữa hội chúng đó được xem là vô cùng khó khăn. Luôn cả, các phi nhơn là dữ tợn. Quả thật vậy, trong khi nói đến ‘phi nhơn’ thì toàn thân của loài người cũng rung lên, những người ấy nhìn thấy hình dáng hoặc lắng nghe âm thanh của các phi nhơn đó cũng (có thể) ngất xỉu. Hội chúng phi nhơn dữ tợn như vậy. Việc thuyết pháp giữa tập thể phi nhơn đó được cho là vô cùng khó khăn. Hội chúng phi nhơn đó nên được biết rằng— Ngài đã nắm giữ do tác động việc nhìn thấy vị trí nổi bậc như vậy.
Ajjhogāhatīti anupavisati. Anekasataṃ khattiyaparisanti bimbisārasamāgama ñātisamāgama licchavīsamāgamasadisaṃ. Aññesupi cakkavāḷesu labbhatiyeva. Kiṃ pana bhagavā aññāni cakkavāḷānipi gacchatīti? Āma gacchati. Kīdiso hutvā? Yādisā te, tādisoyeva. Tenevāha ‘‘abhijānāmi kho panāhaṃ, ānanda, anekasataṃ khattiyaparisaṃ upasaṅkamitā, tattha yādisako tesaṃ vaṇṇo hoti, tādisako mayhaṃ vaṇṇo hoti. Yādisako tesaṃ saro hoti, tādisako mayhaṃ saro hoti. Dhammiyā kathāya sandassemi samādapemi samuttejemi sampahaṃsemi. Bhāsamānañca maṃ na jānanti ‘ko nu kho ayaṃ bhāsati devo vā manusso vā’ti. Dhammiyā kathāya sandassetvā samādapetvā samuttejetvā sampahaṃsetvā antaradhāyāmi . Antarahitañca maṃ na jānanti ‘ko nu kho ayaṃ antarahito devo vā manusso vā’’’ti (dī. ni. 2.172).
Đi sâu vào: đi vào bên trong. Hàng trăm hội chúng Sát-đế-lỵ: Chẳng hạn như sự hội họp của vua Bimbisāra, sự hội họp thân quyến và sự hội họp của vua Licchavī, cho đến mười ngàn thế giới [Cakkavāḷa] khác, Thế Tôn Ngài đi đến thế giới khác chăng? Phải, Ngài đi. Vì sao? Họ như thế nào, Thế Tôn cũng như thế đó. Bởi thế Thế Tôn mới thuyết rằng: “Này Ānanda, Ta đi vào hàng trăm hội chúng Sát-đế-lỵ, nhận ra rằng trong hội chúng đó bọn họ có màu da thế nào, Ta cũng có màu da thế đó; họ có âm giọng thế nào, Ta có âm giọng thế đó; Ta giảng dạy, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ với bài pháp thoại. Họ không biết Ta là ai khi Ta đang nói: ‘Kẻ nói ấy là ai, là chư Thiên chăng, là người chăng?’ Sau khi Ta giảng dạy, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ, rồi Ta biến mất. Và họ cũng không biết, khi Ta biến mất: “Kẻ biến mất đó là ai, là chư Thiên chăng, là Người chăng?”[24]
Khattiyā keyūraṅgadamālāgandhādivibhūsitā nānāvirāgavasanā āmukkamaṇikuṇḍalā moḷidharā honti. Kiṃ bhagavāpi evaṃ attānaṃ maṇḍeti? Te ca odātāpi honti kāḷāpi maṃgulacchavīpi. Kiṃ satthāpi evarūpo hotīti? Satthā attano pabbajitavaseneva gacchati, tesaṃ pana tādiso hutvā upaṭṭhāti, gantvā rājāsane nisinnaṃ attānaṃ dasseti, tesaṃ ‘‘ajja amhākaṃ rājā ativiya virocatī’’ti hoti. Te ca bhinnassarāpi honti gaggassarāpi kākassarāpi. Satthā brahmassareneva dhammaṃ katheti. Tādisako mayhaṃ saro hotīti idaṃ pana bhāsantaraṃ sandhāya kathitaṃ. Manussānaṃ pana taṃ sutvā ‘‘ajja rājā madhurena sarena kathetī’’ti hoti. Kathetvā pakkante ca bhagavati puna rājānaṃ āgataṃ disvā ‘‘ko nu kho aya’’nti vīmaṃsā uppajjati.
Các Sát-đế-lỵ được trang điểm bằng những tràng hoa và các hương thơm, v.v…, mặc y phục nhiều màu sắc, và đeo bông tai, ngọc maṇī, đội mão trên đỉnh đầu. Còn đức Thế Tôn trang điểm như vậy sao? Các vị Sát-đế-lỵ đó cũng màu da trắng, da đen, hay da màu v.v, bậc Đạo sự cũng như vậy chăng? Bậc Đạo Sư đi với hình tướng vị xuất gia của chính Ngài, nhưng xuất hiện giống như những vị Sát-đế-lỵ đó, sau khi Ngài đi, rồi thuyết giảng Giáo Pháp làm cho thấy ngồi trên ngai vàng, Sát-đế-lỵ hiểu rằng: “Ngày hôm nay, vị vua của chúng ta thật tuyệt hảo.” Nếu các Sát-đế-lỵ ấy có giọng nói rè rè, giọng nói trầm, một số giống như tiếng quạ. Bậc Đạo Sư chỉ thuyết giảng Giáo Pháp bằng âm giọng của Phạm thiên mà thôi. Trong câu này “Tôi cũng có âm giọng như vậy”, thuyết đề cập đến ngôn ngữ khác. Mọi người được nghe giọng nói có suy nghĩ rằng: “Hôm nay, đức vua thuyết với giọng nói ngọt ngào.” Sau khi đức Thế Tôn thuyết giảng, đã biến mất, khi nhìn thấy đức vua đi đến và khởi lên sự suy xét rằng: “Vậy người này là ai?”
Idaṃ vuttaṃ hoti – ko nu kho ayaṃ imasmiṃ ṭhāne idāneva māgadhabhāsāya sīhaḷabhāsāya madhurena sarena kathento antarahito, kiṃ devo, udāhu manussoti? Kimatthaṃ panevaṃ ajānantānaṃ dhammaṃ desetīti? Vāsanatthāya. Evaṃ sutopi hi dhammo anāgate paccayo hotiyevāti anāgataṃ paṭicca desetīti.
Điều này đã được nói là— Kẻ này là ai lúc nãy, đứng ở đây, giọng nói ngọt ngào, bằng ngôn ngữ Māgadha, bằng ngôn ngữ Sīhaḷa [xứ Tích Lan] rồi biến mất, là chư Thiên hay loài người chăng? — thuyết pháp cho những hạng người chưa biết như vậy để làm gì? — vì tiền khiên tật [vāsana]. Ngài muốn nói đến vị lai rằng: Pháp được nghe như vầy chắc chắn làm duyên lành cho ngày vị lai.
Sannisinnapubbanti saṅgamma nisinnapubbaṃ. Sallapitapubbanti ālāpasallāpo katapubbo. Sākacchāti dhammasākacchāpi samāpajjitapubbā. Anekasataṃ brāhmaṇaparisantiādīnampi soṇadaṇḍasamāgamādivasena ceva aññacakkavāḷavasena ca sambhavo veditabbo.
Ta đã ngồi chung trước đây: Đã từng cùng nhau hội họp. Ta đã chuyện trò trước đây: Đã từng ngồi trò chuyện. Đã tham gia các cuộc bàn luận trước đây: Đã từng đàm luận pháp. Cũng nên biết rằng việc cùng nhau hội họp với hội chúng Bà-la-môn Soṇadaṇḍa v.v, và thế giới [cakkavāla] khác với câu hàng trăm hội chúng Bà-la-môn.
Giải thích tám hội chúng được kết thúc
Giải Thích Bốn Hạng Sinh Sản
152. Catassokho imā, sāriputta, yoniyoti ettha yonīti khandhakoṭṭhāsassapi kāraṇassapi passāvamaggassapi nāmaṃ. ‘‘Catasso nāgayoniyo catasso supaṇṇayoniyo’’ti (saṃ. ni. 3.342, 392) ettha hi khandhakoṭṭhāso yoni nāma. ‘‘Yoni hesā bhūmija phalassa adhigamāyā’’ti (ma. ni. 2.227) ettha kāraṇaṃ. ‘‘Na cāhaṃ brāhmaṇaṃ brūmi, yonijaṃ mattisambhava’’nti (ma. ni. 2.457; dha. pa. 396) ettha passāvamaggo. Idha pana khandhakoṭṭhāso yonīti adhippeto. Tattha aṇḍe jātā aṇḍajā. Jalābumhi jātā jalābujā. Saṃsede jātā saṃsedajā. Vinā etehi kāraṇehi uppatitvā viya nibbattā abhinibbattāti opapātikā. Abhinibbhijja jāyantīti bhinditvā nikkhamanavasena jāyanti. Pūtikuṇape vātiādīhi aniṭṭhaṭṭhānāneva dassitāni. Iṭṭhesupi sappitelamadhuphāṇitādīsu sattā jāyanti eva. Devātiādīsu cātumahārājikato paṭṭhāya uparidevā opapātikāva honti. Bhūmadevā pana catuyonikā. Ekacce ca manussāti manussesu keci devā viya opapātikā ca honti. Yebhuyyena panete jalābujāva, aṇḍajāpi ettha kontaputtā dvebhātiyattherā viya, saṃsedajāpi padumagabbhe nibbattapokkharasātibrāhmaṇapadumavatidevīādayo viya, evaṃ vinipātikesu nijjhāmataṇhikapetā nerayikā viya opapātikāyeva, avasesā catuyonikāpi honti. Yathā te evaṃ yakkhāpi sabbacatuppadapakkhijātidīghajātiādayopi sabbe catuyonikāyeva.
‘Hạng sinh sản’ trong câu ‘Này Sāriputta, có bốn hạng sinh sản’ là phạm trù của các uẩn, của các lý do, hoặc đường tiểu [tử cung]. Bởi vậy, ở đây phạm trụ của uẩn gọi là ‘sinh sản’ trong câu sau: “Về sinh sản loài Nāga có bốn, về sinh sản loài Kim-sí-điểu có bốn.”[25] Ở đây, lý do gọi là ‘sinh sản’ như trong câu: “Này Bhūmija bởi lý do này đưa đến sự thành tựu thánh quả.”[26] Ở đây, đường tiểu [tử cung] gọi là ‘sinh sản’ như trong câu: “Và Ta không gọi kẻ đã được sanh ra từ tử cung (của nữ Bà-la-môn) là Bà-là-môn.”[27] Lại nữa, từ ‘hạng sinh sản’ ở đây muốn ám chỉ đến phần của uẩn. Ở đó, chúng sanh được sanh ra trong trứng gọi là aṇḍaja [noãn sanh], chúng sanh được sanh ra trong bào thai gọi là jalābuja [thai sanh]. Chúng sanh được sanh ra từ nơi ẩm thấp gọi là saṃsedaja [thấp sanh]. Chúng sanh được sanh ra ngoài 3 cách sanh đó gọi là opapātika [hóa sanh]. Phá vỏ trứng mà sanh: Là sanh ra do sức mạnh phá vỡ [lớp vỏ] để đi ra ngoài. Ngài chỉ ra nơi không đáng ước muốn với câu sau: (sanh ra) trong xác thối [pūtikuṇape]. Tất cả chúng sanh sanh ra ở chỗ không đáng mong muốn có bơ lỏng, đường, mật ong và nước mía v.v. Devā [chư Thiên]: các Thiên nhân ở cõi cao từ cõi Tứ Thiên Vương [cātumahārājika] đều được xếp vào loài hóa sanh [opapātika]. Còn chư Thiên địa cầu [bhūmadevā] có 4 cách sanh. Một số thuộc loài người [ekacce ca manussā]: Là nhóm người nhân loại, có một số người hóa sanh như Thiên nhân. Nhưng phần lớn đều sanh ra từ bào thai. Trường hợp này, người sanh ra từ trứng chẳng hạn như 2 vị trưởng lão Bhātiya là con trai của ông Konata. Người sinh từ chỗ ẩm thấp cũng có chẳng hạn như Ba-la-môn Pokkharasāti và hoàng hậu Padumavati được sanh ra trong bông hoa sen v.v, như vậy nhóm a-tu-la Vinipātika, và ngạ quỷ Nijjhāmataṇhika [loài ngạ quỷ thường xuyên bị lửa thiêu đốt và đói khát] đều hóa sanh giống như chúng sanh địa ngục. Còn lại có 4 cách sanh. Dạ-xoa, loài bốn chân, loài chim và loài bò sát như rắn v.v, tất cả đều có 4 cách sanh giống như a-tu-la Vinipātika.
Giải thích tám hội chúng được kết thúc
Giải Thích Về Năm Sanh Thú
153. Pañca kho imā, sāriputta, gatiyoti ettha sukatadukkaṭakammavasena gantabbāti gatiyo. Apica gatigati nibbattigati ajjhāsayagati vibhavagati nipphattigatīti bahuvidhā gati nāma. Tattha ‘‘taṃ gatiṃ pecca gacchāmī’’ti (a. ni. 4.184) ca, ‘‘yassa gatiṃ na jānanti, devā gandhabbamānusā’’ti (dha. pa. 420) ca ayaṃ gatigati nāma. ‘‘Imesaṃ kho ahaṃ bhikkhūnaṃ sīlavantānaṃ neva jānāmi gatiṃ vā agatiṃ vā’’ti (ma. ni. 1.508) ayaṃ nibbattigati nāma. ‘‘Evampi kho te ahaṃ brahme gatiṃ ca pajānāmi jutiñca pajānāmī’’ti (ma. ni. 1.503) ayaṃ ajjhāsayagati nāma. ‘‘Vibhavo gati dhammānaṃ, nibbānaṃ arahato gatī’’ti (pari. 339) ayaṃ vibhavagati nāma. ‘‘Dveyeva gatiyo bhavanti anaññā’’ti (dī. ni. 1.258; 2.34) ayaṃ nipphattigati nāma. Tāsu idha gatigati adhippetā.
153. Tất cả các sanh thú đều đi theo mãnh lực của nghiệp thiện và nghiệp bất thiện đã tạo được gọi là gati [sanh thú] trong câu sau: “Này Sāriputta, có 5 cảnh giới tái sanh.” Lại nữa gọi là Gati [sanh thú] có nhiều loại là gatigati [cảnh giới tái sanh], nibbattigati [sự tái sanh], ajjhāsayagati [căn tánh đang diễn tiến], vibhavagati [đi đến hoại diệt], nipphattigati [sự tái sanh]. Ở đó, “sau khi chết Ta (sẽ) đi đến cảnh giới ấy,”[28] và “chư Thiên, Càn-thát-bà, và loài người không biết được cảnh giới tái sanh của người nào?”[29] đây gọi là cảnh giới tái sanh [gatigati]. “Ta không biết chỗ đi và chỗ đến của các vị tỳ khưu có giới hạnh này,”[30] đây được gọi là sự tái sanh [nibbattigati]. “Như vậy, này Phạm thiên, Ta biết sanh thú tái sanh, và Ta biết sự chói lọi của Ông”[31] đây gọi là căn tánh đang diễn tiến [ajjhāsayagati]. “Sự hoại diệt là cảnh giới của các pháp hữu vi, Niết-bàn là cảnh giới của Thánh A-ra-hán”[32] đây gọi là vibhavagati [đi đến sự biến hoại]. “Chỉ có 2 con đường, không có con đường nào khác,”[33] đây gọi là nipphattigati [đi đến thành tựu]. Trong 5 gati [sanh thú] đó, ở đây nên được hiểu là gatigati [cảnh giới tái sanh].
Nirayotiādīsu niratiatthena nirassādaṭṭhena nirayo. Tiriyaṃ añchitāti tiracchānā. Tesaṃ yoni tiracchānayoni. Peccabhāvaṃ pattānaṃ visayoti pettivisayo. Manaso ussannattā manussā. Pañcahi kāmaguṇehi attano attano ānubhāvehi ca dibbantīti devā. Nirayañcāhaṃ, sāriputtātiādīsu nirayoti saddhiṃ okāsena khandhā. Tiracchānayoniṃ cātiādīsupi eseva nayo. Maggaṃ paṭipadanti ubhayenāpi vuttagatisaṃvattanika kammameva dasseti. Yathā ca paṭipannoti yena maggena yāya paṭipadāya paṭipannoti ubhayampi ekato katvā niddisati. Apāyantiādīsu vaḍḍhisaṅkhātā sukhasaṅkhātā vā ayā apetattā apāyo. Dukkhassa gati paṭisaraṇanti duggati. Dukkaṭakārino ettha vinipatantīti vinipāto. Nibbānañcāhanti idaṃ pana na kevalaṃ gatigatimeva, gatinissaraṇaṃ nibbānampi jānāmīti dassanatthamāha. Idha maggo paṭipadāti ubhayenāpi ariyamaggova vutto.
