Kinh số 118 – Giải Thích Kinh Niệm Hơi Thở Vào – Hơi Thở Ra
(Ānāpānassatisuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Niệm Hơi Thở Vào – Hơi Thở Ra (Kinh quán niệm hơi thở)
144. Evamme sutanti ānāpānassatisuttaṃ. Tattha aññehi cāti ṭhapetvā pāḷiyaṃ āgate dasa there aññehipi abhiññātehi bahūhi sāvakehi saddhiṃ. Tadā kira mahā bhikkhusaṅgho ahosi aparicchinnagaṇano.
144. Kinh Niệm Hơi Thở Vào – Hơi Thở Ra được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, và nhiều vị khác nữa: cùng với nhiều vị thánh Thinh văn khác có danh tiếng, ngoại trừ 10 vị đến trong Chánh văn Pāḷī. Nghe rằng khi ấy đã có đại chúng Tỳ khưu không thể đếm được số lượng.
Ovadanti anusāsantīti āmisasaṅgahena dhammasaṅgahena cāti dvīhi saṅgahehi saṅgaṇhitvā kammaṭṭhānovādānusāsanīhi ovadanti ca anusāsanti ca. Te cāti cakāro āgamasandhimattaṃ. Uḷāraṃ pubbenāparaṃ visesaṃ jānantīti[1] sīlaparipūraṇādito pubbavisesato uḷārataraṃ aparaṃ kasiṇaparikammādivisesaṃ jānantīti attho.
Giáo huấn, chỉ dạy: đã nhiếp phục nhờ 2 sự nhiếp phục là nhiếp phục bằng tài vật, nhiếp phục bằng Giáo pháp rồi giáo huấn và chỉ dạy nhờ vào việc giáo huấn và chỉ dạy đề mục nghiệp xứ. Từ ‘ca’ trong từ ‘te ca’ này chỉ là āgamasandhi [phép tiếp ngữ xen chữ]. Nhận biết pháp đặc biệt cao quý khác so với trước đây: Biết được pháp đặc biệt có biến xứ chuẩn bị v.v, khác mà Uḷāraka cho rằng đặc biệt ở phần đầu có sự thành tựu của giới v.v.
145. Āraddhoti tuṭṭho. Appattassa pattiyāti appattassa arahattassa pāpuṇanatthaṃ. sesapadadvayepi ayameva attho. Komudiṃ cātumāsininti pacchimakattikacātumāsapuṇṇamaṃ[2]. Sā hi kumudānaṃ atthitāya komudī, catunnaṃ vassikānaṃ māsānaṃ pariyosānattā cātumāsinīti vuccati. Āgamessāmīti udikkhissāmi, ajja apavāretvā yāva sā āgacchati, tāva katthaci agantvā idheva vasissāmīti attho. Iti bhikkhūnaṃ pavāraṇasaṅgahaṃ anujānanto evamāha.
145. Āraddho: có tâm hài lòng. Nhằm chứng đắc pháp chưa được chứng đắc: để chứng đắc quả vị A-ra-hán vẫn chưa được chứng đắc. Kể cả 2 câu còn lại cũng có ý nghĩa tương tự như đã nói. Ngày trăng tròn của tháng thứ 4 cuối tháng 10 gọi là ngày rằm Komudī, thuộc tháng thứ tư. Thật vậy, tháng âm lịch ấy gọi là Komudī bởi có hoa Komuda nở rộ. Gọi là Cātumāsinī (đủ bốn tháng) bởi là ngày cuối cùng của tháng, của bốn tháng mùa mưa. Ta an trú cho đến: ta sẽ chờ đợi, có nghĩa là ta sẽ hành lễ pavāraṇa vào ngày hôm nay sẽ không đi đâu, ta sẽ ở lại chính nơi này cho đến ngày hôm ấy (là ngày trăng tròn tháng 10 âm lịch Việt Nam) sẽ đến đức Thế Tôn cho phép (thực hành) pavāraṇa-saṅgaha đến chư Tỳ khưu như thế, đã thuyết như vậy.
