Kinh số 115 – Giải Thích Kinh Đa Giới
(Bahudhātukasuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Đa Giới
124. Evamme sutanti bahudhātukasuttaṃ. Tattha bhayānītiādīsu bhayanti cittutrāso. Upaddavoti anekaggatākāro. Upasaggoti upasaṭṭhākāro[1] tattha tattha lagganākāro. Tesaṃ evaṃ nānattaṃ veditabbaṃ — pabbatādivisamanissitā corā janapadavāsīnaṃ pesenti “mayaṃ asukadivase nāma tumhākaṃ gāmaṃ paharissāmā”ti. Taṃ pavattiṃ sutakālato paṭṭhāya bhayaṃ santāsaṃ āpajjanti. Ayaṃ cittutrāso nāma. “idha no corā kupitā anatthampi āvaheyyun”ti hatthasāraṃ gahetvā dvipadacatuppadehi saddhiṃ araññaṃ pavisitvā tattha tattha bhūmiyaṃ nipajjanti, ḍaṃsamakasādīhi khajjamānā gumbantarāni pavisanti, khāṇukaṇṭake maddanti. Tesaṃ evaṃ vicarantānaṃ vikkhittabhāvo anekaggatākāro nāma. Tato coresu yathāvutte divase anāgacchantesu “tucchakasāsanaṃ[2] taṃ bhavissati, gāmaṃ pavisissāmā”ti saparikkhārā gāmaṃ pavisanti, atha tesaṃ paviṭṭhabhāvaṃ ñatvā gāmaṃ parivāretvā dvāre aggiṃ datvā manusse ghātetvā corā sabbaṃ vibhavaṃ vilumpetvā gacchanti. Tesu ghātitāvasesā aggiṃ nibbāpetvā koṭṭhacchāyabhitticchāyādīsu tattha tattha laggitvā nisīdanti naṭṭhaṃ anusocamānā. Ayaṃ upasaṭṭhākāro lagganākāro nāma.
124. Kinh Đa Giới – Bahudhātu được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, sự sợ hãi v.v, sự hoảng hốt của tâm của âm gọi là sự sợ hãi. Biểu hiện không chuyên nhất trong đối tượng gọi là sự buồn rầu. Biểu hiện mắc vào, biểu hiện không bằng lòng ở đối tượng này đối tượng kia gọi là sự nguy hiểm. Nên biết sự khác biệt của những biểu hiện chẳng hạn như sự sợ hãi v.v, đó như vầy – Những tên cướp sống ở nơi không bằng phẳng như đồi núi v.v, truyền tin đến cho dân làng rằng “vào ngày kia chúng tôi sẽ vào cướp bóc ở làng của các ngươi.” Vốn dĩ khi nghe sự việc đó dân làng sẽ cảm thấy sợ hãi, sự buồn rầu. Đây gọi là sự hoảng sợ của tâm. Dân làng nghĩ rằng: “Ở đây bọn cướp giận dữ sẽ mang đến sự bất lợi cho chúng ta” mới lấy những thứ quan trọng đi vào rừng cùng với loài thú 2 chân và thú bốn chân nằm trên mặt đất ở tại chỗ đó, bị con rận, muỗi v.v cắn đốt, đi vào giữa những bụi cây thì dẫm phải gốc cây và gai, tính chất mà những người dân làng ấy đi lang thang như vậy gọi là biểu hiện tâm không chuyên nhất. Nhưng sau đó, khi bọn cướp không đến vào ngày đã định, họ đều nghĩ rằng: “tin tức đó có thể là tin tức bâng quơ, chúng ta sẽ vào làng” mang theo những vật dụng tùy thân rồi cùng đi vào làng, khi đó bọn cướp biết rằng: dân làng quay trở về mới bao vây ngôi làng, đã cho đốt lửa ở cổng làng, sau đó giết hết mọi người rồi cướp đoạt toàn bộ tài sản của cải. Trong số những người đó những người còn sống sót cùng nhau dập lửa ngồi buồn bã khóc lóc tiếc nuối đến tài sản của cải bị tiêu hủy ở nơi đó, nơi bóng râm nhà kho và vách nhà v.v. biểu hiện mắc vào như đã nói này gọi là biểu hiện không bằng lòng.
Naḷāgārāti naḷehi paricchannā agārā, sesasambhārā panettha rukkhamayā honti. tiṇāgārepi eseva nayo. Bālato uppajjantīti bālameva nissāya uppajjanti. Bālo hi apaṇḍitapuriso rajjaṃ vā uparajjaṃ vā aññaṃ vā pana mahantaṃ ṭhānaṃ patthento katipaye attanā sadise vidhavāputte mahādhutte gahetvā “etha ahaṃ tumhe issare karissāmī”ti pabbatagahanādīni nissāya antante gāme paharanto dāmarikabhāvaṃ jānāpetvā anupubbena nigamepi janapadepi paharati, manussā gehāni chaḍḍetvā khemantaṭṭhānaṃ patthayamānā pakkamanti, te nissāya vasantā bhikkhūpi bhikkhuniyopi attano attano vasanaṭṭhānāni pahāya pakkamanti. Gatagataṭṭhāne bhikkhāpi senāsanampi dullabhaṃ hoti. Evaṃ catunnaṃ parisānaṃ bhayaṃ āgatameva hoti. Pabbajitesupi dve bālā bhikkhū aññamaññaṃ vivādaṃ paṭṭhapetvā codanaṃ ārabhanti. Iti Kosambivāsikānaṃ viya mahākalaho uppajjati, catunnaṃ parisānaṃ bhayaṃ āgatameva hotīti evaṃ yāni kānici bhayāni uppajjanti, sabbāni tāni bālato uppajjantīti veditabbāni.
Từ ngôi nhà bằng lau sậy: ngôi nhà được lợp từ lau sậy, trong ngôi nhà được che chắn bằng lau sậy nhưng những vật liệu còn lại trong ngôi nhà này đều toàn bằng gỗ rắn chắc. Kể cả ngôi nhà được lợp bằng cỏ cũng có cách thức như thế. Khởi lên từ người ngu: chỉ y cứ nơi kẻ ngu sanh khởi. Bởi kẻ ngu là người không phải bậc trí khao khát tước vị vua, hoặc tước vị phó vương, hoặc những tước vị to lớn khác, đưa những tên lưu manh lớn là những đứa trẻ không cha không mẹ huấn luyện giống như mình số lượng ít ỏi nói rằng: “các ngươi hãy đến, ta sẽ làm các ngươi trở trở nên vĩ đại như thế rồi đến y cứ một ngọn núi v.v, họ cướp bóc nơi làng mạc dọc theo đường biên giới, tuyên bố cho mọi người biết rằng (họ) là những kẻ hung tợn, rồi đi cướp bóc nơi thị tứ, sau đó đến quốc độ theo tuần tự. Mọi người từ bỏ nhà cửa, cầu mong sự an toàn nên đã rời đi. Các Tỳ khưu, hay Tỳ khưu ni sống nương tựa vào nhóm người đó cũng từ bỏ nơi ở của bản thân rồi bỏ đi. Ở những nơi đi qua để xin khất thực, hay những trú xá càng trở nên khó khăn. Sự sợ hãi sẽ xảy đến với bốn hội chúng bằng cách như thế. Thậm chí đối với những vị xuất gia, 2 vị Tỳ khưu ngu si gây ra tranh cãi bắt đầu cáo buộc lẫn nhau. Khi đó, sự gây gỗ sẽ nảy sinh giống như nhóm Tỳ khưu ở thành Kosambī, sự sợ hãi chắc chắn khởi lên cho bốn hội chúng, tất cả sự sợ hãi xảy ra ấy nên biết rằng: chúng đều phát khởi từ những kẻ ngu như đã trình bày.
Etadavocāti Bhagavatā dhammadesanā matthakaṃ apāpetvāva niṭṭhāpitā. Yaṃnūnāhaṃ Dasabalaṃ pucchitvā sabbaññutaññāṇenevassa desanāya pāripūriṃ kareyyanti cintetvā etaṃ “kittāvatā nu kho, bhante”tiādivacanaṃ avoca.
Đã nói như sau: nghĩa là đại đức Ānanda nghĩ rằng đức Thế Tôn không thuyết giảng Pháp thoại đến cuối lại kết thúc, sao ta có thể hỏi đấng Thập Lực rồi thuyết giảng cho đầy đủ bởi Trí tuệ toàn giác nên mới bạch (Thế Tôn): “Đến mức độ nào, bạch ngài v.v.”
125. Aṭṭhārasasu dhātūsu aḍḍhekādasadhātuyo rūpapariggaho, aḍḍhaṭṭhamakadhātuyo arūpapariggahoti rūpārūpapariggahova kathito. Sabbāpi khandhavasena pañcakkhandhā honti. Pañcapi khandhā dukkhasaccaṃ, tesaṃ samuṭṭhāpikā taṇhā samudayasaccaṃ, ubhinnaṃ appavatti nirodhasaccaṃ, nirodhapajānanā paṭipadā maggasaccaṃ. Iti catusaccakammaṭṭhānaṃ ekassa bhikkhuno niggamanaṃ matthakaṃ pāpetvā kathitaṃ hoti. Ayamettha saṅkhepo, vitthārato panetā dhātuyo Visuddhimagge kathitāva. Jānāti passatīti saha vipassanāya maggo vutto.
125. Trong số 18 giới-dhātu việc xác định 10 giới và một nửa là rūpapariggaha (xác định sắc), xác định 7 giới và một nửa gọi là arūpapariggaha (xác định vô sắc), như thế mới chính là điều thuyết về việc xác định cả sắc và vô sắc. Toàn bộ (18 giới-dhātu) là năm uẩn do tác động của uẩn, kể cả năm uẩn cũng là Khổ đế, tham ái làm năm uẩn đó được tạo ra là Tập đế, sự không vận hành của cả hai là Khổ đế và Tập đế được gọi là Diệt đế. Đạo lộ thực hành dẫn đến sự diệt tận gọi Đạo đế. Như thế nghiệp xứ có 4 Đế làm đối tượng, là điều mà ngài thuyết đến sau cùng, là việc nhắc lại sau cuối dành cho một vị Tỳ khưu. Đây là ý nghĩa vắn tắt ở chỗ này, còn lời giảng giải chi tiết về các giới-dhātu đó được nói trong bộ Thanh Tịnh Đạo. Thuyết Đạo cùng với Minh sát: “biết (và) thấy”
Pathavīdhātuādayo saviññāṇakakāyaṃ suññato nissattato dassetuṃ vuttā. Tāpi purimāhi aṭṭhārasahi dhātūhi pūretabbā. Pūrentena viññāṇadhātuto nīharitvā pūretabbā. viññāṇadhātu hesā cakkhuviññāṇādivasena chabbidhā hoti. Tattha cakkhuviññāṇadhātuyā pariggahitāya tassā vatthu cakkhudhātu, ārammaṇaṃ rūpadhātūti dve dhātuyo pariggahitāva honti. Esa nayo sabbattha. Manoviññāṇadhātuyā pana pariggahitāya tassā purimapacchimavasena manodhātu, ārammaṇavasena dhammadhātūti dve dhātuyo pariggahitāva honti. Iti imāsu aṭṭhārasasu dhātūsu aḍḍhekādasadhātuyo rūpapariggahoti purimanayeneva idampi ekassa bhikkhuno niggamanaṃ matthakaṃ pāpetvā kathitaṃ hoti.
Thuyết về địa giới v.v, nhằm mục đích thuyết về thân hữu thức là trống rỗng, là phi chúng sanh. Bởi địa giới v.v, cần phải đầy đủ với 18 giới-dhātu nhóm đầu, khi đầy đủ số lượng, cũng cần phải đầy đủ bằng cách mang đi từ thức giới. 6 thức giới còn lại do mãnh lực nhãn thức v.v. Trong số những thức giới đó khi xác định nhãn thức giới cũng coi như xác định cả hai giới tương tự là nhãn giới làm nơi vững trú của nhãn thức giới ấy, sắc giới làm đối tượng, kể cả toàn bộ giới cũng đều theo phương thức này. Nhưng khi xác định ý thức giới, cả hai giới là ý giới thì ý giới do mãnh lực đến trước (còn ý thức giới) đến sau, pháp giới làm đối tượng cũng chính là điều đã được xác định tương tự. Vì thế trong số 18 giới này thì 10 giới và một nửa là việc xác định sắc, cho nên giới nghiệp xứ chính là điều ngài nói đến cuối cùng, là việc nhắc lại dành cho một vị Tỳ khưu theo cách trước tương tự.
Sukhadhātūtiādīsu sukhañca taṃ nissattasuññataṭṭhena dhātu cāti sukhadhātu. Esa nayo sabbattha. Ettha ca purimā catasso dhātuyo sappaṭipakkhavasena gahitā, pacchimā dve sarikkhakavasena. Avibhūtabhāvena hi upekkhādhātu avijjādhātuyā sarikkhā. Ettha ca sukhadukkhadhātūsu pariggahitāsu kāyaviññāṇadhātu pariggahitāva hoti, sesāsu pariggahitāsu manoviññāṇadhātu pariggahitāva hoti. Imāpi cha dhātuyo heṭṭhā aṭṭhārasahiyeva pūretabbā. Pūrentena upekkhādhātuto nīharitvā pūretabbā. Iti imāsu aṭṭhārasasu dhātūsu aḍḍhekādasadhātuyo rūpapariggahoti purimanayeneva idampi ekassa bhikkhuno niggamanaṃ matthakaṃ pāpetvā kathitaṃ hoti.
Lạc giới v.v, được gọi là lạc giới bởi vừa là lạc và vừa là giới, bởi ý nghĩa phi chúng sanh và là trống rỗng. Trong toàn bộ câu đều có cách thức này tương tự. Trong 6 giới này 4 giới-dhātu đầu tiên ngài nắm giữ do tác động về đối nghịch, nhưng 2 giới sau do tác động về tương đồng. Hành xả giới tương tự với vô minh giới bởi bản thể thực tính không rõ ràng. Hơn nữa, 6 giới-dhātu này khi xác định thì lạc giới và khổ giới cũng là điều xác định thức giới. Khi xác định các giới còn lại cũng chính là điều xác định ý thức giới. Toàn bộ 6 loại giới này (lạc, khổ, hỷ, ưu, xả và vô minh) nên được làm đầy đủ số lượng với 18 giới trước đó. Khi làm cho đầy đủ (khuôn mẫu) cần phải làm cho trọn vẹn (số lượng) bằng cách đem ra từ hành xả giới. Như đã nói trong số 18 giới này thì mười loại giới và một nửa thì việc xác định sắc là như thế. Ngay cả nghiệp xứ này chính là điều ngài nói đến cuối cùng, là việc nhắc lại dành cho một vị Tỳ khưu theo cách trước tương tự.
Kāmadhātuādīnaṃ dvedhāvitakke (ma. ni. 1.206) kāmavitakkādīsu vuttanayeneva attho veditabbo. Abhidhammepi “tattha katamā kāmadhātu, kāmapaṭisaṃyutto takko vitakko”tiādinā (vibha. 182) nayeneva etāsaṃ vitthāro āgatoyeva. Imāpi cha dhātuyo heṭṭhā aṭṭhārasahiyeva pūretabbā. pūrentena kāmadhātuto nīharitvā pūretabbā. Iti imāsu aṭṭhārasasu dhātūsu aḍḍhekādasadhātuyo rūpapariggahoti purimanayeneva idampi ekassa bhikkhuno niggamanaṃ matthakaṃ pāpetvā kathitaṃ hoti.