Trong khổ cảnh có địa ngục, v.v, nên biết giải thích rằng— địa ngục [niraya] với ý nghĩa không có sự an vui, với ý nghĩa không có sự thoải mái. Gọi là loài bàng sanh [tiracchāna] với ý nghĩa (là loài) đi ngang. Đó gọi là cách sanh của loài bàng sanh [tiracchānayoni]. Gọi là cảnh giới của ngạ quỷ [pettivisaya] bởi ý nghĩa là nơi đến của tất cả chúng sanh sau khi chết. Gọi là người nhân loại bởi là người có tâm cao thượng. Gọi là Thiền nhân bởi vì hoan hỷ trong năm loại dục và trong oai lực của chính mình. Các uẩn trong hư không gọi là niraya trong câu sau: “Này Sāriputta, Ta biết rõ địa ngục”. Cả trong câu “sanh vào loài bàng sanh [tiracchānayoni]” v.v, cũng theo cách thức tương tự. Cả hai câu “đạo lộ thực hành = maggaṃ paṭipadaṃ” Ngài chỉ thị hiện nghiệp vận hành dẫn đến các sanh thú [gati] đã được nói. Yathā ca paṭipanno [Tùy vào hạnh nghiệp của chúng sanh] trình bày cả 2 là tiến trình diễn ra và đạo lộ thực hành đặt chung với nhau. Gọi là apāya [khổ cảnh] bởi vì tránh xa sự thịnh vượng, được xem là sự phát triển và sự an lạc. Gọi là duggati [khổ thú] bởi ý nghĩa cảnh giới tái sanh là nơi thiết lập sự khổ đau. Gọi là đọa xứ [vinipāta] là chỗ rớt xuống của chúng sanh đã hành ác. Thế Tôn thuyết rằng “và Ta…Niết Bàn” khi nói rằng Ta không những biết cảnh giới tái sanh mà còn biết Niết-bàn là pháp thoát khỏi những cảnh giới ấy. Ở đây, thuyết về Thánh đạo với cả 2 là Đạo [magga] và con đường thực hành [paṭipadā]
Giải thích năm sanh thú – được kết thúc
Giải Thích Sự Vận Hành của Trí
154. Idāni yathāvuttesu sattasu ṭhānesu aṭṭhasu ṭhānesu attano ñāṇappavattākāraṃ dassento idhāhaṃ, sāriputtātiādimāha.
[154] Bây giờ, Thế Tôn khi trình bày về trí tuệ của Ngài vận hành trong các xứ [ṭhāna] theo cách đã thuyết, Ngài đã nói rằng: “Này Sārīputta, Ta biết tâm của một số người” v.v.
Tattha ekantadukkhāti niccadukkhā nirantaradukkhā. Tibbāti bahalā. Kaṭukāti kharā. Seyyathāpītiādīni opammadassanatthaṃ vuttāni. Tattha kāsūti āvāṭopi vuccati rāsipi.
Ở đó, vô cùng đau khổ [ekantadukkhā] là đau khổ thường xuyên, đau khổ kịch liệt. Tibbā [dữ dội] là nhiều, vô cùng. Kaṭukā [thống khổ] là kịch liệt. Từ seyyathāpi [cũng như] v.v, thuyết để so sánh, trường hợp này gọi là kāsu [hầm hố]. ‘Cái hố’ gọi là kāsu trong kệ ngôn này:
‘‘Kinnu santaramānova, kāsuṃ khaṇasi sārathi;
Puṭṭho me samma akkhāhi, kiṃ kāsuyā karissasī’’ti. (jā. 2.22.3) – Ettha hi āvāṭo kāsu nāma.
“Này người đánh xe, ông vội vã chuyện gì vậy mà đào cái hố? Này ông bạn, ta đã hỏi, hãy giải thích, ông sẽ làm gì với cái hố?”[34] Bởi vậy, ở đây ‘cái hố’ gọi là kāsu như trong kệ ngôn.
‘‘Aṅgārakāsuṃ apare phunanti, narā rudantā paridaḍḍhagattā’’ti. (jā. 2.22.462) –
“Những người khác có thân thể bị đốt cháy đang khóc lóc rên rỉ ở đóng than hừng, ở gần hố than.”[35]
Ettha rāsi. Idha pana āvāṭo adhippeto. Tenevāha ‘‘sādhikaporisā’’ti. Tattha sādhikaṃ porisaṃ pamāṇaṃ assāti sādhikaporisā, atirekapañcaratanāti attho. Vītaccikānaṃ vītadhūmānanti etaṃ pariḷāhassa balavabhāvadīpanatthaṃ vuttaṃ, acciyā vā sati dhūme vā sati, vāto samuṭṭhāti, tena pariḷāho na balavā hoti. Ghammaparetoti ghammānugato . Tasitoti jātataṇho. Pipāsitoti udakaṃ pātukāmo. Ekāyanena maggenāti ekapatheneva maggena, anukkamaniyena ubhosu passesu nirantarakaṇṭakarukkhagahanena. Paṇidhāyāti aṅgārakāsuyaṃ patthanā nāma natthi, aṅgārakāsuṃ ārabbha pana iriyāpathassa ṭhapitattā evaṃ vuttaṃ.
Trương hợp này, được hiểu là ‘cái hố’. Bởi vậy Ngài đã nói rằng: “(có một hố than) sâu hơn thân người”. Ở đó, hố (than) ấy ước chừng sâu hơn thân người, bởi thế gọi là sâu hơn thân người. Có nghĩa là— sâu hơn 5 hắc tay. Không có lửa ngọn, không có khói [vītaccikānaṃ vītadhūmānaṃ] đó thuyết để thấy rằng sự sức nóng dữ dội, khi có ngọn lửa, sẽ có gió, khi có gió thì sức nóng sẽ không mãnh liệt. Bị sức nóng hành hạ [ghammapareto] gồm bị sức nóng thiêu đốt. Tasito [lo lắng và sợ hãi]: Sanh ra sự thèm muốn. Sự đau khổ do đói khát gây ra [pipāsito]: Mong muốn được uống nước. Bằng độ lô duy nhất [ekapatheneva maggena]: Với con đường độc nhất có gai, có cỏ mọc um tùm cả hai bên dọc theo đường đi. Paṇidhāya [với nguyện vọng]: gọi là mong muốn không có hố than hừng, nói như thế bởi tư thế đã được thiết lập muốn chạy thẳng đến hố than hừng.
Evameva khoti ettha idaṃ opammasaṃsandanaṃ – aṅgārakāsu viya hi nirayo daṭṭhabbo. Aṅgārakāsumaggo viya nirayūpagaṃ kammaṃ. Maggāruḷho viya kammasamaṅgī puggalo. Cakkhumā puriso viya dibbacakkhuko bhagavā. Yathā so puriso maggāruḷhaṃ disvā vijānāti ‘‘ayaṃ iminā maggena gantvā aṅgārakāsuyaṃ patissatī’’ti, evamevaṃ bhagavā pāṇātipātādīsu yaṃkiñci kammaṃ āyūhantaṃ evaṃ jānāti ‘‘ayaṃ imaṃ kammaṃ katvā niraye nibbattissattī’’ti. Yathā so puriso aparabhāge taṃ aṅgārakāsuyā patitaṃ passati, evameva bhagavā aparabhāge ‘‘so puriso taṃ kammaṃ katvā kuhiṃ nibbatto’’ti ālokaṃ vaḍḍhetvā dibbacakkhunā olokento niraye nibbattaṃ passati pañcavidhabandhanādimahādukkhaṃ anubhavantaṃ. Tattha kiñcāpi tassa kammāyūhanakāle añño vaṇṇo, niraye nibbattassa añño. Athāpi ‘‘so satto taṃ kammaṃ katvā kattha nibbatto’’ti olokentassa anekasahassānaṃ sattānaṃ majjhe ṭhitopi ‘‘ayaṃ so’’ti soyeva satto āpāthaṃ āgacchati, ‘‘dibbacakkhubalaṃ nāma eta’’nti vadanti.
Sự trình bày mang tính chất so sánh trong câu: “Evameva kho [cũng vậy]” nên được hiểu như sau: Cần phải hình dung địa ngục giống như hố than hừng. Cần phải thấy rằng nghiệp là nguyên nhân dẫn đến địa ngục tương tự như con đường dẫn đến hố than hừng. Cần phải thấy rằng– người trổ (quả) nghiệp giống như kẻ đi trên con đường ấy. Đức Thế Tôn có thiên nhãn, ví như người có đôi mắt; người đàn ông sau khi nhìn thấy kẻ ấy đang đi trên con đường đó (sẽ) biết rằng: “Người này đi trên con đường ấy sẽ rơi vào hố than hừng” thế nào. Cũng như vậy, đức Thế Tôn biết rõ mọi loại nghiệp— như nghiệp sát sanh v.v, cắt đứt tuổi thọ như vầy: “hạng người này đã tạo nghiệp [sát sanh] sẽ rơi vào địa ngục” tương tự như thế đó. Tiếp đó, người đàn ông đó thấy kẻ ấy rơi vào trong hố than hừng như thế nào; đức Thế Tôn quan sát rằng: “người này đã tạo nghiệp, sẽ tái sanh ở đâu?” Ngái thấy rõ bằng thiên nhãn rằng– “Kẻ ấy bị đọa vào địa ngục, thọ lãnh khổ đau to lớn, bị cột chặt với 5 loại hình phạt v.v, – cũng tương tự như thế đó. Khi quan sát trong địa ngục đó, trong thời gian tích lũy nghiệp lực, chúng sanh ấy có màu da (hình dáng); nhưng khi đọa vào địa ngục, lại có màu da (hình dáng) khác. Dù sự thật là vậy, khi đang quan sát rằng: “Chúng sinh ấy, sau khi tạo nghiệp đó, đã tái sinh ở đâu?” Dù (chúng sanh ấy) đang đứng giữa hàng ngàn chúng sanh khác, thì kẻ ấy cũng hiện ra rõ ràng– “Chính là người này”, (vì thế) các vị thấy mới nói rằng: “Đó là sức mạnh của thiên nhãn.”
Dutiyaupamāyaṃ yasmā aṅgārakāsuyaṃ viya gūthakūpe pariḷāho natthi, tasmā ‘‘ekantadukkhā’’ti avatvā ‘‘dukkhā’’tiādimāha. Etthāpi purimanayeneva opammasaṃsandanaṃ veditabbaṃ . Imampi hi puggalaṃ bhagavā hatthiyoniādīsu yattha katthaci nibbattaṃ vadhabandhanaākaḍḍhanavikaḍḍhanādīhi mahādukkhaṃ anubhavamānaṃ passatiyeva.
Ví dụ thứ hai, do sức nóng trong hầm phân không giống trong hố than hừng, nên đức Thế Tôn không thuyết giảng về— cảm thọ những cảm giác vô cùng đau khổ [ekantadukkhā vedanā] mà chỉ sử dụng từ dukkhā [khổ đau] v.v, ở ví dụ thứ hai, cần hiểu rằng: việc so sánh ví dụ theo cách đầu tiên. Quả thật, đức Thế Tôn nhìn thấy rõ hạng người này tái sanh theo bất kỳ hình thức nào trong số bốn hạng sinh sản như sanh làm voi v.v, thọ lãnh khổ đau lớn lao, bị giết, bị cột trói, bị giam cầm, bị lôi kéo và xô đẩy.
Tatiyaupamāyaṃ tanupattapalāsoti na abbhapaṭalaṃ viya tanupaṇṇo, viraḷapaṇṇattaṃ panassa sandhāya idaṃ vuttaṃ. Kabaracchāyoti viraḷacchāyo. Dukkhabahulāti pettivisayasmiñhi dukkhameva bahulaṃ, sukhaṃ parittaṃ kadāci anubhavitabbaṃ hoti, tasmā evamāha. Etthāpi purimanayeneva opammasaṃsandanaṃ veditabbaṃ.
Ví dụ thứ ba, Tanupattapalāso [lá non và lá già thưa thớt] gồm lá non không giống như một đám mây, câu này muốn nói rằng có lá non xác xơ [rất ít]. Có bóng cây lưa thưa [kabaracchāyo]: là bóng cây rải rác. Thọ lãnh khổ thọ lớn lao [dukkhabahulaṃ]: Khổ đau trong cảnh giới ngạ quỷ rất lớn, nhưng đôi khi có một chút ít lạc nào đó; vì vậy, mới nói như vậy. Do đó, ví dụ này nên hiểu bằng sự liên hệ với ví dụ so sánh tương tự như phương thức trước đó.
Catutthaupamāyaṃ bahalapattapalāsoti nirantarapaṇṇo pattasañchanno. Santacchāyoti pāsāṇacchattaṃ viya ghanacchāyo. Sukhabahulā vedanāti manussaloke khattiyakulādīsu sukhabahulā vedanā vedayitabbā hoti, tā vedayamānaṃ nipannaṃ vā nisinnaṃ vā passāmīti dasseti. Idhāpi opammasaṃsandanaṃ purimanayeneva veditabbaṃ.
Ví dụ thứ tư, Có lá non và lá già sum sê [bahalapattapalāso] là luôn có lá, được bao phủ bởi lá. Bóng cây rậm rạp [santacchāyo] có bóng cây rậm rạp như một chiếc ô. Thọ hưởng lạc thọ lớn lao [sukhabahulā vedanā] nghĩa là trong thế giới loài người, cảm thọ trong các dòng dõi như dòng dõi Sát-đế-lỵ, nên biết rằng hưởng thụ nhiều loại cảm thọ vợi sự an lạc, nghĩa là Ta thấy người này nằm hay ngồi đều cảm thọ cảm giác đó. Nên biết ví dụ so sánh tương tự như cách trước.
Pañcamaupamāyaṃ pāsādoti dīghapāsādo. Ullittāvalittanti anto ceva ullittaṃ bahi ca avalittaṃ. Phusitaggaḷanti dvārabāhāhi saddhiṃ supihitakavāṭaṃ. Gonakatthatoti caturaṅgulādhikalomena kāḷakojavena atthato. Paṭikatthatoti uṇṇāmayena setaattharaṇena atthato. Paṭalikatthatoti ghanapupphakena uṇṇāmayaattharaṇena atthato. Kadalimigapavarapaccattharaṇoti kadalimigacammamayena uttamapaccattharaṇena atthato. Taṃ kira paccattharaṇaṃ setavatthassa upari kadalimigacammaṃ attharitvā sibbetvā karonti. Sauttaracchadoti saha uttaracchadena, uttaribaddhena rattavitānena saddhinti attho. Ubhatolohitakūpadhānoti sīsūpadhānañca pādūpadhānañcāti pallaṅkassa ubhato ṭhapitalohitakūpadhāno. Idhāpi upamāsaṃsandanaṃ purimanayeneva veditabbaṃ.
Ví dụ thứ năm, tòa lâu đài [pāsādo]: Tòa lâu đài dài rộng. Có tô vôi cả trong lẫn ngoài [ullittāvalittaṃ]: Được tô vôi cả bên trong lẫn tô vôi bên ngoài. Che phủ kín đáo [phusitaggaḷa]: Cửa chính và cửa sổ đóng kín cùng với khung. Trải nệm lông dài [gonakatthato]: trải nệm lông dài màu đen, lông dài hơn 4 lóng tay. Trải nệm màu trắng [paṭikatthato]: trải nệm màu trắng được làm từ lông. Trải nệm bông có thêu hoa [paṭalikatthato]: trải nệm được làm từ da thú tấm dày. Trải nệm bằng da sơn dương gọi là kadali [kadalimigapavarapaccattharaṇo]: trải nệm loại thượng hạng được làm từ da con sơn dương, nghe nói người ta trải da sơn dương lên tấm vải trắng rồi may lại thành vỏ bọc. Có nệm với khuôn màu treo phía trên [sauttaracchado]: có khuôn màu che ở phía trên, là khuông màu đỏ che ở phía trên. Có gối dài màu đỏ cả hai đầu [ubhatolohitakūpadhāno]: Có gối màu đỏ được đặt ở hai phía của sàng tọa là gối kê đầu, và gối kê chân. Nên biết ví dụ so sánh tương tự như cách trước.