Pavāraṇasaṅgaho nāma ñattidutiyena kammena diyyati kassa panesa diyyati, kassa na diyyatīti. Akārakassa tāva bālaputhujjanassa na diyyati, tathā āraddhavipassakassa ceva ariyasāvakassa ca. Yassa pana samatho vā taruṇo hoti vipassanā vā, tassa diyyati. Bhagavāpi tadā bhikkhūnaṃ cittācāraṃ parivīmaṃsanto samathavipassanānaṃ taruṇabhāvaṃ ñatvā — “mayi ajja pavārente disāsu vassaṃvuṭṭhā bhikkhū idha osarissanti. Tato ime bhikkhū vuḍḍhatarehi bhikkhūhi senāsane gahite visesaṃ nibbattetuṃ na sakkhissanti. Sacepi cārikaṃ pakkamissāmi, imesaṃ vasanaṭṭhānaṃ dullabhameva bhavissati. Mayi pana apavārente bhikkhūpi imaṃ Sāvatthiṃ na osarissanti, ahampi cārikaṃ na pakkamissāmi, evaṃ imesaṃ bhikkhūnaṃ vasanaṭṭhānaṃ apalibuddhaṃ bhavissati. Te attano attano vasanaṭṭhāne phāsu viharantā samathavipassanā thāmajātā katvā visesaṃ nibbattetuṃ sakkhissantī”ti so taṃdivasaṃ apavāretvā kattikapuṇṇamāyaṃ pavāressāmīti bhikkhūnaṃ pavāraṇasaṅgahaṃ anujāni[3]. Pavāraṇasaṅgahasmiñhi laddhe yassa nissayapaṭipannassa ācariyupajjhāyā pakkamanti, sopi “sace patirūpo nissayadāyako āgamissati, tassa santike nissayaṃ gaṇhissāmī”ti yāva gimhānaṃ pacchimamāsā vasituṃ labhati. Sacepi saṭṭhivassā bhikkhū āgacchanti, tassa senāsanaṃ gahetuṃ na labhanti. Ayañca pana pavāraṇasaṅgaho ekassa dinnopi sabbesaṃ dinnoyeva hoti.
Thông thường Pavāraṇasaṅgaha thì Chư Tăng được đem cho bằng hành sự với lời thông báo đến lần thứ hai, Pavāraṇasaṅgaha này dành cho ai (và) không dành cho ai? Đầu tiên không dành cho phàm nhân ngu si không phải người thực hiện, vị Tỳ khưu bắt đầu thực hành Minh sát và chư thánh Thinh văn cũng không được cho tương tự. Hơn nữa, không cho đến vị Tỳ khưu có Chỉ tịnh hoặc Minh sát vẫn còn yếu kém. Trong lần đó, ngay cả đức Thế Tôn cũng đã quán xét tâm của chư Tỳ khưu biết được rằng: Chỉ tịnh và Minh sát vần còn yếu kém đã suy nghĩ như sau: – “Dù ta không pavāranā vào ngày hôm nay, chư Tỳ khưu đã trải qua mùa an cư sẽ đi du hành trong thành Sāvatthi này (các vị ấy mỗi người) đi mỗi hướng. Từ đó những vị Tỳ khưu này sẽ không thể thực hành làm cho pháp đặc biệt sanh lên, trong khi những vì Tỳ khưu lớn hạ hơn giữ lấy sàng toạ đã rách nát (quy định cho phép vị lớn hạ hơn lựa chọn chỗ trú ngụ trước). Nếu như ngay cả ta cũng ra đi du hành những vị Tỳ khưu này sẽ rất khó tìm kiếm được chỗ trú ngụ. Nhưng nếu ta không hành lễ pavāraṇā thì ngay cả những vì Tỳ khưu này cũng sẽ không đi du hành xuyên suốt thành Sāvatthi này, thậm chí cả ta cũng sẽ không đi du hành, nếu như vậy thì những vị Tỳ khưu này sẽ trở nên lo lắng (chuyện) chỗ trú ngụ. Các ông trong khi an trú được thoải mái ở chỗ cư ngụ của mỗi cá nhân có thể để thực hành Chỉ tịnh và Minh sát trở nên chín muồi làm cho pháp đặc biệt khởi sanh.” Ngài không thực hành pavāraṇā vào hôm đó, đã cho phép pavāraṇasaṅgaha đến chư Tỳ khưu như sau: “Ta sẽ hành lễ pavāraṇā vào ngày trăng tròn kattika[4]. Cũng khi chư Tỳ khưu hành lễ pavāraṇasaṅgaha thì các thầy dạy học và thầy tế độ của bất kỳ vị Tỳ khưu nào vị vẫn sống nương nhờ (các vị ấy) cùng nhau đi khỏi, ngay cả vị Tỳ khưu ấy cũng có thể an trú được đến tháng cuối cùng của mùa nóng. Với hy vọng rằng: “nếu vị Tỳ khưu nào ban pháp nương nhờ thích đáng, ta sẽ sống nương nhờ vị Tỳ khưu ấy.” Thậm chí nếu có vị Tỳ khưu đã 60 ha-lạp cũng không thể lấy chỗ trú ngụ của ngươi được. Và hơn nữa pavāraṇasaṅgaha này kể cả cho đến duy nhất một vị Tỳ khưu cũng chính là cho đến tất cả các Tỳ khưu.