Nên hiểu ý nghĩa của Kāmadhātu-dục giới v.v, theo cách thức được nói trong dục tầm v.v, trong bài Kinh Dvedhāvitakke – Song Tầm (ma. ni. 1.206). Thậm chí trong Abhidhamma thì dục giới-kāmadhātu v.v, đó ngài cũng đã giải thích chi tiết theo phước thức sau: “Những giới này thì dục giới như thế nào? Sự tìm cảnh, sự nghĩ ngợi tương ưng với dục” (vibha. 182). Kể cả 6 giới này (dục, ly dục, sân hận, vô sân, não hại, vô hại) nên được làm đầy đủ số lượng với 18 giới trước đó. Khi làm cho đầy đủ cần phải làm cho trọn vẹn bằng cách đem ra từ dục giới. Như đã nói mười loại giới và một nửa trong 18 giới, việc xác định sắc là như thế. Ngay cả nghiệp xứ này cũng chính là điều ngài nói đến cuối cùng, là việc nhắc lại dành cho một vị Tỳ khưu theo cách trước tương tự.
Kāmadhātuādīsu pañca kāmāvacarakkhandhā kāmadhātu nāma, pañca rūpāvacarakkhandhā rūpadhātu nāma, cattāro arūpāvacarakkhandhā arūpadhātu nāma. Abhidhamme pana “tattha katamā kāmadhātu, heṭṭhato avīcinirayaṃ pariyantaṃ karitvā”tiādinā (vibha. 182) nayena etāsaṃ vitthāro āgatoyeva. Imāpi tisso dhātuyo heṭṭhā aṭṭhārasahiyeva pūretabbā. Pūrentena kāmadhātuto nīharitvā pūretabbā. Iti imāsu aṭṭhārasasu dhātūsu aḍḍhekādasadhātuyo rūpapariggahoti purimanayeneva idampi ekassa bhikkhuno niggamanaṃ matthakaṃ pāpetvā kathitaṃ hoti.
Dục giới-Kāmadhātu v.v năm uẩn thường lui tới cõi dục được gọi là dục giới-kāmadhātu, uẩn thương lui tới cõi sắc là sắc giới-rūpadhātu, uẩn thương lui tới bốn cõi vô sắc gọi là vô sắc giới-arūpadhātu. Ý nghĩa chi tiết của những giới-dhātu này có đến trong Abhidhamma theo cách thức sau: “Trong những giới ấy, thế nào là dục giới? Lấy ranh giới là địa ngục vô gián” (vibha. 182). Kể cả 3 giới này cũng nên được làm đầy đủ số lượng với 18 giới trước đó. Khi làm cho đầy đủ cần phải làm cho trọn vẹn bằng cách đem ra từ dục giới. Như đã nói mười giới và một nửa trong số 18 giới này là việc xác định sắc. Ngay cả nghiệp xứ này cũng chính là điều ngài nói đến cuối cùng, là việc nhắc lại dành cho một vị Tỳ khưu theo cách trước tương tự.
Saṅkhatāti paccayehi samāgantvā katā, pañcannaṃ khandhānametaṃ adhivacanaṃ. na saṅkhatā asaṅkhatā. nibbānassetaṃ adhivacanaṃ. Imāpi dve dhātuyo heṭṭhā aṭṭhārasahiyeva pūretabbā. Pūrentena saṅkhatadhātuto nīharitvā pūretabbā. Iti imāsu aṭṭhārasasu dhātūsu aḍḍhekādasadhātuyo rūpapariggahoti purimanayeneva idampi ekassa bhikkhuno niggamanaṃ matthakaṃ pāpetvā kathitaṃ hoti.
Hữu vi: bởi tất cả các duyên đã tụ hội tạo tác, lời này là đồng nghĩa của năm uẩn. Duyên không tạo tác gọi là Vô vi. Lời này là đồng nghĩa với Nibbāna. Ngay cả hai giới này cũng cần được làm cho đầy đủ số lượng bằng 18 giới trước đó. Khi làm cho đầy đủ cần phải làm cho trọn vẹn bằng cách đem ra từ Hữu vi giới. Như đã nói mười giới và một nửa trong số 18 giới này là việc xác định sắc. Ngay cả nghiệp xứ này cũng chính là điều ngài nói đến cuối cùng, là việc nhắc lại dành cho một vị Tỳ khưu theo cách trước tương tự.
126. Ajjhattikabāhirānīti ajjhattikāni ca bāhirāni ca. Ettha hi cakkhuādīni ajjhattikāni cha, rūpādīni bāhirāni cha. Idhāpi jānāti passatīti saha vipassanāya maggo kathito.
126. Cả nội xứ và ngoại xứ: bao gồm cả nội xứ và ngoại xứ. Cũng trong lời này thì nhãn v.v, được xếp vào nội xứ và sắc v.v, được xếp vào ngoại xứ. Thậm chí trong trường này cũng thuyết về Đạo và Minh sát như sau: “biết (và) thấy”.
Imasmiṃ sati idantiādi Mahātaṇhāsaṅkhaye vitthāritameva.
Khi nhân này có thi kết quả này có v.v, đã được nói một cách chi tiết trong Đại Kinh Đoạn Tận Tham Ái.
127. Aṭṭhānanti hetupaṭikkhepo. Anavakāsoti paccayapaṭikkhepo. Ubhayenāpi kāraṇameva paṭikkhipati. Kāraṇañhi tadāyattavuttitāya attano phalassa ṭhānanti ca avakāsoti ca vuccati. Yanti yena kāraṇena. Diṭṭhisampannoti maggadiṭṭhiyā sampanno sotāpanno ariyasāvako. Kañci saṅkhāranti catubhūmakesu saṅkhatasaṅkhāresu kañci ekasaṅkhārampi. Niccato upagaccheyyāti niccoti gaṇheyya. Netaṃ ṭhānaṃ vijjatīti etaṃ kāraṇaṃ natthi na upalabbhati. Yaṃ puthujjanoti yena kāraṇena puthujjano. Ṭhānametaṃ vijjatīti etaṃ kāraṇaṃ atthi. Sassatadiṭṭhiyā hi so tebhūmakesu saṅkhatasaṅkhāresu[3] kañci saṅkhāraṃ niccato gaṇheyyāti attho. Catutthabhūmakasaṅkhārā pana tejussadattā divasaṃ santatto ayoguḷo viya makkhikānaṃ diṭṭhiyā vā aññesaṃ vā akusalānaṃ ārammaṇaṃ na honti. Iminā nayena kañci saṅkhāraṃ sukhatotiādīsupi attho veditabbo.
127. Aṭṭhānaṃ: bác bỏ nhân. Anavakāso: bác bỏ duyên. Thậm chí cả hai cũng bác bỏ chính nhân đấy. Sự thật thì nhân ngài gọi là ṭhāna và okāsa bởi vì làm chỗ thiết lập cho quả của chính nó, do quả vận hành do nhân đó. Yaṃ: nhân nào? Vị thành tựu chánh kiến: vị thánh Thinh văn Nhập-lưu, vị thành tựu bởi thánh Đạo và chánh kiến. Bất kỳ hành nào: Bất kỳ hành nào được vận hành trong 4 cõi. Có thể hiểu theo tính chất thường hằng: Có thể chấp chặt là thường còn. Sự kiện như vậy không xảy ra: nhân đó không tồn tại, được xem là không thể đạt được. Là phàm nhân: do nhân nào? phàm nhân. Sự hiện như vậy có xảy ra: nhân đó có tồn tại. Thật vậy, hạng người ấy có thể chấp thủ bất cứ hành nào trong số các hành được vận hành ở trong 3 cõi theo tính chất thường hằng do thường kiến. Thậm chí trong câu “bất cứ hành gì có tính chất lạc” v.v, cũng nên hiểu ý nghĩa theo cách này rằng: các hành được vận hành trong cõi thứ tư (Siêu thế) không làm đối tượng của kiến hoặc các bất thiện khác, giống như cục sắt cực nóng do tác động của sức nóng cực nóng v.v, không phải chỗ mê thích của bọn con trùng.
Sukhato upagaccheyyāti “ekantasukhī attā hoti arogo paraṃ maraṇā”ti (ma. ni. 3.21, 22) evaṃ attadiṭṭhivasena sukhato gāhaṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ. diṭṭhivippayuttacittena pana ariyasāvako pariḷāhābhibhūto pariḷāhavūpasamatthaṃ mattahatthiṃ parittāsito viya[4], Cokkhabrāhmaṇo viya[5] ca gūthaṃ kañci saṅkhāraṃ sukhato upagacchati. Attavāre kasiṇādipaṇṇattisaṅgahatthaṃ saṅkhāranti avatvā kañci dhammanti vuttaṃ. Idhāpi ariyasāvakassa catubhūmakavasena veditabbo, puthujjanassa tebhūmakavasena. Sabbavāresu ariyasāvakassāpi tebhūmakavaseneva paricchedo vaṭṭati. Yaṃ yañhi[6] puthujjano gaṇhāti, tato tato ariyasāvako gāhaṃ viniveṭheti[7]. Puthujjano hi yaṃ yaṃ niccaṃ sukhaṃ attāti gaṇhāti, taṃ taṃ ariyasāvako aniccaṃ dukkhaṃ anattāti gaṇhanto taṃ gāhaṃ viniveṭheti.
Có thể hiểu với tính chất là lạc này thuyết giảng đề cập đến sự nắm lấy cho là lạc do tác động ngã kiến như vầy rằng: “Tự ngã đưa đến hoàn toàn lạc, vô bệnh sau khi chết.” (ma. ni. 3.21, 22). Hơn nữa, vị Thinh văn nắm lấy một loại hành cho là lạc với tâm bất tương ưng kiến, giống như một con voi vào thời kỳ động dục bị sự khó chịu áp đảo, sự mát mẻ còn lại ít ỏi để xoa dịu sự khó chịu đó (nói) đã chạy lao vào đống phân, và giống như Bà-la-môn Cokkha lao vào đống phân. Trong đoạn nói đến vấn đề tự ngã không thuyết về hành mà thuyết rằng bất cứ pháp gì như thế để nhiếp hợp mô tả về biến xứ v.v, lại. Ngay cả ở trường hợp này (trong bài Kinh này) nên biết ý nghĩa liên quan đến hành-saṅkhāra vận hành trong 4 cõi đối với vị thánh Thinh văn. Chỉ do hành được vận hành trong 3 cõi đối với phàm nhân. Hơn nữa, trong tất cả các phần việc xác định do tác động của hành được vận hành trong 3 cõi mà thôi hẳn thích hợp kể cả bậc thánh Thinh văn. Thật vậy hạng phàm nhân chấp thủ vào bất cứ vật nào thì bậc thánh Thinh văn lại buông bỏ sự chấp thủ bất kỳ những vật đó, cũng vậy hạng phàm nhân chấp thủ bất kỳ vật nào cho rằng là thường còn, là lạc, là ngã thì bậc thánh Thinh văn chấp thủ bất kỳ những vật đó nói rằng: là vô thường, là khổ đau, là vô ngã, tự mình được thoát khỏi sự chấp thủ ấy.
128. Mātarantiādīsu janikāva mātā, janako pitā, manussabhūtova khīṇāsavo arahāti adhippeto. Kiṃ pana ariyasāvako aññaṃ jīvitā voropeyyāti? Etampi aṭṭhānaṃ. sacepi hi bhavantaragataṃ ariyasāvakaṃ attano ariyabhāvaṃ ajānantampi koci evaṃ vadeyya “imaṃ kunthakipillikaṃ jīvitā voropetvā sakalacakkavāḷagabbhe cakkavattirajjaṃ paṭipajjāhī”ti, neva so taṃ jīvitā voropeyya. Athāpi naṃ evaṃ vadeyya “sace imaṃ na ghātessasi, sīsaṃ te chindissāmā”ti. Sīsamevassa chindeyya, na ca so taṃ ghāteyya. Puthujjanabhāvassa pana mahāsāvajjabhāvadassanatthaṃ ariyasāvakassa ca baladīpanatthametaṃ vuttaṃ. Ayañhettha adhippāyo — sāvajjo puthujjanabhāvo, yatra hi nāma puthujjano mātughātādīnipi ānantariyāni karissati. mahābalo ca ariyasāvako, yo etāni kammāni na karotīti.
128. Tước đoạt mạng sống người mẹ v.v, người phụ nữ đã cho sự sống (cho mình), ngài có ý muốn đề cập đến người mẹ, người đàn ông cho sự sống, ngài có ý muốn đề cập đến người cha, và bậc lậu tận có bản chất là loài người ngài có ý muốn đề cập đến vị A-ra-hán. Vi thánh Thinh văn có thể tước đoạt mạng sống người khác hay sao? Sự kiện đó không thể xảy ra. Thậm chí nếu như bất cứ ai có thể nói rằng vị thánh Thinh văn cư trú ở khoảng giữa hai cõi (vị vẫn còn tử sanh luân hồi) không biết bản thân mình là vị thánh Thinh văn như vậy: “ngài hãy giết hết bầy kiến đen và kiến vàng, chiếm hữu vị trí Chuyển luân vương trị vì toàn bộ trong lòng vũ trụ”, ngài cũng sẽ không sát hại mạng sống của chúng. Kể cả nếu nói cùng ngài như vầy: “Nếu ngài không giết chúng thì chúng tôi sẽ chặt đầu ngài.” Bất cứ ai cũng có thế chặt đầu của ngài ngay tức khắc, tuy nhiên ngài cũng sẽ không sát sanh. Lời này ngài nói để thuyết giảng rằng: Bản chất của phàm nhân có nhiều lỗi lầm và để thuyết về sức mạnh của vị thánh Thinh văn.
Duṭṭhacittoti vadhakacittena paduṭṭhacitto. Lohitaṃ uppādeyyāti jīvamānakasarīre khuddakamakkhikāya pivanamattampi lohitaṃ uppādeyya. Saṅghaṃ bhindeyyāti samānasaṃvāsakaṃ samānasīmāya ṭhitaṃ pañcahi kāraṇehi saṅghaṃ bhindeyya. Vuttañhetaṃ “pañcahupāli ākārehi saṅgho bhijjati, kammena uddesena voharanto anussāvanena”ti (pari. 458).
Có tâm nghĩ ác: có tâm độc ác với tâm suy nghĩ sẽ giết. Có thể làm chảy máu: có thể làm thân thể của loài có mạng sống chảy máu thậm chị kích thước như con ruồi nhỏ đủ để uống. Có thể chia rẽ Tăng Chúng: có thể chia rẽ Tăng Chúng, những vị cùng cộng trú trong cùng một ranh giới bởi 5 lý do. Tóm lại như điều đã thuyết: “Này Upālī, Tăng Chúng bị chia rẽ bởi 5 lý do: bằng hành sự, bằng sự tụng đọc, bằng lời phát biểu, bằng lời tuyên bố, bằng việc phân phát thẻ.” (pari. 458).
Tattha kammenāti apalokanādīsu catūsu kammesu aññatarena kammena. Uddesenāti pañcasu pātimokkhuddesesu aññatarena uddesena. Voharantoti kathayanto, tāhi tāhi uppattīhi adhammaṃ dhammotiādīni aṭṭhārasa bhedakaravatthūni dīpento. Anussāvanenāti nanu tumhe jānātha mayhaṃ uccākulā pabbajitabhāvaṃ bahussutabhāvañca, mādiso nāma uddhammaṃ ubbinayaṃ Satthusāsanaṃ gāheyyāti cittampi uppādetuṃ tumhākaṃ yuttaṃ, kiṃ mayhaṃ Avīci nīluppalavanaṃ viya sītalo, kiṃ ahaṃ apāyato na bhāyāmītiādinā nayena kaṇṇamūle vacībhedaṃ katvā anussāvanena. Salākaggāhenāti evaṃ anussāvetvā tesaṃ cittaṃ upatthambhetvā anivattidhamme katvā “gaṇhatha imaṃ salākan”ti salākaggāhena.