Ayaṃ panettha aparabhāgayojanā, yathā so puriso maggāruḷhameva jānāti ‘‘ayaṃ etena maggena gantvā pāsādaṃ āruyha kūṭāgāraṃ pavisitvā pallaṅke nisīdissati vā nipajjissati vā’’ti, evamevaṃ bhagavā dānādīsu puññakiriyavatthūsu yaṃkiñci kusalakammaṃ āyūhantaṃyeva puggalaṃ disvā ‘‘ayaṃ imaṃ katvā devaloke nibbattissatī’’ti jānāti. Yathā so puriso aparabhāge taṃ pāsādaṃ āruyha kūṭāgāraṃ pavisitvā pallaṅke nisinnaṃ vā nipannaṃ vā ekantasukhaṃ nirantarasukhaṃ vedanaṃ vedayamānaṃ passati, evamevaṃ bhagavā aparabhāge ‘‘so taṃ kalyāṇaṃ katvā kuhiṃ nibbatto’’ti ālokaṃ vaḍḍhetvā dibbacakkhunā olokento devaloke nibbattaṃ passati, nandanavanādīsu accharāsaṅghaparivutaṃ dibbasampattiṃ anubhavamānaṃ.
Sự kết hợp các phần khác trong câu này nên được hiểu như sau— Người đàn ông đó chắc chắn biết rằng người đi theo con đường ấy sẽ lên tòa lâu đài, đi lên lầu ngồi hoặc nằm trên sàng tọa [pallaṅka] như thế nào; Cũng tương tự như thế, Đức Thế Tôn thấy rõ người nào tích lũy nghiệp thiện nào trong mười cơ sở tạo phước báu như bố thí v.v Ngài biết rằng— người ấy đã tạo nghiệp thiện này và sẽ được sanh vào thế giới chư Thiên. Tiếp theo, người đàn ông thấy người kia đi lên tòa lâu đài, đi lên tòa lâu đài ngồi hoặc nằm trên sàng tọa [pallaṅka] thọ hưởng sự sung sướng hạnh phúc thế nào; cũng tương tự như thế ấy, đức Thế Tôn tưởng đến anh sáng [ālokasaññā] rằng— người đó đã tạo nghiệp thiện, (sẽ) tái sanh ở đâu? và khi quan sát bằng thiên nhãn, Ngài nhìn thấy người đó được sanh ra trong thế giới chư Thiên, có Thiên nữ xung quanh, thọ hưởng thiên lạc cõi trời trong khu vườn Nandana.
Giải thích sự vận hành của trí được kết thúc
Giải Thích Lậu Tận Trí
Āsavakkhayavāre ‘‘dibbena cakkhunā’’ti avatvā ‘‘tamenaṃ passāmī’’ti vuttaṃ. Taṃ kasmāti ce? Niyamābhāvā. Imañhi puggalaṃ dibbacakkhunāpi passissati, cetopariyañāṇenāpi jānissati, sabbaññutaññāṇenapi jānissatiyeva. Ekantasukhā vedanāti idaṃ kiñcāpi devalokasukhena saddhiṃ byañjanato ekaṃ, atthato pana nānā hoti. Devalokasukhañhi rāgapariḷāhādīnaṃ atthitāya na ekanteneva sukhaṃ. Nibbānasukhaṃ pana sabbapariḷāhānaṃ vūpasamāya sabbākārena ekantasukhaṃ. Upamāyampi ‘‘yathā pāsāde ekantasukhā’’ti vuttaṃ. Taṃ maggapariḷāhassa avūpasantatāya chātajjhattatāya pipāsābhibhūtatāya ca na ekantameva sukhaṃ. Vanasaṇḍe pana pokkharaṇiyaṃ oruyha rajojallassa pavāhitattā maggadarathassa vūpasantatāya bhisamūlakhādanena ceva madhurodakapānena ca khuppipāsānaṃ vinītatāya udakasāṭakaṃ parivattetvā maṭṭhadukūlaṃ nivāsetvā taṇḍulatthavikaṃ ussīsake katvā udakasāṭakaṃ pīḷetvā hadaye ṭhapetvā mandamandena ca vātena bījayamānassa nipannattā sabbākārena ekantasukhaṃ hoti.
Nên biết lý giải khi nói về Lậu Tận Trí [āsavakkhayañāṇa]. Nếu có câu hỏi rằng: Tại sao đức Thế Tôn không nói rằng: “với thiên nhãn” mà lại nói rằng “Ta nhìn thấy người đó”? Bởi vì, sự không xác định rõ ràng. Do đức Thế Tôn có thể sẽ nhìn thấy người này bằng thiên nhãn [dibbacakkhu], cũng có thể sẽ biết được bằng trí về tâm của người khác [cetopariyañāṇa], và cũng có thể sẽ biết được bằng Trí Toàn Tri [sabbaññutaññāṇa]. Cảm thọ những cảm giác cực lạc [ekantasukhā vedanā] này thì xét về mẫu tự [byañjana] an lạc với lạc ở cõi trời là một, nhưng về ý nghĩa thì sự an lạc khác nhau, bởi vì an lạc ở cõi trời không phải là an lạc duy nhất do vẫn còn sự nóng đốt của luyến ái, v.v, nhưng an lạc Niết-bàn là lạc duy nhất, lạc trọn vẹn, do vắng lặng tất cả mọi sự nóng đốt [phiền não]. An lạc được nói trong ví dụ “cực an lạc ở tòa lâu đài” cũng không được xếp vào sự an lạc trọn vẹn tương tự, bởi do vẫn còn không tránh khỏi sự nóng bức trên đường đi, bởi do vẫn còn sự đói lả thiêu đốt, bởi do vẫn còn sự khát chế ngự. Nhưng cạnh khu rừng thì cảm thọ cảm giác cực lạc thành tựu trọn vẹn, có thể có trong bằng nhiều phương thức với việc đi xuống hồ nước rửa sạch bụi bẩn, đẩy lùi sự mệt mỏi khi đi đường, sự đói khát được giải quyết bằng việc ăn củ sen với uống nước mát, và việc đã trút bỏ quần áo tắm rồi thay quần áo vải đẹp, nằm trên bao gạo, vắt chiếc khăn tắm đặt lên ngực, gió thổi nhè nhẹ rồi chìm vào giấc ngủ.
Evameva khoti ettha idaṃ opammasaṃsandanaṃ – pokkharaṇī viya hi ariyamaggo daṭṭhabbo. Pokkharaṇimaggo viya pubbabhāgapaṭipadā. Maggāruḷho viya paṭipadāsamaṅgīpuggalo. Cakkhumā puriso viya dibbacakkhu bhagavā. Vanasaṇḍo viya nibbānaṃ. Yathā so puriso maggāruḷhaṃ disvāva jānāti ‘‘ayaṃ iminā maggena gantvā pokkharaṇiyaṃ nhatvā ramaṇīye vanasaṇḍe rukkhamūle nisīdissati vā nipajjissati vā’’ti, evamevaṃ bhagavā paṭipadaṃ pūrentameva nāmarūpaṃ paricchindantameva paccayapariggahaṃ karontameva lakkhaṇārammaṇāya vipassanāya kammaṃ karontameva jānāti ‘‘ayaṃ imaṃ paṭipadaṃ pūretvā sabbaāsave khepetvā anāsavaṃ cetovimuttiṃ paññāvimuttinti evaṃ vuttaṃ phalasamāpattiṃ upasampajja viharissatī’’ti. Yathā so puriso aparabhāge tāyaṃ pokkharaṇiyaṃ nhatvā vanasaṇḍaṃ pavisitvā nisinnaṃ vā nipannaṃ vā ekantasukhaṃ vedanaṃ vedayamānaṃ passati, evameva bhagavā aparabhāge taṃ puggalaṃ paṭipadaṃ pūretvā maggaṃ bhāvetvā phalaṃ sacchikatvā nirodhasayanavaragataṃ nibbānārammaṇaṃ phalasamāpattiṃ appetvā ekantasukhaṃ vedanaṃ vedayamānaṃ passati.
Trong câu này, tương tự y như thế: Đây là ví dụ so sánh— Nên hiểu rằng: Thánh đạo giống như hồ nước. Con đường đến hồ nước ví như phương pháp thực hành ở phần đầu. Một người đã sẵn sàng thực hành giống như một người đã đi lên con đường. Đức Thế Tôn có thiên nhãn giống như người có đôi mắt tốt. Niết Bàn giống như ở khu rừng rậm. Giống như người đàn ông sau khi đã nhìn thấy một người đi trên con đường, biết được rằng: Người này đã đi theo con đường này, sau khi tắm trong hồ nước, sẽ ngồi hoặc sẽ nằm dưới những gốc cây trong rừng rậm đáng yêu thế nào; Cũng tương tự như thế ấy, đức Thế Tôn biết được người đã thực hành trọn vẹn, quán xét danh sắc, nắm giữ về duyên, thực hành đề mục thiền minh sát có Tam tướng làm đối tượng rằng: ‘người này đã thực hành trọn vẹn, lậu hoặc đã được làm tiêu mòn, đạt đến sự thể nhập của Quả được nói như vầy tâm giải thoát, tuệ giải thoát, không còn lậu hoặc. Kế đến, người đàn ông nhìn thấy người đó tắm trong hồ nước đó đi vào khu rừng ngồi hoặc nằm cảm thọ cảm giác vô cùng an lạc như thế nào; Sau đó, đức Thế Tôn nhìn thấy người đó đã thực hành trọn vẹn tu tập về Đạo, tự mình cảm nghiệm Quả, đắc thành sự thế nhập Quả có Niết-bàn làm đối tượng, đi đến chỗ nằm tối thượng là sự diệt tận, cảm thọ cảm giác vô cùng an lạc.
Giải thích lậu tận trí được kết thúc
Giải Thích Dukkarakārikādisuddhi
155. ‘‘Abhijānāmi kho panāhaṃ, sāriputta, caturaṅgasamannāgata’’nti idaṃ kasmā āraddhaṃ? Pāṭiyekkaṃ anusandhivasena āraddhaṃ. Ayaṃ kira sunakkhatto dukkarakārikāya suddhi hotīti evaṃ laddhiko. Athassa bhagavā mayā ekasmiṃ attabhāve ṭhatvā caturaṅgasamannāgataṃ dukkaraṃ kataṃ, dukkarakārako nāma mayā sadiso natthi. Dukkarakārena suddhiyā sati ahameva suddho bhaveyyanti dassetuṃ imaṃ desanaṃ ārabhi. Apica ayaṃ sunakkhatto dukkarakārikāya pasanno, so cassa pasannabhāvo, ‘‘addasā kho, bhaggava, sunakkhatto licchaviputto acelaṃ korakkhattiyaṃ catukkuṇḍikaṃ chamānikiṇṇaṃ bhakkhasaṃ mukhena khādantaṃ mukhena bhuñjantaṃ. Disvānassa etadahosi ‘sādhu rūpo vata, bho, ayaṃ samaṇo catukkuṇḍiko chamānikiṇṇaṃ bhakkhasaṃ mukheneva khādati, mukheneva bhuñjatī’’’ti evamādinā pāthikasutte (dī. ni. 3.7) āgatanayena veditabbo.
“Này Sāriputta, Ta thắng tri thực hành phạm hành phối hợp với bốn chi phần” bắt đầu với lý do gì? Bắt đầu để thấy mỗi người riêng biệt. Được biết— Sunakkhatta này có học thuyết như vầy: “sự thanh tịnh có được do thực hành khổ hạnh [dukkarakārikā]. Như thế đức Thế Tôn bắt đầu thuyết giảng để chỉ cho Sunakkhatta thấy rằng: “Ta đã an trú trong bản ngã này để thực hành khổ hạnh phối hợp với 4 yếu tố, hạng người được gọi là thực hành khổ hạnh như Ta không có, để thanh tịnh bằng việc thực hành khổ hạnh thì chính Ta đã đắc thành Phật [bằng việc đó].” Sunakkhatta này tịnh tín trong việc thực hành khổ hạnh, cần biết rằng kẻ ấy là người tịnh tín như vậy, theo cách đã giải thích trong bài Kinh Pātikasutta [kinh Ba-lê] được bắt đầu như sau: “Sunakkhatta con trai của vua Licchavī nhìn thấy lõa thể Korakkhattiya tu theo hạnh đi bốn chân, bò lết trên đất, dùng miệng ăn hoặc nhai thức ăn, sau khi nhìn thấy như vậy vị ấy nghĩ rằng ‘thật lành thay vị Sa-môn bò lết trên đất, chỉ nhai và ăn thức ăn trên mặt đắt bằng miệng.”[36]
Atha bhagavā ayaṃ dukkarakārikāya pasanno, mayā ca etasmiṃ attabhāve ṭhatvā caturaṅgasamannāgataṃ dukkaraṃ kataṃ, dukkarakāre pasīdantenāpi anena mayi pasīditabbaṃ siyā, sopissa pasādo mayi natthīti dassento imaṃ desanaṃ ārabhi.
Tiếp theo đó, Thế Tôn khi chỉ ra rằng: “này Sunakkhatta tịnh tín trong khổ hạnh, Ta cũng đã an trú một hữu ngã phối hợp với 4 chi phần, nếu Sunakkhatta này tịnh tín trong việc thực hành khổ hạnh cần phải tịnh tín nơi Ta, nhưng kẻ ấy tìm kiếm sự tịnh tín nơi ta chăng? Ngài mới thuyết khởi sự này.
Tatra brahmacariyanti dānampi veyyāvaccampi sikkhāpadampi brahmavihārāpi dhammadesanāpi methunaviratipi sadārasantosopi uposathopi ariyamaggopi sakalasāsanampi ajjhāsayopi vīriyampi vuccati.
Trong trường hợp này (1) bố thí, (2) việc phục vụ, (3) các học giới, (4) Phạm trú, (5) thuyết Pháp, (6) tránh xa việc đôi lứa, (7) chung thủy một vợ một chồng, (8) thực hành trai giới, (9) Thánh đạo, (10) toàn bộ Giáo lý, (11) tánh nết [ajjhāsaya], (12) tinh tấn được gọi là Phạm hạnh.
‘‘Kiṃ te vataṃ kiṃ pana brahmacariyaṃ, Kissa suciṇṇassa ayaṃ vipāko;
Iddhī jutī balavīriyūpapatti, Idañca te nāga mahāvimānaṃ.
Ahañca bhariyā ca manussaloke, Saddhā ubho dānapatī ahumhā;
Opānabhūtaṃ me gharaṃ tadāsi, Santappitā samaṇabrāhmaṇā ca.
Taṃ me vataṃ taṃ pana brahmacariyaṃ, Tassa suciṇṇassa ayaṃ vipāko;
Iddhī jutī balavīriyūpapatti, Idañca me dhīra mahāvimāna’’nti. (jā. 2.22.1592, 1593, 1595) – Imasmiñhi puṇṇakajātake dānaṃ brahmacariyanti vuttaṃ.
Bố thí được gọi là Phạm hạnh trong Bổn sanh Puṇṇaka như sau:
“Cái gì là sự hành trì của Ngài? Thêm nữa, cái gì là Phạm hạnh của? Sự thành tựu, thần lực, sự vinh quang, sự tinh tấn, và sự sanh lên, đây là quả thành tựu của người đã khéo được thực hành điều gì? Hỡi bậc tôn quý, xin hãy nói về cung điện vĩ đại này cùng Tôi.
Ta và nương tử, cả hai chúng tôi là người có đức tin khi ở thế giới của loài người, đã là các thí chủ có đức tin. Lúc bấy giờ, ngôi nhà của Ta đã thành cái giếng nước, và các vị Sa-môn, Bà-la-môn đã được toại ý. Đó là sự hành trì của Ta, và cũng là Phạm hạnh của Ta, sự thành tựu, thần lực, sự vinh quang, sự tinh tấn, và tài sản phát sanh, đây là quả thành tựu của người đã khéo được thực hành, bậc sáng trí đây là cung điện vĩ đại của Tôi.”[37]
‘‘Kena pāṇi kāmadado, kena pāṇi madhussavo;
Kena te brahmacariyena, puññaṃ pāṇimhi ijjhati.
Tena pāṇi kāmadado, tena pāṇi madhussavo;
Tena me brahmacariyena, puññaṃ pāṇimhi ijjhatī’’ti. (pe. va. 275) –
Imasmiṃ aṅkurapetavatthusmiṃ veyyāvaccaṃ brahmacariyanti vuttaṃ.