Sāvatthiṃ osarantīti Bhagavatā pavāraṇasaṅgaho dinnoti sutasutaṭṭhāneyeva yathāsabhāvena ekaṃ māsaṃ vasitvā kattikapuṇṇamāya uposathaṃ katvā osarante sandhāya idaṃ vuttaṃ. Pubbenāparanti idha taruṇasamathavipassanāsu kammaṃ katvā samathavipassanā thāmajātā akaṃsu, ayaṃ pubbe viseso nāma. Tato samāhitena cittena saṅkhāre sammasitvā keci sotāpattiphalaṃ … pe … keci arahattaṃ sacchikariṃsu, ayaṃ aparo uḷāro viseso nāma.
Quy tụ về thành Sāvatthi: điều này nói liên quan đến nhóm người an trú được một tháng với bản thể như vậy ở nơi vừa đủ để biết tin tức rằng: đức Thế Tôn đã ban cho pavāraṇasaṅgaha đã cùng nhau làm lễ uposatha vào ngày trăng tròn Kattika rồi cùng nhau quy tụ lại. Đặc biệt hơn so với trước đây: chư Tỳ khưu đã tạo hành động trong Chỉ tịnh và Minh sát yếu ớt đã thực hiện Chỉ tịnh và Minh sát có năng lực được sanh lên ở nơi này, đây gọi là Pháp đặc biệt so với trước đây. Từ đó, chư Tỳ khưu có tâm vững trú quán sát các hành, một số tác chứng Nhập Lưu thánh quả …nt… một số tác chứng A-ra-hán thánh quả, đây gọi là Pháp đặc biệt cao quý hơn so với trước đây.
146. Alanti yuttaṃ. Yojanagaṇanānīti ekaṃ yojanaṃ yojanameva, dasapi yojanāni yojanāneva, tato uddhaṃ yojanagaṇanānīti vuccanti. Idha pana yojanasatampi yojanasahassampi adhippetaṃ. Puṭosenāpīti puṭosaṃ vuccati pātheyyaṃ. taṃ pātheyyaṃ gahetvāpi upasaṅkamituṃ yuttamevāti attho. “puṭaṃsenā”tipi pāṭho, tassattho — puṭo aṃse assāti puṭaṃso, tena puṭaṃsena, aṃse pātheyyapuṭaṃ vahantenāpīti vuttaṃ hoti.
146. Thích đáng: xứng đáng. Nhiều do-tuần: Một do-tuần cũng gọi là do-tuần, kể cả 10 do-tuần cũng gọi là do-tuần tương tự, nhiều hơn đó gọi là nhiều do-tuần. Nhưng trong trường hợp này đề cập đến một trăm do-tuần, thậm chí cả ngàn do-tuần. Vật thực được chuẩn bị dành cho người đi đường ngài gọi là puṭosa trong từ puṭosenāpi [người mang lương thực đi đường trên vai], có nghĩa là dầu với lương thực đi đường trên vai để yết kiến (đức Thế Tôn) cũng xứng đáng. Pāḷī ‘puṭaṃsenā’ như thế cũng có, ý nghĩa của từ đó ‘người có lương thực đi đường trên vai’ bởi vì ở vai của vị ấy có lương thực (được chuẩn bị để đi đường), người có lương thực mang trên vai. Kể cả mang gói lương thực ở trên vai.
147. Idāni evarūpehi caraṇehi samannāgatā ettha bhikkhū atthīti dassetuṃ santi, bhikkhavetiādimāha. Tattha catunnaṃ satipaṭṭhānānantiādīni tesaṃ bhikkhūnaṃ abhiniviṭṭhakammaṭṭhānadassanatthaṃ vuttāni. Tattha sattatiṃsa bodhipakkhiyadhammā lokiyalokuttarā kathitā. Tatra hi ye bhikkhū tasmiṃ khaṇe maggaṃ bhāventi, tesaṃ lokuttarā honti. āraddhavipassakānaṃ lokiyā. Aniccasaññābhāvanānuyoganti ettha saññāsīsena vipassanā kathitā. yasmā panettha ānāpānakammaṭṭhānavasena abhiniviṭṭhāva[5] bahū bhikkhū, tasmā sesakammaṭṭhānāni saṅkhepena kathetvā ānāpānakammaṭṭhānaṃ vitthārena kathento ānāpānassati, bhikkhavetiādimāha. Idaṃ pana ānāpānakammaṭṭhānaṃ sabbākārena Visuddhimagge vitthāritaṃ, tasmā tattha vuttanayenevassa Pāḷittho ca bhāvanānayo ca veditabbo.