Trong 5 loại đó thì ‘bằng hành sự’ bao gồm bất kỳ một trong bốn cách hành sự chẳng hạn như việc tường trình-apalokanakamma v.v. Bằng sự tụng đọc: bất cứ sự tụng đọc nào trong số 5 sự tụng đọc giới bổn pātimokkha. Bằng lời phát biểu: trong khi nói, trong khi trình bày đến vấn đề dẫn đến 18 cách chia rẽ chẳng hạn như trình bày điều không phải pháp cho đó là pháp thuận theo nhân khiến khởi sanh chuyện đó. Bằng lời tuyên bố: bằng cách thốt ra lời tuyên bố gần lỗ tai theo cách thức như sau: Các ngài biết không phải hay sao? Tôi xuất gia từ dòng dõi cao quý và là bậc đa văn, các ngài nên thực hành ngay cả sự suy nghĩ rằng: Bình thường như tôi (hoặc) nên cho nắm lấy lời dạy của bậc Đạo Sư, không đúng Pháp, không đúng Luật, địa ngục Avīci mát lạnh tựa như rừng hoa sen xanh dành cho tôi sao? Tôi không sợ địa ngục ư? Bằng việc bốc thăm thẻ: bằng việc tuyên bố như thế, ủng hộ sự suy nghĩ của những vị Tỳ khưu ấy, khiến không quay trở lại bình thường mới cho phân phát thẻ như sau: các ngài hãy bốc thăm thẻ này.
Ettha ca kammameva uddeso vā pamāṇaṃ, vohārānussāvanasalākaggāhā pana pubbabhāgā. Aṭṭhārasavatthudīpanavasena hi voharantena tattha rucijananatthaṃ anussāvetvā salākāya gāhitāyapi abhinnova hoti saṅgho. Yadā pana evaṃ cattāro vā atirekā vā salākaṃ gāhetvā āveṇikaṃ kammaṃ vā uddesaṃ vā karonti, tadā saṅgho bhinno nāma hoti. Evaṃ diṭṭhisampanno puggalo saṅghaṃ bhindeyyāti netaṃ ṭhānaṃ vijjati. Ettāvatā mātughātādīni pañca ānantariyakammāni dassitāni honti, yāni puthujjano karoti, na ariyasāvako, tesaṃ āvibhāvatthaṃ —
Kammato dvārato ceva, kappaṭṭhitiyato tathā.
Pākasādhāraṇādīhi, viññātabbo vinicchayo.
Và ở đây, chỉ có hành sự-kamma hoặc sự tụng đọc là quan trọng, còn việc nói (tác động) việc tuyên bố và việc phân phát thẻ là phần trước. Bởi vì khi phát biểu gắn liền với việc trình bày 18 vấn đề rồi tuyên bố nhằm tạo sự hài lòng về vấn đề đó rồi mới cho bốc thăm. Tăng Chúng vẫn (được tính là) không chia rẽ, nhưng khi nào có 4 vị Tỳ khưu hoặc hơn (4 vị) đã bốc thăm như thế tách biệt trong việc thực hiện hành sự hay sự tụng đọc, khi ấy Tăng Chúng được gọi là bị chia rẽ. Hạng người được thành tựu bởi chánh kiến như vậy có thể chia rẽ Tăng Chúng thì sự kiện như thế không có xảy ra. Năm loại nghiệp vô gián nghiệp-ānantariyakamma như giết mẹ v.v, là điều đã được trình bày chỉ chừng ấy, để giải thích vô gián nghiệp được làm bởi phàm nhân, nhưng không được làm bởi vị thánh Thinh văn cho rõ ràng –
Nên biết lý giải theo nghiệp, theo môn, bằng việc thiết lập ở thời kỳ kiếp, theo quả và theo quy định chung v.v,
Tattha kammato tāva — ettha hi manussabhūtasseva manussabhūtaṃ mātaraṃ vā pitaraṃ vā api parivattaliṅgaṃ jīvitā voropentassa kammaṃ ānantariyaṃ hoti, tassa vipākaṃ paṭibāhissāmīti sakalacakkavāḷaṃ mahācetiyappamāṇehi kañcanathūpehi pūretvāpi sakalacakkavāḷaṃ pūretvā nisinnabhikkhusaṅghassa mahādānaṃ datvāpi buddhassa bhagavato saṅghāṭikaṇṇaṃ amuñcanto vicaritvāpi kāyassa bhedā nirayameva upapajjati. Yo pana sayaṃ manussabhūto tiracchānabhūtaṃ mātaraṃ vā pitaraṃ vā, sayaṃ vā tiracchānabhūto manussabhūtaṃ, tiracchānoyeva vā tiracchānabhūtaṃ jīvitā voropeti, tassa kammaṃ ānantariyaṃ na hoti, bhāriyaṃ pana hoti, ānantariyaṃ āhacceva tiṭṭhati. Manussajātikānaṃ pana vasena ayaṃ pañho kathito.
Ở đây nên lý giải theo nghiệp trước – trong vấn đề nghiệp này khi một chúng sanh loài hữu tình tước đoạt mạng sống của mẹ hoặc cha là người không thay đổi hình tướng hành động ấy là nghiệp vô gián. Người ấy nghĩ rằng ta sẽ ngăn chặn quả của nghiệp đó mới tạo một bảo tháp bằng vàng kích thước bằng đại bảo điện khắp toàn bộ vũ trụ, hoặc bố thí đại thí đến Tăng Chúng ngồi khắp toàn bộ vũ trụ du hành không buông khỏi mép ý tăng-già-lê của đức Thế Tôn khi thân hoại mạng chung thì (người ấy) chắc chắn sanh vào địa ngục. Còn người nào bản thân khi là con người tước đoạt mạng sống mẹ và cha khi là loài bàn sanh, hoặc bản thân khi là bàn sanh tước đoạt mạng sống của mẹ và cha khi là con người, hoặc đều là loài bàn sanh giống nhau tước đoạt mạng sống mẹ và cha khi là bàn sanh, nghiệp của người đó vẫn chưa phải là vô gián nghiệp nhưng là trọng nghiệp được thiết lập gần kề vô gián nghiệp. Nhưng vấn đề này ngài nói liên quan đến chúng sanh, người có sanh chủng là loài người.
Tattha eḷakacatukkaṃ saṅgāmacatukkaṃ coracatukkañca kathetabbaṃ. Eḷakaṃ māremīti abhisandhināpi hi eḷakaṭṭhāne ṭhitaṃ manusso manussabhūtaṃ mātaraṃ vā pitaraṃ vā mārento ānantariyaṃ phusati. Eḷakābhisandhinā pana mātāpitāabhisandhinā vā eḷakaṃ mārento ānantariyaṃ na phusati. Mātāpitāabhisandhinā mātāpitaro mārento phusateva. Eseva nayo itarasmimpi catukkadvaye. Yathā ca mātāpitūsu, evaṃ arahantepi etāni catukkāni veditabbāni.
Trong vấn đề đó nên nói eḷakacatukka (nhóm bốn về con dê) saṅgāmacatukka (nhóm bốn về chiến tranh) và coracatukka (nhóm bốn về tên trộm). Con người giết mẹ và cha là người ở chỗ con dê, kể cả với ý định rằng: ‘ta sẽ giết dê’ cũng phạm vô gián nghiệp. Nhưng giết dê với ý định rằng: ‘là dê’ hoặc với ý định ‘là mẹ và cha’ không phạm vô gián nghiệp. Giết mẹ và cha với ý định là mẹ và cha thì chắc chắn phạm vô gián nghiệp. Trong hai nhóm bốn còn lại cũng có cách thức như đã nói đó. Và giống như (giết) mẹ và cha, nên biết nhóm bốn này kể cả vị A-ra-hán cũng tương tự.
Manussārahantameva māretvā ānantariyaṃ phusati, na yakkhabhūtaṃ. Kammaṃ pana bhāriyaṃ, ānantariyasadisameva. Manussārahantassa ca puthujjanakāleyeva satthappahāre vā vise vā dinnepi yadi so arahattaṃ patvā teneva marati, arahantaghāto hotiyeva. Yaṃ pana puthujjanakāle dinnaṃ dānaṃ arahattaṃ patvā paribhuñjati, puthujjanasseva dinnaṃ hoti. Sesāriyapuggale mārentassa ānantariyaṃ natthi. Kammaṃ pana bhāriyaṃ, ānantariyasadisameva.
Giết chính vị thánh A-ra-hán là người phạm vô gián nghiệp. Là Dạ-xoa (Chư thiên) không phạm vô gián nghiệp, nhưng nghiệp là nghiệp nặng như vô gián nghiệp tương tự. Đối với vị A-ra-hán là người khi đoạt mạng bằng vũ khí hoặc thậm chí bằng thuốc độc vào thời khắc vẫn còn là phàm nhân, nếu như vị ấy chứng đắc A-ra-hán rồi tử sau đó do việc thực hiện đó thì chắc chắn phạm vô gián nghiệp. Còn việc bố thí trong lúc ngài là phàm nhân để ngài thọ dụng rồi chứng đắc quả vị A-ra-hán thì bố thí đó chính là bố thí đến vị phàm nhân. Không có vô gián nghiệp cho kẻ sát hại những bậc Thánh nhân còn lại ngoài bậc A-ra-hán. Nhưng nghiệp là nghiệp nặng tựa như chính vô gián nghiệp đó.
Lohituppāde Tathāgatassa abhejjakāyatāya[8] parūpakkamena cammacchedaṃ katvā lohitapaggharaṇaṃ nāma natthi. sarīrassa pana antoyeva ekasmiṃyeva ṭhāne lohitaṃ samosarati. Devadattena paviddhasilato bhijjitvā gatā sakalikāpi[9] Tathāgatassa pādantaṃ pahari, pharasunā pahaṭo viya pādo antolohitoyeva ahosi. Tathā karontassa ānantariyaṃ hoti. Jīvako pana Tathāgatassa ruciyā satthakena cammaṃ chinditvā tamhā ṭhānā duṭṭhalohitaṃ nīharitvā phāsumakāsi, tathā karontassa puññakammameva hoti.
Làm cho chân Như Lai bầm máu, làm cho lớp da bị rách bởi sự nỗ lực của người khác khiến cho máu chảy ra (điều này) không tồn tại nơi Như Lai. Bởi vì thân thể của ngài không rách ra, tuy nhiên máu tụ lại một chỗ ở bên trong thân thể. Ngay cả những mảnh vụn bắn tung tóe từ tảng đá mà Devadatta đã lăn xuống đã chạm vào đầu bàn chân của Như Lai, bàn chân của ngài bầm máu hoàn toàn ở bên trong, nó giống như thể bị một cái búa đập vào. Khi Devadatta làm như thế được liệt vào vô gián nghiệp. Còn lương y Jīvaka lấy dao giải phẫu lớp da chân theo sự chấp thuận của Như Lai một cách chân chánh, đem phần máu bầm ra ngoài nơi đó làm cho ngài được dễ chịu, trong khi làm điều đó hoàn toàn là việc tạo phước.
Atha ye ca parinibbute tathāgate cetiyaṃ bhindanti, bodhiṃ chindanti dhātumhi upakkamanti, tesaṃ kiṃ hotīti? Bhāriyaṃ kammaṃ hoti ānantariyasadisaṃ. Sadhātukaṃ pana thūpaṃ vā paṭimaṃ vā bādhamānaṃ bodhisākhaṃ chindituṃ vaṭṭati. Sacepi tattha nilīnā sakuṇā cetiye vaccaṃ pātenti, chindituṃ vaṭṭatiyeva. Paribhogacetiyato hi sarīracetiyaṃ mahantataraṃ. Cetiyavatthuṃ bhinditvā gacchantaṃ bodhimūlampi chinditvā harituṃ vaṭṭati. Yā pana bodhisākhā bodhigharaṃ bādhati, taṃ geharakkhaṇatthaṃ chindituṃ na labhati, bodhiatthañhi gehaṃ, na gehatthāya bodhi[10]. Āsanagharepi eseva nayo. Yasmiṃ pana āsanaghare dhātu nihitā hoti, tassa rakkhaṇatthāya bodhisākhaṃ chindituṃ vaṭṭati. Bodhijagganatthaṃ ojoharaṇasākhaṃ vā pūtiṭṭhānaṃ vā chindituṃ vaṭṭatiyeva, Bhagavato sarīrapaṭijaggane viya puññampi hoti.
(Hỏi) Sau đó khi đấng Như Lai viên tịch Nibbāna những người nào phá hủy bảo tháp, chặt cây Bồ-đề, hủy hoại xá-lợi thì nghiệp gì khởi lên cho những người đó? (Đáp) Việc làm đó là trọng nghiệp tương đương với vô gián nghiệp. Nhưng việc cắt tỉa nhánh cây Bồ-đề mọc lên chắn ngang bảo tháp nơi chứa đựng Xá-lợi hoặc bức tượng thì nên làm. Ngay cả chim chóc lấy những nhánh cây Bồ-đề đó phóng uế xuống bảo điện cũng nên chặt tương tự. Bảo tháp mà chứa đựng Xá-lợi quan trọng hơn bảo tháp chứa đựng vật dụng của đức Phật, thậm chí rễ cây Bồ-đề mọc ra làm ảnh hưởng đến khu vực đặt Bảo điện cũng nên được cắt bỏ. Còn những nhánh cây Bồ-đề nào mộc lên chen ngang ngôi nhà Bồ-đề không nên cắt nhánh cây Bồ-đề đó để gìn giữ ngôi nhà. Bởi ngôi nhà có để cây Bồ-đề, không phải cây Bồ-đề có vì lợi ích cho ngôi nhà. Ngay cả sàng tọa Bồ-đề cũng có cách thức tương tự. Hơn nữa, trong ngôi nhà và sàng tọa vị ấy đặt Xá-lợi vào đề gìn giữ ngôi nhà và sàng tọa ấy thì cắt tỉa những nhánh Bồ-đề bị hư cũng được. Để nuôi dưỡng cây Bồ-đề nên cắt tỉa nhánh bị cong vẹo hoặc phần thịt bị hư tương tự, thậm chí phước báu giống như việc chăm sóc kim thân của đức Thế Tôn.
Saṅghabhede sīmaṭṭhakasaṅghe asannipatite visuṃ parisaṃ gahetvā katavohārānussāvana-salākaggāhassa kammaṃ vā karontassa, uddesaṃ vā uddisantassa bhedo ca hoti ānantariyakammañca. Samaggasaññāya pana vaṭṭatīti kammaṃ karontassa bhedova hoti, na ānantariyakammaṃ, tathā navato ūnaparisāyaṃ. Sabbantimena paricchedena navannaṃ janānaṃ yo saṅghaṃ bhindati, tassa ānantariyakammaṃ hoti. Anuvattakānaṃ adhammavādīnaṃ mahāsāvajjakammaṃ. dhammavādino pana anavajjā.