Phục vụ [veyyāvacca] gọi là Phạm hạnh đã được nói đến trong chuyện Ngạ Quỷ Aṅkura: “Do việc nào bàn tay của Ngài ban cho những điều đáng ước muốn, do việc nào bàn tay là nơi chảy ra nguồn mật ngọt, phước báu được thành tựu nơi bàn tay của Ngài bởi do Phạm hạnh gì? Do việc ấy bàn tay của Ngài ban cho những điều đáng ước muốn, do việc ấy bàn tay là nơi chảy ra nguồn mật ngọt, phước báu được thành tựu nơi bàn tay của Ngài bởi do Phạm hạnh đó.”[38]
‘‘Evaṃ kho taṃ, bhikkhave, tittiriyaṃ nāma brahmacariyaṃ ahosī’’ti (cūḷava. 311) imasmiṃ tittirajātake pañcasikkhāpadaṃ brahmacariyanti vuttaṃ. ‘‘Taṃ kho pana me pañcasikha brahmacariyaṃ neva nibbidāya na virāgāya na nirodhāya, yāvadeva brahmalokūpapattiyā’’ti (dī. ni. 2.329) imasmiṃ mahāgovindasutte brahmavihārā brahmacariyanti vuttaṃ. ‘‘Ekasmiṃ brahmacariyasmiṃ, sahassaṃ maccuhāyina’’nti (saṃ. ni. 1.184) ettha dhammadesanā brahmacariyanti vuttā. ‘‘Pare abrahmacārī bhavissanti, mayamettha brahmacārī bhavissāmā’’ti (ma. ni. 1.83) sallekhasutte methunavirati brahmacariyanti vuttā.
Năm học giới được gọi là Phạm hạnh trong Bổn sanh Tittira [Chuyện Con Chim Đa Đa] như sau: “Này các tỳ khưu, con chim đa đa ấy nổi danh là bậc hành Phạm hạnh.”[39] Phạm trú được gọi là Phạm hạnh trong kinh Mahāgovinda như sau: “ Nhưng này Pancasikha, con đường phạm hạnh ấy không vận hành để đưa đến sự nhàm chán, không vận hành để đưa đến sự ly dục, không vận hành để đưa đến tịch diệt, mà chỉ vận hành để đưa đến sanh vào thế giới Phạm thiên mà thôi.”[40] Thuyết pháp được gọi là Phạm hạnh trong câu sau: “Trong Phạm hạnh duy nhất, hàng ngàn người thoát khỏi tử thần.”[41] Xa lánh sự dâm dục [methunavirati] gọi là Phạm hạnh trong kinh Đoạn Giảm [Sallekhasutta] như sau: “Nhóm người khác không thực hành Phạm hạnh, nhưng chúng ta sẽ thực hành Phạm hạnh.”[42] Chung thuỷ một vợ một chồng được gọi là Phạm hạnh như sau:
“Chúng tôi không phản bội những người vợ và những người vợ cũng không phản bội chúng tôi, chúng tôi không sống chung với những người vợ ấy để thực hành Phạm hạnh, chính vì thế chúng tôi khi bị chết lúc còn trẻ.”[43]
‘‘Hīnena brahmacariyena, khattiye upapajjati;
Majjhimena ca devattaṃ, uttamena visujjhatī’’ti. (jā. 1.8.75) – Evaṃ nimijātake attadamanavasena kato aṭṭhaṅgiko uposatho brahmacariyanti vutto.
Ngày trai giới phối hợp với 8 chi phần [giới] đã được thọ trì với sức mạnh của việc tự điều phục mình được gọi là Phạm hạnh trong Bổn sanh Nimi như sau:
“Hạng người được sanh vào dòng dõi Sát-đế-lỵ với Phạm hạnh thấp hèn, được sanh lên bản thể Thiên nhân với Phạm hạnh trung bình, được thanh tịnh với Phạm hạnh cao thượng.”[44]
‘‘Idaṃ kho pana me, pañcasikha, brahmacariyaṃ ekantanibbidāya virāgāya…pe… ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko maggo’’ti (dī. ni. 2.329) mahāgovindasuttasmiññeva ariyamaggo brahmacariyanti vutto. ‘‘Tayidaṃ brahmacariyaṃ iddhañceva phītañca vitthārikaṃ bāhujaññaṃ puthubhūtaṃ yāva devamanussehi suppakāsita’’nti (dī. ni. 3.174) pāsādikasutte sikkhattayasaṅgahaṃ sāsanaṃ brahmacariyanti vuttaṃ.
Thánh đạo gọi là Phạm hạnh trong kinh Mahāgovinda: “Này Pañcasikkhā, chính Phạm hạnh này vận hành đưa đến nhàm chán một phần, đưa đến sự ly dục -nt- đó chính là Thánh đạo tám chi phần.”[45]
Giáo lý được nhiếp thâu trong Tam học gọi là Phạm hạnh trong kinh Thanh Tịnh [Pāsādikasutta] như sau: “Phạm hạnh này được hưng thịnh, được quảng bá, được truyền bá rộng rãi cho đại chúng càng ngày càng đông, vì được khéo léo thuyết giảng cho loài Người.”[46]
‘‘Api ataramānānaṃ, phalāsāva samijjhati;
Vipakkabrahmacariyosmi, evaṃ jānāhi gāmaṇī’’ti. (jā. 1.1.8) –
Ettha ajjhāsayo brahmacariyanti vutto. Idha pana vīriyaṃ brahmacariyanti adhippetaṃ. Vīriyabrahmacariyassa hi idameva suttaṃ. Tadetaṃ ekasmiṃ attabhāve catubbidhassa dukkarassa katattā caturaṅgasamannāgatanti vuttaṃ.
Ở đây, tánh nết [ajjhāsaya] được gọi là Phạm hạnh như: “Kết quả mong muốn được thành tựu cho những người không vội vã. Ta có Phạm hạnh đã được thuần thục, này Gāmaṇī, ngươi hãy biết như thế”[47]
Lại nữa, ở đây Phạm hạnh được hiểu là sự tinh tấn. Bởi vậy, chính bài Kinh này đây thuộc bài Kinh Phạm hạnh, tức là sự tinh tấn; Sự tinh tấn này đây đã được nói rằng— được hội đủ với bốn yếu tố do trạng thái đã làm bốn hành động khó làm ở trong một bản ngã này.
Tapassī sudaṃ homīti sudanti nipātamattaṃ, tapanissitako homīti attho. Paramatapassīti paramo tapassī, tapanissitakānaṃ uttamo. Lūkho sudaṃ homīti lūkho homi. Jegucchīti pāpajegucchiko. Pavivitto sudaṃ homīti pavivitto ahaṃ homi. Tatrāssu me idaṃ, sāriputtāti tatra caturaṅge brahmacariye idaṃ mama tapassitāya hoti, tapanissitakabhāve mayhaṃ idaṃ acelakāditapassitakattaṃ hotīti dasseti.
Ở đây, từ suda trong câu tapassī sudaṃ homi [ta thực hành khổ hạnh] chỉ là một phân từ, (tức là) Ta là người dựa vào sự tinh tấn để thiêu đốt phiền não. Paramatapassī [tối thắng hơn những người thực hành khổ hạnh]: Có sự tinh tấn thiêu đốt phiền não tối thắng, là cao thượng hơn tất cả những người nương vào tinh tấn để thiêu đốt phiền não. lūkho sudaṃ homi [Ta thực hành bần uế]: Ta là kẻ thô kệch. Là người yểm ly [jegucchī] là người cực kỳ ghét điều ác. pavivitto sudaṃ homi [ta là người sống độc cư] là người ưa thích sống viễn ly. Tatrāssu me idaṃ, Sāriputtati [Này Sāriputta, ở đây…] chỉ ra rằng: “Ở đây, trong bốn Phạm hạnh này, đây là pháp thiêu đốt (phiền não) của Ta, trạng thái nương vào khổ hạnh này của Ta là sự hành trì lối sống lõa thể v.v.
Tattha acelakoti niccelo naggo. Muttācāroti visaṭṭhācāro, uccārakammādīsu lokiyakulaputtācārena virahito, ṭhitakova uccāraṃ karomi, passāvaṃ karomi, khādāmi bhuñjāmi ca. Hatthāpalekhanoti hatthe piṇḍamhi ṭhite jivhāya hatthaṃ apalikhāmi, uccāraṃ vā katvā hatthasmiññeva daṇḍakasaññī hutvā hatthena apalikhāmīti dasseti. Te kira daṇḍakaṃ sattoti paññapenti, tasmā tesaṃ paṭipadaṃ pūrento evamakāsi. Bhikkhāgahaṇatthaṃ ehi bhaddanteti vutto na etīti na ehibhaddantiko. Tena hi tiṭṭha bhaddanteti vuttopi na tiṭṭhatīti na tiṭṭhabhaddantiko. Tadubhayampi titthiyā evaṃ etassa vacanaṃ kataṃ bhavissatīti na karonti. Ahampi evaṃ akāsinti dasseti. Abhihaṭanti puretaraṃ gahetvā āhaṭaṃ bhikkhaṃ. Uddissakatanti idaṃ tumhe uddissa katanti evaṃ ārocitabhikkhaṃ. Na nimantananti asukaṃ nāma kulaṃ vā vīthiṃ vā gāmaṃ vā paviseyyāthāti evaṃ nimantitabhikkhampi na sādiyāmi na gaṇhāmi.
Ở đó, kẻ lõa thể [acelako] là kẻ không bận y phục là kẻ loã thể. Thói quen xấu [muttācāro] gồm Ta đã từ bỏ cách ứng xử là từ bỏ cách cư xử của một thiện nam tử trong thế gian, trong mọi hành động có việc tiểu tiện, là người đứng để đại tiện, đứng để nhai và thọ dụng vật thực. Liếm tay [Hatthāpalekhano] chỉ ra rằng khi vắt cơm còn trong tay, ta có sử dụng lưỡi để liếm tay, khi đi đại tiện ta có sử dụng tay để lau chùi, nghĩ rằng bàn tay đó là cây gậy. Kể rằng bọn họ nghĩ rằng cây gậy là một chúng sanh, vì vậy khi Ngài thực hành đạo lộ của bọn họ phải thực hành theo như thế. Chỉ ra rằng họ mời đến để nhận vật thực ‘hãy đến đây, cũng không đến’, bởi thế được xem là họ mời đến nhận vật thực cũng không đến; Thậm chí họ nói nếu như vậy ‘hãy dừng lại, cũng không dừng’, vì vậy được xem là họ mời dừng lại để nhận thức ăn cũng không dừng; nhưng những ngoại đạo sư không thực hành 2 điều đó, bởi họ hiểu rằng lời nói của họ sẽ được thực hành. Thậm chí Ta cũng đã thực hành như vậy. Đồ ăn mang đến [abhihaṭaṃ] gồm vật thực mà họ đã chia thành từng phần trước khi mang lại. Vật thực được dành riêng [uddissakataṃ] là loan báo bữa ăn như vầy đã được nấu riêng dành cho vị này. không nhận lời mời [na nimantanaṃ] gồm ta không hoan hỷ, không nhận lời, dù bữa ăn được thỉnh mời như sau: kính mời Ngài đi đến gia tộc, con đường, hoặc nhà tên như vậy.
Na kumbhimukhāti kumbhito uddharitvā diyyamānaṃ bhikkhaṃ na gaṇhāmi. Na kaḷopimukhāti kaḷopīti ukkhali vā pacchi vā. Tatopi na gaṇhāmi. Kasmā? Kumbhikaḷopiyo maṃ nissāya kaṭacchunā pahāraṃ labhantīti. Na eḷakamantaranti ummāraṃ antaraṃ katvā diyyamānaṃ na gaṇhāmi. Kasmā? Ayaṃ maṃ nissāya antarakaraṇaṃ labhatīti. Daṇḍamusalesupi eseva nayo. Na dvinnanti dvīsu bhuñjamānesu ekasmiṃ uṭṭhāya dente na gaṇhāmi. Kasmā? Kabaḷantarāyo hotīti. Na gabbhiniyātiādīsu pana gabbhiniyā kucchiyaṃ dārako kilamati, pāyantiyā dārakassa khīrantarāyo hoti, purisantaragatāya ratiantarāyo hotīti na gaṇhāmi. Na saṃkittīsūti saṃkittetvā katabhattesu. Dubbhikkhasamaye kira acelakasāvakā acelakānaṃ atthāya tato tato taṇḍulādīni samādapetvā bhattaṃ pacanti. Ukkaṭṭhācelako tatopi na paṭiggaṇhāti.
Không nhận đồ ăn từ miệng nồi [na kumbhimukhā] là Ta không nhận vật thực mà họ múc ra từ nồi chảo. Không nhận đồ ăn từ nồi cơm [na kaḷopimukhā]: Nồi cơm, hoặc cái rổ, giỏ gọi là kaḷopī, Ta không nhận vật thực từ nồi cơm ấy. Tại sao? Chủ nhân của nồi cơm nương tựa Ta (sẽ) đánh đập ta bằng vá cơm. Không nhận đồ ăn tại ngưỡng cửa [na eḷakamantaraṃ]: Ta không nhận thức ăn mà họ đứng trong ngưỡng cửa bố thí [đến ta]. Tại sao? bởi vì người này nương nhờ Ta, phải được thực ở chính giữa. Cây gậy và cái chày có cách thức tương tự. Na dvinnaṃ [không nhận đồ ăn từ hai người đang ăn]: Khi hai người đang thọ dụng vật thực, một người đứng dậy bố thí, ta cũng không nhận. Tai sao? Bởi vì sẽ cho họ phải ngưng thọ dụng vật thực. Na gabbhiniyā [không nhận đồ ăn từ người đàn bà có thai] v.v, đứa bé trong bụng của người nữ mang thai sẽ gặp trở ngại, khi người mẹ đang cho con bú thì đứa bé sẽ bị nguy hiểm [ngạt thở] từ sữa [ọc sữa], không nhận đồ ăn từ người đàn bà đang giao cấu [purisantaragatāya]: Ta không nhận vật thực do làm mất đi sự khoái lạc [của họ]. na saṃkittīsu [không nhận đồ ăn đi quyên góp]: Không nhận thức ăn từ việc quyên góp thực hiện. Kể rằng trong vào thời kỳ đói kém, các đệ tử của lõa thể sư thuyết phục nhau đi góp nhặt lấy gạo từ nơi đó để nấu bố thí cho cho các lõa thể sư, các vị lõa thể nghiêm khắc bỏ đi và không thọ nhận thức ăn.
Na yattha sāti yattha sunakho piṇḍaṃ labhissāmīti upaṭṭhito hoti, tattha tassa adatvā āhaṭaṃ na gaṇhāmi. Kasmā? Etassa piṇḍantarāyo hotīti. Saṇḍasaṇḍacārinīti samūhasamūhacārinī, sace hi acelakaṃ disvā imassa bhikkhaṃ dassāmāti mānusakā bhattagehaṃ pavisanti. Tesu ca pavisantesu kaḷopimukhādīsu nilīnā makkhikā uppatitvā saṇḍasaṇḍā caranti. Tato āhaṭaṃ bhikkhaṃ na gaṇhāmi. Kasmā? Maṃ nissāya makkhikānaṃ gocarantarāyo jātoti, ahampi tathā akāsiṃ. Na thusodakanti sabbasassasambhārehi kataṃ loṇasovīrakaṃ. Ettha ca surāpānameva sāvajjaṃ, ayaṃ pana sabbesupi sāvajjasaññī.
Không nhận đồ ăn tại chỗ có chó đứng [na yattha sā]: Ở chỗ nào con chó đứng lại với sự hy vọng sẽ kiếm được vắt cơm, ta không nhận thức ăn mà họ không cho con chó ở tại chỗ nó đứng rồi đem lại. Tại sao? Bởi vì con chó sẽ không nhận được đồ ăn. Không nhận đồ ăn tại chỗ có ruồi bu [saṇḍasaṇḍacārinī]: có ruồi bu thành bầy đàn, bởi vậy nếu sau khi nhìn thấy những ngoại đạo lõa thể sẽ bố thí thức ăn đến đạo lõa thể, đi vào nhà bếp, khi họ đi vào nhà bếp, ruồi bọ đậu vào miệng nồi cơm v.v, sẽ bay bám đậu thành đàn, ta sẽ không nhận thức ăn mà họ đem lại từ nồi cơm ấy. Tại sao? Bởi vì bọn ruồi bọ không được thức ăn do nương vào ta, ta cũng đã thực hiện như vậy. Không uống nước lên men [na thusodakaṃ]: nước dấm có pha muối được làm với các nguyên liệu từ hạt ngũ cốc, trong trường này chỉ cho việc uống rượu là phạm tội, những người này lại cho rằng (tất cả) đều phạm tội.