147. Bây giờ để thuyết giảng về chư Tỳ khưu đang hiện hữu với các Pháp với hình thức như thế có tồn tại ở đây mới thuyết lời rằng: “Này chư Tỳ khưu, có mặt v.v.” Ở đây, bốn sự thiết lập niệm v.v, nói để trình bày đến nghiệp xứ được chư Tỳ khưu ấy quan tâm nhiều, trong số những Pháp đó thuyết ba mươi bảy pháp dự phần vào giác ngộ thuộc Hiệp thế và Siêu thế. Trong câu đó vị Tỳ khưu nào làm cho Đạo sanh khởi vào lúc đó thì các Pháp dự phần vào giác ngộ là Siêu thế đối với chư Tỳ khưu tu tập Minh sát. Vị gắn bó vào việc rèn luyện và tu tập về tưởng vô thường: thuyết giảng Minh sát bởi có tưởng hình thành việc suy tưởng, cũng vì lý do này mà chư Tỳ khưu quan tâm nhiều do tác động của đề mục niệm hơi thở vào thở ra có (số lượng) nhiều, vì thế khi thuyết giảng nghiệp xứ còn lại một cách vắn tắt rồi mới thuyết đề niệm hơi thở vào hơi thở ra một cách chi tiết đã nói rằng: “Này chư Tỳ khưu, niệm hơi thở v.v.” Hơn nữa đề mục niệm hơi thở này đã được giảng giải chi tiết trong bộ Thanh Tịnh Đạo theo tất cả mọi khía cạnh, vì thế nên biết ý nghĩa Pāḷī và phương pháp thực hành đề mục niệm hơi thở theo phương thức như đã trình bày trong bộ Thanh Tịnh Đạo đó.
149. Kāyaññataranti pathavīkāyādīsu catūsu kāyesu aññataraṃ vadāmi, vāyo kāyaṃ vadāmīti attho. Atha vā rūpāyatanaṃ … pe … kabaḷīkāro āhāroti pañcavīsati rūpakoṭṭhāsā rūpakāyo nāma. Tesu ānāpānaṃ phoṭṭhabbāyatane saṅgahitattā kāyaññataraṃ hoti, tasmāpi evamāha. Tasmātihāti yasmā catūsu kāyesu aññataraṃ vāyokāyaṃ, pañcavīsatirūpakoṭṭhāse vā[6] rūpakāye aññataraṃ ānāpānaṃ anupassati, tasmā kāye kāyānupassīti attho. Evaṃ sabbattha attho veditabbo. Vedanāññataranti tīsu vedanāsu aññataraṃ, sukhavedanaṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ. Sādhukaṃ manasikāranti pītipaṭisaṃveditādivasena uppannaṃ sundaramanasikāraṃ. Kiṃ pana manasikāro sukhavedanā hotīti. Na hoti, desanāsīsaṃ panetaṃ. Yatheva hi “aniccasaññābhāvanānuyogamanuyuttā”ti ettha saññānāmena paññā vuttā, evamidhāpi manasikāranāmena vedanā vuttāti veditabbā. Etasmiṃ catukke[7] paṭhamapade pītisīsena vedanā vuttā, dutiyapade sukhanti sarūpeneva vuttā. Cittasaṅkhārapadadvaye “saññā ca vedanā ca cetasikā, ete dhammā cittapaṭibaddhā cittasaṅkhārā”ti (paṭi. ma. 1.174) vacanato “vitakkavicāre ṭhapetvā sabbepi cittasampayuttakā dhammā cittasaṅkhāre saṅgahitā”ti vacanato cittasaṅkhāranāmena vedanā vuttā. Taṃ sabbaṃ manasikāranāmena saṅgahetvā idha “sādhukaṃ manasikāran”ti āha.