Nên biết lý giải trong việc chia rẽ Tăng Chúng-Saṅghabheda: sự chia rẽ và vô gián nghiệp có cùng Tỳ khưu khi Tăng Chúng ở trong ranh giới sīmā không hội họp đưa Hội Chúng bị chia rẽ thực hiện việc thuyết phục, việc biểu quyết, việc tuyên bố và việc bốc thăm, người thực hiện hành sự hoặc biểu quyết tuyên bố. Nhưng khi thực hiện hành sự với suy nghĩ ‘phù hợp’ bởi tưởng là người đầy đủ, chỉ là sự chia rẽ không phải là vô gián nghiệp. Do Hội Chúng ít hơn 9 vị cũng tương tự (là sự chia rẽ nhưng không phải vô gián nghiệp) với sự xác định ít nhất trong 9 người, bất kể người nào làm chia rẽ Tăng Chúng, vô gián nghiệp có cùng người ấy. Đối với nhóm người nói phi pháp thuận theo thì có tội nhiều, người nói đúng pháp không có tội.
Tattha navannameva saṅghabhede idaṃ suttaṃ — “ekato Upāli cattāro honti, ekato cattāro, navamo anussāveti, salākaṃ gāheti ‘ayaṃ dhammo ayaṃ vinayo idaṃ satthusāsanaṃ, idaṃ gaṇhatha, imaṃ rocethā’ti, evaṃ kho, Upāli, saṅgharāji ceva hoti saṅghabhedo ca. navannaṃ vā, Upāli, atirekanavannaṃ vā saṅgharāji ceva hoti saṅghabhedo cā”ti (cūḷava. 351). Etesu pana pañcasu saṅghabhedo vacīkammaṃ, sesāni kāyakammānīti. Evaṃ kammato viññātabbo vinicchayo.
Trong việc chia rẽ Hội Chúng cả 9 vị ấy thì bài Kinh này là chứng cứ – “Này Upāli, một bên có bốn người, một bên nữa có bốn người, người thứ chín phân phát thẻ biểu quyết tuyên bố rằng: ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Hãy nhận lấy thẻ này, hãy ủng hộ việc này.’ Này Upāli, như vậy là sự bất đồng trong hội chúng, và là sự chia rẽ hội chúng. Này Upāli, sự bất đồng trong hội chúng và là sự chia rẽ hội chúng có cùng chín hoặc hơn chín vị Tỳ khưu. (cūḷava. 351). Hơn nữa trong số 5 vô gián nghiệp ấy thì chia rẽ tăng chúng là khẩu nghiệp, còn lại là thân nghiệp. Nên biết lý giải theo cách hành sự như vậy.
Dvāratoti sabbāneva cetāni kāyadvāratopi vacīdvāratopi samuṭṭhahanti. Purimāni panettha cattāri āṇattikavijjāmayapayogavasena vacīdvārato samuṭṭhahitvāpi kāyadvārameva pūrenti, saṅghabhedo hatthamuddāya bhedaṃ karontassa kāyadvārato samuṭṭhahitvāpi vacīdvārameva pūretīti. Evamettha dvāratopi viññātabbo vinicchayo.
Lý giải theo môn: những nghiệp này toàn bộ những điều ấy được sanh lên do thân môn, do khẩu môn. Ở vấn đề này 4 hành sự ban đầu dẫn đến sanh lên ở khẩu môn do tác động gắn kết với việc sai khiến (người khác bằng lời) tạo ra kết quả do chính thân môn tương tự, chia rẽ Tăng Chúng được sanh lên ở lộ thân môn của vị Tỳ khưu thực hiện việc chia rẽ bằng cách sử dụng đầu ngón tay (chỉ) tạo ra kết quả bằng lộ khẩu môn. Trong vấn đề nói về việc chia rẽ Tăng Chúng nên biết cách lý giải kể cả theo môn-dvāra bằng cách như vậy.
Kappaṭṭhitiyatoti saṅghabhedoyeva cettha kappaṭṭhitiyo. Saṇṭhahante hi[11] kappe kappavemajjhe vā saṅghabhedaṃ katvā kappavināseyeva muccati. Sacepi hi sveva kappo vinassissatīti ajja saṅghabhedaṃ karoti, sveva muccati, ekadivasameva niraye paccati. Evaṃ karaṇaṃ pana natthi. Sesāni cattāri kammāni[12] ānantariyāneva honti, na kappaṭṭhitiyānīti evamettha kappaṭṭhitiyatopi viññātabbo vinicchayo.
Bằng việc thiết lập ở thời kỳ kiếp: trong trường hợp này chỉ việc chia rẽ Tăng Chúng được thiết lập ở thời kỳ kiếp. Bởi vì hạng người đã thực hiện chia rẽ Tăng Chúng trong kiếp hoại, hoặc khoảng giữa của kiếp, trong lúc kiếp diệt được thoát khỏi (từ nghiệp đó). Thậm chí nếu như vào ngày mai kiếp hoại diệt tạo nghiệp chia rẽ Tăng chúng vào ngày hôm nay thì vừa vào ngày mai mai cũng thoát khỏi, chỉ rơi vào địa ngục một ngày mà thôi. Tuy nhiên lý do như vậy không có. Cả bốn nghiệp còn lại hoàn toàn là vô gián nghiệp, không phải là nghiệp được thiết lập ở thời kỳ kiếp, nên biết lý giải với việc thiết lập ở thời kỳ kiếp bằng cách như vậy.
Pākatoti yena ca pañcape’tāni kammāni katāni honti, tassa saṅghabhedoyeva paṭisandhivasena vipaccati, sesāni “ahosikammaṃ, nāhosi kammavipāko”ti evamādīsu saṅkhyaṃ gacchanti. Saṅghassa bhedābhāve lohituppādo, tadabhāve arahantaghāto, tadabhāve ca sace pitā sīlavā hoti, mātā dussīlā, no vā tathā sīlavatī, pitughāto paṭisandhivasena vipaccati. Sace mātāpitughāto, dvīsupi sīlena vā dussīlena vā samānesu mātughātova paṭisandhivasena vipaccati. Mātā hi dukkarakārinī bahūpakārā ca puttānanti evamettha pākatopi viññātabbo vinicchayo.
Bởi quả dị thục: và bởi hạng người nào tạo vô gián nghiệp này thậm chí cả loại 5 loại, chia rẽ Tăng Chúng hoàn toàn cho quả do mãnh lực việc tục sanh cùng hạng người ấy. Các nghiệp còn lại được liệt vào điều sau: “là vô hiệu nghiệp, là nghiệp chưa cho quả”. Trong lúc không chia rẽ Hội Chúng thì việc làm cho chân Phật bầm máu sẽ hẳn trổ quả, và trong khi không giết hại bậc A-ra-hán, nếu người cha có giới mà mẹ có giới hạnh xấu xa thì nghiệp giết cha sẽ trổ quả, hoặc người cha có giới hạnh xấu xa nhưng mẹ lại có giới thì nghiệp giết mẹ sẽ trổ quả do mãnh lực tục sanh. Nếu như nghiệp sát cả mẹ và cha, cả hai đều có giới hoặc giới hạnh xấu xa thì chỉ có nghiệp giết mẹ cho quả do mãnh lực tái tục. Bởi vì người mẹ thực hiện những việc mà người ta khó làm cùng với việc trợ giúp rất nhiều cho con cái. Nên biết lý giải ngay cả quả dị thục trong vấn đề nghiệp vô gián này bằng cách như vậy
Sādhāraṇādīhīti purimāni cattāri sabbesampi gahaṭṭhapabbajitānaṃ sādhāraṇāni. saṅghabhedo pana “na kho, Upāli bhikkhunī, saṅghaṃ bhindati, na sikkhamānā, na sāmaṇero, na sāmaṇerī, na upāsako, na upāsikā saṅghaṃ bhindati, bhikkhu kho, Upāli, pakatatto samānasaṃvāsako samānasīmāyaṃ ṭhito saṅghaṃ bhindatī”ti (cūḷava. 351) vacanato vuttappakārassa bhikkhunova hoti, na aññassa, tasmā asādhāraṇo. Ādisaddena sabbepi te dukkhavedanāsahagatā dosamohasampayuttā cāti evamettha sādhāraṇādīhipi viññātabbo vinicchayo.
Theo quy định chung: 4 vô gián nghiệp đầu tiên là nghiệp chung đối với tất cả cư sĩ và người xuất gia. Nhưng chia rẽ Tăng Chúng là nghiệp riêng biệt đối với Tỳ khưu có cách như được thuyết ở trong Pāḷī như sau: “Này Upālī, Tỳ khưu ni không chia rẽ hội chúng, cô ni tập sự không chia rẽ hội chúng, Sa-di không chia rẽ hội chúng, Sa-di ni không chia rẽ hội chúng, nam cư sĩ không chia rẽ hội chúng, nữ cư sĩ không chia rẽ hội chúng. Này Upāli, vị tỳ khưu ni bình thường là vị có sự đồng cộng trú, đứng chung ranh giới có thể chia rẽ Hội Chúng.” (cūḷava. 351), như thế (chia rẽ Tăng Chúng) không phải là nghiệp đối với người khác, vì thế mới là vấn đề không (được quy định) chung (đối với nhóm người khác). Với cụm từ ‘sādhāraṇādīhi’ toàn bộ những hạng người đó ngài muốn đề cập đến người có khổ thọ, câu hữu với khổ đau, và tương ưng với sân và si. Nên biết lý giải kể cả (là nghiệp) chung v.v, trong trường hợp như vậy.
Aññaṃ satthāranti “ayaṃ me satthā satthukiccaṃ kātuṃ asamattho”ti bhavantarepi aññaṃ titthakaraṃ “ayaṃ me satthā”ti evaṃ gaṇheyya, netaṃ ṭhānaṃ vijjatīti attho.
Đạo Sư khác nghĩa là người đạt đến đầy đủ chánh kiến có thể giữ lấy như vầy rằng: “bậc Đạo Sư của ta không thể làm bổn phận của một vị thầy được, và thậm chí ở khoảng giữa kiếp sống có thể giữ lấy học thuyết khác như sau: “vị này là Đạo Sư của ta”, sự kiện này không thể có được.
129. Ekissā lokadhātuyāti dasasahassilokadhātuyā. Tīṇi hi khettāni jātikhettaṃ āṇākhettaṃ visayakhettaṃ. Tattha jātikhettaṃ nāma dasasahassī lokadhātu. Sā hi Tathāgatassa mātukucchiokkamanakāle nikkhamanakāle sambodhikāle dhammacakkappavattane āyusaṅkhārossajjane parinibbāne ca kampati. koṭisatasahassacakkavāḷaṃ pana āṇākhettaṃ nāma. āṭānāṭiya-moraparitta-dhajaggaparitta-ratanaparittādīnañhi ettha āṇā vattati. Visayakhettassa pana parimāṇaṃ natthi. buddhānañhi “yāvatakaṃ ñāṇaṃ tāvatakaṃ neyyaṃ, yāvatakaṃ neyyaṃ tāvatakaṃ ñāṇaṃ, ñāṇapariyantikaṃ neyyaṃ neyyapariyantikaṃ ñāṇan”ti (paṭi. ma. 3.5) vacanato avisayo nāma natthi.
129. Khi cùng trong một thế giới-lokadhatu: Mười ngàn thế giới. Bởi vì 3 lãnh địa là jātikhetta-lãnh địa đản sinh, ānakhetta-lãnh địa uy lực và visāyakhetta-lãnh địa trí tuệ. Trong lĩnh vực mười ngàn thế giới gọi là lãnh địa đản sinh. Bởi vì mười ngàn thế giới ấy rúng động, vào thời gian đấng Như Lai trong khi nhập vào mẫu thai, vào thời gian ra đi xuất giam, vào thời gian giác ngộ, chuyển vận bánh xe Pháp, buông xả thọ hành và tịch diệt Nibbāna. Còn mười ngàn koṭi vũ trụ gọi là ānakhetta-lãnh địa uy lực. Do āṇā (uy lực) kinh hộ trì Āṭānāṭiya, kinh hộ trì Mora, kinh hộ trì Dhajagga, kinh hộ trì Ratana v.v, lan tỏa khắp mười nghìn koṭi vũ trụ này. Lãnh địa trí tuệ vô lượng, thật sự chư Phật được gọi là không thể không có visaya-tuệ trong lời giải tự sau “Trí là chừng nào thì điều có thể biết là chừng ấy, điều có thể biết là chừng nào thì trí là chừng ấy. Điều có thể biết có trí là giới hạn, trí có điều có thể biết là giới hạn” (paṭi. ma. 3.5).
Imesu pana tīsu khettesu ṭhapetvā imaṃ cakkavāḷaṃ aññasmiṃ cakkavāḷe Buddhā uppajjantīti suttaṃ natthi, na uppajjantīti pana atthi. Tīṇi piṭakāni vinayapiṭakaṃ suttantapiṭakaṃ abhidhammapiṭakaṃ, tisso saṅgītiyo Mahākassapattherassa saṅgīti, Yasattherassa saṅgīti, Moggaliputtatissattherassa saṅgītīti. imā tisso saṅgītiyo āruḷhe tepiṭake buddhavacane imaṃ cakkavāḷaṃ muñcitvā aññattha buddhā uppajjantīti suttaṃ natthi, na uppajjantīti pana atthi.
Hơn nữa chẳng có bài Kinh nói rằng: “Trong cả ba lãnh địa này ngoại trừ vũ trụ này thì chư Phật còn xuất hiện ở vũ trụ khác”, mà (chỉ có) chư Phật không xuất hiện ở vũ trụ khác. Tam Tạng là Tạng Luật, Tạng Kinh và Tạng Abhidhamma. Ba lần kiết tập Tam Tạng là cuộc kiết tập của trưởng lão Mahākassapa, cuộc kiết tập của trưởng lão Yasa, cuộc kiết tập của trưởng lão Moggaliputtatissa. Trong Phật ngôn Tam Tạng được nêu ra cả ba lần kiết tập này không có bài Kinh nào nói rằng: “ngoại trừ vũ trụ này thì chư Phật vẫn còn sanh lên ở vũ trụ khác” chỉ có không sanh lên ở vũ trụ khác.
Apubbaṃ acarimanti apure apacchā. ekato na uppajjanti, pure vā pacchā vā uppajjantīti vuttaṃ hoti. Tattha hi bodhipallaṅke bodhiṃ appatvā na uṭṭhahissāmīti nisinnakālato paṭṭhāya yāva mātukucchismiṃ paṭisandhiggahaṇaṃ, tāva pubbeti na veditabbaṃ. Bodhisattassa hi paṭisandhiggahaṇena dasasahassacakkavāḷakampaneneva khettapariggaho kato, aññassa buddhassa uppatti nivāritāva hoti. Parinibbānakālato paṭṭhāya yāva sāsapamattā dhātu tiṭṭhati, tāva pacchāti na veditabbaṃ. Dhātūsu hi ṭhitāsu Buddhā ṭhitāva honti. tasmā etthantare aññassa buddhassa uppatti nivāritāva hoti. dhātuparinibbāne pana jāte aññassa buddhassa uppatti na nivāritā.
Apubbaṃ acarimaṃ: không trước không sau. Có nghĩa là không sanh cùng nhau, tức là trước hoặc sau. Trong lời đó không nên hiểu rằng: Vào thời gian trước từ khi nhập vào mẫu thai cho đến thời gian ngồi kiết già ở cội Bồ-đề bằng lời phát nguyện như sau – (nếu) ta không đắc chứng Bồ-đề trí ta sẽ không đứng dậy, do ngài đã thực hiện việc xác định lãnh địa bằng cách làm cho mười ngàn vũ trụ rúng động nhờ việc nhập vào mẫu thai của đức Bồ-tát. Là việc khước từ việc xuất hiện của vị Phật khác. Không nên hiểu rằng: vào thời gian sau kể từ khi viên tịch Nibbāna cho đến khi Xá-lợi có kích thước bằng hạt cải được thiết lập. Bởi vì khi Xá-lợi được duy trì thì chư Phật vẫn hoàn toàn tồn tại. Vì thế mà khoảng giữa thời gian được nói này là điều khước từ việc xuất hiện của những vị Phật khác một cách tuyệt đối.