Ekāgārikoti yo ekasmiññeva gehe bhikkhaṃ labhitvā nivattati. Ekālopikoti yo ekeneva ālopena yāpeti. Dvāgārikādīsupi eseva nayo. Ekissāpi dattiyāti ekāya dattiyā. Datti nāma ekā khuddakapāti hoti, yattha aggabhikkhaṃ pakkhipitvā ṭhapenti. Ekāhikanti ekadivasantarikaṃ. Addhamāsikanti addhamāsantarikaṃ. Pariyāyabhattabhojananti vārabhattabhojanaṃ. Ekāhavārena dvīhavārena sattāhavārena aḍḍhamāsavārenāti evaṃ divasavārena ābhataṃ bhattabhojanaṃ.
Người nào nhận vật thực chỉ ở một nhà được gọi là ekāgāriko [ta chỉ nhận đồ ăn tại một nhà]. Người nào nuôi mạng chỉ bằng một miếng thức ăn gọi là nuôi mạng với một miếng [ekālopiko]. Cả trong câu hận vật thực ở hai nhà v.v, có cách thức tương tự như vậy. Chỉ một chén nhỏ [ekissāpi dattiyā]: với một chén nhỏ mà thôi. Chỉ một chén nhỏ mà họ bố thí vật thực thượng hạng gọi là cái chén nhỏ. Một ngày [ekāhikaṃ]: vật thực được giữ trong một ngày. Nửa tháng [addhamāsikaṃ]: vật thực được giữ trong nửa tháng. Việc thọ dụng vật thực luân phiên [pariyāyabhattabhojanaṃ] nghĩa là thọ dụng vật thực luân phiên là thọ dụng vật thực xoay vòng theo chu kỳ của ngày như vầy là một ngày dùng một bữa, hai ngày dùng một bữa, bảy ngày dùng một bữa, nửa tháng dùng một bữa.
Sākabhakkhoti allasākabhakkho. Sāmākabhakkhoti sāmākataṇḍulabhakkho. Nīvārādīsu nīvārā nāma tāva araññe sayaṃjātavīhijāti. Daddulanti cammakārehi cammaṃ likhitvā chaḍḍitakasaṭaṃ. Haṭaṃ vuccati silesopi sevālopi kaṇikārādirukkhaniyyāsopi. Kaṇanti kuṇḍakaṃ . Ācāmoti bhattaukkhalikāya laggo jhāmaodano, taṃ chaḍḍitaṭṭhāne gahetvā khādati. ‘‘Odanakañjiya’’ntipi vadanti. Piññākādayo pākaṭā eva. Pavattaphalabhojīti patitaphalabhojī.
Có rau cải làm thức ăn [sākabhakkho] bao gồm rau cải làm thức ăn. Có lúa miến làm thức ăn [sāmākabhakkho] gồm gạo từ lúa miến làm thức ăn. Hạt kê [nīvārā] v.v, nên biết rằng loại nếp được mọc lên trong rừng được gọi là hạt kê [nīvārā]. Vỏ trấu [daddulaṃ] gồm vỏ trấu đã được tách hết vỏ rồi vứt bỏ. Vỏ cây, rong biển, nhựa cây có kaṇikā, v.v., được gọi là haṭa [thức ăn mủ cây]. Cám gạo [kaṇa] gồm gạo gãy vụn. Ācāmo [váng cơm] gồm cơm cháy dính vào thành của nồi cơm, lượm nhặt cơm cháy đó nơi mà họ đã vứt bỏ rồi ăn. Các vị thầy cũng gọi là “nước cơm.” Các loại bột khác có tinh bột v.v, đã trình bày rõ ràng rồi. Ăn trái cây rụng [pavattaphalabhojī] gồm thọ dụng các loại trái cây đã rụng để sống.
Sāṇānīti sāṇavākacoḷāni. Masāṇānīti missakacoḷāni. Chavadussānīti matasarīrato chaḍḍitavatthāni. Erakatiṇādīni vā ganthetvā katanivāsanāni. Paṃsukūlānīti pathaviyaṃ chaḍḍitanantakāni. Tiritānīti rukkhattacavatthāni. Ajinanti ajinamigacammaṃ. Ajinakkhipanti tadeva majjhe phālitaṃ. Sakhurakantipi vadanti. Kusacīranti kusatiṇaṃ ganthetvā katacīraṃ. Vākacīraphalakacīresupi eseva nayo. Kesakambalanti manussakesehi katakambalaṃ. Yaṃ sandhāya vuttaṃ ‘‘yāni kānici, bhikkhave, tantāvutānaṃ vatthānaṃ, kesakambalo tesaṃ paṭikuṭṭho akkhāyati. Kesakambalo, bhikkhave, sīte sīto, uṇhe uṇho, dubbaṇṇo duggandho dukkhasamphaso’’ti (a. ni. 3.138). Vālakambalanti assavālādīhi katakambalaṃ. Ulūkapakkhakanti ulūkapattāni ganthetvā katanivāsanaṃ. Ubbhaṭṭhakoti uddhaṃ ṭhitako. Ukkuṭikappadhānamanuyuttoti ukkuṭikavīriyaṃ anuyutto, gacchantopi ukkuṭikova hutvā uppatitvā uppatitvā gacchati. Kaṇṭakāpassayikoti ayakaṇṭake vā pakatikaṇṭake vā bhūmiyaṃ koṭṭetvā tattha cammaṃ attharitvā ṭhānacaṅkamādīni karomīti dasseti. Seyyanti sayantopi tattheva seyyaṃ kappemi. Sāyaṃ tatiyamassāti sāyatatiyakaṃ. Pāto majjhanhike sāyanti divasassa tikkhattuṃ pāpaṃ pavāhessāmīti udakorohanānuyogaṃ anuyutto viharāmīti dasseti.
Vải gai thô [sāṇānī] vải được làm từ sợi gai. Vải quấn tử thi [chavadussānī] gồm vải được lấy ra từ tử thi hoặc vải được làm từ cỏ [eraka]. Y phấn tảo [paṃsukūlāni] gồm vải dơ cũ bị họ vứt bỏ trên trên đường. Y vỏ cây tititaka gồm y làm từ vỏ cây. Áo da beo [ajinaṃ] gồm (y phục được làm bằng) da con beo. Da beo có cả móng vuốt [ajinakkhipaṃ] chính là da beo được cắt làm đôi, một vài vị nói rằng da beo có móng vuốt như thế cũng có. Y áo làm bằng cỏ tranh [kusacīraṃ] là y áo được đan từ cỏ kusa làm thành. Ngay cả vải làm từ cây đay và vải làm từ các loại trái cây cũng có hình thức tương tự vậy. Vải kambala dệt bằng tóc [kesakambalaṃ] gồm vải kambala được bện lại từ tóc người, Thế Tôn thuyết rằng “Này các tỳ khưu, một số loại vải được đan, vải kambala được làm bằng tóc người, này các tỳ khưu, mùa lạnh sẽ lạnh, mùa nóng sẽ nóng, rẻ tiền, chất vải thô cứng, có sắc xấu, có mùi hôi thối.”[48] Vải kambala làm bằng lông thú [vālakambalaṃ] là vải được làm từ lông ngựa v.v. Vải lông vũ [ulūkapakkhakaṃ] là vải được đang bằng lông vũ tạo thành tấm choàng. Theo hạnh đứng một chỗ [ubbhaṭṭhako] là người đứng [không ngồi]. Tinh tấn theo hạnh ngồi xổm [ukkuṭikappadhānamanuyutto] là người mải mê kiên trì ngồi xổm, thậm chí khi đi cũng ngồi xổm, giẫm trên đất bằng nữa lòng bàn chân để bước đi. Nằm trên giường gai [kaṇṭakāpassayiko] chỉ ra rằng Ta vót gai nhỏ, gai bình thường rồi đặt trên mặt đất sau đó trải tấm da lên bàn gai thực hành (oai nghi) đứng và đi kinh hành v.v, Việc nằm [seyyaṃ] nghĩa là Ta ngay cả khi nằm cũng nằm trên chính giường gai đó. Mỗi ngày 3 lần [sāyatatiyakaṃ] là mỗi ngày 3 lần, chỉ ra rằng Ta tinh tấn thường xuyên đi xuống nước, Ta sẽ thả trôi tội lỗi mỗi ngày 3 lần vào buổi sáng, buổi trưa và buổi chiều.
156. Nekavassagaṇikanti nekavassagaṇasañjātaṃ. Rajojallanti rajamalaṃ, idaṃ attano rajojallakavatasamādānakālaṃ sandhāya vadati. Jegucchisminti pāpajigucchanabhāve. Yāva udakabindumhipīti yāva udakathevakepi mama dayā paccupaṭṭhitā hoti, ko pana vādo aññesu sakkharakaṭhaladaṇḍakavālikādīsu. Te kira udakabinduṃ ca ete ca sakkharakaṭhalādayo khuddakapāṇāti paññapenti. Tenāha ‘‘yāva udakabindumhipi me dayā paccupaṭṭhitā hotī’’ti. Udakabindumpi na hanāmi na vināsemi, kiṃ kāraṇā. Māhaṃ khuddake pāṇe visamagate saṅghātaṃ āpādesi Ninnathalatiṇaggarukkhasākhādīsu visamaṭṭhāne gate udakabindusaṅkhāte khuddakapāṇe saṅghātaṃ vadhaṃ mā āpādesinti. Etamatthaṃ ‘‘satova abhikkamāmī’’ti dasseti. Acelakesu kira bhūmiṃ akkantakālato pabhuti sīlavā nāma natthi. Bhikkhācāraṃ gacchantāpi dussīlāva hutvā gacchanti, upaṭṭhākānaṃ gehe bhuñjantāpi dussīlāva hutvā bhuñjanti. Āgacchantāpi dussīlāva hutvā āgacchanti. Yadā pana morapiñchena phalakaṃ sammajjitvā sīlaṃ adhiṭṭhāya nisīdanti, tadā sīlavantā nāma honti.
[156] Trãi qua nhiều năm [nekavassagaṇikaṃ] được tích tập qua nhiều năm tháng. Bụi bẩn [rajojallaṃ] gồm trần cấu là bụi bẩn, Thế Tôn muốn nói đến thời gian nhận lãnh sự hành trì của Ngài mới thuyết đến trần cấu là bụi bẩn này. Thực hành sự yểm ly [jegucchismiṃ] là trong tính chất [bhāva] tránh xa các ác pháp. Cho đến cả trong một giọt nước [yāva udakabindumhipi]: Ta đã thiết lập lòng từ cả trong giọt nước, nói gì đến trong hòn đá cuội, cục đất, cây gậy, và cát đá v.v, với những thứ khác. Được biết bọn họ cho rằng là những loại sinh vật nhỏ và những thứ khác như đá cuội và cục đất, chúng là những loài sinh nhỏ bé. Bởi vậy, Ngài đã nói rằng: “Lòng tin của Ta hiện hữu cả trong giọt nước”, Ta không sát hại, không tiêu diệt thậm chí những giọt nước. Tại sao? Bởi vì Ta nghĩ đừng hủy hoại mạng sống của những sinh vật nhỏ bé sống ở những chỗ khác, bởi thế Ta không hủy diệt là sát hại sinh vật nhỏ bé, đã nói là giọt nước có mặt ở những chỗ khác chẳng hạn như trong trên đồi, trên cạn, trên đầu những cành cây, ngọn cỏ, v.v. Cho nên, mới thuyết nội dung này rằng “Ta đó có niệm tiến về phía trước.” Tất cả những ngoại đạo lõa thể, ngoại đạo lõa thể cho rằng trong quá khứ kể từ khi bước lên mặt đất được cho là không có giới”, ngoại đạo lõa thể đang đi hành khất đi kiểu người ác giới [dussīla], cho đến thọ dụng vật thực trong tư gia của những người thí chủ [upaṭṭhāka] cùng thọ dụng vật thực kiểu người ác giới, thậm chí khi trở về cũng như người ác giới trở về, bất kể lúc nào quét tấm bản với lông đuôi con chim công, ngồi thọ trì giới, thì lúc ấy được gọi là người có giới.
Vanakammikanti kandamūlaphalāphalādīnaṃ atthāya vane vicarantaṃ. Vanena vananti vanato vanaṃ, esa nayo sabbattha. Saṃpatāmīti gacchāmi. Āraññakoti araññe jātavuddho, idaṃ attano ājīvakakālaṃ sandhāya vadati. Bodhisatto kira pāsaṇḍapariggaṇhaṇatthāya taṃ pabbajjaṃ pabbaji, niratthakabhāvaṃ pana ñatvāpi na uppabbajjito, bodhisattā hi yaṃ yaṃ ṭhānaṃ upenti, tato anivattitadhammā honti, pabbajitvā pana mā maṃ koci addasāti tatova araññaṃ paviṭṭho. Tenevāha ‘‘mā maṃ te addasaṃsu ahañca mā te addasa’’nti.
Người đi lượm nhặt trái cây v.v, trong rừng [vanakammikaṃ] gồm kẻ đi quanh quẩn trong rừng nhằm mục đích tìm kiếm rễ cây và trái cây v.v. Từ rừng đi đến rừng [vanena vanaṃ] nghĩa là từ rừng này qua rừng khác. Tất cả các từ đều có cách thức như vậy. Saṃpatāmi[49] là tôi đi [gacchāmi]. Thú rừng [Āraññako] là những con thú sống trong rừng. Nói lời này muốn nói lúc Ngài là ājīvaka [tu sĩ ngoài Phật giáo]. Thật vậy, Bồ-tát [bodhisatta] xuất gia thành ājīvaka để học tập học thuyết dị giáo, dẫu biết rằng sự xuất gia đó không đem lại lợi ích, nhưng cũng không từ bỏ bởi vì các đức Bồ-tát khi đã làm điều gì sẽ không bao giờ thối lui, nhưng khi đã xuất gia nghĩ rằng mọi người đừng nhìn thấy Ta nên đã đi vào rừng. Bởi vậy, Ngài đã nói rằng: “Những người đó đừng nhìn thấy Ta và Ta cũng đừng nhìn thấy họ.”
Goṭṭhāti govajā. Paṭṭhitagāvoti nikkhantagāvo. Tattha catukkuṇḍikoti vananteyeva ṭhito gopālakānaṃ gāvīhi saddhiṃ apagatabhāvaṃ disvā dve hatthe dve ca jaṇṇukāni bhūmiyaṃ ṭhapetvā evaṃ catukkuṇḍiko upasaṅkamitvāti attho. Tāni sudaṃ āhāremīti mahallakavacchakānaṃ gomayāni kasaṭāni nirojāni honti, tasmā tāni vajjetvā yāni taruṇavacchakānaṃ khīrapāneneva vaḍḍhantānaṃ saojāni gomayāni tāni kucchipūraṃ khāditvā puna vanasaṇḍameva pavisati. Taṃ sandhāyāha ‘‘tāni sudaṃ āhāremī’’ti. Yāvakīvañca meti yattakaṃ kālaṃ mama sakaṃ muttakarīsaṃ aparikkhīṇaṃ hoti. Yāva me dvāravaḷañjo pavattittha, tāva tadeva āhāremīti attho. Kāle pana gacchante gacchante parikkhīṇamaṃsalohito upacchinnadvāravaḷañjo vacchakānaṃ gomayāni āhāremi. Mahāvikaṭabhojanasminti mahante vikaṭabhojane, apakatibhojaneti attho.
Goṭṭhā gồm chuồng bò. Đàn bò đã đi [Paṭṭhitagāvo] là khi các con bò đã bỏ đi. Ở đó, đi từ từ bằng bốn chân [catukkuṇḍiko] là đi quanh quẩn, đứng nhìn thấy người chăn bò cùng với đàn bò đã rời khỏi, (vị ấy) đặt cả hai và cả hai đầu gối trên mặt đất bò từ từ vào tương tự như thế (như con bò). Ăn phân bò [tāni sudaṃ āhāremi] nghĩa là ăn cặn bã của con bê già không có vị, vì vậy (vị ấy) không ăn phân bò đó, ăn phân những con bò có vị của những con bê non vẫn còn bú sữa mẹ, sau khi ăn đầy bụng rồi đi vào khu rừng đó. Đề cập lời nói đó, Ngài đã nói rằng: “Ta ăn phân của con bê non chưa rời mẹ.” Khi nào (phân và nước tiểu) của Ta chưa hết [yāvakīvañca me] nghĩa là nước tiểu và phân của Ta vẫn chưa cạn kiệt tại thời điểm nào, phân còn bài tiết ra hậu môn chừng nào thì Ta ăn phân và uống nước tiểu đó trong suốt gian chừng ấy. Khi thời gian trôi qua thịt và máu đã cạn kiệt, phân từ hậu môn đã cạn, Ta sẽ ăn phân của những con bê con. Hạnh đại bất tịnh thực [Mahāvikaṭabhojanasmiṃ] là trong thức ăn bẩn thỉu loại lớn, tức là trong bữa ăn không bình thường.