149. Kāyaññataraṃ (trong số các thân): ta nói rằng một thân trong số bốn thân có paṭhavī-kāya (thân cấu thành bởi nguyên tố đất) v.v, giải thích rằng: ta nói là thân. Và hơn nữa 25 phần của sắc là sắc xứ …nt… đoàn thực [kabaḷīkāro āhāro] gọi là sắc thân. Trong số 25 phần của sắc đó thì hơi thở vào hơi thở ra là một loại thân do nhiếp hợp trong xúc xứ [phoṭṭhabbāyatana], vì lý do đó mới thuyết như vậy. Vì thế: (vị Tỳ khưu quán xét) thân được cấu thành bởi nguyên tố nước thuộc một thân trong số bốn thân hoặc quán xét hơi thở vào hơi thở ra thuộc một loại thân trong 25 phần của sắc thuộc sắc thân, vì vậy là vị quan sát thân ở trên thân. Nên hiểu ý nghĩa trong các câu tương tự như vậy. Vedanāññataraṃ (trong số các thọ): một trong ba thọ, nói đề cập đến lạc thọ. Sự chú tâm tốt đẹp: việc chú tâm tốt đẹp đã khởi sanh do tác động hỷ được cảm nhận v.v. Việc chú tâm thuộc cảm giác lạc thọ ra sao? Lời này là đầu đề pháp thoại. Giống y như thuyết tuệ-paññā theo tên gọi của tưởng-saññā trong lời này “vị sống gắn bó với việc rèn luyện và tu tập về tưởng vô thường” như thế nào, thì ngay cả trong trường hợp cũng nên hiểu rằng: thuyết về thọ theo tên gọi là sự chú tâm cũng thế đó. Trong phần thứ tư này thuyết thọ trong câu thứ nhất theo đầu đề ‘hỷ’, thuyết thọ theo sắc của chính nó rằng ‘lạc’ ở câu thứ nhì. Trong sự tạo tác của tâm-cittasaṅkhāra cả 2 câu thuyết thọ theo tên gọi ‘tâm hành’ do Pāḷī trình bày rằng: “Tưởng và thọ thuộc tâm sở, các pháp này được gắn bó với tâm, là các sự tạo tác của tâm.” (paṭi. ma. 1.174), và do Pālī trình bày như sau: “ngoại trừ tầm và tứ, tất cả các pháp tương ưng với tâm được nhiếp hợp trong sự tạo tác của tâm.” Thuyết chung toàn bộ thọ ấy theo tên gọi ‘sự chú tâm’ rồi thuyết ở đây rằng: ‘sự chú tâm tốt đẹp’.
Evaṃ santepi yasmā esā vedanā ārammaṇaṃ na hoti, tasmā vedanānupassanā na yujjatīti. No na yujjati, satipaṭṭhānavaṇṇanāyampi hi “taṃtaṃsukhādīnaṃ vatthuṃ ārammaṇaṃ katvā vedanāva vedayati, taṃ pana vedanāpavattiṃ upādāya ‘ahaṃ vedayāmī’ti vohāramattaṃ hotī”ti vuttaṃ. Apica pītipaṭisaṃvedītiādīnaṃ atthavaṇṇanāyametassa parihāro vuttoyeva. Vuttañhetaṃ visuddhimagge —
Nếu như vậy vì thọ không có đối tượng, cho nên thọ không được kết nối với tùy quán thọ? Không phải không được kết nối, bởi vì chính trong việc giải thích sự thiết lập niệm cũng đã nói rằng: “thọ cảm thọ đối tượng do đã tạo nơi an trú cho thọ có lạc thọ v.v, đó cho trở thành đối tượng. Cũng bởi giữ lấy sự vận hành của thọ như đã nói, lời đã nói ‘ta cảm thọ đối tượng” chỉ là ngôn từ thế gian. Và hơn nữa, trong việc giảng giải ý nghĩa của câu ‘hỷ được cảm nhận v.v.’ ngài đã giải đáp câu hỏi đó một cách tuyệt đối. Điều này đã được nói trong bộ Thanh Tịnh Đạo như sau:
“Dvīhākārehi pīti paṭisaṃviditā hoti ārammaṇato ca asammohato ca. Kathaṃ ārammaṇato pīti paṭisaṃviditā hoti? sappītike dve jhāne samāpajjati, tassa samāpattikkhaṇe jhānapaṭilābhena ārammaṇato pīti paṭisaṃviditā hoti ārammaṇassa paṭisaṃviditattā. Kathaṃ asammohato (pīti paṭisaṃviditā hoti)?[8] Sappītike dve jhāne samāpajjitvā vuṭṭhāya jhānasampayuttaṃ pītiṃ khayato vayato sammasati, tassa vipassanākkhaṇe lakkhaṇapaṭivedhā asammohato pīti paṭisaṃviditā hoti. Vuttampi cetaṃ paṭisambhidāyaṃ ‘dīghaṃ assāsavasena cittassa ekaggataṃ avikkhepaṃ pajānato sati upaṭṭhitā hoti, tāya satiyā, tena ñāṇena sā pīti paṭisaṃviditā hotī’ti[9]. Eteneva nayena avasesapadānipi atthato veditabbānī”ti.
Hỷ được cảm nhận với 2 biểu hiện là theo đối tượng và theo sự không lầm lẫn. Thế nào là nhận biết rõ hỷ theo đối tượng? Hành giả nhập 2 tầng thiền (là Sơ thiền và Nhị thiền) có hỷ ở sát-na mà vị hành giả ấy nhập thiền chứng hỷ được cảm nhận theo đối tượng bằng việc chứng đạt thiền bởi đã nhận biết được đối tượng. Hỷ được cảm nhận theo sự không lầm lẫn như thế nào? Hành giả nhập 2 tầng thiền có hỷ, sau khi xuất khỏi thiền quan sát hỷ tương ưng với thiền theo sự suy tàn, theo sự hoại diệt ở sát-na mà hành giả nhìn thấy rõ hỷ được cảm nhận theo sự không lầm lẫn do thấu triệt Tam Tướng. Đúng như trưởng lão Sārīputta đã nói trong bộ Phân Tích Đạo rằng: “Đối với vị đang nhận biết sự chuyên nhất không phóng dật của tâm nhờ tác động của hơi thở vào dài, niệm được thiết lập; hỷ ấy được cảm nhận bởi niệm ấy bởi trí ấy.” Kể cả câu còn lại cũng nên hiểu ý nghĩa theo cách này.