Tīṇi hi antaradhānāni nāma pariyattiantaradhānaṃ, paṭivedhāntaradhānaṃ, paṭipattiantaradhānanti. Tattha pariyattīti tīṇi piṭakāni. Paṭivedhoti saccapaṭivedho. paṭipattīti paṭipadā. Tattha paṭivedho ca paṭipatti ca hotipi na hotipi. Ekasmiñhi kāle paṭivedhadharā[13] bhikkhū bahū honti, eso bhikkhu puthujjanoti aṅguliṃ pasāretvā dassetabbo hoti. Imasmiṃyeva dīpe ekavāre puthujjanabhikkhu nāma nāhosi. Paṭipattipūrikāpi kadāci bahū honti kadāci appā. Iti paṭivedho ca paṭipatti ca hotipi na hotipi, sāsanaṭṭhitiyā pana pariyatti pamāṇaṃ.
Bởi ba sự biến mất: sự biến mất của Pháp học, sự biến mất của Pháp hành, sự biến mất của Pháp thành. Trong 3 sự biến mất ấy thì Tam Tạng gọi là Pháp học. Việc thấu triệt các Chân Lý gọi là Pháp hành. Đạo lộ thực hành gọi là Pháp thành. Ở đó Pháp thành và Pháp hành có (hoặc) không có. Bởi vì vô số chư Tỳ khưu vị thấu triệt vào thời điểm duy nhất, nên chỉ tay thể hiện rõ ràng rằng vị Tỳ khưu này là phàm nhân. Vị Tỳ khưu là phàm nhân không phải chỉ có một ở châu lục này. Ngay cả vị làm cho tất cả Pháp hành được hoàn thành thỉnh thoảng có nhiều, thỉnh thoảng cũng có ít. Chính vì thế Pháp thành và Pháp hành được gọi là có (hoặc) không có. Tuy nhiên Pháp học xem như là quan trọng của việc duy trì Phật giáo.
Paṇḍito hi tepiṭakaṃ sutvā dvepi pūreti. Yathā amhākaṃ Bodhisatto Āḷārassa santike pañcābhiññā satta ca samāpattiyo nibbattetvā nevasaññānāsaññāyatanasamāpattiyā parikammaṃ pucchi, so na jānāmīti āha. Tato Udakassa santikaṃ gantvā adhigataṃ visesaṃ saṃsandetvā nevasaññānāsaññāyatanassa parikammaṃ pucchi, so ācikkhi, tassa vacanasamanantarameva mahāsatto taṃ sampādesi, evameva paññavā bhikkhu pariyattiṃ sutvā dvepi pūreti. tasmā pariyattiyā ṭhitāya sāsanaṃ ṭhitaṃ hoti.
Bởi vì bậc trí sau khi được học Tam Tạng (sẽ) làm cho Pháp thành và Pháp hành được tròn đủ. Như Bồ-tát của chúng ta đã làm 5 thắng trí và 7 thiền chứng sanh khởi ở trú xứ của đạo sĩ Āḷāra rồi hỏi đến đề mục chuẩn bị thiền chứng Phi tưởng phi phi tưởng xứ nhưng đạo sĩ Āḷāra nói rằng: ‘không biết’. Từ đó, ngài đã đi đến trú xứ của đạo sĩ Udaka so sánh ân đức đặc biệt đã chứng đắc (cùng ngài) hỏi đến đề mục chuẩn bị thiền chứng Phi tưởng phi phi tưởng xứ thì ngài đạo sĩ cũng đã nói cho (vị ấy). Tuần tự lời nói của chính ngài đạo sĩ, Bồ-tát cũng đã làm cho thiền Phi tưởng phi phi tưởng thành tựu thế nào, vị Tỳ khưu có trí tuệ cũng tương tự như thế ấy, sau khi học Pháp học (sẽ) làm cho Pháp thành và Pháp hành thậm chí cả hai được thành tựu. Vì thế khi Pháp học vẫn còn tồn tại thì Phật giáo cũng được thiết lập.
Yadā pana sā antaradhāyati, tadā paṭhamaṃ Abhidhammapiṭakaṃ nassati. Tattha Paṭṭhānaṃ sabbapaṭhamaṃ antaradhāyati, anukkamena pacchā Dhammasaṅgaho, tasmiṃ antarahite itaresu dvīsu piṭakesu ṭhitesu sāsanaṃ ṭhitameva hoti. Tattha Suttantapiṭake antaradhāyamāne paṭhamaṃ Aṅguttaranikāyo ekādasakato paṭṭhāya yāva ekakā antaradhāyati, tadanantaraṃ Saṃyuttanikāyo cakkapeyyālato paṭṭhāya yāva oghataraṇā antaradhāyati, tadanantaraṃ Majjhimanikāyo indriyabhāvanato paṭṭhāya yāva mūlapariyāyā antaradhāyati, tadanantaraṃ Dīghanikāyo dasuttarato paṭṭhāya yāva brahmajālā antaradhāyati. Ekissāpi dvinnampi gāthānaṃ pucchā addhānaṃ gacchati, sāsanaṃ dhāretuṃ na sakkoti sabhiyapucchā (su. ni. sabhiyasuttaṃ) viya āḷavakapucchā (su. ni. āḷavakasuttaṃ; saṃ. ni. 1.246) viya ca. Etā kira kassapabuddhakālikā antarā sāsanaṃ dhāretuṃ nāsakkhiṃsu.
Khi nào Pháp học ấy bị biến mất khi ấy thì Tạng Abhidhamma sẽ mất trước. Trong Tạng Abhidhamma ấy thì bộ Paṭṭhāna sẽ biến mất trước hết bất kỳ bộ kinh nào khác. Bộ Dhammasaṅgaha – Pháp Tụ sẽ biến mất sau đó theo tuần tự. Khi Tạng Abhidhamma đã biến mất, cả hai Tạng còn lại vẫn còn duy trì thì Phật giáo vẫn còn duy trì. Trong 2 Tạng còn lại ấy thì Tạng Kinh sẽ biến mất trước, (trong Tạng Kinh) thì Tăng Chi Bộ sẽ mất trước bắt đầu từ chương mười một pháp cho đến chương một pháp. Sau đó, Tương Ưng Bộ sẽ biến mất bắt đầu từ Cakka Peyyāla cho đến Kinh Oghataraṇa. Sau đó, Trung Bộ Kinh sẽ biến mất bắt đầu từ bài Kinh Indriyabhāvanā cho đến bài Kinh Mūlapariyāya. Sau đó, Trường Bộ Kinh sẽ biến mất bắt đầu từ Kinh Dasuttara cho đến Kinh Phạm Võng. Kệ ngôn làm câu hỏi, kệ ngôn một câu, hay kệ ngôn hai câu, vẫn tồn tại trong khoảng thời gian dài nhưng không thể thực hành được Giáo Pháp giống như câu hỏi của Sabhiya (su. ni. Kinh Sabhiya) hay câu hỏi của Aḷavaka (su. ni. Kinh Āḷavaka; saṃ. ni. 1.246). Tương truyền rằng giữa các khoảng thời gian này có trong thời đức Phật Kassapa cũng không thể duy trì được Giáo pháp.
Dvīsu pana piṭakesu antarahitesupi Vinayapiṭake ṭhite sāsanaṃ tiṭṭhati, parivārakhandhakesu antarahitesu ubhatovibhaṅge ṭhite ṭhitameva hoti. Ubhatovibhaṅge antarahite mātikāya ṭhitāyapi ṭhitameva hoti. mātikāya antarahitāya Pātimokkhapabbajjaupasampadāsu ṭhitāsu sāsanaṃ tiṭṭhati. Liṅgamaddhānaṃ gacchati, setavatthasamaṇavaṃso pana Kassapabuddhakālato paṭṭhāya sāsanaṃ dhāretuṃ nāsakkhi. Pacchimakassa pana saccapaṭivedhato pacchimakassa sīlabhedato ca paṭṭhāya sāsanaṃ osakkitaṃ nāma hoti. Tato paṭṭhāya aññassa Buddhassa uppatti na vāritāti.
Lại nữa khi cả 2 Tạng hoàn toàn bị biến mất nhưng khi Tạng Luật còn duy trì thì Giáo Pháp vẫn còn tồn tại. Khi bộ Parivāra và Khandhaka đã biến mất, trong khi hai Vibhaṅga vẫn tồn tại, thì Giáo pháp cũng vẫn tồn tại. Khi hai Vibhaṅga đã biến mất, trong khi đó Mātikā còn tồn tại thì Giáo pháp cũng vẫn tồn tại. Khi Mātikā biến mất, trong khi giới bổn Pātimokkha việc xuất gia và tu lên bậc trên sẽ còn được duy trì, thì Giáo pháp vẫn tồn tại. Hình tướng (Sa-môn) vẫn tồn tại trong một thời gian dài, dòng dõi những Sa-môn mặc áo trắng vốn dĩ từ thời đức Phật Kassapa đã không thể duy trì Giáo pháp được. Giáo Pháp được gọi là hoại diệt, bắt đầu từ người cuối cùng thấu triệt được Chân Lý và người cuối cùng hủy hoại giới. Kể từ đó sự xuất hiện của một vị Phật khác là điều không thể cản trở.
Tīṇi parinibbānāni nāma kilesaparinibbānaṃ khandhaparinibbānaṃ dhātuparinibbānanti. Tattha kilesaparinibbānaṃ Bodhipallaṅke ahosi, khandhaparinibbānaṃ Kusinārāyaṃ, dhātuparinibbānaṃ anāgate bhavissati. Sāsanassa kira osakkanakāle imasmiṃ Tambapaṇṇidīpe dhātuyo sannipatitvā Mahācetiyaṃ gamissanti, Mahācetiyato Nāgadīpe Rājāyatanacetiyaṃ, tato Mahābodhipallaṅkaṃ gamissanti, nāgabhavanatopi devalokatopi brahmalokatopi dhātuyo Mahābodhipallaṅkameva gamissanti. Sāsapamattāpi dhātu antarā na nassissati. Sabbā dhātuyo Mahābodhipallaṅke rāsibhūtā suvaṇṇakkhandho viya ekagghanā hutvā chabbaṇṇarasmiyo vissajjessanti, tā dasasahassilokadhātuṃ pharissanti.
Có ba loại tịch diệt hoàn toàn: (1) tịch diệt hoàn toàn các phiền não, (2) tịch diệt hoàn toàn ngũ uẩn, (3) tịch diệt hoàn toàn các Xá-lợi. Trong ba sự tịch diệt hoàn toàn đó, (1) tịch diệt hoàn toàn các phiền não khi ngồi trên bảo tọa dưới cội Bồ-đề, (2) tịch diệt hoàn toàn ngũ uẩn ở tại thành Kusinārā và (3) tịch diệt hoàn toàn các Xá-lợi sẽ diễn ra trong thời vị lai. Được biết rằng: vào lúc Giáo pháp hoại diệt tất cả các Xá-lợi sẽ gom lại ở Đảo Laṇkā này rồi đi đến Đại bảo điện, từ Đại bảo điện đi đến bảo điện Rājāyatana ở Nāgadīpa, từ bảo điện Rājāyatana đi đến bảo tọa dưới đại thọ Bồ-đề. Toàn bộ Xá-lợi từ Long cung, (hay) từ thế giới Chư thiên, (hay) từ thế giới Phạm thiên sẽ đi đến ngay tại bảo tọa dưới đại thọ Bồ-đề. Xá-lợi dù có kích thước bằng hạt cải sẽ không biến mất ở khoảng giữa thời gian. Toàn bộ Xá-lợi (sẽ tập hợp lại) thành một khối tại bảo tọa dưới đại thọ Bồ đề tạo thành một khối trông giống như khối vàng phát ra hào quang sáu màu, tất cả hào quang đó sẽ lan tỏa khắp mười ngàn thế giới.
Tato dasasahassacakkavāḷe devatā yo sannipatitvā “ajja Satthā parinibbāyati, ajja sāsanaṃ osakkati, pacchimadassanaṃ dāni idaṃ amhākan”ti Dasabalassa parinibbutadivasato mahantataraṃ kāruññaṃ karissanti. Ṭhapetvā anāgāmikhīṇāsave avasesā sakabhāvena saṇṭhātuṃ na sakkhissanti. Dhātūsu tejodhātu uṭṭhahitvā yāva brahmalokā uggacchissati, sāsapamattāyapi dhātuyā sati ekajālāva bhavissati, dhātūsu pariyādānaṃ gatāsu pacchijjissati. Evaṃ mahantaṃ ānubhāvaṃ dassetvā dhātūsu antarahitāsu sāsanaṃ antarahitaṃ nāma hoti. Yāva evaṃ na anantaradhāyati, tāva acarimaṃ nāma hoti. Evaṃ apubbaṃ acarimaṃ uppajjeyyunti netaṃ ṭhānaṃ vijjati.
Từ đó Chư thiên ở mười ngàn vũ trụ sẽ tự hợp lại bày tỏ sự thương tiếc lớn lao vô hạn hơn cả ngày ngài viên tịch Nibbāna của đấng Thập Lực rằng: “ngày hôm nay bậc Đạo Sư viên tịch Nibbāna, ngày hôm nay Giáo pháp hoại diệt, đây là lần gặp cuối cùng của chúng ta vào thời điểm này.” Ngoại trừ bậc thánh Bất-lai và bậc Lậu tận, những người còn lại không thể duy trì theo thực tính của chính mình được. Hỏa giới sẽ bốc cháy trong toàn bộ Xá-lợi rồi thẳng lên Phạm thiên giới. Khi Xá-lợi dù có kích thước bằng hạt cải vẫn còn tồn tại cũng sẽ có một ngọn lửa dính vào một ngọn lửa, khi toàn bộ Xá-lợi dập tắt thì ngọn lửa cũng sẽ dập tắt. Khi tất cả Xá-lợi thể hiện uy lực lớn lao như vậy rồi biến mất, thì Giáo Pháp cũng được xem là biến mất. Khi nào Giáo Pháp vẫn chưa biến mất như vậy, khi ấy gọi là “không có sau đó”. Điều chư Phật xuất hiện không trước không sau như vậy thì sự kiện này không được biết đến.
Kasmā pana apubbaṃ acarimaṃ na uppajjantīti. Anacchariyattā. Buddhā hi acchariyamanussā. Yathāha — “ekapuggalo, bhikkhave, loke uppajjamāno uppajjati acchariyamanusso, katamo ekapuggalo? Tathāgato arahaṃ sammāsambuddho”ti (a. ni. 1.171-174).
Tại sao (đức Phật) không xuất hiện không trước không sau? Bởi không phi thường. Bởi vì đức Phật là những người phi thường. Như đã nói – “Này chư Tỳ khưu, một người, khi xuất hiện ở đời là xuất hiện một người vi diệu. Một người ấy là ai? Chính là đấng Như Lai, bậc A-ra-hán, Chánh đẳng Chánh giác” (a. ni. 1.171-174).
Yadi ca dve vā cattāro vā aṭṭha vā soḷasa vā ekato uppajjeyyuṃ, na acchariyā bhaveyyuṃ. Ekasmiñhi vihāre dvinnaṃ cetiyānampi lābhasakkāro uḷāro na hoti bhikkhūpi bahutāya na acchariyā jātā, evaṃ buddhāpi bhaveyyuṃ. Tasmā na uppajjanti.