157. Tatrāssudaṃ, sāriputta, bhiṃsanakassa vanasaṇḍassa bhiṃsanakatasmiṃ hotīti. Tatrāti purimavacanāpekkhanaṃ. Sudanti padapūraṇamatte nipāto. Sāriputtāti ālapanaṃ. Ayaṃ panettha atthayojanā – tatrāti yaṃ vuttaṃ aññataraṃ bhiṃsanakaṃ vanasaṇḍanti, tatra yo so bhiṃsanako vanasaṇḍo vutto, tassa bhiṃsanakassa vanasaṇḍassa bhiṃsanakatasmiṃ hoti, bhiṃsanakakiriyāya hotīti attho. Kiṃ hoti? Idaṃ hoti, yo koci avītarāgo…pe… lomāni haṃsantīti.
Tử tatra trong câu Này Sariputta, tại khu rừng rậm rạp kinh hoàng này [tatrāssudaṃ, sāriputta, bhiṃsanakassa vanasaṇḍassa bhiṃsanakatasmiṃ hoti] là từ muốn giải thích cho từ trước. Từ sudaṃ chỉ là một phân từ thêm vào để cho câu văn đầy đủ. Từ Sārīputta là hô cách [này Sārīputta]. Lời giải thích trong câu đó như vậy. Từ tatra nghĩa là sự đáng kinh hãi của khu rừng đáng sợ được thuyết như sau: “Trong khu rừng một trong những nơi đáng sợ”, được gọi là đáng sợ. Như thế nào? Như thế này “những ai chưa từ bỏ tham ái đi vào khu rừng rậm rạp ấy, thời lông tóc người ấy dựng ngược.”
Atha vā tatrāti sāmiatthe bhummaṃ. Su iti nipāto. Kiṃ su nāma te bhonto samaṇabrāhmaṇātiādīsu viya. Idanti adhippetamatthaṃ paccakkhaṃ viya katvā dassanavacanaṃ. Sudanti su idaṃ, sandhivasena ikāralopo veditabbo. Cakkhundriyaṃ itthindriyaṃ anaññātaññassāmītindriyaṃ kiṃ sūdhavittantiādīsu viya. Ayaṃ panettha atthayojanā, tassa, sāriputta, bhiṃsanakassa vanasaṇḍassa bhiṃsanakatasmiṃ idaṃsu hotīti. Bhiṃsanakatasminti bhiṃsanakabhāveti attho. Ekassa takārassa lopo daṭṭhabbo. ‘‘Bhiṃsanakattasmi’’ntiyeva vā pāṭho , bhiṃsanakatāya iti vā vattabbe liṅgavipallāso kato, nimittatthe cetaṃ bhummavacanaṃ. Tasmā evaṃ sambandho veditabbo, bhiṃsanakabhāve idaṃsu hoti, bhiṃsanakabhāvanimittaṃ bhiṃsanakabhāvahetu, bhiṃsanakabhāvapaccayā idaṃsu hoti. Yo koci avītarāgo taṃ vanasaṇḍaṃ pavisati. Yebhuyyena lomāni haṃsanti bahutarāni lomāni haṃsanti, uddhaṃ mukhāni sūcisadisāni kaṇṭakasadisāni ca hutvā tiṭṭhanti, appāni na haṃsanti, bahutarānaṃ vā sattānaṃ haṃsanti, appakānaṃ atisūrapurisānaṃ na haṃsantīti.
Lại nữa, Tatra là định sở cách [sattamīvibhatti] chia theo ý nghĩa sở thuộc cách [chaṭṭhīvibhatti]. Từ Su là một phân từ giống như trong câu v.v, rằng kiṃ su nāma te bhonto samaṇabrāhmaṇā. Từ Idaṃ là từ trình bày để thấy nội dung tuyên thuyết giống như làm cho sáng tỏ. Từ Su-idaṃ thành sudaṃ nên biết việc xóa bỏ nguyên âm ‘I’ bằng luật hợp âm [sandhi], tương tự trong cụm từ cakkhundriyaṃ itthindriyaṃ anaññātaññassāmītindriyaṃ kiṃ sūdhavittaṃ. Sự thành lập trong câu đó như vậy. Này Sārīputta đây là sự kinh hãi của khu rừng đáng sợ đó. Sự đáng sợ [bhiṃsanakatasmiṃ] nghĩa là với tính chất [bhava] kinh hãi. Cần thấy việc xóa bỏ một phụ âm ‘Ta’, Pālī trình bày ‘bhiṃsanakattasmin’ như vậy cũng có. Lại nữa, khi nói rằng bhiṃsanakatāya Ngài đã làm thay đổi tánh [liṅga] của từ. Vì vậy trong từ này là định sở cách [sattamīvibhatti] chia theo ý nghĩa sở thuộc cách [chaṭṭhīvibhatti]. Cho nên cần phải biết ý nghĩa liên kết như vậy, đây là sự đáng sợ là có sự đáng sợ làm tướng trạng [nimitta], có sự đáng sợ làm nhân, có sự đáng sợ làm duyên, bất kể người nào vẫn chưa lìa bỏ tham ái đi vào khu rừng đó, thời lông tóc người ấy dựng ngược là phần lớn lông tóc dựng ngược, dựng đứng lên giống như cây kim và dựng đứng lên tựa như cây gai. một số ít (lông tóc) không dựng ngược, những phần lớn lông tóc sẽ dựng ngược, chỉ một số ít người quá can đảm lông tóc không dựng ngược.
Antaraṭṭhakāti māghamāsassa avasāne catasso, phagguṇamāsassa ādimhi catassoti evaṃ ubhinnaṃ antare aṭṭharatti. Abbhokāseti mahāsatto himapātasamaye rattiṃ abbhokāse viharati, athassa lomakūpesu āvutamuttā viya himabindūni tiṭṭhanti, sarīraṃ setadukūlapārutaṃ viya hoti. Divā vanasaṇḍeti divā himabindūsu sūriyātapasamphassena vigatesu assāsopi bhaveyya, ayaṃ pana sūriye uggacchanteyeva vanasaṇḍaṃ pavisati, tatrāpissa sūriyātapena paggharantaṃ himaṃ sarīreyeva patati. Divā abbhokāse viharāmi rattiṃ vanasaṇḍeti gimhakāle kiresa divā abbhokāse vihāsi, tenassa kacchehi sedadhārā mucciṃsu, rattiṃ assāso bhaveyya, ayaṃ pana sūriye atthaṃ gacchanteyeva vanasaṇḍaṃ pavisati. Athassa divā gahitausme vanasaṇḍe aṅgārakāsuyaṃ pakkhitto viya attabhāvo paridayhittha. Anacchariyāti anuacchariyā. Paṭibhāsīti upaṭṭhāsi.
Antaraṭṭhakā [Ở giữa tháng 3 đến tháng 4] nghĩa là 8 đêm trong giữa 2 tháng này là 4 đêm cuối tháng 3, và 4 đêm đầu tháng 4. Ở ngoài trời [abbhokāse] nghĩa là bậc Đại nhân sống ở ngoài trời suốt đêm trong những ngày tuyết rơi. Sau đó, những hạt tuyết bao phủ từng lỗ chân lông của bậc Đại nhân đó giống như những viên ngọc trai, và toàn thân của Ngài như được bao phủ bởi một tấm vải thô màu trắng. Ban ngày Ta sống trong khu rừng [divā vanasaṇḍe] nghĩa là khi những giọt tuyết tan biến mất do tiếp xúc với ánh nắng mặt trời vào ban ngày, đủ để làm dễ chịu, nhưng Đại nhân sau khi mặt trời mọc, Ngài lại đi vào khu rừng rậm rập ấy. Ngay cả trong rừng, tuyết cũng tan chảy, bởi vì những tia nắng mặt trời chiếu vào thân của vị Bồ-tát đó. Ban ngày Ta sống ngoài trời, ban đêm ta sống trong rừng [divā abbhokāse viharāmi rattiṃ vanasaṇḍe] nghĩa là được kể rằng Bồ-tát an trú ngoài trời suốt ngày vào mùa nóng [gimhakāla]. Do đó, những dòng mồ hôi chảy ra từ hai bên của Bồ-tát. Vào ban đêm (thời tiết) cũng dễ chịu. Nhưng khi mặt trơi lặn Bồ-tát đi vào rừng. Lúc bấy giờ, trong khu rừng có sức nóng của ban ngày, thân thể của Bồ-tát cũng nóng đốt giống như nhốt trong một hố than đang cháy. Điều kỳ diệu không ít [anacchariyā] nghĩa là không phải không kỳ diều. Từ paṭibhāsi là upaṭṭhāsi [đã xuất hiện].
Sotattoti divā ātapena rattiṃ vanausmāya sutatto. Sosinnoti rattiṃ himena divā himodakena suṭṭhu tinto. Bhiṃsanaketi bhayajanake. Naggoti niccelo. Nivāsanapārupane hi sati sītaṃ vā uṇhaṃ vā na atibādheyya, tampi me natthīti dasseti. Na caggimāsinoti aggimpi na upagato. Esanāpasutoti suddhiesanatthāya pasuto, payutto. Munīti, tadā attānaṃ munīti katvā katheti.
Sotatto [nóng đốt] nghĩa là bị nóng đốt bởi ánh nắng ban ngày, với sức nóng trong rừng vào ban đêm. Sosinno [buốt lạnh] nghĩa là ướt đẫm bởi tuyết vào ban đêm và nước từ tuyết [tan ra] vào ban ngày. Đáng sợ [bhiṃsanake] bao gồm cái khiến khởi lên sự sợ hãi. Là người trần trụi [naggo] gồm không có quần áo, Ngài chỉ ra rằng “khi có y áo và chăn thì sự lạnh và sự nóng không gây trở ngại, thậm chị y áo và chăn Ta cũng không có.” na caggimāsino [không lửa sưởi ấm] là không được sưởi ấm bằng lửa. Vị tìm kiếm sự tịnh hóa [Esanāpasuto] bao gồm kiên trì tinh tấn là dấn thân vì lợi ích tìm kiếm sự thanh tịnh. Munī: khi ấy Ngài tự gọi chính mình là bậc ẩn sĩ.
Chavaṭṭhikānīti upaḍḍhadaḍḍhāni aṭṭhīni. Upadhāyāti yathā sīsūpadhānañca pādūpadhānañca paññāyati, evaṃ santharitvā tattha seyyaṃ kappemīti dasseti. Gāmaṇḍalāti gopāladārakā. Te kira bodhisattassa santikaṃ gantvā, sumedha, tvaṃ imasmiṃ ṭhāne kasmā nisinno, kathehīti vadanti. Bodhisatto adhomukho nisīdati, na katheti. Atha naṃ te akathetuṃ na dassāmāti parivāretvā oṭṭhubhanti sarīre kheḷaṃ pātenti. Bodhisatto evampi na katheti. Atha naṃ tvaṃ na kathesīti omuttenti passāvamassa upari vissajjenti. Bodhisatto evampi na kathetiyeva. Tato naṃ kathehi kathehīti paṃsukena okiranti. Bodhisatto evampi na kathetiyeva. Athassa na kathesīti daṇḍakasalākā gahetvā kaṇṇasotesu pavesenti. Bodhisatto dukkhā tibbā kaṭukā vedanā adhivāsento kassaci kiñci na karissāmīti matako viya acchati. Tenāha ‘‘na kho panāhaṃ, sāriputta, abhijānāmi tesu pāpakaṃ cittaṃ uppādetā’’ti. Na mayā tesu pāpakaṃ cittampi uppāditanti attho. Upekkhāvihārasmiṃ hotīti upekkhāvihāro hoti. Vihāro eva hi vihārasminti vutto. Teneva ca ‘‘idaṃsu me’’ti etthāpi ayaṃsu meti evaṃ attho veditabbo. Iminā nayena aññānipi evarūpāni padāni veditabbāni. Iminā ito ekanavutikappe pūritaṃ upekkhāvihāraṃ dasseti. Yaṃ sandhāyāha –
chavaṭṭhikāni [Bộ xương tử thi] bao gồm tất cả những bộ xương bị quăng bỏ rải rác. Upadhāya [dựa vào] chỉ ra rằng sau khi trải đóng xương ra Ngài nằm ngủ trên đống xương đó như thế nào, thì gối kê đầu và gối kê chân hiển lộ cũng như thế ấy. Mục đồng [gāmaṇḍalā] là những đứa trẻ chăn bò. Được biết rằng những đứa trẻ này đi tìm Bồ-tát rồi nói rằng: “Thưa Ngài Sumedha, tại sao Ngài lại ngồi nơi đây? hãy nói cho chúng con biết.” Bồ-tát ngồi cúi mặt không nói. Bấy giờ những mục đồng đó vây quanh Bồ-tát và hét lên rằng “chúng con sẽ cho Ngài nói chuyện”, vì vậy chúng đã nhổ nước bọt đầu của Bồ-tát, Bồ-tát cũng chẳng nói gì. Bấy giờ những mục đồng nổi giận với Bồ Tát vì Ngài không chịu nói lời nào, nên chúng đái vào Bồ-tát. Dù vậy, Bồ-tát cũng không nói. Nhưng sau đó, chúng rắc bụi lên người Bồ-tát và nói: “Hãy nói, hãy nói đi.” Dù vậy, Bồ-tát cũng cũng vẫn không nói. Sau đó, bọn chúng nói rằng: “ Ngài không nói sao?” chúng đã lấy cây que chọc vào 2 bên tai của Bồ-tát, Ngài chịu đựng đau khổ dữ dội kịch liệt, suy tư như sau: “ta sẽ không nói bất cứ một lời nào với bất kỳ ai” và ngồi im lặng như một người chết. Bởi vậy, Ngài đã nói rằng: “Này Sāriputta, Ta thắng tri rằng Ta không khởi ác tâm đối với chúng.” điều đó có nghĩa là Ta không cho khởi lên dù chỉ là suy nghĩ làm hại đối với bọn mục đồng. Sống với hạnh trú xả [upekkhāvihārasmiṃ hoti] là người sống với tâm buông xả. Bởi vì chính từ vihāro được sử dụng thành từ vihārasminti. Cũng với từ vihāro đó, cả trong câu ‘idaṃsu me’. Nên biết ý nghĩa câu đó bằng hình thức như vậy, những câu khác tương tự như vậy theo hình thức này. Ngài chỉ rằng thực hành hạnh trú xả [upekkhāvihāra] suốt 91 kiếp kể từ kiếp này với câu này. Muốn nói đến hạnh trú xả [upekkhāvihāra] Ngài đã nói như sau:
‘‘Sukhapatto na rajjāmi, dukkhe na homi dummano;
Sabbattha tulito homi, esā me upekkhāpāramī’’ti.
Khi cảm nghiệm thọ lạc Ta không hoan hỷ, khi cảm nghiệm thọ khổ Ta cũng không bất mãn, Ta không dính mắc trong tất cả lạc thọ và khổ thọ, đó là xã ba-la-mật của Ta.
Giải thích sự thanh tịnh do hành khổ hạnh kết thúc
Giải Thích Āhārasuddhi [Sự Thanh Tịnh Do Vật Thực]
158. Āhārenasuddhīti kolādinā ekaccena parittakaāhārena sakkā sujjhitunti evaṃdiṭṭhino honti. Evamāhaṃsūti evaṃ vadanti. Kolehīti padarehi. Kolodakanti kolāni madditvā katapānakaṃ. Kolavikatinti kolasāḷavakolapūvakolaguḷādikolavikāraṃ. Etaparamoti etaṃ pamāṇaṃ paramaṃ assāti etaparamo. Tadā ekanavutikappamatthake pana na beluvapakkatālapakkapamāṇo kolo hoti, yaṃ etarahi kolassa pamāṇaṃ, ettakova hotīti attho.
[158] Sự thanh tịnh do nhờ vật thực [āhārena suddhi] là người có quan điểm như vầy tất cả chúng sanh có thể thanh tịnh nhờ chút ít thức ăn như quả táo [kola] v.v. Nói như vậy [evamāhaṃsu] là nói như thế. Kolehi gồm các loại táo. Nước táo [kolodakaṃ] nước uống được làm bằng cách nghiền nát quả táo. Nước ép táo được làm từ nhiều loại khác nhau [kolavikatiṃ] bao gồm các loại táo khác nhau chẳng hạn như táo trộn với cải xà lách, táo với bánh ngọt, táo đường v.v. Có kích thước như quả táo hiện tại [Etaparamo]: Quả táo có kích thước lớn nhất, cho nên quả táo đó mới gọi là to như vậy, có nghĩa là trong thời gian đó đếm ngược 91 kiếp, quả táo không to bằng quả bầu nấu chín [beluvapakka], quả cọ chín [tālapakka] chỉ bằng quả táo ở thời điểm hiện tại mà thôi.