Iti yatheva jhānapaṭilābhena ārammaṇato pītisukhacittasaṅkhārā paṭisaṃviditā honti, evaṃ imināpi jhānasampayuttena vedanāsaṅkhātamanasikārapaṭilābhena ārammaṇato vedanā paṭisaṃviditā hoti. Tasmā suvuttametaṃ hoti “vedanāsu vedanānupassī tasmiṃ samaye bhikkhu viharatī”ti.
Như đã nói hỷ, lạc và sự tạo tác của tâm được cảm nhận theo đối tượng do việc đạt được thiền như thế nào, thọ được cảm nhận theo đối tượng do đạt được sự chú tâm, được xem là thọ tương ưng với thiền kể cả điều này cũng như thế ấy. Vì thế, lời này đây rằng: “Vào lúc ấy vị Tỳ khưu sống quan sát thọ trong các thọ”.
Nāhaṃ, bhikkhave, muṭṭhassatissa asampajānassāti ettha ayamadhippāyo — yasmā cittapaṭisaṃvedī assasissāmītiādinā nayena pavatto bhikkhu kiñcāpi assāsapassāsanimittaṃ ārammaṇaṃ karoti, tassa pana cittassa ārammaṇe satiñca sampajaññañca upaṭṭhapetvā pavattanato citte cittānupassīyeva nāmesa hoti. Na hi muṭṭhassatissa asampajānassa ānāpānassatibhāvanā atthi. Tasmā ārammaṇato cittapaṭisaṃviditādivasena citte cittānupassī tasmiṃ samaye bhikkhu viharatīti. So yaṃ taṃ abhijjhādomanassānaṃ pahānaṃ, taṃ paññāya disvā sādhukaṃ ajjhupekkhitā hotīti ettha abhijjhāya kāmacchandanīvaraṇaṃ, domanassavasena byāpādanīvaraṇaṃ dassitaṃ. Idañhi catukkaṃ vipassanāvaseneva vuttaṃ, dhammānupassanā ca nīvaraṇapabbādivasena chabbidhā hoti, tassā nīvaraṇapabbaṃ ādi, tassapi idaṃ nīvaraṇadvayaṃ ādi, iti dhammānupassanāya ādiṃ dassetuṃ “abhijjhādomanassānan”ti āha.
Này chư Tỳ khưu Như Lai không nói niệm hơi thở vào hơi thở ra đối với vị Tỳ khưu có niệm bị quên lãng, không có sự nhận biết rõ rệt: có lời giải thích như thế này: – Vị Tỳ khưu thực hành theo phương pháp v.v, sau: vị Tỳ khưu có cảm giác tâm gọi là thực hành tướng hơi thở, tôi sẽ thở vào (như vậy) được gọi là tập luyện tướng hơi thở vào hơi thở ra làm cho trở thành đối tượng, dẫu như vậy vị Tỳ khưu này cũng gọi là quan sát tâm ở trên tâm tương tự, bởi tâm của vị Tỳ khưu ấy đã được thiết lập bằng niệm và sự nhận biết rõ ở đối tượng trong khi được vận hành. Do tu tập niệm hơi thở vào hơi thở ra không có nơi người có niệm bị quên lãng, không có sự nhận biết rõ rệt. Vì thế vào lúc ấy vị Tỳ khưu sống quan sát tâm ở trên tâm do mãnh lực cảm giác tâm v.v, theo đối tượng. Vị ấy sau khi nhìn thấy sự dứt bỏ tham dục và ưu phiền bằng tuệ là người có trạng thái xả tốt đẹp: thuyết về sự ước muốn trong các dục là pháp ngăn che bởi tham dục, thuyết về sân độc là pháp ngăn che bằng ưu phiền. Bởi bốn nhóm này thuyết giảng hoàn toàn bằng mãnh lực Minh sát, và quán xét pháp (trên các pháp) có 6 pháp do tác động năm pháp ngăn che v.v, năm pháp ngăn che là chướng ngại ban đầu của sự quán xét pháp đó, để trình bày (chướng ngại) đầu tiên của việc quán xét pháp đã nói rằng: “tham dục và ưu phiền”.