Và nếu như 2 vị Phật, 4 vị Phật, 8 vị Phật, 16 vị Phật cùng sanh lên, thì không thể trở thành nhân vật phi thường nữa, do lợi đắc và sự cung kính kể cả của hai ngôi Bảo điện trong cùng một tịnh xá cũng không trở nên cao thượng. Cũng vậy, các vị Tỳ khưu cũng không trở thành người phi thường nữa bởi vì họ rất đông, thậm chí chư Phật cũng nên trở thành như vậy. Chính vì thế chư Phật không xuất hiện cùng một lúc.
Desanāya ca visesābhāvato. Yañhi satipaṭṭhānādibhedaṃ dhammaṃ eko deseti, aññena uppajjitvāpi sova desetabbo siyā. Tato na acchariyo siyā, ekasmiṃ pana dhammaṃ desente desanāpi acchariyā hoti.
Và không xuất hiện (cùng nhau) bởi vì Giáo lý của các ngài không có sự khác biệt. Do một vị Phật thuyết pháp nào bao gồm sự thiết lập niệm v.v. thì ngay cả một vị Phật khác xuất hiện cũng thuyết giảng Pháp đó tương tự. Vì thế, chẳng có gì vi diệu. Nhưng khi chỉ có một vị thuyết pháp Giáo pháp thì chính bài giảng của vị này cũng trở nên vi diệu.
Vivādābhāvato ca. Bahūsu ca Buddhesu uppajjantesu bahūnaṃ ācariyānaṃ antevāsikā viya “amhākaṃ Buddho pāsādiko, amhākaṃ buddho madhurassaro lābhī puññavā”ti vivadeyyuṃ, tasmāpi evaṃ na uppajjanti. Apicetaṃ kāraṇaṃ milindaraññā puṭṭhena Nāgasenattherena vitthāritameva. Vuttañhi (mi. pa. 5.1.1) —
Và Pháp thoại trở nên vi diệu bởi không có sự đối lập. Khi nhiều vị Phật xuất hiện cùng một lúc thì chư Thinh văn đệ tử sẽ tranh luận với nhau rằng: “Đức Phật của chúng ta thật đáng mến, đức Phật của chúng ta có giọng nói ngọt ngào, có nhiều phước báu!” Cũng giống như những học trò của các vị thầy, chính vì lý do ấy (chư Phật) không sanh lên cùng một lúc. Cho nên đại đức Nāgasena bị đức vua Milinda hỏi đã giải thích chi tiết. Đúng thật như ngài đã nói như sau (mi. pa. 5.1.1) —
“Tattha, bhante Nāgasena, bhāsitampetaṃ Bhagavatā: ‘Aṭṭhānametaṃ, bhikkhave, anavakāso, yaṃ ekissā lokadhātuyā dve arahanto sammāsambuddhā apubbaṃ acarimaṃ uppajjeyyuṃ, netaṃ ṭhānaṃ vijjatī’ti. desentā ca, bhante Nāgasena, sabbepi Tathāgatā sattatiṃsa bodhipakkhiya dhamme desenti, kathayamānā ca cattāri ariyasaccāni kathenti, sikkhāpentā ca tīsu sikkhāsu sikkhāpenti, anusāsamānā ca appamādapaṭipattiyaṃ anusāsanti. Yadi, bhante Nāgasena, sabbesampi Tathāgatānaṃ ekā desanā[14] ekā kathā ekā sikkhā ekā anusiṭṭhi, kena kāraṇena dve Tathāgatā ekakkhaṇe nuppajjanti? Ekenapi tāva Buddhuppādena ayaṃ loko obhāsajāto. Yadi dutiyo Buddho bhaveyya, dvinnaṃ pabhāya ayaṃ loko bhiyyosomattāya obhāsajāto bhaveyya. Ovadamānā ca dve Tathāgatā sukhaṃ ovadeyyuṃ, anusāsamānā ca sukhaṃ anusāseyyuṃ, tattha me kāraṇaṃ brūhi, yathāhaṃ nissaṃsayo bhaveyyanti.
Đức vua Milinda hỏi: “Thưa ngài Nāgasena, điều này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến: ‘Này các tỳ khưu, điều này là không hợp lý và không có cơ sở, là việc hai bậc A-ra-hán, Chánh đẳng Chánh giác có thể sanh lên không trước không sau trong cùng một thế giới, sự kiện này không được biết đến’ Thưa ngài Nāgasena, trong khi thuyết giảng tất cả các đức Như Lai đều thuyết giảng ba mươi bảy Pháp trợ phần giác ngộ, trong khi giảng giải đều giảng giải bốn Chân Lý cao thượng, trong khi huấn luyện đều huấn luyện về ba sự học tập, trong khi chỉ dạy đều chỉ dạy sự thực hành về không xao lãng. Thưa ngài Nāgasena, nếu tất cả các đức Như Lai đều có sự thuyết giảng thống nhất, sự giảng giải thống nhất, sự huấn luyện thống nhất, sự chỉ dạy thống nhất, vì lý do gì hai đức Như Lai không sanh lên trong cùng một thời điểm? Bởi vì với việc sanh lên của vị Phật dù chỉ một vị thế gian này được phát sáng, nếu có thêm vị Phật thứ nhì, với hai luồng ánh sáng thế gian này có thể được phát sáng nhiều hơn thế nữa. Và hai đức Như Lai, trong khi giáo giới có thể giáo giới một cách thoải mái, trong khi chỉ dạy, có thể chỉ dạy một cách thoải mái. Về việc này, xin đại đức hãy nói cho trẫm lý do, để trẫm có thể dứt khỏi sự nghi ngờ.”
Ayaṃ mahārāja dasasahassī lokadhātu ekabuddhadhāraṇī, ekasseva tathāgatassa guṇaṃ dhāreti, yadi dutiyo buddho uppajjeyya, nāyaṃ dasasahassī lokadhātu dhāreyya, caleyya kampeyya nameyya onameyya vinameyya vikireyya vidhameyya viddhaṃseyya, na ṭhānamupagaccheyya.
Đại đức Nāgasena đáp – “Tâu đại vương, mười ngàn thế giới này, có sự nâng đỡ chỉ một vị Phật, nâng đỡ đức hạnh của chỉ một đức Như Lai. Nếu vị Phật thứ nhì sanh lên, mười ngàn thế giới này không thể nâng đỡ, có thể lay động, rúng động, nghiêng qua, hạ thấp xuống, uốn cong, phân tán, tiêu tan, tiêu hoại, đưa đến không thể trú vững được.
Yathā, mahārāja, nāvā ekapurisasandhāraṇī bhaveyya. Ekasmiṃ purise abhirūḷhe sā nāvā samupādikā bhaveyya. Atha dutiyo puriso āgaccheyya tādiso āyunā vaṇṇena vayena pamāṇena kisathūlena sabbaṅgapaccaṅgena, so taṃ nāvaṃ abhirūheyya. Apinu sā mahārāja, nāvā dvinnampi dhāreyyāti? Na hi, bhante, caleyya kampeyya nameyya onameyya vinameyya vikireyya vidhameyya viddhaṃseyya, na ṭhānamupagaccheyya, osīdeyya udaketi. Evameva kho, mahārāja, ayaṃ dasasahassī lokadhātu ekabuddhadhāraṇī, ekasseva tathāgatassa guṇaṃ dhāreti, yadi dutiyo buddho uppajjeyya, nāyaṃ dasasahassī lokadhātu dhāreyya, caleyya … pe … na ṭhānamupagaccheyya.
Tâu đại vương, giống như chiếc thuyền là có sự nâng đỡ một người, khi có một người bước lên thì có thể đạt được sự yên ổn. Khi người thứ hai đi đến có cùng tuổi tác, vóc dáng, thọ mạng, kích thước, ốm mập, toàn bộ tứ chi lớn nhỏ tương đương người kia, rồi người ấy có thể bước lên chiếc thuyền ấy. Tâu đại vương, phải chăng chiếc thuyền ấy cũng có thể nâng đỡ cả hai người?” – “Thưa ngài, không đúng. Nó có thể lay động, rúng động, nghiêng qua, hạ thấp xuống, uốn cong, phân tán, tiêu tan, tiêu hoại, tiến đến việc bị hoại diệt, có thể chìm xuống nước.” – “Tâu đại vương, tương tự y như thế mười ngàn thế giới này, có sự nâng đỡ chỉ một vị Phật, nâng đỡ đức hạnh của chỉ một đức Như Lai. Nếu vị Phật thứ hai sanh lên, mười ngàn thế giới này không thể nâng đỡ, có thể lay động, rúng động, nghiêng qua, tiêu hoại…nt…, đưa đến không thể trú vững được.
Yathā vā pana mahārāja puriso yāvadatthaṃ bhojanaṃ bhuñjeyya chādentaṃ yāvakaṇṭhamabhipūrayitvā, so dhāto pīṇito paripuṇṇo nirantaro tandikato anonamitadaṇḍajāto punadeva tattakaṃ bhojanaṃ bhuñjeyya, apinu kho, mahārāja, puriso sukhito bhaveyyāti? Na hi, bhante, sakiṃ bhuttova mareyyāti. Evameva kho, mahārāja, ayaṃ dasasahassī lokadhātu ekabuddhadhāraṇī … pe … na ṭhānamupagaccheyyāti.
Tâu đại vương, hoặc là giống như người nam ăn thức ăn theo như ý thích. Người ấy, sau khi chứa đầy món ăn được ưa thích đến tận cổ họng, được thỏa mãn, căng phồng, đầy ứ, không còn chỗ chứa, bị làm mệt, tựa như cây gậy cứng đờ, rồi lại ăn thức ăn chừng ấy thêm lần nữa. Tâu đại vương, phải chăng người nam ấy có thể có được thoải mái?” “Thưa ngài, không thể được. Đã được ăn một lần thôi cũng có thể chết.” – “Tâu đại vương, tương tự y như thế mười ngàn thế giới này, có sự nâng đỡ chỉ một vị Phật, …nt…, đưa đến không thể trú vững được.”
Kiṃ nu kho, bhante Nāgasena, atidhammabhārena pathavī calatīti? Idha, mahārāja, dve sakaṭā ratanaparipūritā bhaveyyuṃ yāva mukhasamā. Ekasmā sakaṭato ratanaṃ gahetvā ekasmiṃ sakaṭe ākireyyuṃ, apinu kho taṃ, mahārāja, sakaṭaṃ dvinnampi sakaṭānaṃ ratanaṃ dhāreyyāti? Na hi, bhante, nābhipi tassa phaleyya, arāpi tassa bhijjeyyuṃ, nemipi tassa opateyya, akkhopi tassa bhijjeyyāti. Kiṃ nu kho, mahārāja, atiratanabhārena sakaṭaṃ bhijjatīti? Āma, bhanteti. Evameva kho, mahārāja, atidhammabhārena pathavī calatīti.
Thưa ngài Nāgasena, phải chăng với gánh nặng Giáo Pháp quá tải quả đất lay động? Tâu đại vương, ở đây hai chiếc xe hàng có thể được chứa đầy châu báu đến ngang miệng, sau khi lấy châu báu từ một chiếc xe hàng rồi đổ vào chiếc xe hàng kia. Tâu đại vương, phải chăng chiếc xe kéo ấy có thể chứa đựng châu báu của hai chiếc xe kéo? – Thưa ngài, không thể được. Thậm chí ở trục bánh xe của nó có thể nứt, ngay cả các cây căm của nó cũng có thể bị gãy, kể cả vành bánh xe của nó cũng có thể sụm xuống, trục xe của nó có thể bị gãy. – Tâu đại vương, phải chăng chiếc xe hàng bị gãy đổ với gánh nặng châu báu quá tải? – Thưa ngài, đúng vậy. Tâu đại vương, tương tợ y như thế quả đất lay động với gánh nặng Giáo Pháp quá tải.
Apica mahārāja imaṃ kāraṇaṃ buddhabalaparidīpanāya osāritaṃ, aññampi tattha abhirūpaṃ kāraṇaṃ suṇohi, yena kāraṇena dve sammāsambuddhā ekakkhaṇe nuppajjanti. yadi, mahārāja, dve sammāsambuddhā ekakkhaṇe uppajjeyyuṃ, tesaṃ parisāya vivādo uppajjeyya — “tumhākaṃ buddho amhākaṃ buddho”ti ubhatopakkhajātā bhaveyyuṃ. Yathā, mahārāja, dvinnaṃ balavāmaccānaṃ parisāya vivādo uppajjeyya ‘tumhākaṃ amacco amhākaṃ amacco’ti ubhatopakkhajātā honti, Evameva kho, mahārāja, yadi, dve sammāsambuddhā ekakkhaṇe uppajjeyyuṃ, tesaṃ parisāya vivādo uppajjeyya ‘tumhākaṃ buddho amhākaṃ buddho’ti ubhatopakkhajātā bhaveyyuṃ. idaṃ tāva, mahārāja, ekaṃ kāraṇaṃ, yena kāraṇena dve sammāsambuddhā ekakkhaṇe nuppajjanti.
Tâu đại vương, hơn nữa lý do này được đưa ra để làm rõ năng lực của vị Phật. Xin đại vương hãy lắng nghe lý do xác đáng khác nữa cho trường hợp ấy, mà vì lý do ấy hai vị Chánh đẳng Chánh giác không thể sanh lên trong cùng một thời điểm: Tâu đại vương, nếu hai vị Chánh đẳng Chánh giác sanh lên trong cùng một thời điểm, sự tranh cãi giữa hội chúng của hai vị ấy có thể sanh khởi: ‘Phật của các vị, Phật của chúng tôi,’ rồi có thể bị sanh ra hai nhóm. Tâu đại vương, giống như sự tranh cãi giữa hội chúng của hai vị quan đại thần có quyền lực có thể sanh khởi: ‘Quan đại thần của các vị, quan đại thần của chúng tôi,’ rồi bị sanh ra hai nhóm. Tâu đại vương, tương tự y như thế nếu hai vị Chánh đẳng Chánh giác sanh lên trong cùng một thời điểm, sự tranh cãi giữa hội chúng của hai vị ấy có thể sanh khởi: ‘Phật của các vị, Phật của chúng tôi,’ rồi có thể bị sanh ra hai nhóm. Tâu đại vương, đây còn là một lý do, mà vì lý do ấy hai vị Chánh đẳng Chánh giác không thể sanh lên trong cùng một thời điểm.
Aparampi, mahārāja, uttariṃ kāraṇaṃ suṇohi, yena kāraṇena dve sammāsambuddhā ekakkhaṇe nuppajjanti. Yadi, mahārāja, dve sammāsambuddhā ekakkhaṇe uppajjeyyuṃ, aggo buddhoti yaṃ vacanaṃ, taṃ micchā bhaveyya. Jeṭṭho buddhoti yaṃ vacanaṃ, taṃ micchā bhaveyya. Seṭṭho buddhoti, visiṭṭho buddhoti, uttamo buddhoti, pavaro buddhoti, asamo buddhoti, asamasamo buddhoti, appaṭisamo buddhoti, appaṭibhāgo buddhoti, appaṭipuggalo buddhoti yaṃ vacanaṃ, taṃ micchā bhaveyya. Idampi kho tvaṃ, mahārāja, kāraṇaṃ atthato sampaṭiccha, yena kāraṇena dve sammāsambuddhā ekakkhaṇe nuppajjanti.