159. Adhimattakasimānanti ativiya kisabhāvaṃ. Āsītikapabbāni vā kāḷapabbāni vāti yathā āsītikavalliyā vā kāḷavalliyā vā sandhiṭṭhānesu milāyitvā majjhe unnatunnatāni honti, evaṃ mayhaṃ aṅgapaccaṅgāni hontīti dasseti. Oṭṭhapadanti yathā oṭṭhassa padaṃ majjhe gambhīraṃ hoti, evamevaṃ bodhisattassa milāte maṃsalohite vaccadvārassa antopaviṭṭhattā ānisadaṃ majjhe gambhīraṃ hoti. Athassa bhūmiyaṃ nisinnaṭṭhānaṃ sarapoṅkhena akkantaṃ viya majjhe unnataṃ hoti. Vaṭṭanāvaḷīti yathā rajjuyā āvunitvā katā vaṭṭanāvaḷī vaṭṭanānaṃ antarantarā ninnā hoti, vaṭṭanaṭṭhānesu unnatā, evaṃ piṭṭhikaṇṭako unnatāvanato hoti, jarasālāya gopānasiyoti jiṇṇasālāya gopānasiyo, tā vaṃsato muccitvā maṇḍale patiṭṭhahanti, maṇḍalato muccitvā bhūmiyanti; evaṃ ekā upari hoti, ekā heṭṭhāti oluggaviluggā bhavanti. Bodhisattassa pana na evaṃ phāsuḷiyo, tassa hi lohite chinne maṃse milāte phāsuḷantarehi cammāni heṭṭhā otiṇṇāni, taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ.
[159] Gầy còm quá mức [adhimattakasimānaṃ] nghĩa là trở nên cực kỳ gầy yếu. [āsītikapabbāni vā kāḷapabbāni vā] là chỉ ra rằng dây leo có nhiều đốt hoặc dây leo có đốt đen khô héo ở những khúc nối, nhô lên và lõm xuống ở giữa như thế nào, các chi phần lớn nhở của Ta cũng như thế đó. Dấu chân lạc đà [oṭṭhapadaṃ] nghĩa là bàn chân của lạc đà lõm sâu ở giữa như thế nào, khi máu và thịt của Bồ-tát khô cạn, thì mông cũng lõm sâu chính giữa do bàn trôn sụp đổ sâu vào trong tương tự như thế đó. Ở đó, chỗ ngồi trên mặt đất nơi Bồ-tát ngồi cũng nhô lên ở giữa giống như một dấu ấn hằn lên với một hình trụ mũi tên. Giống như một chuỗi hạt gồm các trục quay [Vaṭṭanāvaḷī] nghĩa là chuỗi hạt mà anh ta xoắn lại làm thành sợi dây thừng sẽ bị dẹt ở chính giữa các hạt nhô lên ở chỗ bện vào nhau như thế nào thi xương sống lưng lồi lên lõm xuống cũng như thế ấy. Giống như rui cột nhà hư nát [Jarasālāya gopānasiyo] gồm rui cột để đỡ sườn của mái nhà sàn hư nát. Rui cột đó sau khi bung ra khỏi khung, được đặt xung quanh. Các rui cột được đặt xung quanh sau khi bung ra sẽ nằm trên mặt đất, vì vậy chúng sẽ nằm chồng chéo lên nhau, là một cây nằm trên, một cây nằm dưới. Khung xương của Bồ-tát không phải chồng chéo lên nhau như vậy, bởi vì khi thiếu máu, phần thịt khô héo, lớp da cũng bị lõm sau vào khung xương, ám chỉ đến khung xương sườn đó, do đó mới thuyết câu này.
Okkhāyikāti heṭṭhā anupaviṭṭhā. Tassa kira lohite chinne maṃse milāte akkhiāvāṭakā matthaluṅgaṃ āhacca aṭṭhaṃsu, tenassa evarūpā akkhitārakā ahesuṃ. Āmakacchinnoti atitaruṇakāle chinno, so hi vātātapena saṃphusati ceva milāyati ca. Yāvassu me, sāriputtāti, sāriputta, mayhaṃ udaracchavi yāva piṭṭhikaṇṭakaṃ allīnā hoti. Atha vā yāvassu me, sāriputta, bhāriyabhāriyā ahosi dukkarakārikā, mayhaṃ udaracchavi yāva piṭṭhikaṇṭakaṃ allīnā ahosīti evamettha sambandho veditabbo. Piṭṭhikaṇṭakaṃyeva pariggaṇhāmīti sahaudaracchaviṃ gaṇhāmi. Udaracchaviṃyeva pariggaṇhāmīti sahapiṭṭhikaṇṭakaṃ gaṇhāmi. Avakujjo papatāmīti tassa hi uccārapassāvatthāya nisinnassa passāvo neva nikkhamati, vaccaṃ pana ekaṃ dve kaṭakaṭṭhimattaṃ nikkhamati. Balavadukkhaṃ uppādeti. Sarīrato sedā muccanti, tattheva avakujjo bhūmiyaṃ patati. Tenāha ‘‘avakujjo papatāmī’’ti. Tameva kāyanti taṃ ekanavutikappamatthake kāyaṃ. Mahāsaccakasutte pana pacchimabhavikakāyaṃ sandhāya imameva kāyanti āha. Pūtimūlānīti maṃse vā lohite vā sati tiṭṭhanti. Tassa pana abhāve cammakhaṇḍe lomāni viya hattheyeva lagganti, taṃ sandhāyāha ‘‘pūtimūlāni lomāni kāyasmā patantī’’ti.
Sâu tận trong hốc mắt [okkhāyikā] gồm sâu vào tận bên dưới. Thật vậy, khi thiếu máu, thịt khô héo, hốc mắt của bồ tát nằm sâu trong não, vì lý do đó mà đôi mắt Bồ-tát mới thành như vậy. Bị cắt trước khi chín [āmakacchinno] bị cắt đứt khi vẫn còn non, bởi vì mướp đắng tiếp xúc với nắng và gió thường bị khô héo. Yāvassu me, Sāriputtati: này Sāriputta da bụng của Ta bám chặt xương sống. Lại nữa, nên biết mối liên quan của câu này như vầy, này Sāriputta việc thực hành khổ hạnh của Ta là việc làm vô cùng khó khăn, đến nỗi da bụng của Ta dính chặt vào xương sống. Ta nắm lấy chính xương sống [piṭṭhikaṇṭakaṃyeva pariggaṇhāmi]: Ta nghĩ rằng sẽ nắm lấy da bụng chỉ để xoa dịu da bụng thi chính xương sống bị ta nắm lấy. Ta ngã quỵ, úp mặt xuống đất [Avakujjo papatāmi]: khi vị ấy ngồi để đại tiện, tiểu tiện, phân cũng không ra. chỉ ra chút ít phân bằng 1-2 hạt mã tiền, khiến cho sanh khởi khổ đau kịch liệt. Thân thể toát mồ hôi. Ngài ngã quỵ, úp mặt xuống đất ở tại chính nơi đó. Vì lý do ấy, Ngài đã nói “Ta đã ngã quỵ, úp mặt xuống đất.” Làm cho thân thể thuần thục [Tameva kāyaṃ] nghĩa là thân cuối cùng trong kiếp thứ 91, trong bài kinh Mahāsaccaka đã nói đến thân này trong kiếp cuối cùng như vầy ‘imameva kāyaṃ’. Hư mục [pūtimūlāni]: khi thịt và máu vẫn còn, lông cũng tồn tại được, nhưng do không còn thịt và máu thì lông dính ở tấm da cũng rụng khỏi tay ta, nói đến biểu hiện đó, Ngãi đã nói rằng: “tất cả lông có gốc [chân lông] hư mục cũng rụng khỏi từ thân Ta.”
Alamariyañāṇadassanavisesanti ariyabhāvaṃ kātuṃ samatthaṃ lokuttaramaggaṃ. Imissāyeva ariyāya paññāyāti vipassanāpaññāya anadhigamā. Yāyaṃ ariyāti yā ayaṃ maggapaññā adhigatā. Idaṃ vuttaṃ hoti – yathā etarahi vipassanāpaññāya adhigatattā maggapaññā adhigatā, evaṃ ekanavutikappamatthake vipassanāpaññāya anadhigatattā lokuttaramaggapaññaṃ nādhigatosmīti, majjhimabhāṇakattherā panāhu, imissāyevāti vuttapaññāpi yāyaṃ ariyāti vuttapaññāpi maggapaññāyeva. Atha ne bhikkhū āhaṃsu ‘‘evaṃ sante maggassa anadhigatattā maggaṃ nādhigatosmīti idaṃ vuttaṃ hoti, bhante’’ti. Āvuso, kiñcāpi dīpetuṃ na sakkomi, dvepi pana maggapaññāyevāti, etadeva cettha yuttaṃ. Itarathā hi yā ayanti niddeso ananurūpo siyā.
Tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh [alamariyañāṇadassanavisesaṃ] gồm Đạo siêu thế có thể làm thành tựu bậc Thánh. Imissāyeva ariyāya paññāyā [trí tuệ cao thượng] là không đạt được minh sát tuệ [vipassanāpaññā]. yāyaṃ ariya [là pháp tối thượng] là đã đạt được đạo tuệ [maggapaññā] này đây. Ngài nói như vậy: Đó gọi là đạt được đạo tuệ [maggapaññā], bởi vì đã chứng đắc tuệ minh sát trong lúc này như thế nào; Ta chưa đạt được siêu thế đáo tuệ, bởi vì tuệ minh sát đã không đạt được trong kiếp cuối cùng thứ 91 như thế đó. Còn trưởng lão nhóm Trì Tụng Trung Bộ [majjhimabhāṇaka] lại nói rằng, tuệ đã nói như sau imissāyevāti hoặc tuệ đã nói như sau yāyaṃ ariyāti [sự tịnh hóa do luân hồi tái sanh (saṃsāravaṭṭa)] là đều là đạo tuệ [maggapaññā]. Sau đó các tỳ khưu đã nói với các trưởng lão nhóm Trì Tụng Trung Bộ rằng “Bạch Ngài, nếu như vậy, ta không đắc đạo do đạo đã chứng đắc, đã được Ngài nói rồi. Này hiền giả, Ta không thể chỉ rõ điều này được, nhưng cả hai tuệ đó chính là đạo tuệ, lời đó được dùng trong trường hợp này. Theo cách này thì sự diễn giải ý nghĩa yā ayaṃ không thích hợp.
Giải thích sự thanh tịnh do vật thực
Giảng Giải Sự Thanh Tịnh Do Luân Hồi
160. Saṃsārena suddhīti bahukaṃ saṃsaritvā sujjhantīti vadanti. Upapattiyā suddhīti bahukaṃ upapajjitvā sujjhantīti vadanti. Āvāsena suddhīti bahūsu ṭhānesu vasitvā sujjhantīti vadanti. Tīsupi ṭhānesu saṃsaraṇakavasena saṃsāro. Upapajjanakavasena upapatti. Vasanakavasena āvāsoti khandhāyeva vuttā. Yaññenāti bahuyāge yajitvā sujjhantīti vadanti. Muddhāvasittenāti tīhi saṅkhehi khattiyābhisekena muddhani abhisittena. Aggipāricariyāyāti bahuaggiparicaraṇena sujjhantīti vadanti.
[160] Sự thanh tịnh do luân hồi [saṃsārena suddhi] là nói rằng tất cả chúng sanh sau khi luân chuyển liên tục nhiều kiếp (sẽ) được thanh tịnh. Sự thanh tịnh do sự sanh [upapattiyā suddhi] nói rằng sanh khởi nhiều (sẽ) được thanh tịnh. Sự thanh tịnh do lậu hoặc [āvāsena suddhi] nói rằng an trú trong nhiều nơi (sẽ) được thanh tịnh. Ngài muốn nói đến uẩn [khandha] trong cả 3 xứ [ṭhāna] là sự luân hồi với khả năng của người chuyển sanh. là sự sanh khởi với khả năng của người được sanh ra, là trú xứ với khả năng của người đang cư trú. Với việc thờ bùa chú [yaññena] nói rằng thờ cứng bùa chú (sẽ) được thanh tịnh. Làm lễ quán đảnh [muddhāvasittenā] nghĩa là với những người Sát-đế-lỵ có quán đảnh bằng việc thoa dầu lên đỉnh đầu với 3 vỏ ốc xà cừ [saṅkha]. Với việc thờ lửa [aggipāricariyāya] nói rằng sự thanh tịnh chứng đạt được nhờ thờ nhiều lửa.
161. Daharoti taruṇo. Yuvāti yobbanena samannāgato. Susukāḷakesoti suṭṭhu kāḷakeso. Bhadrena yobbanena samannāgatoti imināssa yena yobbanena samannāgato yuvā, taṃ yobbanaṃ bhaddaṃ laddhakanti dasseti. Paṭhamena vayasāti paṭhamavayo nāma tettiṃsa vassāni, tena samannāgatoti attho, paññāveyyattiyenāti paññāveyyattibhāvena. Jiṇṇoti jarājiṇṇo. Vuddhoti vaḍḍhitvā ṭhitaaṅgapaccaṅgo. Mahallakoti jātimahallako. Addhagatoti bahuaddhānaṃ gato cirakālātikkanto. Vayo anuppattoti vassasatassa tatiyakoṭṭhāsaṃ pacchimavayaṃ anuppatto. Āsītiko me vayo vattatīti imaṃ kira suttaṃ bhagavā parinibbānasaṃvacchare kathesi. Tasmā evamāha. Paramāyāti uttamāya. Satiyātiādīsu padasatampi padasahassampi vadantasseva gahaṇasamatthatā sati nāma. Tadeva ādhāraṇaupanibandhanasamatthatā gati nāma. Evaṃ gahitaṃ dhāritaṃ sajjhāyaṃ kātuṃ samatthavīriyaṃ dhiti nāma. Tassa atthañca kāraṇañca dassanasamatthatā paññāveyyattiyaṃ nāma.
[161] Trong lúc còn là thanh niên là còn trẻ. Trẻ tưởi: được thành tựu tuổi thanh xuân. Có tóc đen nhánh [susukāḷakeso] là có tóc đen nhánh. Được thành tựu tuổi thanh xuân tốt lành: Người thanh niên được thành tựu tuổi thanh xuân tốt lành thế nào, thì tuổi trẻ đó là tuổi thanh xuân, tốt lành tốt đẹp. Vào giai đoạn đầu của tuổi thọ: giai đoạn đầu của tuổi thọ là 33 năm, có nghĩa là— đi đến thành tựu ở độ tuổi ấy. Trí tuệ biện tài: là người có trí tuệ sắc bén. Người già [jiṇṇo] nghĩa là yếu ớt già nua theo tuổi tác [già chế ngự]. Trưởng thành: là người đã trưởng thành có các chi phần lớn nhỏ phát triển đầy đủ. Người già cả [Mahallako] là người cao tuổi. Vượt qua thời gian [addhagato]: Đã qua chặng đường dài, là sau một thời gian. Đạt đến giai đoạn cuối [vayo anuppatto]: Đã đi đến đoạn cuối cuộc đời là giai đoạn thứ 3 của 100 tuổi. Tuổi của Ta đã đến 80 [āsītiko me vayo vattati] quả thật Thế Tôn thuyết bài kinh này trong năm Ngài tịch diệt Niết-bàn, bởi thế Ngài đã như vậy. Tối thắng [paramāya] là tối thượng. Satiyā [có niệm] v.v, nên biết rằng hội chúng Thanh văn thuật lại 100 câu cũng được, 1000 câu cũng được. Người có năng lực học gọi là niệm [sati], người có khả năng gìn giữ và tìm kiếm sự ràng buộc gọi là sự đi. Sự tinh tấn mà có thể giảng giải điều đã học gọi là nghị lực. Người có thể thấy được ý nghĩa và nguyên nhân của dhiti gọi là trí tuệ biện tài.