Pahānanti aniccānupassanāya niccasaññaṃ pajahatīti evaṃ pahānakarañāṇaṃ adhippetaṃ. Taṃ paññāya disvāti taṃ aniccavirāganirodhapaṭinissaggāñāṇasaṅkhātaṃ pahānañāṇaṃ aparāya vipassanāpaññāya, tampi aparāyāti evaṃ vipassanāparamparaṃ dasseti. Ajjhupekkhitā hotīti yañca samathapaṭipannaṃ ajjhupekkhati, yañca ekato upaṭṭhānaṃ ajjhupekkhatīti dvidhā ajjhupekkhati nāma. Tattha sahajātānampi ajjhupekkhanā hoti ārammaṇassapi ajjhupekkhanā, idha ārammaṇājjhupekkhanā adhippetā. Tasmātiha, bhikkhaveti yasmā aniccānupassī assasissāmītiādinā nayena pavatto na kevalaṃ nīvaraṇādidhamme, abhijjhādomanassasīsena pana vuttānaṃ dhammānaṃ pahānañāṇampi paññāya disvā ajjhupekkhitā hoti, tasmā “dhammesu dhammānupassī tasmiṃ samaye bhikkhu viharatī”ti veditabbo.
Việc dứt trừ: ngài muốn đề cập đến trí làm phương tiện để đoạn trừ như vầy rằng: dứt trừ sự nghĩ tưởng về thường còn nhờ việc quán xét về vô thường. Sau khi nhìn thấy sự dứt bỏ tham dục và ưu phiền bằng tuệ: sự dứt trừ bằng trí đó được xem là trí vô thường, trí ly ái, trí diệt tận và trí từ bỏ và tuệ Minh sát khác nữa, trình bày sự dứt trừ bằng trí bởi tuệ Minh sát khác nữa tiếp tục. Là vị có trạng thái xả: Gọi là trạng thái dửng dưng có 2 phần là dửng dưng đối với việc đã đạt đến Chỉ tịnh và dửng dưng đối với việc hiện hữu nhất thể. 2 phần trong trạng thái xả đó – dửng dưng đối với các pháp đồng sanh, dửng dưng đối với cảnh, (nhưng) trong trường hợp này muốn đề cập đến sự dửng dưng đối với cảnh. Này các Tỳ khưu, vì thế: vì vị Tỳ khưu thực hành theo phương pháp sau – ‘có sự quán xét về vô thường’ tôi sẽ thở ra là người nhìn thấy pháp có pháp ngăn che v.v, không chỉ dửng dưng mà trí làm phương tiện dứt trừ các pháp đã nói ở đầu là tham dục và ưu phiền cũng là pháp mà vị Tỳ khưu nhìn thấy bằng tuệ là vị có trạng thái xả, vì thế nên hiểu rằng: “vị Tỳ khưu sống có sự quán xét pháp trên các pháp vào lúc ấy”.
150. Pavicinatīti aniccādivasena pavicinati. Itaraṃ padadvayaṃ etasseva vevacanaṃ. Nirāmisāti nikkilesā. Passambhatīti kāyikacetasikadarathapaṭippassaddhiyā kāyopi cittampi passambhati. Samādhiyatīti sammā ṭhapiyati, appanāpattaṃ viya hoti. Ajjhupekkhitā hotīti sahajātājjhupekkhanāya ajjhupekkhitā hoti.
150. Suy xét: suy xét với mãnh lực tướng vô thường v.v, hai từ còn lại này là từ đồng nghĩa với ‘suy xét’ này đây. Không liên hệ vật chất: không còn ô nhiễm. Được an tịnh: do ô nhiễm ở lộ thân và lộ tâm được an tịnh, cả thân và tâm cũng được an tịnh. vững chắc (đạt định): được thiết lập chân chánh, như thể đạt đến sự chuyên chú. Là người có trạng thái xả: là vị dửng dưng với việc dửng dưng đối với các pháp đồng sanh.
Evaṃ cuddasavidhena kāyapariggāhakassa bhikkhuno tasmiṃ kāye sati satisambojjhaṅgo, satiyā sampayuttaṃ ñāṇaṃ dhammavicayasambojjhaṅgo, taṃsampayuttameva kāyikacetasikavīriyaṃ vīriyasambojjhaṅgo, pīti, passaddhi, cittekaggatā samādhisambojjhaṅgo, imesaṃ channaṃ sambojjhaṅgānaṃ anosakkanānativattanasaṅkhāto majjhattākāro upekkhāsambojjhaṅgo. Yatheva hi samappavattesu assesu sārathino “ayaṃ olīyatī”ti tudanaṃ vā, “ayaṃ atidhāvatī”ti ākaḍḍhanaṃ vā natthi, kevalaṃ evaṃ passamānassa ṭhitākārova hoti, evameva imesaṃ channaṃ sambojjhaṅgānaṃ anosakkanānativattanasaṅkhāto majjhattākāro upekkhāsambojjhaṅgo nāma hoti. Ettāvatā kiṃ kathitaṃ? ekacittakkhaṇikā nānārasalakkhaṇā vipassanāsambojjhaṅgā nāma kathitā.