Tâu đại vương, xin đại vương hãy lắng nghe thêm lý do khác nữa, mà vì lý do ấy hai vị Chánh đẳng Chánh giác không sanh lên trong cùng một thời điểm. Tâu đại vương, nếu hai vị Chánh đẳng Chánh giác có thể sanh lên trong cùng một thời điểm, thì lời nói rằng: ‘Đức Phật là cao cả’ có thể là sai trái, thì lời nói rằng: ‘Đức Phật là lớn nhất’ có thể là sai trái, thì lời nói rằng: ‘Đức Phật là hạng nhất’ có thể là sai trái, thì lời nói rằng: Đức Phật là nổi bật, đức Phật là tối thượng, đức Phật là cao quý, đức Phật là không người sánh bằng, đức Phật là không kẻ tương đương, đức Phật là không người đối xứng, đức Phật là không kẻ so sánh, đức Phật là không người đối thủ, (điều đó) có thể là sai trái. Tâu đại vương, xin đại vương hãy chấp nhận theo chính lý do này, bởi ý nghĩa đây cũng là lý do mà hai vị Chánh đẳng Chánh giác không thể sanh lên trong cùng một thời điểm.
Apica kho mahārāja buddhānaṃ bhagavantānaṃ sabhāvapakati esā, yaṃ ekoyeva buddho loke uppajjati. kasmā kāraṇā? mahantatāya sabbaññubuddhaguṇānaṃ. Aññampi mahārāja yaṃ loke mahantaṃ, taṃ ekaṃyeva hoti. pathavī, mahārāja, mahantī, sā ekāyeva. Sāgaro mahanto, so ekoyeva. Sineru girirājā mahanto, so ekoyeva. Ākāso mahanto, so ekoyeva. Sakko mahanto, so ekoyeva. Māro mahanto, so ekoyeva. Brahmā mahanto, so ekoyeva. Tathāgato arahaṃ sammāsambuddho mahanto, so ekoyeva lokasmiṃ. Yattha te uppajjanti, tattha aññassa okāso na hoti. Tasmā, mahārāja, tathāgato arahaṃ sammāsambuddho ekoyeva lokasmiṃ uppajjatīti. Sukathito, bhante Nāgasena, pañho opammehi kāraṇehī”ti.
Tâu đại vương, thêm nữa tính chất tự nhiên về bản thể của chư Phật Thế Tôn là chỉ một vị Phật sanh lên ở thế gian. Bởi vì lý do gì? Bởi vì tính chất vĩ đại về các đức hạnh của đức Phật Toàn Tri. Tâu đại vương, vật khác cũng là vĩ đại ở thế gian, vật ấy là chỉ có một. Tâu đại vương, quả đất là vĩ đại (bởi) nó chỉ có một. Biển cả là vĩ đại (bởi) nó chỉ có một. Núi Chúa Sineru là vĩ đại (bởi) nó chỉ có một. Không gian là vĩ đại (bởi) nó chỉ có một. Vua trời Sakka là vĩ đại (bởi) vị ấy chỉ có một. Ma Vương là vĩ đại (bởi) vị ấy chỉ có một. Đại Phạm Thiên là vĩ đại (bởi) vị ấy chỉ có một ở thế gian. Đức Như Lai, bậc A-ra-hán, Chánh đẳng Chánh giác là vĩ đại, bởi ngài chỉ có một mà thôi. Nơi nào những vị ấy sanh lên, thì những người khác không còn cơ hội (sanh ra) ở nơi đó. Vì thế, Tâu đại vương, Đức Như Lai, bậc A-ra-hán, Chánh đẳng Chánh giác ở thế gian chỉ có một vị.” “Thưa ngài Nāgasena, câu hỏi đã được ngài khéo được giảng giải bằng các lý lẽ (được mang lại), với ví dụ so sánh.
Ekissā lokadhātuyāti ekasmiṃ cakkavāḷe. Heṭṭhā imināva padena dasacakkavāḷasahassāni gahitāni tānipi[15], ekacakkavāḷeneva paricchindituṃ vaṭṭanti. Buddhā hi uppajjamānā imasmiṃyeva cakkavāḷe uppajjanti, uppajjanaṭṭhāne pana vārite ito aññesu cakkavāḷesu nuppajjantīti vāritameva hoti.
Trong cùng một thế giới: Trong cùng một vũ trụ. Mười ngàn thế giới giữ lấy ở chính câu này trong lúc bắt đầu, nên xác định lấy một vũ trụ duy nhất. Bởi vì chư Phật khi sanh lên sẽ sanh lên trong chính vũ trụ này, khi ngăn chặn nơi mà ngài sanh lên là điều ngăn chặn hoàn toàn rằng: ‘chư Phật không sanh lên ở vũ trụ khác từ vũ trụ này”
Apubbaṃ acarimanti ettha cakkaratanapātubhāvato pubbe pubbaṃ, tasseva antaradhānato pacchā carimaṃ. Tattha dvidhā cakkaratanassa antaradhānaṃ hoti, cakkavattino kālaṃkiriyato vā pabbajjāya vā. antaradhāyamānañca pana taṃ kālaṃkiriyato vā pabbajjato vā sattame divase antaradhāyati, tato paraṃ cakkavattino pātubhāvo avārito.
Không trước không sau: ở đây không trước là không trước từ sự xuất hiện của bánh xe báu – cakkaratana, không sau là không sau từ bánh xe báu đó biến mất. Không trước không sau đó bánh xe báu sẽ biến mất theo hai phần là khi vị Chuyển luân vương băng hà, hoặc do việc ra đi xuất gia. Cũng thế bánh xe báu đó trong khi biến hoại sẽ biến mất vào ngày thứ bảy từ lúc ngài băng hà hoặc từ khi ngài ra đi xuất gia, từ đó không ngăn cản sự xuất hiện của vị Chuyển luân vương.
Kasmā pana ekacakkavāḷe dve cakkavattino nuppajjantīti. vivādupacchedato acchariyabhāvato cakkaratanassa mahānubhāvato ca. Dvīsu hi uppajjantesu “amhākaṃ rājā mahanto amhākaṃ rājā mahanto”ti vivādo uppajjeyya. Ekasmiṃ dīpe cakkavattīti ca ekasmiṃ dīpe cakkavattīti ca anacchariyā bhaveyyuṃ[16]. Yo cāyaṃ cakkaratanassa dvisahassadīpaparivāresu catūsu mahādīpesu issariyānuppadānasamattho mahānubhāvo, so parihāyetha. Iti vivādupacchedato acchariyabhāvato cakkaratanassa mahānubhāvato ca na ekacakkavāḷe dve uppajjanti.
Vì lý do gì 2 vị Chuyển luân vương không sanh lên trong cùng một thế giới. Bởi vì cắt dứt sự tranh cãi, bởi làm trở thành điều vi diệu và bởi bánh xe báu có nhiều uy lực. Bởi vì 2 vị Chuyển luân vương sanh lên việc tranh cãi cũng có thể khởi lên rằng: “Vua chuyển luân của chúng tôi vĩ đại, Vua chuyển luân của các vị cũng vĩ đại”. Ở trong một châu có một vị Chuyển luân vương, một châu cũng có (thêm) một vị Chuyển luân vương như thế trở thành điều không vi diệu. Và oai lực vô cùng to lớn của bánh xe báu có thể chuyển giao cho sự vĩ đại trong cả bốn châu, có hai ngàn châu nhỏ vây quanh cũng không còn giá trị. 2 vị Chuyển luân vương cũng sẽ không sanh lên trong cũng một vũ trụ, bởi vì cắt đứt sự tranh cãi, bởi không trở thành điều phi thường, và bởi bánh xe báu có oai lực lớn lao.
130. Yaṃ itthī assa arahaṃ sammāsambuddhoti ettha tiṭṭhatu tāva sabbaññuguṇe nibbattetvā lokuttāraṇasamattho[17] buddhabhāvo, paṇidhānamattampi itthiyā na sampajjati.
Manussattaṃ liṅgasampatti, hetu satthāradassanaṃ.
Pabbajjā guṇasampatti, adhikāro ca chandatā.
aṭṭhadhammasamodhānā, abhinīhāro samijjhatīti. (bu. vaṃ. 2.59) —
130. Trong câu người nữ có thể trở thành bậc A-ra-hán, Chánh đẳng Chánh giác: bản thể đức Phật có thể làm cho đức hạnh Toàn tri sanh khởi rồi đạt được Siêu thế xin hoãn lại trước, thậm chí việc phát nguyện cũng không thành tựu đối với nữ nhân
Sự phát nguyện được thành tựu nhờ vào sự tổng hợp của tám pháp: Bản thân là loài người, thành tựu nam căn, có chủng tử, nhìn thấy bậc Đạo Sư, là vị xuất gia, hội đủ đức hạnh, có hành động hướng thượng, và lòng ước muốn (trí giác ngộ). (bu. vaṃ. 2.59) —
Imāni hi paṇidhānasampattikāraṇāni. Iti paṇidhānampi sampādetuṃ asamatthāya itthiyā kuto buddhabhāvoti “aṭṭhānametaṃ anavakāso yaṃ itthī assa arahaṃ sammāsambuddho”ti vuttaṃ. Sabbākāraparipūro ca puññussayo sabbākāraparipūrameva attabhāvaṃ nibbattetīti purisova arahaṃ hoti sammāsambuddho.
Tám pháp đã trình bày làm nhân dẫn đến sự thành tựu phát nguyện. Trong khi nữ nhân không thể không thể thành tựu phát nguyện như đã nói (vậy) bản thể đức Phật đến từ đâu? Vì lý do ấy mới thuyết rằng: “điều mà nữ nhân có thể trở thành bậc A-ra-hán, Chánh đẳng Chánh giác là không hợp lý và không có cơ sở.” Việc tích tập phước báu viên mãn với tất cả mọi biểu hiện cho sanh khởi tự ngã được thành tựu bằng chính tất cả mọi biểu hiện ấy, vì lý do ấy chỉ có nam nhân mới có khả năng trở thành bậc A-ra-hán, bậc Chánh đẳng Chánh giác.
Yaṃ itthī rājā assa cakkavattītiādīsupi yasmā itthiyā kosohitavatthaguyhatādīnaṃ abhāvena lakkhaṇāni na paripūrenti, itthiratanābhāvena sattaratanasamaṅgitā na sampajjati, sabbamanussehi ca adhiko attabhāvo na hoti, tasmā “aṭṭhānametaṃ anavakāso yaṃ itthī rājā assa cakkavattī”ti vuttaṃ. Yasmā ca sakkattādīni tīṇi ṭhānāni uttamāni, itthiliṅgañca hīnaṃ, tasmā tassā sakkattādīnipi paṭisiddhāni.
Khi một nữ nhân có thể thành vị Chuyển luân vương: bởi tất cả tướng của nữ nhân không tròn đủ, do không có ‘vật được bao bọc lại bằng lớp màng và được che giấu sau lớp vải’[18] v.v, sự thành tựu bởi 7 báu không hội đủ do không có nữ nhân báu và không có tự ngã vượt trội hẳn với toàn bộ nhân loại, vì thế mới nói rằng: “điều mà nữ nhân có thể trở thành vị Chuyển luân vương là không hợp lý và không có cơ sở.” Và với ba vị trí tính chất vua trời Sakka v.v, là vị trí cao nhất, nhưng giới tính nữ là giới tính thấp, cho nên vị trí nữ nhân trở thành vua trời Sakka v.v, cũng là điều được loại trừ.
Nanu ca yathā itthiliṅgaṃ, evaṃ purisaliṅgampi brahmaloke natthi? Tasmā “yaṃ puriso brahmattaṃ kareyya, ṭhānametaṃ vijjatī”tipi na vattabbaṃ siyāti. No na vattabbaṃ. Kasmā? idha purisassa tattha nibbattanato. Brahmattanti hi mahābrahmattaṃ adhippetaṃ. Itthī ca idha jhānaṃ bhāvetvā kālaṃ katvā brahmapārisajjānaṃ sahabyataṃ upapajjati, na mahābrahmānaṃ, puriso pana tattha na uppajjatīti na vattabbo. Samānepi cettha ubhayaliṅgābhāve purisasaṇṭhānāva brahmāno, na itthisaṇṭhānā, tasmā suvuttamevetaṃ.
Ngay cả giới tính nữ không có ở Phạm thiên giới như thế nào, đến giới tính nam cũng như thế trong Phạm thiên giới cũng không có? Vì thế không nên nói rằng: “điều mà nam nhân có thể trở thành Phạm thiên ấy, là vị trí có được không phải hay sao?” Không phải không nên nói. Bởi nam nhân ở đời này trong thế giới Phạm thiên ấy. Bản thể Phạm thiên muốn đề cập đến Đại Phạm thiên. Và nữ nhân thực hành thiền ở đời này sau khi chết sẽ đạt đến thiện bạn lữ của Phạm chúng thiên – brahmapārisajjāna (hội chúng tùy tùng của Phạm thiên) không thể đạt đến Đại Phạm thiên. Còn nam nhân không nên nói rằng: không thể sanh vào cõi Đại Phạm thiên. Và trong thế giới Phạm thiên này ngay cả không có cả hai tính (nam và nữ) thì tất cả Phạm thiên cũng chỉ có hình tướng là nam nhân mà thôi, không có hình tướng nữ nhân, vì thế lời này là lời khéo thuyết.
131. Kāyaduccaritassātiādīsu yathā nimbabījakosātakībījādīni madhuraphalaṃ na nibbattenti, asātaṃ amadhurameva nibbattenti, evaṃ kāyaduccaritādīni madhuravipākaṃ na nibbattenti, amadhurameva vipākaṃ nibbattenti. Yathā ca ucchubījasālibījādīni madhuraṃ sādurasameva phalaṃ nibbattenti, na asātaṃ kaṭukaṃ, evaṃ kāyasucaritādīni madhurameva vipākaṃ nibbattenti, na amadhuraṃ. Vuttampi cetaṃ —
“yādisaṃ vapate bījaṃ, tādisaṃ harate phalaṃ.
kalyāṇakārī kalyāṇaṃ, pāpakārī ca pāpakan”ti. (saṃ. ni. 1.256).
Tasmā “aṭṭhānametaṃ anavakāso yaṃ kāyaduccaritassā”tiādi vuttaṃ.
131. Thân ác hành v.v, giống như hạt nimba rất đắng và hạt kosātakī không thể sản sinh ra được trái cây có hương vị ngọt ngào, chỉ tạo ra được trái cây có vị không ngọt ngào, không đáng ưa thích như thế nào, thì thân ác hạnh cũng như thế ấy, v.v… không thể cho quả ngọt sanh khởi, chỉ cho quả không ngọt ngào sanh khởi. Và giống như giống mía và giống gạo sāli v.v. cho sản sinh ra kết quả (cây mía và lúa gạo) có hương vị ngọt ngào, không tạo ra kết quả không đáng hài lòng, cay đắng, không ngọt thế nào thì thân thiện hành cũng tạo ra kết quả ngọt ngào như thế đó, không thể tạo ra kết quả không đáng hài lòng, không tốt sanh khởi. Điều này chính đã được nói rằng —
Gieo hạt giống như thế nào thì mang lại kết quả như thế ấy.
Người làm lành thấy điều lành, và người làm ác thấy điều ác. (saṃ. ni. 1.256).
Vì thế mới nói rằng: “Điều mà hạng người thành tựu với thân ác hành sau khi thân hoại chung được sanh vào thiện thú là thiên giới (điều ấy) là không hợp lý và không có cơ sở.”