Daḷhadhammā dhanuggahoti daḷhaṃ dhanuṃ gahetvā ṭhito issāso. Daḷhadhanu nāma dvisahassathāmaṃ vuccati, dvisahassathāmaṃ nāma yassa āropitassa jiyābaddho lohasīsādīnaṃ bhāro daṇḍe gahetvā yāva kaṇḍappamāṇā ukkhittassa pathavito muccati. Sikkhitoti dasa dvādasa vassāni ācariyakule uggahitasippo. Katahatthoti koci sippameva uggaṇhāti. Katahattho na hoti, ayaṃ pana katahattho ciṇṇavasībhāvo. Katūpāsanoti rājakulādīsu dassitasippo. Lahukena asanenāti anto susiraṃ katvā tūlādīni pūretvā katalākhāparikammena sallahukakaṇḍena. Evaṃ katañhi ekausabhagāmī dve usabhāni gacchati, aṭṭhausabhagāmī soḷasausabhāni gacchati. Appakasirenāti nidukkhena. Atipāteyyāti atikkameyya. Evaṃ adhimattasatimantoti yathā so dhanuggaho taṃ vidatthicaturaṅgulachāyaṃ sīghaṃ eva atikkameti, evaṃ padasatampi padasahassampi uggahetuṃ upadhāretuṃ sajjhāyituṃ atthakāraṇāni ca upaparikkhituṃ samatthāti attho. Aññatra asitapītakhāyitasāyitāti asitapītādīni hi bhagavatāpi kātabbāni honti, bhikkhūhipi. Tasmā tesaṃ karaṇamattakālaṃ ṭhapetvāti dasseti.
Cung thủ sử dụng cung chắc chắn [daḷhadhammā dhanuggaho]: Xạ thủ nắm lấy cây cung, sức mạnh hai nghìn gọi là cung chắc chắn. Cung chắc chắn có tên gọi là cây cung sức nặng hai nghìn [cân] này, khi cây cung nâng lên, lắp vào dây, có cân nặng ngang bằng với thanh kim loại v.v, cầm lấy cung đưa lên khỏi mặt đất khoảng cần cổ. Khéo được học tập [sikkhito]: Tài nghệ đã được học ở trú xứ của thầy đến 12 năm. Thành thạo [katahattho]: Một số người chỉ học nghề, nhưng không được huấn luyện bài bản. Tuy nhiên, xạ thủ này đã được huấn luyện thành thạo, thiện xảo, từng thể hiện kỹ năng của mình trước đây. (tức là) tay nghề đã từng được thể hiện ở nhiều nơi có dòng dõi hoàng tộc, v.v. Với một mũi tên nhẹ [lahukena asanenā]: Với mũi tên mỏng nhẹ, làm rỗng bên trong, được nén bằng vải bông, v.v, sau đó bao bọc bởi sáp ong. Khi hoàn tất, mũi tên được làm như vậy, mũi tên ấy có thể bắn xa được 1 usabha,[50] bắn xa được 2 usabha, bắn xa được 8 usabha, bắn xa được 16 usabha. Dễ dàng [appakasirena]: (mũi tên) được bắn ra không khó khăn. Có thể bắn rơi [atipāteyya]: Bắn xuyên qua mục tiêu. Có chánh niệm đệ nhất như vậy [evaṃ adhimattasatimanto]: Xạ thủ bắn một cái bóng kích thước 4 lóng tay nhanh như thế nào; có thể để học, để ghi nhớ, để giảng giải trăm câu, ngàn câu và để suy xét tất cả ý nghĩa và nguyên nhân được như thế đó. Các vấn đề khác, trừ khi ăn, uống, nhai, nếm [aññatra asitapītakhāyitasāyitā]: Các việc làm có việc ăn và uống v.v, là phận sự mà đức Thế Tôn, hay chư tỳ khưu cần thực hành, bởi vậy Ngài thuyết rằng— ‘ngoại trừ thời gian thực hành các phận sự có việc ăn và việc uống v.v.’
Apariyādinnāyevāti aparikkhīṇāyeva. Sace hi eko bhikkhu kāyānupassanaṃ pucchati, añño vedanānupassanaṃ, añño cittānupassanaṃ, ayyo dhammānupassanaṃ. Iminā puṭṭhaṃ ahaṃ pucchissāmīti eko ekaṃ na oloketi. Evaṃ santepi tesaṃ vāro paññāyati. Evaṃ buddhānaṃ pana vāro na paññāyati, vidatthicaturaṅgulachāyaṃ atikkamato puretaraṃyeva bhagavā cuddasavidhena kāyānupassanaṃ, navavidhena vedanānupassanaṃ, soḷasavidhena cittānupassanaṃ, pañcavidhena dhammānupassanaṃ katheti. Tiṭṭhantu vā tāva ete cattāro. Sace hi aññe cattāro sammappadhānesu, aññe iddhipādesu, aññe pañca indriyesu, aññe pañca balesu, aññe satta bojjhaṅgesu, aññe aṭṭha maggaṅgesu pañhaṃ puccheyyuṃ, tampi bhagavā katheyya. Tiṭṭhantu vā ete aṭṭha. Sace aññe sattatiṃsa janā bodhipakkhiyesu pañhaṃ puccheyyuṃ, tampi bhagavā tāvadeva katheyya. Kasmā? Yāvatā hi lokiyamahājanā ekaṃ padaṃ kathenti. Tāva ānandatthero aṭṭha padāni katheti. Ānandatthere pana ekaṃ padaṃ kathenteyeva bhagavā soḷasapadāni katheti. Kasmā? Bhagavato hi jivhā mudukā dantāvaraṇaṃ suphusitaṃ vacanaṃ agalitaṃ bhavaṅgaparivāso lahuko. Tenāha ‘‘apariyādinnāyevassa, sāriputta, tathāgatassa dhammadesanā’’ti.
Không kết thúc [apariyādinnāyeva]: [việc thuyết Pháp] vẫn chưa hoàn tất [không kết thúc]. Bởi vậy, nếu một vị hỏi về thân tùy quán [kāyānupassana], một vị khác hỏi về thọ tùy quán [vedanānupassana], một vị khác hỏi về tâm tùy quán [cittānupassana], một vị khác hỏi về pháp tùy quán [dhammānupassana], mỗi vị tỳ khưu không để ý nhau rằng Ta bị vị tỳ khưu này hỏi rồi, cũng sẽ lại hỏi tiếp. Nếu như thế, thời gian của chư tỳ khưu đó được hiện bày, nhưng thời gian của chư Phật không hiện bày như thế, Thế Tôn đã thuyết về thân tùy quán với 14 phương pháp, thọ tùy quán với 9 phương pháp, tâm tùy quán với 16 phương pháp, pháp tùy quán với 5 phương pháp, nhanh hơn cả việc bắn cái bóng kích thước 4 lóng tay, đừng nói gì đến bốn phương pháp thiết lập niệm, nếu có thêm 4 vị tỳ khưu đến hỏi về tứ chánh cần [sammappadhā], một nhóm khác hỏi về tứ như ý túc [iddhipāda], một nhóm khác hỏi về ngũ căn, nhóm khác hỏi về ngũ lực, lại một nhóm khác hỏi về thất giác chi, nhóm khác hỏi về bát chánh đạo, thì Thế Tôn trả lời vấn đề ấy ngay lập tức. Quả thật đừng nói gì bát chánh đạo. Nếu có nhóm người khác hỏi về 37 phẩm trợ đạo [bodhipakkhiyadhamma], thì đức Thế Tôn cũng có thể giải đáp vấn đề ấy ngay lập tức. Tại sao? Bởi vì trong khoảng thời gian như nhau, người bình thường nói một lời thì trưởng lão Ānanda nói được 8 lời, trưởng lão Ānanda nói được một câu thì Thế Tôn nói được 16 câu. Tại sao? Bởi vì lưỡi của Thế Tôn mềm mại, hàm răng khít đều, kim ngôn không bị đứt quãng bhavaṅgaparivāso [xuất thần, do sự biến hóa nhanh chóng của sát-na hộ kiếp của chư Phật]. Bởi lý do đó Ngài đã nói rằng: “Này Sāriputta, sự thuyết pháp của Thiện Thệ vẫn không hoàn tất.”
Tattha dhammadasenāti tantiṭhapanā. Dhammapadabyañjananti pāḷiyā padabyañjanaṃ, tassa tassa atthassa byañjanakaṃ akkharaṃ. Pañhapaṭibhānanti pañhabyākaraṇaṃ. Iminā kiṃ dasseti? Tathāgato pubbe daharakāle akkharāni sampiṇḍetvā padaṃ vattuṃ sakkoti, padāni sampiṇḍetvā gāthaṃ vattuṃ sakkoti, catuakkharehi vā aṭṭhaakkharehi vā soḷasaakkharehi vā padehi yuttāya gāthāya atthaṃ vattuṃ sakkoti. Idāni pana mahallakakāle akkharāni sampiṇḍetvā padaṃ vā, padāni sampiṇḍetvā gāthaṃ vā, gāthāya atthaṃ vā vattuṃ na sakkotīti evaṃ natthi. Daharakāle ca mahallakakāle ca sabbametaṃ tathāgatassa apariyādinnamevāti imaṃ dasseti. Mañcakena cepi manti idaṃ buddhabaladīpanatthameva parikappetvā āha. Dasabalaṃ pana mañcake āropetvā gāmanigamarājadhāniyo pariharaṇakālo nāma natthi. Tathāgatā hi pañcame āyukoṭṭhāse khaṇḍiccādīhi anabhibhūtā suvaṇṇavaṇṇasarīrassa vevaṇṇiye ananuppatte devamanussānaṃ piyamanāpakāleyeva parinibbāyanti.
Ở đó, thuyết pháp [dhammadasenā] là thuyết có kỷ luật [có kế hoạch]. Câu cú của pháp [dhammapadabyañjanaṃ] là câu và văn tự trong Pāḷi, tức là chữ viết về văn tự của ý nghĩa đó. Sự rõ ràng của vấn đề [pañhapaṭibhānaṃ] là giải đáp vấn đề. Trình bày điều gì ở đây? Trình bày như thế này trong thời quá khứ, khi còn trẻ Như Lai có thể xếp tất cả các chữ thành câu, có thể nói thành kệ ngôn sau khi sắp xếp thành câu, có thể nói ý nghĩa bằng kệ ngôn mà phối hợp với các câu, có bốn chữ, có mười sáu chữ, nhưng lúc về già là lúc này không thể sắp xếp các chữ thành câu, hoặc sắp xếp các câu thành kệ ngôn, hoặc nói ý nghĩa bằng kệ ngôn, tất cả những điều đã được nói không có cả trong thời trẻ lẫn trong giai đoạn già, sự thuyết pháp của Như Lai là vô tận. mañcakena cepi maṃ [với chiếc giường nhỏ] lấy câu này để chỉ sức mạnh của đức Phật mà thôi, là trong lúc nâng đỡ đấng Thập lực lên chiếc giường nhỏ đi khắp các làng nhỏ và lớn, các thành thị không có. Bởi vậy tất cả Như Lai không còn bị chi phối trong phần tuổi thứ năm, không có các đặc tính như răng rụng v.v, sự thay đổi màu sắc da của sắc thân, có màu sắc như vàng không biến đổi, tịch diệt Niết-bàn trong thời gian thương yêu tuyệt đối [piyamanāpakāleyeva] của tất cả chư Thiên và nhân loại.
162. Nāgasamāloti tassa therassa nāmaṃ. Paṭhamabodhiyañhi vīsativassabbhantare upavānanāgitameghiyattherā viya ayampi bhagavato upaṭṭhāko ahosi. Bījayamānoti mandamandena tālavaṇṭavātena bhagavato utusukhaṃ samuṭṭhāpayamāno. Etadavocāti sakalasuttantaṃ sutvā bhagavato pubbacaritaṃ dukkarakārakaṃ āgamma pasanno etaṃ ‘‘acchariyaṃ bhante’’tiādivacanaṃ avoca. Tattha accharaṃ paharituṃ yuttanti acchariyaṃ. Abhūtapubbaṃ bhūtanti abbhutaṃ. Ubhayenapi attano vimhayameva dīpeti. Ko nāmo ayaṃ bhanteti idaṃ bhaddako vatāyaṃ dhammapariyāyo, handassa bhagavantaṃ āyācitvā nāmaṃ gaṇhāpemīti adhippāyena āha. Athassa bhagavā nāmaṃ gaṇhanto tasmā tiha tvantiādimāha. Tassattho, yasmā idaṃ suttaṃ sutvā tava lomāni haṭṭhāni, tasmā tiha tvaṃ , nāgasamāla, imaṃ dhammapariyāyaṃ ‘‘lomahaṃsana pariyāyo’’tveva naṃ dhārehīti.
[162] Nāgasamālo là tên của một vị trưởng lão. Trong suốt 20 năm đầu tiên khi giác ngộ thì trưởng lão Nāgasamālo là thị giả của Thế Tôn cũng như trưởng lão Upavāna, trưởng lão Nāgita, trưởng lão Meghiya. Cúng dường quạt [bījayamāno] là sự lạc trong mùa được an trú đối với Thế Tôn vơi gió được tạo ra từ quạt làm bằng từ lá cọ mềm. Etadavoca [nói lên] nghe là trưởng lão sau khi nghe Thế Tôn thuyết toàn bộ bài kinh, vị ấy tịnh tín trong việc thực hành khổ hạnh mà Thế Tôn đã thực hành trong quá khứ, mới nói lên lời như sau: “bạch Ngài, thật vi diệu thay.” Trong câu đó “thật vi diệu” bởi vì đáng được tán dương. Gọi là “không từng có” bởi vì chưa từng có, chưa từng tồn tại. Với 2 câu, trưởng lão chỉ ra sự ngạc nhiên của chính mình mà thôi. Kính bạch đức Thế Tôn pháp môn này gọi là gì [ko nāmo ayaṃ bhante]? Này Trưởng lão nói với ý muốn– Pháp môn này tốt đẹp chăng, hãy giữ lấy, ta sẽ xin đức Thế Tôn đặt tên cho pháp môn này. Tiếp đó, sau khi đức Thế Tôn đặt tên cho pháp môn ấy, Ngài đã nói rằng: “Bởi lý do ấy, ông hãy thọ trì” v.v. Ý nghĩa đó như sau: Lông tóc ông dựng ngược do nghe bài kinh này, cho nên này Nāgasamālo, ông hãy nhớ pháp môn này là “Pháp môn lông tóc dựng ngược.”
Giải thích sự thanh tịnh thông qua luân hồi
Giải Thích Đại Kinh Sư Tử Hống Được Kết Thúc.
[1] ma. ni. 1.311
[2] dī. ni. 1.235
[3] a. ni. 4.196
[4] ma. ni. 1.328
[5] mahāva. 16
[6] (ma. ni. 2.340)
[7] 1 Koṭi = 10 triệu.
[8] saṃ. ni. 2.34
[9] a. ni. 4.31
[10] dī. ni. 2.35
[11] dha. pa. 1
[12] saṃ. ni. 1.29
[13] jā. 1.7.149
[14] dī. ni. 2.243
[15] su. ni. 562
[16] jā. 1.1.104; 1.5.103
[17] dī. ni. 1.166
[18] dī. ni. 3.61; saṃ. ni. 2.162
[19] vibha. 809
[20] vibha. 810
[21] vibha. 811
[22] vibha. 814
[23] vibha. 828
[24] dī. ni. 2.172
[25] saṃ. ni. 3.342, 392 “catasso nāgayoniyo catasso supaṇṇayoniyo”
[26] ma. ni. 2.227 “yoni hesā bhūmija phalassa adhigamāya”
[27] ma. ni. 2.457; dha. pa. 396 “na cāhaṃ brāhmaṇaṃ brūmi, yonijaṃ mattisambhavaṃ”
[28] a. ni. 4.184 taṃ gatiṃ pecca gacchāmīti
[29] dha. pa. 420 yassa gatiṃ na jānanti, devā gandhabbamānusāti
[30] ma. ni. 1.508 imesaṃ kho ahaṃ bhikkhūnaṃ sīlavantānaṃ neva jānāmi gatiṃ vā agatiṃ vā
[31] ma. ni. 1.503 evampi kho te ahaṃ brahme gatiṃ ca pajānāmi jutiñca pajānāmīti
[32] pari. 339 vibhavo gati dhammānaṃ, nibbānaṃ arahato gatīti
[33] dī. ni. 1.258; 2.34 dveyeva gatiyo bhavanti anaññāti
[34] jā. 2.22.3
[35] jā. 2.22.462
[36] dī. ni. 3.7
[37] jā. 2.22.1592, 1593, 1595
[38] pe. va. 275
[39] cūḷava. 311
[40] dī. ni. 2.329
[41] saṃ. ni. 1.184
[42] ma. ni. 1.83
[43] jā. 1.10.97
[44] jā. 1.8.75
[45] dī. ni. 2.329
[46] dī. ni. 3.174
[47] jā. 1.1.8
[48] a. ni. 3.138
[49] Saṃpatāmi = Papatāmi – Sī, Syā, I
[50] 1 usbha = 140 cubit [khuỷu tay]