Niệm trong thân đó của vị Tỳ khưu ấy, vị quán xét thân với 14 biểu hiện như vậy là niệm giác chi, trí tương ưng với niệm là trạch pháp giác chi, sự tinh tấn ở lộ thân và lộ tâm tương ưng với chính trạch pháp giác chi đó là tinh tấn giác chi, hỷ, khinh an, nhất tâm, định giác chi, biểu hiện thuộc phần giữa được xem là 6 giác chi được xem là không giảm sút và không diễn tiến quá mức hành xả giác chi giống như khi những con ngựa chạy một cách êm ả thì người đánh xe chỉ có một biểu hiện như thế nào, biểu hiện trung tính được xem là 6 giác chi không giảm sút và không diễn tiến quá mức tương tự như thế được gọi là hành xả giác chi. Chỉ bấy nhiêu ngài nói đến điều gì? Nói đến Minh sát cùng với những trạng thái khác biệt trong một sát-na tâm gọi là giác chi.
152. Vivekanissitantiādīni vuttatthāneva. Ettha pana ānāpānapariggāhikā sati lokiyā hoti, lokiyā ānāpānā[10] lokiyasatipaṭṭhānaṃ paripūrenti, lokiyā satipaṭṭhānā lokuttarabojjhaṅge paripūrenti, lokuttarā bojjhaṅgā vijjāvimuttiphalanibbānaṃ paripūrenti. Iti lokiyassa āgataṭṭhāne lokiyaṃ kathitaṃ, lokuttarassa āgataṭṭhāne lokuttaraṃ kathitanti. Thero panāha “aññattha evaṃ hoti, imasmiṃ pana sutte lokuttaraṃ upari āgataṃ, lokiyā ānāpānā[11] lokiyasatipaṭṭhāne paripūrenti, lokiyā satipaṭṭhānā lokiye bojjhaṅge paripūrenti[12], lokiyā bojjhaṅgā lokuttaraṃ vijjāvimuttiphalanibbānaṃ paripūrenti, vijjāvimuttipadena hi idha vijjāvimuttiphalanibbānaṃ adhippetan”ti.
152. Nương tựa ở sự tách ly: có ý nghĩa như đã trình bày. Hơn nữa ở đây niệm xác định hơi thở vào hơi thở ra thuộc Hiệp thế. Niệm hơi thở thuộc Hiệp thế làm cho sự thiết lập niệm thuộc Hiệp thế được hoàn bị, sự thiết lập niệm thuộc Hiệp thế làm cho giác chi Siêu thế được hoàn bị, giác chi Siêu thế làm cho minh, sự giải thoát, quả và Nibbāna được hoàn bị. Như thế, điều được ngài nói đến Hiệp thế ở vị trí đã đến của Hiệp thế, nói đến Siêu thế ở vị trí đã đến của Siêu thế. Còn trưởng lão đã nói rằng “Trong bài Kinh khác là như vậy, nhưng trong bài Kinh này thì Siêu thế đã đến ở phía trước (sau đó) niệm hơi thở thuộc Hiệp thế làm cho sự thiết lập niệm thuộc Hiệp thế được hoàn bị, sự thiết lập niệm thuộc Hiệp thế làm cho giác chi thuộc Hiệp thế được hoàn bị, giác chi thuộc Hiệp thế làm cho minh, sự giải thoát, quả và Nibbāna thuộc Siêu thế được hoàn bị. Vì trong bài Kinh này minh, quả và Nibbāna ngài muốn đề cập đến điều này rằng: chính là minh và sự giải thoát.”
Giải Thích Kinh Niệm Hơi Thở Kết Thúc
[1] Syā. Ka. – Sañjānantīti
[2] Sī. Syā. – pacchimakattikacātumāsapuṇṇamā
[3] Ka. – Anujānāti
[4] nhằm ngày rằm tháng 9 âm lịch Việt Nam, đây là ngày cuối cùng của ba tháng đầu mùa an cư.
[5] Sī. – Abhiniviṭṭhā, Ka. – Abhiniviṭṭhā ca
[6] Ka. – Pañcavīsati koṭṭhāse
[7] Sī. – Ekasmiṃ hi catukke
[8] (?) natthi Visuddhimagge.
[9] Sī. Syā. hoti,(?) hoti -pe- evaṃ sā pīti paṭisaṃviditā hotīti
[10] Sī. – ānāpānaṃ, (?) ānāpānassati
[11] Sī. – ānāpānassati
[12] Sī. – paripūreti