Kāyaduccaritasamaṅgītiādīsu samaṅgīti pañcavidhā samaṅgitā āyūhanasamaṅgitā cetanāsamaṅgitā kammasamaṅgitā vipākasamaṅgitā, upaṭṭhānasamaṅgitāti. Tattha kusalākusalakammāyūhanakkhaṇe āyūhanasamaṅgitāti vuccati. Tathā cetanāsamaṅgitā. Yāva pana arahattaṃ na pāpuṇanti, tāva sabbepi sattā pubbe upacitaṃ vipākārahaṃ kammaṃ sandhāya “kammasamaṅgino”ti vuccanti, esā kammasamaṅgitā. Vipākasamaṅgitā vipākakkhaṇeyeva veditabbā. Yāva pana sattā arahattaṃ na pāpuṇanti, tāva nesaṃ tato tato cavitvā niraye tāva uppajjamānānaṃ aggijālalohakumbhiādīhi upaṭṭhānākārehi nirayo, gabbhaseyyakattaṃ āpajjamānānaṃ mātukucchi, devesu uppajjamānānaṃ kapparukkhavimānādīhi upaṭṭhānākārehi devalokoti evaṃ uppattinimittaṃ upaṭṭhāti, iti nesaṃ iminā uppattinimittaupaṭṭhānena aparimuttatā upaṭṭhānasamaṅgitā nāma. Sā calati sesā niccalā. Niraye hi upaṭṭhitepi devaloko upaṭṭhāti, devaloke upaṭṭhitepi nirayo upaṭṭhāti, manussaloke upaṭṭhitepi tiracchānayoni upaṭṭhāti, tiracchānayoniyā ca upaṭṭhitāyapi manussaloko upaṭṭhātiyeva.
‘Sự thành tựu’ trong từ ‘người thành tựu bởi thân ác hạnh’ v.v, sự thành tựu có năm là (1) sự thành tựu tích lũy nghiệp, (2) sự thành tựu do Tư-cetanā, (3) sự thành tựu của nghiệp.(4) sự thành tựu quả dị thục và (5) sự thành tựu của việc hiện hữu. Ở đấy, sự thành tựu trong lúc tích lũy thiện nghiệp và ác nghiệp ngài gọi là sự thành tựu của việc tích lũy. Sự thành tựu của Tư-cetanā cũng tương tự. Hơn nữa, cho đến khi nào vẫn chưa chứng đắc quả vị A-ra-hán, cho đến khi ấy tất cả chúng sanh ngài gọi là người thành tựu do nghiệp, bởi đề cập đến nghiệp thích hợp với quả dị thục đã huân tập ở kiếp trước, đây gọi là ‘sự thành tựu của nghiệp’. Sự thành tựu của quả dị thục nên biết vào chính sát-na của dị thục quả. Hơn nữa, cho đến khi nào chúng sanh vẫn chưa chứng đắc quả vị A-ra-hán, tướng-nimitta của việc sanh lên hẳn hiện hữu như vầy là đối với tất cả chúng sanh luân chuyển từ kiếp sống ấy trước địa ngục sẽ hiện hữu với tướng trạng hiển lộ chẳng hạn như ngọn lửa và địa ngục nồi sắt-lohakumbhī v.v, bụng của người mẹ sẽ xuất hiện đối với chúng sanh đạt đến sự tái sanh ‘chúng sanh thai sanh’, thế giới Chư thiên sẽ hiện hữu với tướng trạng hiển lộ của cây Kappa và thiên cung v.v, đối với chúng sanh sẽ hóa sanh vào thế giới Chư thiên, như đã nói gọi là sự thành tựu của việc hiện hữu, bởi những chúng sanh ấy vẫn không thoát khỏi sự hiển lộ của tướng-nimitta của việc sanh này. Sự thành tựu của việc hiện hữu ấy có thể thay đổi được, nhưng những sự thành tựu còn lại thì không thể thay đổi. Bởi vì khi địa ngục hiện hữu thì thế giới Chư thiên cũng hiện hữu được, khi thế giới Chư thiên hiện hữu thì địa ngục cũng có thể hiện hữu, khi thế giới loài người hiện hữu thì sanh chủng bàng sanh cũng hiện hữu được, và sanh chủng bàng sanh xuất hiện thì thế giới loài người cũng hiển lộ được tương tự.
Tatridaṃ vatthu — Soṇagiripāde kira Acelavihāre[19] Soṇatthero nāma eko dhammakathiko, tassa pitā Sunakhajīviko ahosi. Thero taṃ paṭibāhantopi saṃvare ṭhapetuṃ asakkonto “mā nassi jarako”ti[20] mahallakakāle akāmakaṃ pabbājesi. Tassa gilānaseyyāya nipannassa nirayo upaṭṭhāti, Soṇagiripādato mahantā mahantā sunakhā āgantvā khāditukāmā viya samparivāresuṃ. So mahābhayabhīto — “Vārehi, tāta Soṇa, vārehi, tāta Soṇā”ti āha. Kiṃ mahātherāti. Na passasi tātāti taṃ pavattiṃ ācikkhi. Soṇatthero — “kathañhi nāma mādisassa pitā niraye nibbattissati, patiṭṭhā’ssa[21] bhavissāmī”ti sāmaṇerehi nānāpupphāni āharāpetvā cetiyaṅgaṇabodhiyaṅgaṇesu talasantharaṇapūjaṃ āsanapūjañca kāretvā pitaraṃ mañcena cetiyaṅgaṇaṃ āharitvā mañce nisīdāpetvā — “ayaṃ mahāthera-pūjā tumhākaṃ atthāya katā ‘ayaṃ me bhagavā duggatapaṇṇākāro’ti vatvā bhagavantaṃ vanditvā cittaṃ pasādehī”ti āha. So mahāthero pūjaṃ disvā tathā karonto cittaṃ pasādesi, tāvadevassa devaloko upaṭṭhāsi, nandanavana-cittalatāvana-missakavana-phārusakavanavimānāni ceva nāṭakāni ca parivāretvā ṭhitāni viya ahesuṃ. So “apetha apetha Soṇā”ti āha. Kimidaṃ therāti? Etā te, tāta, mātaro āgacchantīti. Thero “saggo upaṭṭhito mahātherassā”ti cintesi. Evaṃ upaṭṭhānasamaṅgitā calatīti veditabbā. Etāsu samaṅgitāsu idha āyūhanacetanākammasamaṅgitāvasena kāyaduccaritasamaṅgītiādi vuttaṃ.
Ở đây có câu chuyện sau: được biết rằng ở trong tịnh xá Acela được xây dựng ở gần chân núi Soṇa có một vị Pháp sư chuyên giảng giải pháp có tên gọi là trưởng lão Soṇa, cha của ngài làm nghề thợ săn có tên gọi là Sunakhavājika. Mặc dù trưởng lão có ngăn cản người làm điều đó, (tuy nhiên) vì không thể thiết lập trong sự thu thúc giới mới nghĩ rằng “người già, đừng gặp bất hạnh”, mới cho người cha xuất gia kể cả người không muốn xuất gia vào lúc tuổi đã già. Khi người cha nằm trên giường bệnh thì địa ngục xuất hiện trước mặt ông, (là) những con chó thân hình to lớn đi đến từ chân núi Soṇa bao quanh ông như thể chúng muốn cắn xé mình. Quá hoảng sợ ngài lớn tiếng la lên: “Này con thương Soṇa, hãy ngăn chúng lại! Này con thương Soṇa, hãy ngăn chúng lại!” – Có chuyện gì xảy ra thưa phụ thân? – Con không thấy sao? rồi đã kể lại giấc mơ đó. Trưởng lão Soṇa nghĩ rằng: “Làm sao một người như phụ thân của ta lại tái sanh vào địa ngục? Ta sẽ giúp cho ngài.” Trưởng lão truyền cho các Sa-di đem lại rất nhiều loại hoa đến để trang trí vật dụng trải mặt đất để dâng cúng và sàng toạ để dâng cúng ở sân Bảo điện và ở sân có cây Bồ-đề, rồi lấy chiếc giường khiêng phụ thân đến sân Bảo điện cho cha ngồi ở trên giường rồi nói rằng – “Thưa phụ thân việc dâng cúng lễ bái này nhằm đem lại lợi ích cho phụ thân, xin phụ thân hãy nói rằng: ‘Kính bạch đức Thế Tôn đây là vật dâng cúng nghèo túng của con’ con xin đảnh lễ đức Thế Tôn rồi làm cho tâm được tịnh tín’”. Đại trưởng lão sau khi nhìn thấy lễ vật cúng được làm như thế, đã làm cho tâm trở nên tịnh tín, ngay lập tức thế giới Chư thiên hiện ra trước mặt, vườn Nandaka, vườn Cittalatā, vườn Missaka và vườn Phārusaka và các thiên cung, và cả các thiên nữ nhảy múa xuất hiện như thể đang vây quanh ngài. – Ngài nói rằng: “Đi thôi, đi thôi Soṇa!”. Đây là gì thưa phụ thân? – Những nữ nhân này chính là những cận sự nữ của bạn đang đến.” – Trưởng lão nghĩ rằng: “Cõi trời đã hiển lộ cùng phụ thân ta rồi”. Nên biết rằng sự thành tựu của việc hiện hữu (tướng-nimitta) có thể thay đổi được như vậy. Trong sự thành tựu này ở đây ngài nói lời bắt đầu như sau “sự thành tựu của thân ác hạnh” do tác động của sự thành tựu do tích lũy, sự thành tựu của Tư-cetanā, và sự thành tựu của nghiệp.
132. Evaṃ vutte āyasmā Ānandoti “evaṃ bhagavatā imasmiṃ sutte vutte thero ādito paṭṭhāya sabbasuttaṃ samannāharitvā evaṃ sassirikaṃ katvā desitasuttassa nāma bhagavatā nāmaṃ na gahitaṃ. Handassa nāmaṃ gaṇhāpessāmī”ti cintetvā bhagavantaṃ etadavoca.
132. Khi đức Thế Tôn nói như vậy tôn giả Ānanda: Khi đức Thế Tôn thuyết bài Kinh này thì trưởng lão nghĩ rằng: đức Thế Tôn tập hợp các bài Kinh từ đầu làm cho chúng trở nên hoàn hảo như vậy, không đặt tên của bài Kinh khi thuyết giảng. Đủ rồi, ta sẽ xin đặt tên của bài Kinh này, như thế mới hỏi lời ấy cùng với đức Thế Tôn.
Tasmā tiha tvantiādīsu ayaṃ atthayojanā —
Bởi chính nguyên nhân đó: có sự gắn kết ý nghĩa như sau –
Ānanda, yasmā imasmiṃ dhammapariyāye “aṭṭhārasa kho imā, Ānanda, dhātuyo, cha imā, Ānanda, dhātuyo”ti evaṃ bahudhātuyo vibhattā, tasmā tiha tvaṃ imaṃ dhammapariyāyaṃ bahudhātukotipi naṃ dhārehi. Yasmā panettha dhātuāyatanapaṭiccasamuppādaṭṭhānāṭṭhānavasena cattāro parivaṭṭā kathitā, tasmā catuparivaṭṭotipi naṃ dhārehi. Yasmā ca ādāsaṃ olokentassa mukhanimittaṃ viya imaṃ dhammapariyāyaṃ olokentassa ete dhātuādayo atthā pākaṭā honti, tasmā dhammādāsotipi naṃ dhārehi. Yasmā ca yathā nāma parasenamaddanā yodhā saṅgāmatūriyaṃ paggahetvā parasenaṃ pavisitvā sapatte madditvā attano jayaṃ gaṇhanti, evameva kilesasenamaddanā[22] yogino idha vuttavasena vipassanaṃ paggahetvā kilese madditvā attano arahattajayaṃ gaṇhanti, tasmā amatadundubhītipi naṃ dhārehi. Yasmā ca yathā saṅgāmayodhā pañcāvudhaṃ gahetvā parasenaṃ viddhaṃsetvā jayaṃ gaṇhanti, evaṃ yoginopi idha vuttaṃ vipassanāvudhaṃ gahetvā kilesasenaṃ viddhaṃsetvā arahattajayaṃ gaṇhanti. Tasmā anuttaro saṅgāmavijayotipi naṃ dhārehīti.
Này Ānanda, vì lý do Như Lai phân tích giới-dhātu ra nhiều trong Pháp môn này như vầy: “Này Ānanda có 18 giới, này Ānanda có 6 giới”, vì lý do đó ông hãy nhớ Pháp môn này là Kinh Đa Giới cũng được. Cũng bởi vì trong Pháp môn này Như Lai phân tích bốn sự luân phiên liên quan đến giới-dhātu, xứ-āyatana, Pháp tùy thuận duyên sanh và sự hợp lý và không hợp lý, vì thế ông hãy nhớ Pháp môn ấy là Bốn Sự Luân Phiên. Và bởi ý nghĩa có những giới ấy v.v, hiện hữu cùng người quan sát Pháp môn này giống như hình bóng được hiển lộ cùng người soi gương, vì thế ông hãy nhớ Pháp môn này là Tấm Gương của Giáo Pháp cũng được. Và bởi vì hành giả phá hủy một toán quân là phiền não, học lấy Minh sát theo lời đã nói trong Kinh này rồi giẫm nát tất cả phiền não, nắm lấy sự thắng lợi là quả vị A-ra-hán cho chính bản thân, giống như toàn bộ quân đội sẽ trấn áp một toán quân của phe đối nghịch, đánh trống trận tiến về phía đội quân ấy đánh sáp lá cà nắm lấy cờ chiến thắng do chính phe mình, vì thế ông hãy nhớ Pháp môn này là Tiếng Trống Bất Tử. Và bởi lý do như người lính ở chiến trận cầm lấy năm loại vũ khí diệt tận năm toán quân phe khác có được chiến thắng thế nào, ngay cả các hành giả cũng như thế ấy, cầm lấy vũ khí là Minh sát như đã nói ở bài Kinh này, nắm lấy sự chiến thắng là quả vị A-ra-hán đã đạt được, vì thế ông hãy nhớ Pháp môn này là Vô Thượng Chiến Thắng.
Giải Thích Kinh Đa Giới Kết Thúc.
[1] Ka. – Upasattākāro
[2] Sī. – Tucchasāsanaṃ
[3] Sī. saṅkhāresu, I. Sattasaṅkhāresu
[4] Sī. – mattahatthi parittāsito viya, Syā. – mattahatthiṃ parittasito viya
[5] Sī. – Cokkhabrāhmaṇo, Syā. – Pokkharabrāhmaṇo viya ca
[6] Sī. – Syā. – Yañhi yaṃ
[7] Sī. – viniveṭheti
[8] Ka. – Abhejjakāyaṃ tāva
[9] Ka. – Sakkhalikāpi, Syā. – pappaṭikāpi
[10] Syā. – Bodhi-atthaṃ hi gehaṃ, na gehatthaṃ bodhi
[11] Ka. – Saṃvatte hi
[12] Sī. Syā. – Karaṇaṃ
[13] Sī. – Paṭivedhakarā
[14] Sī. Syā. – Ekuddeso
[15] Sī. Syā. – Gahitāni
[16] Sī. Syā. – Anacchariyo bhaveyyā
[17] Syā. – Lokuttaralābhasamattho
[18] Tướng mã âm tàng một trong ba mươi hai tướng của bậc Đại Nhân
[19] Sī. – Pacelivihāre
[20] Sī. Syā. Varākatipi
[21] Ka. – Patiṭṭhamassa, Syā. – patiṭṭhānassa
[22] Sī. – Kilesamaddanā